Nguyên do lập chi phái là như thế.
Hôm nay Qua cầu xin mấy em khi hiểu rõ căn do nguy
hiểm ấy rồi thì mấy em không nên phân phe chia phái, tránh làm tai hại cho kẻ
nghịch Đạo lợi dụng mấy em hại lại Đạo. Phải tìm phương thống nhất cả khối đức
tin của mấy em nơi Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu cùng các Đấng Thiêng Liêng thì Đạo
mới đặng bền vững, bằng chẳng vậy, nếu mấy em còn chia rẽ nhau tức là mấy em tự
mình diệt Đạo.
…..
Chính
mình phải tự hiểu lấy mình rằng: Đứng trước một kẻ thù nghịch của mình đủ quyền
năng, đủ thế lực mưu hại lại mình mà dám vỗ ngực xưng tên rằng mình là kẻ thù
địch của họ... thì họ tìm phương hại lại mình là đúng, còn than thở trách móc
mà làm gì.
Dầu rằng mình biết
lẽ ấy; nên đã đề xướng ra thuyết: QUI TAM GIÁO, HIỆP NGŨ CHI đặng làm cho dịu
bớt tình thế. Nhưng cũng không đủ phương bào chữa. Và cũng vì nơi đó mà chính
Qua đủ đức tin chịu nổi khổ hạnh đặng tranh đấu vượt qua các trở lực.
HỘ PHÁP ĐƯỜNG. VĂN PHÒNG. SỒ: 13/HP.HN |
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ
PHỔ ĐỘ. (Tam Thập Tam Niên). Tòa Thánh Tây Ninh. |
HỘ PHÁP
Chưởng Quản Nhị
Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng
Gởi
cho:
.
Chư Chức Sắc Thiên Phong.
.
Chư Chức Việc.
.
Và Tín Hữu Nam Nữ Đạo Cao Đài tại Bắc Tông Đạo.
Mấy
em,
Qua
tưởng mấy em đã hay tin Qua phải lìa Tòa Thánh lên cư trú tại Nam Vang đã trót
hơn hai năm nay. Qua tưởng cũng nên cần cho mấy em biết lý do mà Qua phải bỏ
Tòa Thánh đến cư ngụ nơi nước người, chịu đủ mọi điều cam khổ. Còn tại Tòa
Thánh Hội Thánh và cả Tín Đồ ở Thánh Địa đều bị cường quyền Ngô Đình Diệm áp
bức và làm khổ mọi điều. Dầu cho sở hành vô nhân Đạo đến đâu chúng cũng không
từ nan để làm khổ cho Đạo. Của cải tư của Qua đều bị chúng chiếm đoạt, nào sưu
cao, thuế nặng... chúng toan phương phá sự trọn vẹn của Đạo và con cái Đức Chí
Tôn.
Qua
cho mấy em biết rằng: kể từ hội nghị Genève Qua đã đặng Quốc Trưởng Bảo Đại đề
cử lập một phái đoàn đi quan sát hội nghị thì chính mình Qua làm chủ phái đoàn
ấy.
Khi
Qua hay tin quả quyết rằng nước Pháp và Việt Minh định phân chia nước nhà làm
hai lãnh thổ thì Qua đã thấy rõ nước nhà sẽ mang một tai họa lớn vì chia đôi
dân tộc, có thể đến nạn cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt.
Nên
một đêm nọ Qua có đến tại tư dinh của phái đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hội
đàm cùng Thủ Tướng Phạm Văn Đồng để tính toán cho 2 chánh phủ hiệp đồng cùng
nhau thống nhất lập thành chánh phủ duy nhất. Đừng để cho hội nghị quốc tế thỏa
ước chia đôi lãnh thổ.(1)
Lúc
ấy mới thắng trận Điện Biên Phủ nên chánh phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ỷ
thắng. Nhứt định không ký kết với chánh phủ miền Nam mà họ bảo rằng “bù nhìn”,
lại từ khước luôn không cho phái đoàn của họ ký vào hiệp định của Hội Nghị.
