Trang

Thứ Ba, 23 tháng 2, 2021

3365. HÒA BÌNH CHUNG SỐNG BIÊN NIÊN (tt 75)

 Qua tạm chấp thuận; khi em Quảng cùng các bạn của nó đương bị giam cầm bởi chánh quyền bắt. Đến khi nó trở về thì phải giao lại cho chúng nó.

Còn vụ mộ binh của Liên Minh phao tin rằng cũng do mạng lịnh của Qua là điều lường gạt tâm lý. Qua chẳng hề có ra lịnh chi cho Liên Minh cả. Chúng chẳng hề lại gần Qua được luôn cả đám Tất, Phú, Quyến, Vui, Trước, Bính v.v. , cũng chẳng hề khi nào gần Qua được. Vì Qua đã liệt cả cựu chiến binh Cao Đài là đám phản loạn; sử Đạo sẽ ghi điều ấy. Những hành vi của chúng từ trước tới nay Qua chẳng hề tha thứ được, khi Qua về sẽ đưa nội vụ ra Quyền Vạn Linh định án.


 

HỘ PHÁP ĐƯỜNG.

VĂN PHÒNG.

SỒ: 19/HP.HN

 CHÁNH SÁCH HÒA BÌNH CHUNG SỐNG.

   Do Dân – Phục Vụ Dân – Lập Quyền Dân.

***

Mấy em

Qua có nhận đặng phúc trình và thơ ngày 12-7 Mậu Tuất của mấy em kèm theo.

-                     Sao lục thơ số 66/GHTU, ngày 12-6- Mậu Tuất của HBGH

-                     Sao lục Châu Tri số 150/TS, ngày 7-7- Mậu Tuất.

-                     Sao lục thơ của Phát Minh, Thanh Hinh và  GH Tùng Chánh.

Mấy em nói lại với Chơn Kim rằng Qua cũng có đặng thơ của nó vừa rồi. Qua sẽ trả lời cho nó khi con Tư trở về Toà Thánh.

Sau khi Qua xem trọn Tờ Phúc Sự của mấy em về xáo trộn nội bộ trong chánh sách HBCS, cùng HBGH thì Qua  chẳng lấy chi làm lạ. Qua đoán trước và cũng biết y như thế. Đây là bài học cho mấy em nhìn thấy: Khi ta bất hoà cùng nhau thì những kẽ phản ta thừa dịp dùng phương thế mưu hại mấy em.

Mấy em minh tra cho ra kẻ cố mưu nội loạn ấy là ai. Qua dám nói quả quyết rằng do sự bất hoà của Vui và Ánh mới ra tình tệ. Nay em lại cho Qua biết thêm coi mấy đứa bị bắt chánh quyền Ngô Đình Diệm đã xử chúng thế nào? Vậy cho Vui và Ánh sáng mắt chúng nó. Tội nhứt cho Quảng là đứa cẩn thận và dè dặt mà chuyện xãy tới cho nó bất ngờ... Không biết hôm nay nó có ân hận gì không?

Trong Tờ Phúc Sự mấy em xin Tờ Ban Khen thêm cho nhiều người đặng ghi công nghiệp của họ. Trong ấy có Vui. Qua xin lại mấy em rằng: Đợi ngày nào mấy em minh tra xong xem lỗi ấy về ai  rồi Qua sẽ định. Hay hơn hết là mấy em biểu mổi đứa phải làm riêng Phúc sự gởi cho Qua. Qua có phiền một điều là mấy em không kỷ lưỡng; đến nỗi văn bằng bút tích của Qua mà mấy em cũng để cho chúng lấy được. May là những văn bằng bút tích ấy không hại chi, trái lại nó lại đưa đủ bằng cớ ra cho chánh phủ Ngô Đình Diệm thấy sự lầm lạc của chúng đặng tầm phương bào chữa. Bởi văn bằng bút tích ấy là do chính mình Qua đã làm ra và đúng với lẽ tự nhiên. Thành ra chúng nó là người vô can tức là vô tội. Biết đâu, việc rủi lại hóa may; khi chánh phủ Ngô Đình Diệm đặng những văn kiện trên lại không tỉnh giấc mơ, biết được lầm lổi của mình từ thử đến giờ như thế nào đặng tìm phương sửa cải.

Đường lối lập trường của Qua sẽ giúp hay cho Ngô Đình Diệm thắng nổi tụi Cộng Sản. Trong bản cương lĩnh của Qua, tuy ngoài xưng là HBCS mà kỳ trung là để đặc biệt miền Bắc cho Cộng Sản tự trị lấy họ. Còn miền Nam là của quốc gia lo chỉnh đốn cho kịp thời và thu phục lòng dân đặng tạo dựng chánh quyền thiệt thọ của mình là chánh phủ Quốc Gia Liên Hiệp làm Chánh Phủ của hai miền tự trị Nam Bắc.

Mấy em cứ yên tâm, cố cần lo cho tương lại vận mạng Tổ Quốc và giống nòi trong đường lối tự do tương lai của Qua vạch sẳn. Con đường ấy Qua nói chắc với mấy em chẳng hề dắt mấy em đi đến điều chi lầm lạc. Nên càng nhiều khổ hạnh với nó thì danh thế của ta càng sáng tỏ và đáng giá trị. Mấy em cứ tin nơi Qua rồi tương lai sẽ chỉ rõ sự thật thế nào cho mấy em biết.

