Trang

Thứ Ba, 23 tháng 2, 2021

3382. HÒA BÌNH CHUNG SỐNG BIÊN NIÊN (tt 92)

PHỤ LỤC 1.  

TRƯƠNG CỜ HÒA BÌNH CHUNG SỐNG Ở BẾN HẢI.

“Ngày 18-5-1956 (08-4-Bính Thân)”

Hiệp định Génève 1954 về Việt Nam 02 khối tư bản và cộng sản đã chia đôi nước Việt Nam lấy vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải) làm ranh giới.

Đức Hộ Pháp phản đối việc chia đôi đất nước nhưng không thành công. Phái đoàn của Đức Hộ Pháp rời Paris ngày 20-7-1954 (là ngày ký Hiệp Định chia đôi đất nước).

Sau đó Ngài lập ra MẶT TRẬN THỐNG NHẤT TOÀN LỰC QUỐC GIA với ý định tập trung 04 lực lượng: Cao Đài, Thiên Chúa, Hòa Hảo và Bình Xuyên thành một khối để giúp cho chánh phủ Việt Nam Quốc Gia đủ mạnh đương đầu với khối cộng sản ở miền Bắc bằng biện pháp thực thi tự do, dân chủ để người dân hai miền thể hiện ý chí của mình bằng lá phiếu để quyết định vận mệnh đất nước, nòi giống. Mặt trận TLTNQG yêu cầu chính phủ hai miền phải để người dân tự quyết chính là làm cho DÂN MẠNH. Chánh phủ cả hai miền đều sợ DÂN MẠNH nên họ phải tìm cách phá không cho DÂN MẠNH.


 

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/thumb/8/83/Em_b%C3%A9_Napalm.jpg/290px-Em_b%C3%A9_Napalm.jpg

Em bé ở Trảng Bàng bị phỏng vì bom Napalm

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                       

Chánh phủ Mỹ cố vấn cho Ngô Đình Diệm tiêu diệt các giáo phái để ông Diệm tự suy yếu (vì mất lòng dân) mà phải lệ thuộc vào Mỹ nhiều hơn, sâu hơn, toàn diện hơn. Ông Diệm với mộng độc tài gia đình trị đã lầm lủi đi vào kế hoạch sai lầm nầy. Chánh phủ Mỹ đã dùng ông Diệm để tuyên chiến với lực lượng Cao Thiên Hòa Bình. Đó là nước cờ sai lầm của chánh phủ Mỹ; sai lầm  ngay từ nước cờ đầu tiên dẫn đến lòng dân không thiện cảm với chánh phủ Mỹ. Chánh phủ Mỹ phải trả giá bằng rất nhiều USD và sinh mạng nhiều binh sĩ Mỹ; sau đó thì bán luôn miền Nam cho cộng sản để đổi lấy quyền vào làm ăn với Trung cộng. Chiến tranh Việt Nam đã gây ra sự tổn thương rất lớn về hình ảnh nước Mỹ với cộng đồng quốc tế. Người Mỹ rất OK về việc tham gia chiến tranh ở các trận thế chiến, ở Triều Tiên... nhưng chiến tranh ở Việt Nam thì đến nay hãy còn đang tranh cãi...

Năm 1955 với kho vũ khí hùng hậu và tiền bạc dồi dào thì ông Diệm thắng lợi ở chiến trường bằng súng đạn là chuyện dễ hiểu. Nhưng trong ý thức phần đông người dân ở miền Nam người ta đã nhận ra sự ăn cháo đá bát của ông Diệm. Từ đó người dân không có cảm tình với người giúp ông Diệm là chánh phủ Mỹ. Cho dù sau nầy chánh phủ Mỹ có đổ tiền của và sinh mạng của người Mỹ vào miền Nam Việt Nam để chống lại cộng sản thì vẫn chưa đủ để xóa tan ý nghĩ và hình ảnh người Mỹ giúp ông Diệm ăn cháo đá bát trong lòng người dân.

Sự bực tức đó cộng thêm sự tuyên truyền của cộng sản nên người dân đã che dấu, đã ủng hộ cộng sản... Người Mỹ đi đến nước cờ cuối cùng là dùng miền Nam để làm món hàng trao đổi với Trung Cộng.

Gần đây một số Blog đặc vấn đề: Vì sao người VN thích Pháp hơn Mỹ trong khi Pháp là thực dân còn Mỹ không phải là thực dân?