Nên
chánh phủ Cộng Hòa Miền Nam mới có thể từ khước không thi hành Hiệp Định và cho
rằng họ không bị trói buộc vào đó. Họ lại dựa vào sức mạnh của Mỹ mà lập riêng
một chánh phủ có Quốc Hội, chịu ảnh hưởng quyền năng của Ngô Đình Diệm. Ngô
Đình Diệm đắc thế khi dùng phương pháp dối gian truất phế Bảo Đại lên nắm quyền
Tổng Thống. Họ đã gọi mình rằng đủ pháp luật do cuộc trưng cầu dân ý để làm
chúa cả Miền Nam dưới chánh thể Cộng Hòa mà tự họ đã tạo dựng. (2)
Tình
trạng đã ra như thế, thử hỏi lỗi tại nơi ai?
Hôm
nay Qua cũng chưa trả lời điều ấy đặng.
Nhưng
Qua chỉ hiểu rõ rằng: Đối với Đạo thì chia 2 dân tộc tức là chia Đạo, thì
tấn tuồng của Pháp đối cùng Đạo lúc mới phôi thai lại tái diễn một phen nữa.
Qua
nên nói rõ cho mấy em biết rằng:
Pháp
thấy anh Cả (là Đức Quyền Giáo Tông) chúng ta làm Thượng Nghị Viện của chánh
phủ Pháp ở Đông Dương. Người thay mặt cho cả quốc dân tại Miền Nam, thì Pháp đã
ghê sợ quyền hành tinh thần của Người về dĩ vãng đối với chánh phủ Pháp.
Anh
Cả từ trước đến ngày đó nghịch hẳn lại chính hướng của Pháp. Pháp muốn giữ nền
thống trị toàn cõi Đông Dương, nên chính Anh Cả là người trở thành chướng ngại
nhứt cho Pháp.
Dĩ
vãng của Người lúc đó là Hội Đồng Thuộc Địa (Conseiller Colonial) do dân đề cử
đã đối đầu với việc Thống Đốc Cognac tính sấp hạng lại điền thổ đặng định tăng
thuế. Nên Anh và các đồng chí của Người đứng ra đương đầu phản đối Cognac. Việc
phản đối tăng thuế không thành công Người và các đồng chí từ chức.
Khi
tái công cử Hội Đồng mới thì toàn thể quốc dân tại Miền Nam lại đồng lòng công
cử họ lại lần thứ nhì. Duy bỏ ra ngoài có một vị là Nguyễn Lân Hoài, Hội Đồng
của Tỉnh Bến Tre, vì ông ấy có tính chần chờ không cương quyết.
Khi
đặng tái đắc cử Anh Cả vận động thế nào không biết, mà làm cho các đồng chí của
Anh kiên quyết lên; kịch liệt phản đối làm cho vụ tăng thuế điền địa phải bãi
bỏ, không còn thành vấn đề nữa.
Bởi
cuộc tranh đấu đó mà Pháp cho Anh là một người nguy hiểm đối với lập trường của
chúng nơi Đông Dương. Nên họ để tâm nghi kỵ.
Anh Cả không phải là người tín nhiệm của Pháp nữa.
Khi
mới mở Đạo thì mấy anh lớn đều do nơi trường quan lại của Pháp trong hàng Phủ
và Đốc Phủ mà họ đang cầm quyền Chủ Quận hay là Phó Chủ Tỉnh. Vì cớ mà Pháp đã
ra lịnh cho mấy anh ấy phải từ khước, không được hiệp tác cùng Anh Lê Văn Trung
là tay nghịch hẳn cùng Pháp đã rõ ràng bằng cớ.
Pháp
lại hứa cùng mấy anh lớn ấy rằng: Họ muốn theo Đạo Cao Đài thì tự do lập chi
phái rồi họ sẽ được bảo vệ đặc biệt của Pháp. Còn theo Anh Lê Văn Trung thì họ
sẽ bị khủng bố không cho họ làm quan lại của Pháp nữa.
Điều
ấy mấy anh lớn cũng không phải đủ sợ, vì công danh quyền lợi của mình mà nhảy
ra thành chi phái. Nhưng tới khi Pháp hâm rằng: Sẽ khủng bố đến con cái của họ
đương du học tại Pháp, tiền cấp học bổng sẽ bị thu lại và không cho cha mẹ có
phương thế gởi tiền sang nữa đặng tiếp tục sự học hành. Điều đó làm cho họ kinh
khủng hơn hết.