Qua gởi theo đây mấy bổn sao lục thơ số 17, 18/HPĐ.VP và hai tờ biên nhận số tiền của mấy em gởi đến Qua, luôn cả tờ 100$ mà mấy em đã mượn của các em ở Phú Đức đặng mấy em đưa lại cho họ làm tin.

Qua y phê danh sách của Ban Thống Nhất và Ban vận động Nam phái miền Nam mà mấy em đã trạch cử. Qua xin mấy em làm Uỷ Nhiệm Thơ của mổi người theo danh tự gởi lên cho Qua để Qua phê chuẩn công nhận cho họ thiệt thọ mà hành sự.

Theo ý định của Minh Hiền đem tên những người hành sự củ có công nghiệp vào Ban Thống Nhất. Qua tạm chấp thuận; khi em Quảng cùng các bạn của nó đương bị giam cầm bởi chánh quyền bắt. Đến khi nó trở về thì phải giao lại cho chúng nó.

Còn vụ mộ binh của Liên Minh phao tin rằng cũng do mạng lịnh của Qua là điều lường gạt tâm lý. Qua chẳng hề có ra lịnh chi cho Liên Minh cả. Chúng chẳng hề lại gần Qua được luôn cả đám Tất, Phú, Quyến, Vui, Trước, Bính v.v. , cũng chẳng hề khi nào gần Qua được. Vì Qua đã liệt cả cựu chiến binh Cao Đài là đám phản loạn; sử Đạo sẽ ghi điều ấy. Những hành vi của chúng từ trước tới nay Qua chẳng hề tha thứ được, khi Qua về sẽ đưa nội vụ ra Quyền Vạn Linh định án. (1).

Trước khi Qua dứt lời, Qua ban phép lành cho mấy em và cầu nguyện Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẩu và các Đấng Thiêng Liêng phò trì cho mấy em làm tròn phận sự cứu dân, cứu nước, gọi là phương cứu khổ cho Đạo.

 

 

Kim Biên, ngày 20-7- Mậu Tuất

(DL 03-9-1958)

HỘ PHÁP

(Ấn Ký).

CHÚ THÍCH.

(1)/- Về ông Lê Văn Tất.

Sau khi ông Tổng Tư Lệnh QĐCĐ là Trung Tướng Nguyễn Văn Thành ra lịnh cho Thiếu Tá Bay và ông Dồi ám sát Thừa Sử Phạm Ngọc Trấn  (1952) thì Đức Hộ Pháp ra lịnh giải tán Bộ Tổng Tư Lệnh để bầu lại và nạp các tay ám sát ông Trấn.... Nếu không tuân thì Đức Hộ Pháp ly khai với quân đội.

Ông Thành thấy nguy cơ thì chạy theo Bình Xuyên và Bình Xuyên xin với Quốc Trưởng Bảo Đại cho ông Thành quốc gia hóa với quân hàm Thiếu Tướng. Ông Thành tự xin quốc gia hóa trước khi Đức Hộ Pháp ký Thánh Lịnh Quốc Gia hóa khoản 02 năm.

Ông Phối Sư Trần Quang Vinh được Đức Hộ Pháp ủy nhiệm chủ trì việc bầu lại (nên chiều đó ông Vinh bị ông Thế bắt). Ông Lê Văn Tất đắc cử nhưng do áp lực của Pháp và Liên Minh của ông Trình Minh Thế nên không thể tấn phong ông Tất lên Tổng Tư Lệnh thay thế ông Thành mà phải phong cho tướng Nguyễn Thành Phương làm Tổng Tư Lệnh. Ông Tất là Phó Tổng Tư Lệnh. Ông Thế là Tham Mưu Trưởng.

Khi Đức Hộ Pháp đi Paris 1954 thì ông Tất cũng có mặt ở Paris và ăn ngủ cùng phòng với Ngài Hồ Bảo Đạo.

Ngày 02-5-1955 Đức Hộ Pháp ký Thánh Lịnh Quốc Gia hóa QĐCĐ.

Ngày 05-10-1955 Tướng Phương và Tướng Tất đem binh lính về vây Hộ Pháp Đường theo lịnh của Ngô Đình Diệm.

Ngày 10-10- 1955 (25-8-Ất Mùi) Hội Thánh họp với Thiếu Tướng Lê Văn Tất là đại diện của Tướng Nguyễn Thành Phương.

Ngày 23-10-1955 Thủ Tướng Diệm được bầu làm Tổng Thống.

Ngày 26-10-1955, chính thể Việt Nam Cộng Hoà được thành lập.  

Ngày 06-02-1956 (05-01- Bính Thân) lúc 3 giờ Đức Hộ Pháp rời Toà Thánh đi Nam Vang.

@@@

Điều mỉa mai cho ông Tất là ông Tất lãnh lịnh Ngô Đình Diệm khủng bố Đức Hộ Pháp chưa xong thì ông Tất bị họ Ngô khủng bố nên phải chạy lên Nam Vang trước Đức Hộ Pháp. Ông Tất đi Nam Vang là do việc cá nhân ông Tất bị họ Ngô khủng bố không liên quan gì đến Đức Hộ Pháp hay Đạo Cao Đài. Sau ông Tất làm Tỉnh Trưởng Tỉnh Tây Ninh làm áp lực với Hội Thánh xây cổng chánh môn trái với bản đồ Đức Hộ Pháp để lại. Cổng xây năm 1965 nhưng Hội Thánh không làm lễ khành thành mãi đến 1997 chi phái Hội Đồng Chưởng Quản lập tại Nội Ô Tòa Thánh được Ban Tôn Giáo cấp pháp nhân thành lập một chi phái mới hô hào là khành thành cổng Chánh Môn nhưng lồng vào đó là lễ rước pháp nhân cho chi phái. Cái kế treo dầu dê bán thịt chó nầy của chi phái Hội Đồng Chưởng Quản gạt được nhiều người nhưng có gạt được toàn đạo hay không? Thời gian đang trả lời.