Xin thưa rằng với Thực Dân Pháp người dân không chấp nhận nên đã đuổi họ ra khỏi biên cương. Dân cũng không ưa chánh phủ Mỹ là vì họ đã giúp cho ông Diệm ăn cháo đá bát và cuối cùng là bán đứng cả miền Nam cho cộng sản. Không thích kẻ ăn cháo đá bát (là ông Diệm) thì không thích luôn những người giúp (là chính phủ Mỹ) có chi là khó hiểu...? Đã coi thường kẻ đeo bùa Mỹ (là ông Diệm) thì không thích luôn kẻ tạo ra lúa bùa (là chánh phủ Mỹ) có chi rằng lạ? Ông Diệm có đủ quyền để bắt nhốt người dân, có thể làm cho người dân sợ hải nhưng kính trọng thì không. Ngay những người cộng sự với ông Diệm cũng kinh sợ ông Diệm như Tướng Lê Quang Tung nói: Chúng mầy lạy Cụ để được ban cho chức tước bỗng lộc rồi giờ đảo chánh là sao??? Câu nói của Tướng Tung trước giờ bị phe đảo chánh năm 1963 bắn chết phơi bày tới tận gốc rễ chế độ ông Diệm: KHÔNG CÓ DÂN CHỦ CHI HẾT.

Chức tước, bỗng lộc, uy quyền đều là do gia đình CỤ DIỆM BAN PHÁT. Không phải quốc gia tuyển chọn các ông mà chính là CỤ DIỆM tuyển chọn các ông. Vậy các ông phục vụ cho ai đã rõ...Cũng rõ luôn những người viết sử ca ngợi cụ Diệm. Bởi vì họ được hưởng ân sủng từ cụ Diệm nên chẳng lẽ vong ân? Năm 2013 có những người nhất định tôn vinh cụ Diệm cũng chẳng có chi khó hiểu cả. Bỗng lộc cụ Diệm ban cho chẳng lẽ không trả ơn cụ Diệm... Họ khá hơn cụ Diệm ở chổ KHÔNG ĂN CHÁO ĐÁ BÁT...

Đó là khi chính phủ Mỹ còn tiến hành chiến tranh ở Việt Nam. Rồi sau đó chính phủ Mỹ bán luôn miền Nam cho cộng sản... thì người biết suy nghĩ khó mà thích nổi. Nghĩa là không thích cả hai nhưng với thực dân Pháp là đã xa còn với chánh phủ Mỹ thì còn đang âm ỉ...  Vậy thì câu hỏi đã được trả lời rất minh bạch.

Xin nhấn mạnh rằng: Ngày nay người dân đã hiểu chánh phủ và nhân dân là 02 phần khác nhau. Chúng tôi cũng phân biệt rõ như vậy.

Phê bình đường lối thực dân Pháp không đồng nghĩa với phê bình nhân dân Pháp. Phê bình đường lối chánh trị chánh phủ Mỹ khác với phê bình nhân dân Mỹ.

Thực dân Pháp là xấu xa, ác độc nhưng NHIỀU NGƯỜI PHÁP rất tốt giúp cho người dân xứ thuộc địa tranh đấu cho tự do, độc lập....họ đối nhân xử thế theo nguyên tắc công bằng thắm tình nhân loại.

Chánh phủ Mỹ giúp ông Diệm ăn cháo đá bát và bán đứng Việt Nam Cộng Hòa cho cộng sản nhưng NGƯỜI DÂN MỸ thì có lòng hào hiệp mạnh mẽ. Nếu không có sự hào hiệp và sáng suốt của người dân Mỹ thì không bao giờ có mấy triệu người Việt Nam định cư ở Mỹ bằng nhiều diện. Người dân Mỹ là tác nhân chính bắt buột chánh phủ Mỹ phải có trách nhiệm nhân đạo với những gì đã làm ở Việt Nam từ 1954 đến 1975.

Tóm lại lịch sử chứng tỏ rằng:

./- Chánh phủ nầy mới đánh với chánh phủ kia (ở trong nước với nhau hay với nước ngoài) chớ người dân thì không.

/- Cho dù khác quốc gia nhưng người dân vẫn sống trong thân thiện và hòa bình, khi bị nhà chính trị kích động, đầu độc dân mới nghịch nhau.

./- Bất cứ thế lực nào làm mất lòng dân là không tồn tại.

Đạo Cao Đài chủ trương xây dựng thế giới sống trong tình thương và công bằng. Đạo thực thi Bảo Sanh, Nhơn Nghĩa, Đại Đồng trên toàn cầu. Đạo lập quyền cho nhân loại nên đưa ra công thức DÂN MẠNH.

Dân mạnh thì mọi vấn đề lớn nhỏ của từng quốc gia và toàn cầu sẽ do chính người dân lo liệu. Ý DÂN LÀ Ý TRỜI nên chính phủ phải trở về đúng cương vị của chính phủ là thực thi những gì người dân muốn.