Thật
ra thì cả con cái của mấy anh đang du học tại Pháp và tương lai của chúng rất
nên sáng lạng sẽ bị đổ vỡ vì sự trả thù của Pháp. Bởi cớ cho nên họ lén trở về
hội đàm cùng Anh Quyền Giáo Tông liệu phương gở rối.
Buổi
họp ấy có mặt Qua và chính mình Qua khuyên họ nên nghe lời Pháp lập chi phái
dưới quyền bảo hộ của họ, miễn là Đạo đặng truyền bá là đủ.
Nguyên do lập chi phái là như thế.
Hôm nay Qua cầu xin mấy em khi hiểu
rõ căn do nguy hiểm ấy rồi thì mấy em không nên phân phe chia phái, tránh làm
tai hại cho kẻ nghịch Đạo lợi dụng mấy em hại lại Đạo. Phải tìm phương thống
nhất cả khối đức tin của mấy em nơi Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu cùng các Đấng
Thiêng Liêng thì Đạo mới đặng bền vững, bằng chẳng vậy, nếu mấy em còn chia rẽ
nhau tức là mấy em tự mình diệt Đạo.
Nếu
mấy em nhứt tâm nhứt đức như buổi ban sơ thì thân thể của Qua không ra đến nông
nổi nầy. Mấy em phải nhớ rõ rằng Ngô Đình Diệm là Công Giáo. Rồi mấy em so sánh
hai lẽ mạnh yếu của đôi đàng thì mấy em tự hiểu rằng chính qua hôm nay bị áp
bức và Đạo bị tàn phá là do nhiều cớ chớ không có chi lạ. Qua cho mấy em hiểu
rằng, chẳng phải toàn thể Công Giáo là người như Diệm. Song số đông rất ít tình
cảm với Đạo Cao Đài, nên chúng ta rất ít có người binh vực.
Tình
trạng khắc khe của Qua.
Nếu
Qua an nhàn nơi Tòa Thánh. Qua sẽ bị chánh quyền Ngô Đình Diệm chi phối triệt
để hoặc nghịch lại với Miền Bắc đặng nghịch lại với mấy em cùng đồng bào máu mũ
của Qua, thì cái hại phân chia Đạo buổi trước của Pháp đã tái diễn không thể
tránh khỏi.
Còn
như Qua theo các em ra Miền Bắc thì phải từ chối Tòa Thánh và cả đôi triệu tín
đồ của Đạo, gây thêm thống khổ cho Hội Thánh vì nạn áp bức của chánh quyền Ngô
Đình Diệm.
Nên
Qua coi sự lưu vong của Qua nơi đất Miên là lưỡng toàn kỳ mỹ hay là
thượng sách vì khỏi lệ thuộc ai. Dầu rằng lưu trú nơi nước ngoài Qua phải
chịu muôn điều cam khổ, chánh quyền không từ khước một mâu thuẫn nào mà không
truy tố.
Chúng
đã mướn Nguyễn Thành Phương và mua đứt sự phản Đạo của Nó với số tiền là ba
chục triệu đồng (30.000.000$) đặng Nó trở lại bôi nhọ cho Qua tức là bôi nhọ
Đạo. Juda bán Chúa Jesus Christ với ba chục ngươn bạc, còn Nguyễn Thành Phương
bán Qua tới 30 triệu. Qua có thể tự cao cho rằng, giá trị của Qua hơi
mắc hơn của Chúa Jesus chút đỉnh. Ấy là điều Qua an ủi tâm hồn, Qua tưởng
mấy em cũng thế.
Mấy
em ở xa Tòa Thánh mấy em có biết chăng, giờ phút nầy có bao nhiêu Chức Sắc
Thiên Phong đã bị mua chuộc với công danh quyền lợi đặng phản lại chính sách
Hòa Bình Chung Sống của Qua đề xướng ra để cầu sự sống còn của mấy em và toàn
đồng chủng của họ.