Vậy khi cơ đạo phục hồi cổng Chánh Môn theo sơ đồ của Đức Hộ Pháp sẽ xây ở đâu? Toàn đạo theo sơ đồ Giáo Chủ Đạo Cao Đài hay chấp nhận cửa Chánh Môn theo kiểu ông Tất? Một chi phái có quyền đứng ra khành thành một công trình trong ĐĐTKPĐ hay không?

Quyền quyết định thuộc về 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh vậy.

Tại Nam Vang ông Tất xin gặp Đức Hộ Pháp nhiều lần nhưng đều bị cự tuyệt. Một số vị viết về việc ông Tất gặp Đức Hộ Pháp và cho biết tin về trái bom mà Pháp cài dưới nền Đền Thánh... theo chúng tôi là không đáng tin cậy. Bởi vì ông Tất có muốn gặp Đức Hộ Pháp thì phải xin tháp tùng trong một phái đoàn nào đó rồi mới được gặp chớ cá nhân ông Tất không hề được gặp Đức Hộ Pháp thì câu chuyện trái bom thiễn nghĩ là để nổ vậy thôi...

Ngô Đình Diệm mở chiến dịch khủng bố Đức Hộ Pháp và Đạo Cao Đài là một công mà được nhiều việc:

.a/- Chuẩn bị cho ngày Tổng Tuyển Cử 23-10-1955 nhằm truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại. Vì Đức Hộ Pháp ủng hộ Quốc Trưởng Bảo Đại. Nếu cuộc trưng cầu dân ý diễn ra công bằng chưa chắc họ Ngô đã thắng như Hồi Ký Tướng Đỗ Mậu đã viết và chúng tôi có trích bên trên.

.b/- Đức Hộ Pháp chứng kiến Ngô Đình Diệm thề sẽ không phản bội Quốc Trưởng Bảo Đại nên họ Ngô muốn tiêu diệt nhân chứng.

Ngày 24-12-Ất Mùi (1955). Đức Hộ Pháp dạy:

. .. Bởi Ngô Đình Diệm có hội tay ba tại Ba Lê (Paris) với Quốc Trưởng Bảo Đại cùng Qua. Người có tuyên thệ trước bàn thờ Tổ Quốc rằng: “Không phản Tổ Quốc chủng tộc Việt Nam, nếu bội ước sẽ chết trước mũi súng thần của dân tộc và linh hồn bị luật thiên điều của Chúa hành phạt”. Do đó Đức Hoàng Đế Bảo Đại giao cho làm Thủ Tướng để thống nhất các khối quân lực trong các đảng phái để tránh nạn xô xác sanh mạng và trừ nạn chia đôi lãnh thổ....

....Rồi đây Qua sẽ xuất ngoại, giao thiệp với Quốc Tế và các nước trung lập, dùng giải pháp mới mẻ để mưu cầu hòa bình, thống nhứt hoàng đồ chủng tộc Việt Nam.)

.c/- Các giáo phái ở VN nổi lên chống thực dân Pháp khi ông Diệm còn là một thường dân...ông Diệm được bổ nhiệm làm Thủ Tướng là do áp lực của chánh phủ Mỹ. Lưu ý là khi Đức Hộ Pháp ở Paris Đại Sứ Mỹ ở Paris đã đến thăm Ngài ngay khi Quốc Trưởng Bảo Đại muốn Đức Hộ Pháp ủng hộ ông Diệm làm thủ tướng.  Các giáo phái chống Pháp vì độc lập, tự do của dân tộc và tổ quốc Việt Nam. Lập trường các giáo phái rất rõ ràng: không theo Việt Minh cũng không chịu lệ thuộc Mỹ.

Do vậy người Mỹ muốn triệt tiêu các giáo phái để cho cho ông Diệm mạnh lên và nắm ông Diệm dễ dàng hơn là nắm các giáo phái. Ông Diệm triệt tiêu các giáo phái trước mắt thấy có lợi. Nhưng xét về lâu dài là một việc làm nguy hiểm và thiếu tầm nhìn. Bởi vì ông Diệm đã xúc phạm đến danh dự và tự do tín ngưỡng.

Là một nhà chính trị tại sao ông Diệm chấp nhận làm việc thiếu tâm đức và thiếu tầm nhìn như vậy? Câu trả lời là phục vụ cho ông Ngô Đình Thục với tham vọng làm Giáo Hoàng ở Vatiacan.

d/- Phục vụ cho kế hoạch Công Giáo hóa Việt Nam hầu đưa ông Ngô Đình Thục ra tranh cử Giáo Hoàng ở Vatican.