Mặt Trận Toàn Lực Thống Nhất Quốc Gia bị chánh phủ Ngô Đình Diệm phá tan. Họ Ngô ra tay khủng bố Đức Hộ Pháp và Đạo Cao Đài.

Do vậy Giáo Chủ Đạo Cao Đài đưa ra công thức Hòa Bình Chung Sống để tiếp tục tạo ý thức DÂN MẠNH, xây dựng hòa bình cho dân tộc. Phải có ý thức hòa bình thì mới chung sống với nhau được. Có chung sống được với nhau thì chém giết sẽ giảm lần và sự thông hiểu nhau tăng lên rồi chiến đấu và tranh chấp (chiến tranh) bớt gay gắt, cuộc chiến thu hẹp và cuối cùng chẳng còn ai dám phát động chiến tranh.

Khoa học kỷ thuật đã đưa nhân loại đến gần nhau. Cho nên ý thức hòa bình chung sống sẽ là ý thức chung trong thời toàn cầu hóa.

Công thức DÂN MẠNH áp dụng ở Việt Nam khi đất nước chia đôi là chánh sách Hòa Bình Chung Sống. Hòa Bình Chung Sống kêu gọi người dân nên thể hiện ý chí của mình và chính quyền 02 miền phải tôn trọng ý chí của dân bằng cuộc tổng tuyển cử.

@@@

Ngày 26-3-1956 (15-02-Bính Thân) Đức Hộ Pháp ban hành chánh sách Hòa Bình Chung Sống tại Nam Vang (Campuchia). Sau đó có chương trình đi trương cờ Hòa Bình Chung Sống (cờ Nhan Uyên) ở vĩ tuyến 17 (cầu Bến Hải).

Ngài Hồ Bảo Đạo và Ngài Lê Văn Thoại là 02 người có mặt trong chuyến đi từ Tòa Thánh Tây Ninh đến Nam Vang ngày 16-2- 1956 (05-1-Bính Thân) với Đức Hộ Pháp đều tình nguyện xin đi. Lý lẽ 02 vị như sau:

./. Ngài Hồ Bảo Đạo: “Tôi đã già, sống đã thỏa nếu có chết cũng không còn luyến tiếc gì nữa, Thoại em nó còn trẻ, để nó sống còn phụng sự cho Đạo có lợi hơn”.

./. Ngài Lê Văn Thoại: “Tôi dốt nát, ít nói, có sống cũng không ích gì, để Ngài Bảo Đạo sống gần Thầy có lợi hơn. Như giao thiệp với chánh quyền hai miền, hay đi hội nghị quốc tế, tôi làm sao mà làm tròn nhiệm vụ được”.

Cả hai người đều vì tương lai dân tộc, đều có lòng ái quốc, không ngại hy sinh, xin được thực hiện việc trương cờ HBCS ở Bến Hải.. cuối cùng Đức Hộ Pháp giao cho ông Thoại.

Các ông Kỳ, Đại, Lợi ở Tòa Thánh lên xin với Đức Hộ Pháp đi trương cờ HBCS ở cầu Bến Hải. Đức Hộ Pháp chấp thuận như vậy đoàn đi trương cờ Nhan Uyên có 04 vị là: Thoại, Kỳ, Đại, Lợi.

Ông Kỳ tên đầy đủ có lẽ là Đinh Thành Kỳ (khi bị bắt giam ông Kỳ có nằm mộng được bài thi...gởi lên Đức Hộ Pháp trong Thánh Thư ngày 26-5-1958). Ông Lợi là Đầu Phòng Văn, còn ông Đại chúng tôi không biết thông tin chi thêm.... 

Ngày 01-5-1956 (20-3-Bính Thân) các ông Thoại, Kỳ, Đại, Lợi xung phong đi trương cờ Hòa Bình Chung Sống.

Các ông đi bằng phương tiện gì?

Đức Hộ Pháp liên lạc với Uỷ Hội liên hiệp đình chiến Việt Nam – Campuchia (lập theo Hiệp Định Geneve 1954 về Việt Nam).  Ủy Hội ở Campuchia liên hệ với Ủy Hội Quốc Tế kiểm soát đình chiến ở Việt Nam. Ủy Hội thông báo 04 vị về Sài gòn (ở trong căn cứ Ủy Hội). Sau đó Ủy Hội đưa các vị ra Bến Hải (Quảng Trị) bằng đường hàng không.

Đến Quảng Trị thì phương tiện đâu mà phái đoàn hành sự?

Ông Nguyễn Văn Nhã là Đại Tá Quân Đội Cao Đài. Sau khi quốc gia hóa (ngày 02-5-1955) ông Nhã được chánh phủ ông Diệm bổ ra làm Tỉnh Trưởng Tỉnh Quảng Trị. Ông Nhã là người có lòng với Đạo và là bằng hữu với ông Thoại (khi còn trong quân đội Cao Đài). Do vậy mà Ông Nhã giúp đở cho phái đoàn có đầy đủ phương tiện để hoạt động.