Lịch
sử và tương lai sẽ làm cho họ thấy rõ điều ấy. Đạo phải đi đôi cùng lịch sử.
Qua phải sợ lịch sử mà đương đầu cùng thời cuộc chớ Qua không biết sợ người.
Đã
70 năm sống trong vòng lệ thuộc, (3) nếm đủ mùi mặn lạc. Sự thay đổi đương
nhiên của Ngô Đình Diệm so sánh với muôn ngàn mùi thú vị của Qua đã hưởng từ
trước, nó chua cay đắng mặn chỉ một phần mười. Vậy thì không lý do gì làm cho
Qua phải sợ Ngô Đình Diệm mà buộc mình đủ can đảm đứng ra nghịch cùng lịch sử
và nghịch cùng Đạo.
Tên
tuổi của đời mình cũng như tên tuổi của ai, không phải nơi thế gian nầy có tên
Tắc là đặc biệt. Biết đâu còn muôn muôn ngàn tên Tắc khác nữa. Tên Tắc cũng như
tên Mít, Xoài, Ổi kia vậy chớ chẳng chi rằng phân biệt. Nếu nó đặng nêu tên
tuổi là do trong kiếp sống nó không bị đồng sanh chửi bới, nguyền rũa và liệt
vào hàng thất đức, bất nhơn, lưu xú vạn niên.
Cho nên Qua tưởng rằng nếu sống mà để lại danh nhơ thì tốt hơn là đừng
sanh ra nơi cõi thế nầy.
Con
đường về Nam và về Tòa Thánh của Qua thì Qua cho mấy em biết trước: Ngày giờ
nào đồng bào ở Bắc bị chúng buộc phải di cư vào Nam đang chịu cô quạnh, khổ sở
và áp bức mọi điều; cũng như thanh niên Miền Nam tập kết ra Bắc không đặng phép
hồi hương về nơi chôn nhau cắt rốn của họ; cả hai chưa được trọn quyền sở hữu
tự do định mạng của họ thì Qua lưu vong nơi nước người chớ không hồi cố.
Qua
rất may mắn thấy nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, có mãy may tình cảm cùng Qua
đối cùng chánh sách độc tài cưỡng bức của Ngô Đình Diệm cũng cho là sự an ủi
đáng kể trong buổi lưu vong của Qua.
Qua
đã đặng thơ mời của Mặt Trận Tổ Quốc ra Hà Nội. Song Qua đương bịnh hoạn, nên
Qua định gởi phái đoàn đi. Nhưng sự xuất ngoại của xứ Cao Miên chưa đặng ổn
thỏa nên còn đình đãi. Qua nhớ mấy em lắm, Qua muốn phái đoàn do chính Qua điều
khiển.
Qua
bị mang danh là thân Cộng do Ngô Đình Diệm lên án.
Diệm
mưu định đem ra giữa Quốc Hội đặng nghị quyết để Cộng Sản ra ngoài luật pháp.
Chánh phủ ngụy quyền Ngô Đình Diệm kèm Đạo Cao Đài vào đó đặng thẳng tay trừng
trị. Như chúng đã lên án và đày đọa không biết bao nhiêu người cùng chủng tộc
bằng danh từ Cộng Sản.
Từ
khi Qua xuất ngoại, chúng đã lên án rằng Qua thân Cộng đặng chiếm đoạt cả nhà
cửa, đất đai, vườn tược của Đạo lẫn của Qua cũng vì danh từ thân Cộng. Qua
chỉ buồn cười có một điều là ngụy quyền Diệm giống ngụy quyền Pháp trong khi
thống trị. Nên đối với Qua cũng chẳng lạ gì sự giống nhau như thế đó.
Mấy
em có biết chăng? Khi nước Pháp đã lên án Cao Đài là phục cựu, cốt là nói Đạo
Cao Đài sản xuất ra để giải ách lệ thuộc của Việt Nam khỏi tay thống trị Pháp.
Pháp lại gài cho ta phục hồi Nho Giáo là nền văn minh đã cầm vận mệnh của thiên
hạ để đổ tội cho Đạo Cao Đài gánh chịu.