Nhiều văn bút trong tôn giáo Cao Đài đã viết về âm mưu xóa bỏ Đạo Cao Đài để biến thành Công Giáo... Đó là người trong tôn giáo viết. Chúng tôi xin trích từ Hồi Ký Tướng Đỗ Mậu về việc ông Ngô Đình Thục muốn làm Giáo Hoàng ở Vatican để làm chứng rằng những đàn anh trước đây viết có cơ sở chắc chắn từ thực tế.

Trang 184.

Thứ hai là thảm bại này cũng chứng tỏ rất rõ cái hệ quả tất yếu của chính sách kỳ thị và đàn áp Cao Đài của chính phủ Diệm. Cao Đài là một tổ chức yêu nước chống Pháp từng là hậu thuẫn của Kỳ ngoại hầu Cường Để Giáo chủ Phạm Công Tắc từng bị thực dân lưu đày ở Comeres mấy năm trường.

Dưới chế độ của Quốc trưởng Bảo Đại, lực lượng võ trang Cao Đài chiến đấu sinh tử chống Việt minh và giữ vững an ninh cho những làng mạc (nhất là miền Đông Nam phần), nơi có tín đồ Cao Đài sinh sống.

Nhưng kể từ ngày 5 tháng 10 năm 1955, khi anh em ông Diệm mua chuộc được tướng Cao Đài Nguyễn Thành Phương rồi một mặt cho tấn công vào Toà thánh Cao Đài Tây Ninh tước khí giới 300 hộ vệ quân của Phạm Công Tắc, (i) một mặt cho báo chí và đài phát thanh Sài gòn đưa ra chiến dịch bôi lọ Giáo chủ Cao Đài nào là dâm ô, tham nhũng, việt gian, thì Giáo chủ Phạm Công Tắc tướng Lê Văn Tất và một số tín đồ trốn qua Cao Miên. Từ đó Cao Đài bỏ chủ trương chống Cộng quay qua chống chính quyền Ngô Đình Diệm. Theo giáo sư Douglas Pike thì sau khi Phạm Công Tắc lưu vong qua Cao Miên, trong số 11 hệ phái theo Việt cộng chỉ còn một hệ phái ủng hộ Diệm mà mục đích chỉ là để bảo vệ lấy Thánh thất Cao Đài cho đến khi chế độ Diệm bị lật đổ, toàn thể lực lượng Cao Đài lại trở về hợp tác với những chính phủ sau Diệm.

Trang 207

Năm 1953 khi cần tạo uy thế cho anh mình để nắm chính quyền, Ngô Đình Nhu đã chủ trương chính sách Đại đoàn kết với các đảng phái đến nỗi Ngô Đình Nhu không ngại ngồi chung và cộng tác với những kẻ mà Nhu cho là "ăn cướp” như Năm Lửa, Bảy Viễn; thế mà khi nắm giữ được quyền hành rồi Nhu lại bác bỏ phương thức Đại Đoàn kết để cứu nước, chỉ điều hành sinh hoạt quốc gia bằng những luật lệ độc tài phản dân chủ, khinh thị quốc dân, chỉ trích mạt sát các đảng phái mặc dù đất nước đang rách nát đau thương do chính tay gia đình ông ta gây ra.

Trang 207.

Người ta chú ý đến ông Ngô Trọng Hiếu (hiện ở Mỹ), vì ông Hiếu làm Bộ trưởng cho chính phủ "Cách mạng nhân vị" Việt nam cộng hoà mà gốc gác lại không phải là người Việt nam. Mẹ ông là người Việt nhưng cụ thân phụ của ông là người Phillippines có quốc tịch Pháp, và tuy ông sinh đẻ ở Thủ Dầu Một nhưng lại theo quốc tịch cha. Ông đã từng học luật ở Pháp và vì người Pháp nên ông được chính phủ Bảo hộ cử giữ chức Trưởng Ty ngân khố. (Dưới thời Pháp thuộc chỉ có người Pháp mới được giữ chức này). Ông được ông Thơ giới thiệu với anh em ông Diệm cho đi làm Đại sứ Việt nam ở Phnom Penh. Buồn cười thay những thất bại trong nhiệm vụ Đại sứ lại làm cho ông trở thành Bộ trưởng công dân Vụ cho đến ngày chế độ Diệm sụp đổ.

Dư luận đã cho rằng việc nhà Ngô trọng dụng ông Ngô Trọng Hiếu là một thái độ khinh thị quần chứng, coi quốc gia đã hết nhân tài nên mới dùng "con Tây" làm Bộ trưởng. Hai nhân vật Ngô Trọng Hiếu và Huỳnh Hữu Nghĩa trong tân Nội các của ông Diệm vào nhiệm kỳ Tổng thống thứ II đã biểu lộ một cách chính xác nhất bản chất chế độ Diệm chỉ là chế độ trung ương tập quyền và phong kiến quan lại chỉ tin dùng những bề tôi nịnh thần...