(((Sau đó ông Nhã xin vào phẩm Hiền Tài. Đàn cơ ngày 15-11-Tân Hợi ‘dl 1-1-1972’ tại Cung Đạo Đức Lý Giáo Tông ĐẶC CÁCH phong ông Nhã lên phẩm Thượng Chánh Phối Sư. Nguyên văn:

Đọc danh sách chư vị Hiền Tài cầu phong.

- Nguyễn Văn Nhã, đặc cách phong Phối Sư phái Thượng, lãnh nhiệm vụ Thượng Chánh Phối Sư  thế cho Thượng Tửng Thanh vì  kém sức khỏe))).

Tại Quảng Trị các ông phổ biến Chánh Sách HBCS rộng rãi cho dân chúng và viết thư báo cho chánh phủ 02 miền biết....lập trường của Đạo Cao Đài và nhiệm vụ của phái đoàn là xung phong đi phá tan vĩ tuyến 17, không chấp nhận chia đôi lãnh thổ, chia đôi dân tộc...

Ba ông Kỳ, Đại, Lợi đã bị bắt tại Quảng Trị trước (khi trương cờ). Lý do vì lính xét căn cước thấy 03 ông gốc Tây Ninh nên bắt. Ông Thoại qua khỏi trạm này vì căn cước gốc tại Sađéc.

Ngày 18-5-1956 (08-4-Bính Thân) (là ngày vía Đức Phật Thích Ca) Ông Thoại trương cờ ở cầu Bến Hải xong và dự tính đem hồ sơ lại Uỷ Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến tại VN để phân phát thì bị công an Ngô Đình Diệm bắt.

Mật vụ của ông Diệm đưa 04 ông Thoại, Kỳ, Đại, Lợi đi thủ tiêu. Nhưng ông Đại Tá Nhã khám phá được và can thiệp. Sự việc lan ra tới Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến nên 04 ông được bảo vệ. Cuối cùng, bốn người bị đưa về giam giử ở Huế.

Ngày 20-09-1959 (18-8 Kỷ Hợi) (là ngày vía Đức Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông ĐĐTKPĐ) 04 ông được thả. Thời gian bị giam là 3 năm 4 tháng 10 ngày.

Các ông mặc trang phục như thế nào?

Đức Hộ Pháp dạy mặc áo rộng trắng, khăn đen, sau lưng có thêu 4 chữ “Hòa Giải Dân Tộc” trên chữ Việt, dưới chữ Nho.

Các ông khởi đi là ngày 01-5-1959. Đức Hộ Pháp nói đã trễ hết một ngày. Các ông không hiểu nhưng đến 30-4-1975 thì mới hiểu ý nghĩa câu trễ hết một ngày của Đức Hộ Pháp.

@@@

ĐÂU LÀ BỔN CHÁNH???

“Bổn nào đúng???”

Nhân đây chúng tôi xin trình ra một trong những cái thuận lợi và cũng là khó cho hậu tấn là cùng một sự việc mà người trước ghi chép lại có sự khác nhau. Chúng tôi nêu ra đây để cùng nhận xét.

@@@

Trong Thánh Ngôn Sưu Tập của ông Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng có bài về đàn cơ Bà Bát Nương dạy ông Thoại đêm 15-03-Bính Thân (26-4-1956) tại Báo Ân Đường Kiêm Biên Bà Bát Nương có dạy:

....Ê, làm gì mà mấy chú nhỏ hăng quá gà độ tháng 10. Nè ráng coi chừng họ cũng có trăm mưu quỉ quái lắm, còn Nhị Ca thầy rùa tính để em Thoại làm chú tiểu chọi đầu mãi, sao chưa cho thả bom?

Bảo Đạo bạch:  Xin Bà cho biết sự đi đường dễ không?

- Thì cứ xuất kỳ bất ý mà tiến sẽ đắc thắng, Phật chỉ  đường chớ gì. Vậy cứ đi  cho kịp Thiên thơ.

Nè, Thoại nghe...

@@@

Ngài Quang Minh viết tiểu sử của Ngài Hữu Phan Quân (Lê Văn Thoại) có trích đàn cơ trên như sau:

BÁT NƯƠNG CHO THI LÚC ĐI BẾN HẢI

16-3 Bính Thân.  Báo Ân Đường Kim Biên đêm 24-4-1956, 10h

Bát Nương……………còn Nhị Ca Thầy Rùa tính để em Thoại làm chú tiểu chọi đầu mãi, sao chưa thả bờm.