Sự
thật có thế nào? Trước kia Tổ Phụ ta không dung nạp văn minh Công Giáo và cố
gắng phục cựu đặng gìn nền quốc Đạo của mình là Đạo Nho của Khổng Tử. Nên khi
Công Giáo lén lúc tuyên truyền trong nước đặng thu hút tín ngưỡng của khối nhân
dân Việt Nam biến nên một khối việt gian của họ.
Các
nhà vua Việt Nam như Minh Mạng và Tự Đức đã hiểu rõ tiền đồ của các nước bên Âu
Châu, nhứt là mấy ngai vàng đã bị phản ứng của Công Giáo mà tiêu diệt như thế
nào, nên mới cấm Đạo và bắt Đạo.
Hại
thay trong lúc hổn độn ấy, triều đình đã đi quá mức thiên lương qui định. Nên họ
đã chém giết, tù đày một phần quốc dân vì tinh thần tín ngưỡng. Vì quá khốn khổ
họ phải tìm phương giải thoát là họ mượn tay Pháp đem binh chiếm cứ Việt Nam.
Họ hứa hẹn rằng, nếu quân đội Pháp đến họ sẽ làm nội ứng phụ sức... điều
nầy lịch sử đã nói rõ.
Thật
ra Công Giáo nhờ Pháp giải thoát, vì Pháp đã chiếm cứ trọn vẹn nước Việt Nam
làm thuộc địa. Công Giáo trở nên đặng trọng dụng. Trong thời Pháp thuộc thì
Pháp trọng dụng, binh vực quyền lợi của Công Giáo làm mục tiêu chánh của họ.
Công Giáo thừa thời thế muốn chi đặng nấy, nên chiếm cứ nhiều nơi làm Thánh địa
hay là làm Nhà Chung đặng chứa chấp người nghịch cùng triều đình.
Vì
thế mà hai bên nghịch lẫn nhau sanh ra nổi loạn. Triều đình không nhịn rồi đi
đến quá quyền là cấm Đạo, bắt bớ, tù đày. Bởi cớ cho nên Pháp mới thừa nguyên
do ấy mà chinh phục Việt Nam đặng giải phóng Công Giáo. Thành thử nước Việt Nam
đã bị lệ thuộc hơn 80 năm là vì Nam Triều đã phạm đến tự do tín ngưỡng của Công
Giáo. Điều ấy là điều nguy hiểm cho xã hội không nên thi thố.
Từ
trước đến giờ bao nhiêu quốc gia Âu Châu đã bị mất nước; cho dầu với lý do
chánh đáng thế nào đi nữa thì cũng là do phạm đến quyền tự do tín ngưỡng nên bị
mất nước. Đó là nguyên do tạo dựng nên quyền lớn lao của Công Giáo. Những điều
nầy Qua đã nói trong bức thư Phúc Sự của Qua gởi cho chánh phủ Pháp năm 1937
khi chánh phủ Pháp hỏi Qua đường lối tương lai của Pháp đối với Việt Nam thế
nào.
Qua
tiếc rằng khi Qua đi khỏi Tòa Thánh Qua không có đem theo một bổn để gởi cho
mấy em xem tường tận. Qua chỉ xin Pháp cho Việt Nam hưởng đặc quyền tự trị. Qua
đã chỉ cho họ ngó thấy rằng đường lối chánh trị của họ sẽ thúc dục cho toàn dân
Việt Nam làm cách mạng. Qua nói vắn tắc như thế nầy: “Hễ một con người mà
thất chí bất mãn vì quá thống khổ thì họ tự vận, còn toàn thể quốc dân của một
nước mà thất chí bất mãn vì quá thống khổ thì họ sẽ làm cách mạng”. (4)
Qua
không dè rằng, sự thật hôm nay đã chỉ rõ cho thiên hạ thấy sự quả nhiên như
thế. Công Giáo buổi nọ vì chánh quyền phạm đến tự do tín ngưỡng của họ, áp bức
bắt Đạo, giết chóc làm cho họ quá thống khổ nên họ mở ra cuộc cách mạng đặng tự
giải thoát cho họ. Mà cũng vì cớ đó, nước Việt Nam bị lệ thuộc trên 80 năm bởi
tay ngoại chủng.