Trang 235

Ngô Đình Thục không từ bỏ một hành động bần tiện nào trong việc làm tiền. Ông ta đã nhờ Tổng thống Diệm ra lệnh cho đại tá Phùng Ngọc Trưng, đang chỉ huy ngành Quân nhu ở Quân khu I, phải mua nước mắm thối của các bà "sơ" ở Phan Thiết, thứ nước mắm lâu ngày không bán được, bị hư thối để bán lại cho gia đình binh sĩ. Tất nhiên đại tá Trưng phải thi hành mệnh lệnh trên để rồi chịu lấy sự nguyền rủa của vợ con binh sĩ. Ngô Đình Thục còn bắt thân phụ tướng Trần Văn Đôn là Đại sứ Việt nam tại Italia, phải đứng tên cho các chương mục tại ngân hàng ngoại quốc giùm Thục, nhưng ông Đại sứ nhất định từ chối, không chịu làm tay sai cho một nhà tu hành bất lương. Ông Diệm không những biết được sự từ chối này mà còn biết cả thái độ khinh bỉ của ông Đại sứ nên năm ngày sau, ra lệnh cắt chức Đại sứ mặc dù hai gia đình đã từng quen nhau lâu ngày. Nhưng nếu ông Đại sứ họ Trần không chịu làm tay sai cho Ngô Đình Thục trong việc chuyển tiền vào Ngân hàng ngoại quốc thì đã có nhiều người khác sẵn sàng lo, trong đó có cả các linh mục người Italia. Năm 1965, báo chí ở Italia và Pháp đã làm ồn ào lên về vụ một linh mục người ý cướp của Ngô Đình Thục 98 ngàn đô la trong chương mục do linh mục ý này đứng tên đã là một bằng chứng rõ rệt về chuyện Ngô Đình Thục chuyển tiền ra nước ngoài.

Trang 236

Bất chấp nỗi cơ cực và phẫn uất của nhân dân, bất chấp sinh mệnh của đất nước đang bị cộng sản đe doạ, lòng tham vô đáy của Ngô Đình Thục cứ dựa vào chế độ mà trở thành to lớn hơn và vô liêm sỉ hơn. Thục chỉ biết tiền, tiền và tiền. Tuy nhiên những vụ kể trên vẫn chưa đáng kể khi so sánh với vụ Ngân khánh xảy ra vào những ngày dao động cuối cùng của chế độ. Ngày 29 tháng 6 năm 1963, Ngô Đình Thục tổ chức lễ Ngân khánh kỷ niệm 25 năm thụ phong Giám mục của ông ta. Thay vì tổ chức trong phạm vi tôn giáo và gia đình thì Ngô Đình Thục trong mục đích làm tiền một vố thật lớn đã biến lễ Ngân khánh của mình thành một quốc lễ. Tại Sài gòn, Ngô Đình Thục giao cho Trương Vĩnh Lễ, chủ tịch Quốc hội, thành lập "Uỷ ban Trung ương mừng lễ Ngân khánh" mà Lễ là chủ tịch và tất cả mọi ngành, mọi cơ cấu của định chế gọi là Quốc hội đều tham dự vào việc đóng góp tiền bạc. Còn tại các Bộ thì Bộ trưởng phải đứng đầu các tiểu ban.

Trang 238

Trên thực tế thì dưới chế độ Ngô Triều, Ngô Đình Thục là người có ảnh hưởng nhất tại miền Nam. Quyết định của ông ta là tiếng nói cuối cùng của gia đình vì không những cá nhân ông Diệm phải nghe lời Thục mà Thục lại biết lôi kéo gia đình Ngô Đình Nhu để Thục thêm vây cánh. Và tuy không tham dự trực tiếp vào chính quyền, tại giáo phận Vĩnh Long trước kia cũng như tại Huế năm 1965, tư dinh của Ngô Đình Thục vẫn là trung tâm quyền lực to lớn để hàng ngày Thục tiếp những nhân vật quan trọng không khác gì ông Diệm tiếp Quốc khách tại dinh Độc lập hay dinh Gia Long.....

 Xét về trường hợp của Ngô Đình Thục ta thấy rõ ràng ông tiêu biểu một cách trọn vẹn nhất cho sự tổng hợp của những tệ đoan mà thực dân và phong kiến đã để lại trên phong hoá nước ta: cái tệ đoan hối mại quyền thế qua hệ thống đẳng cấp phong kiến của triều đình nhà Nguyễn lúc mạt vận và cái tệ đoan dĩ công vị tư qua chính sách bòn rút tài nguyên của thực dân bảo hộ lúc xua quân xâm chiếm nước ta. Vì thừa hưởng cái gia tài đó vào tận trong tim óc cho nên khi em lên làm Tổng thống là anh phải tận dụng quyền thế để biến của đất nước thành của riêng mình. Điều đáng buồn là chiếc áo tu sĩ và những năm dài học giáo lý Thiên chúa giáo không đủ sức mạnh để đánh bật được những gốc rễ của các tệ đoan đã bám quá sâu vào tâm thức của Ngô Đình Thục, con chiên ghẻ của Giáo hội Việt nam và Giáo hội La mã.

Ngô Đình Thục không phải chỉ tham tiền mà còn tham quyền hành và địa vị. Đầu năm 1956, sau khi ông Diệm truất phế Bảo Đại bước lên ngôi vị Tổng thống rồi, Giáo Hoàng Pie XII bèn thăng Đức Cha Nguyễn Văn Hiền lên chức Tổng Giám mục Sài gòn. Quyết nghị của Đức Thánh Cha làm cho hai anh em ông Diệm hết sức phẫn uất vì Giáo Hoàng đã không chấp thuận ứng viên mà ông Diệm đòi hỏi là người anh Ngô Đình Thục đang là Giám mục Giáo phận Vĩnh Long.

Mối căm giận đối với Giáo Hoàng đã đưa ông Diệm lấy những biện pháp quyết liệt.