Bảo Đạo bạch: Xin bà cho biết sự đi đường có dễ không?

-Thì cứ xuất kỳ bất ý mà Tiên sẽ dắt, Phật chỉ đường chứ gì. Vậy cứ đi cho kịp Thiên Cơ.

Nè Thoại nghe.....

@@@

Đối chiếu chúng ta thấy:

./- Ghi đêm 15-3- Bính Thân hay 16-3-Bính Thân chúng ta hiểu được vì đàn cơ thường là ban đêm nên có sự khác là chọn ngày củ hay bắt đầu ngày mới. Nhưng ghi  15-3- Bính Thân (26-4-1956) và 16-3-Bính Thân (24-4-1956) thì phải có nhầm... [ tra kỷ thì 15-03- Bính Thân nhằm 25-04-1956- theo VN mobifont trả lời]. Dù rằng không quan trọng nhưng vẫn là sai, người sau vận dụng (mà nhằm nguồn sai cũng sẽ sai tiếp)...

./- Thả bom (Ông Hồng) hay thả bờm (ông Quang Minh)?

Theo chúng tôi thì thả bom đúng nghĩa hơn còn thả bờm thì thiếu hết một chữ Ư (bườm) cũng có nơi viết là Buồm.

./- Đối chiếu 02 câu:

. Thì cứ xuất kỳ bất ý mà tiến sẽ đắc thắng, Phật chỉ  đường chớ gì. Vậy cứ đi  cho kịp Thiên thơ. (Bổn của Ông Hồng).

. Thì cứ xuất kỳ bất ý mà Tiên sẽ dắt, Phật chỉ đường chứ gì. Vậy cứ đi cho kịp Thiên Cơ. (Bổn của ông Quang Minh).

@@@

Ông Quang Minh viết: Phật chỉ đường (bị bắt 8-4 đúng vía Đức Thích Ca). Tiên dẫn lối (được thả ngày 18-8 đúng vía Đức Lý). Nhưng trong bổn của Ông Hổng chúng ta không thấy câu: Tiên dẫn lối; chỉ có câu: Phật Chỉ Đường... có lẽ do nạn tam sao thất bổn mà ra chăng???

@@@

Tóm lại:

./- Ngày 01-5-1956 (20-3-Bính Thân) 04 vị (Thoại, Kỳ, Đại, Lợi) khởi đi trương cờ HBCS ở Bến Hải.

./- Ngày 18-5-1956 (08-4-Bính Thân)  ông Thoại trương cờ HBCS ở cầu Hiền Lương bắc ngang sông Bến Hải thì bị bắt.

./- Ngày 20-09-1959 (18-8 Kỷ-Hợi) 04 ông được thả.

***: Lưu ý rằng còn một phái đoàn khác cũng xung phong đi Bến Hải mà Đức Hộ Pháp có nhắc đến trong Thánh Thư ngày 26-5-1958 (08-4-Mậu Tuất). Đó là Bà Nguyễn Thị Đồng và bị bắt giam...

Về lời thỉnh giáo của em Lê Văn Ca thì em Nguyễn Thị Đồng và hai đứa theo nó đã đặng lịnh của các Đấng Thiêng Liêng dạy nó làm điều ấy. Trong khi Qua lưu trú tại Kiêm Biên Em Đồng có lên gặp Qua cho biết rằng mạng lịnh của các Đấng Thiêng Liêng biểu nó làm....

Ngài Qui Tâm viết về phái đoàn nầy (có 03 người) tại trang 69:

Một Phái đoàn khác có ba người 2 Nữ, 1 Nam cũng đã đến Nam Vang xin phép Đức Hộ Pháp tình nguyện ra Trung Việt đến sông Bến Hải để kêu gọi Hoà Bình nhưng ra đến đó thì bị chính quyền đuổi về. Về tới Huế, Trưởng Đoàn là bà Đồng (ăn mặc rất sặc sỡ) đứng giữa phố Huế được nhiều người chú ý bao quanh đông đảo nghe Bà tuyên truyền giải pháp Hoà Bình Chung Sống của Đức Hộ Pháp làm náo nhiệt cả khu phố; công an đến bao vây và bắt 3 người này.

@@@

Từ những điều trên chúng ta thấy rằng cho dầu khó khăn nhưng tinh thần vì Đạo vì Thầy lúc nào cũng nồng nàn trong tim óc người đạo. Tượng đài HÒA BÌNH CHUNG SỐNG VẬT CHẤT chưa được xây dựng nhưng tượng đài HÒA BÌNH CHUNG SỐNG TINH THẦN đang ngự trị trong tâm hồn người đạo.