Thông báo cho Toà thánh La mã từ nay tất cả các giáo sĩ ngoại quốc đến hành đạo tại Việt nam phải tuyên thệ trung thành với ông Diệm bằng không sẽ được coi như là thành phần thân Cộng. Bắt giữ Giám mục Sieltz của Hội truyền giáo hải ngoại Pháp, định bỏ tù ông ta nhưng Vatican can thiệp kịp thời.

Ra lệnh cho sở kiểm duyệt phải kiểm soát những thư từ đến Vatican, mở những văn kiện của Toà thánh thông báo việc Đức Cha Hiền được thăng chức, làm phó bản những văn kiện ấy, giữ lại một thời gian trong khi Giám mục Ngô Đình Thục bay sang Rome để xin Giáo hoàng thay đổi quyết định.

Dù vậy nhiều Giám mục, nhiều linh mục Việt nam cũng đã biết được việc Giáo Hoàng thăng chức cho Đức Cha Hiền nên đã rao giảng cho các lớp đạo, còn Đức Cha Hiền thì lên tiếng buộc tội ông Diệm đáng phải bị dứt phép thông công.

Tuy nhiên như nhiều người vào thời đó đều biết rằng Đức Cha Hiền chỉ giữ chức vụ Tổng Giám mục Sài gòn được vài tháng rồi bị thuyên chuyển lên Đà Lạt sống âm thầm để gặm nhắm mối tình đời bạc đen cho đến khi Ngài tạ thế. Còn các Linh mục thân cận với Đức Cha như cha Oanh, cha Thiêng, cha Của đều bị anh em ông Diệm vu khống đủ thứ tội, có vị bị đưa ra toà án (Cha Của hiện nay là một Giám mục sống tại Hoa kỳ).

Trình bày về gia đình họ Ngô, George Menant (trong tuần báo Paris Match ngày 23-11-1963) đã viết: Nền gia dình trị của nhà Ngô như hậu quả đã cho thấy là chính quyền thì Ngô Đình Diệm, cảnh sát công an thì Ngô Đình Nhu còn vợ ông ta thì tham nhũng áp phe, ngoại giao thì Ngô Đình Luyện, buôn lậu lúa gạo thì Ngô Đình Cẩn. Lãnh vực tôn giáo thuộc về Ngô Đình Thục, một nhà tu hành mà làm chủ vô số đất đai, và tư dinh ông ta thì có bố trí súng phòng không. Nhưng cái mũ Hồng y chưa phải là tham vọng cuối cùng của ông ta mà phải là "ngôi vị Giáo Hoàng"- phải là một Giáo Hoàng không thể kém hơn.

Theo truyền thống của Vatican muốn chọn một Giáo Hoàng cầm đầu Giáo hội La mã thì Hồng y được bầu lên phải xuất thân từ các quốc gia mà người công giáo phải là đại đa số. Cũng vì vậy mà chính quyền ông Diệm đã cho phát hành những bản thống kê nói rằng tại Việt nam có 70% dân số theo Thiên chúa giáo, 20% theo đạo Phật và 10% thuộc các đạo linh tinh khác. Đáng lẽ những bản thống kê như thế vẫn tiếp tục công bố nếu không có phái đoàn đại diện Toà thánh đến Việt nam nhận thấy rằng cờ Phật giáo tung bay khắp nơi, con số 70% là Phật tử chứ không phải là giáo dân. Ông Diệm giận lắm nên mới có lệnh cấm treo cờ Phật giáo với bộ máy đàn áp không lay chuyển nổi đưa đến việc tự thiêu công khai và đầy xúc động của các nhà sư...

Trang 240

Những sự kiện trên đây không chỉ làm nổi bật lòng dạ tham-sân-si vô độ của anh em nhà Ngô mà còn cho thấy họ luôn luôn là hạng người gian trá, phản phúc. Mỗi lần hễ quyền lợi cá nhân của họ không được thoả mãn là họ có chủ trương phản bội ngay dù kẻ bị phản bội là một vị Giáo Hoàng. Họ đã phản bội nhà Nguyễn, cựu hoàng Bảo Đại, người Pháp, sau này họ phản bội người Mỹ, phản bội quân dân miền Nam, và cả ân nhân, bằng hữu, đồng chí, thuộc cấp đã từng ủng hộ hoặc phục vụ cho họ.

Thời kỳ hành đạo ở Tây ban nha, Ngô Đình Thục đã hai lần "phản loạn" để tranh chức Giáo Hoàng, bị Toà thánh trừng phạt nặng nề càng cho thấy bản chất phản bội vốn đã nằm sâu thẳm trong tâm, can, tì, phế của anh em nhà Ngô rồi. Một con người, một Tổng giám mục như thế mà trong cuốn sách "Làm thế nào giết một Tổng thống" ông Cao Thế Dung đã ca ngợi là đạo đức, là không dính vào chính trị!

Tuy Ngô Đình Thục là một thứ sâu mọt ghê tởm rồi thế mà chủ trương tham nhũng của Ngô Đình Nhu lại còn ghê tởm hơn, còn làm hại cho đất nước khủng khiếp hơn.

@@@

Tương Đỗ Mậu là một công thần của Ngô triều từ vị trí của người sát cánh với ông Diệm đã viết về chế độ gia đình trị như thế.

(i)/- CHÚ THÍCH TRONG CHÚ THÍCH.

Tướng Đỗ Mậu không trực tiếp tham gia vào chiến dịch khủng bố Đạo Cao Đài. Ông đọc các báo cáo và ghi nhận lại. Nếu báo cáo trung thực thì ông Mậu đúng nếu không trung thực thì ông Mậu bị sai theo.

Đoạn viết sau đây của ông về cuộc khủng bố ngày 10-5-1955:

Nhưng kể từ ngày 5 tháng 10 năm 1955, khi anh em ông Diệm mua chuộc được tướng Cao Đài Nguyễn Thành Phương rồi một mặt cho tấn công vào Toà thánh Cao Đài Tây Ninh tước khí giới 300 hộ vệ quân của Phạm Công Tắc, (i)

@@@

Đoạn trên có 02 điều sai:

i.1/- ... kể từ ngày 5 tháng 10 năm 1955, khi anh em ông Diệm mua chuộc được tướng Cao Đài Nguyễn Thành Phương...

Đoạn nầy sai vì từ ngày 02-5-1955 Đức Hộ Pháp ký Thánh Lịnh Quốc Gia hóa Quân Đội Cao Đài thì Tướng Phương đã lĩnh lương của ông Diệm từ đó.

Ngày 05-10-1955 (05 tháng sau) Ngô Đình Diệm ra lịnh cho Tướng Phương và Tướng Tất khủng bố Đạo Cao Đài.

i.2/- ... cho tấn công vào Toà thánh Cao Đài Tây Ninh tước khí giới 300 hộ vệ quân của Phạm Công Tắc,...

Việc nầy Ông Phương báo cáo láo và ông Mậu là nạn nhân.

Theo Văn Tịch Pháp Nhơn Luân Chi Đạo của Ngài Hồ Bảo Đạo tại trang 59 thì sự việc như sau:

...Đang ở Trí Huệ Cung hay đặng tin nầy Đức Hộ Pháp cấp tốc trở về Hộ Pháp Đường kêu bọn cận vệ hầu Đức Hộ Pháp đem nạp hết võ khí cho Đức Hộ Pháp. Chưa hay biết gì nên bọn cận vệ vâng lịnh đem nạp hết võ khí cho Đức Hộ Pháp.

Độ 01 (một) tiếng đồng hồ sau thì hai Tướng Phương và Tất kêu quan về bao vây Hộ Pháp Đường. Bọn cận vệ nổi nóng muốn chống lại nhưng tay không đành phải thúc thủ.

Thì ra Đức Hộ Pháp đoán trước nếu Tướng Phương bạo hành thì sẽ có cuộc xô xát đổ máu giữa bọn cận vệ và bộ hạ của Tướng Phương có thể làm cớ cho chánh quyền Ngô Đình Diệm cho quân vào chiếm đóng Tòa Thánh luôn với danh nghĩa là giữ an ninh trật tự trong nội bộ của Cao Đài.

@@@

Tướng Phương tước khí giới cận vệ quân là lấy vũ khí trên tay cận vệ quân hay buộc cận vệ quân phải giao nộp vũ khí. Đàng nầy chính Đức Hộ Pháp thu hồi vũ khí của cận vệ quân trước đó rồi Tướng Phương mới tới thì làm sao gọi là Tướng Phương tước khí giới???

Ngài Hồ Bảo Đạo là người có mặt tại chổ nên đáng tin hơn.

Phụ thân tôi (là công quả và Bảo Thể) có mặt trong Nội Ô Tòa Thánh khi đó. Người kể lại rằng Đức Hộ Pháp biết trước nên ra lịnh cận vệ nộp vũ khí vừa xong thì Tướng Phương đem quân về vây Hộ Pháp Đường... Chú Tôi là một quân nhân Cao Đài (khi quốc gia hóa thì giải ngũ) cũng kể lại việc Đức Hộ Pháp thâu hồi vũ khí xong thì Tướng Phương kéo quân tới...Song đó là chỉ là lời kể mãi đến khi đọc Văn Tịch Pháp của Ngài Hồ Bảo Đạo chúng tôi mới rõ.

@@@

Việc đọc báo cáo hay các thông tin để tạo nên Hồi ký hay tác phẩm biên khảo dĩ nhiên là cần thiết nhưng vẫn có độ rủi ro của nó. Tướng Đỗ Mậu đã bị rủi ro khi đọc báo cáo về vụ tước khí giới trên đây. Ông cũng gặp rủi khi viết về việc Quốc Trưởng Bảo Đại bắt ông Diệm thề.

CHƯƠNG 4: Những ngày cuối cùng của Thực dân Pháp.

Trang 44.

Ngày 16 tháng 6 năm 1954, sau một buổi tiếp kiến với Ngoại trưởng Foster Dulles, Quốc trưởng Bảo Đại ký sắc lệnh 38/QT bổ nhiệm ông Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng. Sau khi ông Diệm tuyên bố chấp nhận, Bảo Đại bèn kéo ông vào một gian phòng kế cận trong lâu đài Thorence, nơi Bảo Đại trú ngụ tại Cannes, chỉ bức thánh giá rồi bắt ông thề: “Chúa của ông đó, ông hãy thề sẽ bảo toàn lãnh thổ quốc gia mà người ta sẽ giao phó cho ông. Ông sẽ bảo vệ quốc gia chống lại Cộng sản và nếu cần đánh cả người Pháp “.

Ông Diệm suy nghĩ giây lát, nhìn Bảo Đại, rồi quay lại phía thánh giá để thề:

- Tôi xin thề!