Cách tổ chức Hòa Bình Giáo Hội chứng tỏ Đạo Cao Đài là tài nguyên và môi trường để nhân loại phát huy HÒA BÌNH CHUNG SỐNG trên mọi phương diện...

CHÁNH SÁCH HÒA BÌNH CHUNG SỐNG

Do Dân - Phục Vụ Dân - Lập Quyền Dân.

 Chương Trình Của Đoàn Xung Phong Phá Tan Vĩ Tuyến 17.

Hưởng ứng chánh sách Hòa Bình Chung Sống của Đức Hộ Pháp chủ trương; để đi đến thống nhất dân tộc và thống nhất lãnh thổ Việt Nam.

CHƯƠNG TRÌNH

HOẠT ĐỘNG NƠI VĨ TUYẾN 17.

***

  1/. Phá tan bức màn sắt vĩ tuyến 17, ranh giới giữa 2 miền Nam Bắc do hiệp định Genève tạo ra. Bức màn ấy đối với dân tộc Việt Nam không có giá trị, vì trước mắt của người dân Việt, Hoàng đồ Việt Nam có một, dân tộc Việt Nam có một.

2/. Thượng Bạch Kỳ “Nhan Uyên” (tượng trưng Hòa Bình) để ngăn quân lực đôi Miền, không cho xâm phạm ranh giới lẫn nhau.

3/. Xung phong làm gương đi lại, đạp bằng vĩ tuyến 17 cho dân tộc Việt Nam thấy rằng: đó là quyền vi chủ của dân tộc. Không ai có quyền chia hoàng đồ tổ quốc và dân tộc Việt Nam ra làm 2 và xúi dục họ trở thành thù hằn nhau (tự do đi lại, tự do cư trú).

4/. Thực hiện tinh thần dân chủ chớ không phải nói suông (nói một đàng hành động một ngã là phản dân chủ, phản dân tộc, phản tổ quốc).

5/. Đánh thức tinh thần dân chúng 2 miền, câu kết họ lại, không còn thành kiến Nam và Bắc, vì còn như thế là đi đến chổ Nam Bắc phân tranh.

6/. Mọi hành động Do Dân, Phục Vụ Dân, Lập Quyền Dân. Khi họ đến mức trưởng thành, chánh thể của nước phải do dân định (quyền Dân tộc tự quyết).

7/. Với chánh phủ 2 Miền, ta không thiên bên nào, ta có nghĩa vụ tố cáo hành động, không dân chủ độc tài của họ với quốc dân và tổ quốc, một khi họ dùng quyền bức bách dân chúng.

8/. Bắt đền chánh phủ 2 Miền và Quốc Tế đã chia đôi lãnh thổ, chia đôi dân tộc, phải Thống Nhất Hoàng Đồ Dân Tộc Việt Nam, trao trả lại cho dân.

9/. Tố cáo ngoại quyền xen vào nội bộ VN. Tố cáo chánh phủ 2 Miền nếu nhập cảng thể chế ngoại lai vào VN mà có phuơng hại đến tinh thần dân tộc.

10. Bắt tay hiệp cùng với Ủy Hội Quốc Tế, thực thi cuộc tổng tuyển cử bằng đường lối tự do dân chủ. Nếu mở cuộc tổng tuyển cử mà không tự do dân chủ là không phải nguyện vọng của toàn dân.

 

 

@@@

CÔNG CỤ DÙNG VÀO VIỆC LÀM

A/- Tại Bến Hải: Thượng một cây cờ trắng, đề 2 chữ “NHAN UYÊN”.

B/- Có một ban túc trực nơi Bến Hải để đưa rước dân 2 Miền tự do đi lại. Mỗi khi có chánh quyền nào xâm phạm quyền tự do đi lại và cư trú của dân thì can thiệp và đưa ra Quốc Tế.

C/-    Thành lập một Bộ Đội “Nạn Nhơn Chiến Tranh”, gồm có Thương Phế Binh, Cô Nhi, Góa Phụ, Phụ Mẫu nạn nhơn chiến tranh để tượng trưng phong trào phản đối chiến tranh.

@@@

Ý NGHĨA CÂY BẠCH KỲ NHAN UYÊN

    Ông Nhan Uyên tên là Hồi, học trò cao đệ và được sự thương yêu bực nhứt của Đức Khổng Phu Tử.

Đức Khổng Phu Tử dạy môn đệ thì đông, nhưng tuyển chọn lại thì còn Thất Thập Nhị Hiền. Môn đồ của Ngài phần nhiều được các vua chúa trọng dụng, kẻ thì ở nước Tề, Lương, Lổ, Tống…

Một ngày kia, Đức Khổng Phu Tử nói với môn đệ rằng: Thoản như trường hợp nước nọ chẳng hòa với nước kia, đến đổi phải gây chiến tranh với nhau thì chư môn đệ mới nghĩ sao?