Kể lại những sự kiện trên đây, ký giả Karnow viết rằng: “Sau khi bổ nhiệm ông Diệm làm Thủ tướng, Bảo Đại đã tự đào lỗ huyệt chính trị của mình mà không biết".

Những sự kiện về việc ông Ngô Đình Diệm đến bái yết Quốc trưởng Bảo Đại khi nhận chức Thủ tướng còn được Hillaire Du Berrier kể tường tận hơn, đúng như cựu Bộ trưởng Phan Huy Quát và ông Tôn Thất Cẩn đã kể cho tôi nghe:

Ngô Đình Diệm sau khi từ giã Hoa kỳ năm 1953, về Bỉ rồi đến Pháp và không thể tránh được con đường dẫn tới ngôi lâu đài 12 phòng tại Cannes. Lúc ấy vào tháng 6 năm 1954, một người thấp nhỏ, kỳ dị, lạnh lùng, thiếu nét vui tươi đứng trước một vị cựu hoàng mà vẫn tâu là "Bẩm Hoàng Thượng", mặc dù vị cựu hoàng đó lúc bấy giờ chính thức mang danh hiệu là Quốc trưởng.

Bảo Đại biết rõ con người đó tính tình bất thường hay thay đổi khi thì bẽn lẽn rụt rè nhưng đôi khi lại nóng nảy cục cằn, thứ người lì lợm khắc khổ vì những năm tháng cô đơn thiếu tình người, Bảo Đại biết con người đó cao ngạo và ngoan cố. Nếu để chọn lựa một vị Thủ tướng trong giờ phút tổ quốc lâm nguy để phục vụ hữu hiệu cho quốc gia thì Ngô Đình Diệm mà Bảo Đại sẽ phải chỉ định làm Thủ tướng chỉ là con người được chọn lựa sau chót, nhưng Bảo Đại không còn có lựa chọn nào khác hơn.

Quì xuống trước Bảo Đại, Ngô Đình Diệm thề trung thành với vị hoàng đế của ông ta. Đã trải qua biết bao thăng trầm cay đắng, Bảo Đại chấp nhận mọi việc chỉ là thường tình, Bảo Đại cố quên những buổi hội thảo, đầy sóng gió tại Hồng Kông năm năm về trước, Bảo Đại biết rằng con người trước mặt ông ta không bao giờ quên thù hận nhưng Bảo Đại vẫn làm phần vụ của ông ta chỉ định Ngô Đình Diệm làm thủ tướng với toàn quyền thành lập chính phủ. Lời nói cuối cùng của Bảo Đại là: "Ông hãy hợp nhất các giáo phái vào cộng đồng quốc gia, thống nhất phần đất nước còn lại của chúng ta".

Bà Nam Phương Hoàng hậu, cũng là một tín đồ Thiên chúa giáo như ông Diệm, đã khẩn khoản yêu cầu ông Diệm hãy cứu vãn và tạo thế lực cho nhà Nguyễn để giúp đỡ cho Bảo Long, con trai bà. Bảo Đại ký cho ông Diệm cái ngân phiếu một triệu đồng bạc để tổ chức những cuộc biểu tình "tự phát" (spontaneous demonstration) hầu làm xúc động người Mỹ và tạo hào hứng cho dân chúng Việt Nam. Diệm bỏ ngân phiếu vào túi rồi cảm ơn và tâu: "Bẩm Hoàng Thượng nếu khi nào Ngài thấy tôi có lỗi, Ngài chỉ nói một lời là tôi từ chức ngay".

Ngày 26 tháng 6 năm 1954, Diệm vào tuổi 54 trở về Việt nam để chấp thánh và từ đây thì trách nhiệm về phần người Mỹ.

@@@

Người mà Tướng Đỗ Mậu viết là một người thấp nhỏ, và Bẩm Hoàng Thượng trên đây chính là Đức Hộ Pháp (ông Diệm cũng Bẩm Hoàng Thượng đó thôi). Trong Ván Bài Lật Ngữa Trần Bạch Đằng cũng viết dáng người của Đức Hộ Pháp như thế.

Còn như kỳ dị, lạnh lùng, thiếu nét vui tươi là nhận định chủ quan của từng người.

Và chính Đức Hộ Pháp kể lại lời thề của họ Ngô như chúng tôi trình bày tại mục b trên đây. Đi sâu hơn nữa có thể nghĩ rằng Tướng Mậu không dè đó là Đức Hộ Pháp nên văn phong đoạn nầy kém tôn trọng Đức Hộ Pháp so với những đoạn khác trong Hồi Ký.

@@@

Trong trách nhiệm biên niên khi cần làm rõ một vấn đề gì chúng tôi phải tham khảo nhiều nguồn (kể cả lời kể của những người sống trong giai đoạn đó). Các vị có khi chưa thấy được toàn cuộc song đó là những chi tiết để đối chiếu với những văn bút. Từ nhiều nguồn dù sao cũng có lợi hơn là một nguồn. Khi các nguồn có sự sai biệt chúng tôi thiễn nghĩ cần trình bày rõ để quí bạn đọc kiểm tra xem nguồn nào khả tín.

Thời đại internet cho chúng ta nhiều nguồn phong phú do vậy chúng ta có điều kiện để nhìn vấn đề qua nhiều góc cạnh. Qua đó chúng ta thấy rõ sự tiên liệu của Đức Hộ Pháp về nhiều phương diện.

@@@