Chư môn đệ lần luợt trả lời cũng không ngoài ý nghĩ thường tình “Ai Vì Chúa Nấy” cất binh đánh nhau. Duy chỉ có ông Nhan Hồi trả lời rằng: Nếu gặp trường hợp ấy tôi nguyện cầm cờ trắng, xông ra giữa làng binh để giải hòa hầu giải nạn tương tàn tương sát.

Cao quí thay cho tinh thần ấy, tình thế nước Việt Nam cũng sớm đi đến cảnh Nam Bắc phân tranh, diễn tuồng nồi da xáo thịt. Nhưng toàn dân tộc VN nếu một lòng là: Tha thiết yêu chuộng hòa bình và chỉ muốn cùng nhau chung sống.

Dựng cây Bạch Kỳ Nhan Uyên là khêu gợi và suy tôn tinh túy của Khổng Giáo và lại tượng trưng tinh thần đạo đức của các tôn giáo hiện hữu nơi mặt thế nầy: Từ Bi của Phật, Bác Ái của Tiên, Nhân Ái của Khổng và Huynh Đệ Đại Đồng của Thánh Chúa  Jésus.

Tác giả Lê Văn Thoại

(ký tên và đóng dấu)

Bến Hải, ngày 30-3-Bính Thân.

(10-5-1956).

(Thân gởi đồng bào toàn quốc)

CHÁNH SÁCH HÒA BÌNH CHUNG SỐNG

Do Dân - Phục Vụ Dân - Lập Quyền Dân.

***

Cựu Trung Tá Lê Văn Thoại.

Tín Đồ Cao Đài Giáo.

Kính gởi: Chủ Tịch Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến ở Việt Nam.

Thưa quí Ngài.

Tôi trân trọng hầu quí Ngài:

1. Một bức thư tôi gởi cho 2 Miền Nam Bắc VN.

2. Một chương trình hành động của tôi nơi vĩ tuyến 17.

3. Một bản giải thích cây Bạch Kỳ Nhan Uyên.

Hành động của tôi để tượng trưng tinh thần và ý nguyện Hòa Bình Chung Sống của Đức Hộ Pháp Giáo Chủ Đạo Cao Đài đã gởi cho 2 Miền Bắc và Nam Việt Nam, các nước trên thế giới và cho quí Ngài, do thơ số 20/HP.HN, số 21/HP.HN và số 29/HP.HN đề ngày 26-03-1956 và 10-04-1956.

Hành động của tôi không ngoài nhiệm vụ của quí Ngài là làm thế nào thống nhất dân tộc, thống nhất hoàng đồ Việt Nam, trao trả lại cho dân tộc Việt Nam quyết định.

Căn cứ lời tuyên bố của cụ Hồ Chủ Tịch về Miền Bắc, ngày 3-4-1956 và của cụ Ngô Tổng Thống về Miền Nam, ngày 6-4-1956 cùng lời tuyên bố trên đài phát thanh và báo chí của 2 Miền tôn trọng tự do dân chủ và hòa bình, thì không lý nào việc làm của tôi là kêu gọi Hòa Bình và Chung Sống lại bị cấm đoán.

Mong quí Ngài thị chứng cho hành động của tôi.

Trân trọng kính gởi lời chào tôn kính và biết ơn của tôi.

Bến Hải, ngày 11-5-1956

 (ký tên và đóng dấu).

Lê Văn Thoại

 

(Thân gởi cho đồng bào toàn quốc).

http://farm8.staticflickr.com/7217/7031706083_80413383f3_z.jpg

Di tản qua đèo Hải Vân.. tháng 03-1975

 

 

 

 

 

 

 

 

CHÁNH SÁCH HÒA BÌNH CHUNG SỐNG

Do Dân - Phục Vụ Dân - Lập Quyền Dân.

 

BỨC TÂM THƠ

    Kính gởi:

. Cụ Hồ Chủ Tịch Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Miền Bắc.

. Cụ Ngô Tổng Thống Chánh Phủ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam.

Thưa hai Cụ,

Tiền nhân ta xây dựng một dảy giang san gấm vóc từ ải Nam Quang đến Mũi Cà Mau. Rồi còn lưu lại cho ta một sự nghiệp quí báu là nền văn hiến tối cổ, định quốc trên 4000 năm lịch sử.

Thưa hai cụ,

Hai cụ đã biết, bảo thủ sự nghiệp ấy còn tồn tại đến ngày nay đã bao nhiêu xương máu của giống nòi dân tộc. Bây giờ, ta phải bình tâm suy cổ nghiệm kiêm và quan tiền vũ hậu, thấy các tai hại của các triều đại do các bậc chấp-chánh quyền-hành bị thuyết độc tài, độc tôn, hoặc quá bạc nhược với các quần thần, hoặc bị áp bức đô hộ ngoại bang. Thì ra, ai cũng đi ngược lại với nguyện vọng của toàn dân thì bị toàn dân đào thải. Còn đấy hai cụ cũng ngó thấy nạn Nam Bắc phân tranh của Nhị Chúa. Bắc thì Chúa Trịnh, Nam thì chúa Nguyễn gây cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn.

Hại một nỗi, rước rắn rừng về cắn gà nhà (Bắc thì Trịnh, Chiêu Thống theo Tàu, còn Nam thì Nguyễn cầu thân Pháp) giết hại lẫn nhau, làm cho nước nhà suy nhược. Hành động ấy là do cố vị, tham quyền, nên phải tai hại 82 năm lệ thuộc.

Ngày nay, tấn tuồng ấy lại tái diển: Bắc thì Cụ Hồ lấy thế Cộng, Nam thì Cụ Ngô dựa vào Tư Bản, chia vĩ tuyến 17 làm ranh, lại do quyền Quốc Tế qui định.

Hai cụ chịu thừa hưởng 2 gia tài ấy, còn dân chúng xem nó như chén thuốc độc do 2 khối Tư Bản và Cộng Sản tạo ra, để đầu độc số kiếp tương lai của Tổ Quốc.

Thưa hai cụ,

Hai cụ hôm nay là người của thời đại, của lịch sử. Vận mệnh của nước, của dân tộc do hai chủ nghỉa điều khiển con thuyền Tổ Quốc, ngòi bút vô tư của lịch sử chờ phê phán hoặc suy tôn hoặc nguyền rủa đều do sở hành của hai cụ.

Đành rằng khi tổ quốc lâm nguy, các trang chí sĩ tìm phương hay, chước khéo cũng như tìm lương y chữa trị bệnh căn. Nay đã bình phục còn chạy theo thầy Tần thuốc Sở là điều nguy hại, cái khó cái dụng chỉ ở tại lúc nầy.

Tôi tin rằng nơi tay hai cụ đều có một cái chìa khóa để mở cửa kho tàng bảo quốc vô giá là nền văn minh tối cổ Khổng Mạnh truyền thống, lấy chữ Hòa để thoát ly mọi hiểm họa.

Hôm nay, tôi vì dân tộc, xung phong dựng cây Bạch Kỳ Nhan Uyên tại Bến Hải để cầu cho dân tộc dẹp can qua, mong giống nòi thôi loạn lạc.

Nếu hai cụ Hòa, nó sẽ là cây cờ “Hòa Bình Cứu Quốc”. Còn bằng hai cụ khư khư bảo thủ quan niệm nguy hại của mình, thì nó sẽ là “Cờ Tang Đất Việt”. Chừng ấy buộc lòng dân tộc chúng tôi vì hoàng đồ tổ quốc mà đứng ra quyết định, dầu phải tuyệt đối hy sinh, đặng cứu vãn nước nhà trong cơn nguy ngập.

Tôi trân trọng gởi lời chào tôn kính hai cụ.

Viết tại Bến Hải ngày 23-3 Bính Thân,

dl (03-05-1956)

(ký tên và đóng dấu)

Lê Văn Thoại. (1).

(Thân gởi đồng bào toàn quốc).

CHÚ THÍCH.

(1)/- Thời gian viết thư.

Các vị khởi đi ngày 01-05-1956.

Thư nầy viết ngày 03- 05- 1956 (là 02 ngày sau khi đi); trước 02 lá thư trên. Nhưng do nằm chung trong hồ sơ gởi đi nên chúng tôi để sau.

 

http://nguoiviethaingoai.org/ditan_files/image050.jpg

Thuyền nhân Việt Nam bỏ nước ra đi tìm tự do... bao nhiêu người đã chết trên biển....

http://mba.hut.edu.vn/upload/big/2010630115452_ncu1.JPG

2013: Du học sinh VN đứng hàng thứ 08 tại Mỹ... Chiêu bài chống Mỹ cứu nước là dối trá.

 

TẠM KẾT...

 

LỜI CẢM ƠN.

Tập thể Nguyễn Phúc Thành xin thành thật cảm ơn quí đồng đạo,  chư vị hiền nhân quân tử bốn phương góp ý và gởi tặng tài liệu ủng hộ   chúng tôi biên soạn HÒA BÌNH CHUNG SỐNG BIÊN NIÊN.

Chúng tôi rất mong được đồng hành với quí vị để thực hiện và phổ biến tư tưởng HÒA BÌNH CHUNG SỐNG...

Nay kính.