Khi
nói rằng Đạo Cao Đài phục cựu. Đạo Cao Đài xuất hiện ra đặng trả thù Công Giáo
và giải ách lệ thuộc của Pháp... thì mấy em nghĩ coi làm thế nào Pháp không tìm
phương diệt Đạo Cao Đài từ lúc mới nãy sinh trong trứng.
Qua
thú thật với mấy em, trí phàm của Qua buổi nọ cũng tưởng như thế, khi Đức Chí
Tôn mở Đạo. Nên Qua cố can đảm phế đời hành Đạo, chẳng kể công danh quyền lợi,
nhà cửa vợ con theo Đạo Cao Đài cũng vì tư tưởng đó. Mấy em nghĩ lại coi, khuôn
khổ lễ giáo của Đạo Cao Đài quả nhiên rằng khuôn khổ truyền thống của Đạo Nho
từ trước do tổ tiên ta để lại rõ ràng trước mắt.
Đại
Từ Phụ, lại chỉ dạy rõ rằng: Đạo Cao Đài là Nho Tông chuyển thế, nên nói rõ Đạo
Cao Đài là Quốc Đạo của ta thì hiển nhiên mình đã cố tâm khai trước thiên hạ
rằng mình muốn phục cựu, rõ ràng còn chối cãi với ai đặng nữa. Vì vậy mà Pháp
mưu toan tiêu diệt mình là đúng lý.
Qua
muốn cho mấy em hiểu rõ nên Qua nói dài dòng xin mấy em thứ lỗi. Qua xin kết
luận rằng:
Đạo
Cao Đài nãy sinh ra giữa sự thù địch của thiên hạ về công lý và về tín ngưỡng.
Qua nói rằng Đạo Cao Đài là một nền Đạo hoàn toàn do tinh thần của nòi giống
Việt Nam mà xuất hiện. Nó thiệt quả nhiên là Quốc Đạo của ta.
Ta
cũng biết như thế, nhưng ta không dám nói rõ. Duy chỉ có mạng lịnh của Đại Từ
Phụ biểu là tuyên bố cho toàn thể hoàn cầu đều biết. Nên chúng ta không phương
dấu diếm. Chính mình phải tự hiểu lấy mình rằng: Đứng trước một kẻ thù
nghịch của mình đủ quyền năng, đủ thế lực mưu hại lại mình mà dám vỗ ngực xưng
tên rằng mình là kẻ thù địch của họ... thì họ tìm phương hại lại mình là đúng,
còn than thở trách móc mà làm gì.
Dầu
rằng mình biết lẽ ấy; nên đã đề xướng ra thuyết: QUI TAM GIÁO, HIỆP NGŨ CHI
đặng làm cho dịu bớt tình thế. Nhưng cũng không đủ phương bào chữa. Và cũng vì
nơi đó mà chính Qua đủ đức tin chịu nổi khổ hạnh đặng tranh đấu vượt qua các
trở lực. (5).
Qua
nói thiệt với mấy em rằng: Phận sự của Qua chỉ biết có làm Đạo chớ Qua không
biết quốc sự hay chánh trị chi hết. Tôn chỉ của Đạo Cao Đài là Từ Bi, Bác Ái.
Mà trước khi thực hiện đặng chơn lý cao thượng ấy thì phải cố gắng làm thế nào
cho tiêu diệt cả sự bất công của xã hội, đem lại Bác Ái và Công Bình cho toàn
nhơn loại. Đúng theo Tân Luật của Đức Chí Tôn đã đem gieo tại thế (Amcur et
furstice). Đức Chí Tôn đã nói: “Ngày
giờ nào hay bất cứ nơi nào, nơi mặt xã hội còn lẽ bất công thì Đạo Cao Đài chưa
thành lập”.
Qua
muốn cho toàn thể quốc dân Việt Nam ta hưởng trước, hưởng cho kỳ đặng triết lý
ấy để đủ sức phổ thông, gieo truyền cho toàn thiên hạ. Ta phải cố gắng phụng sự
cho nước nhà và cho chủng tộc ta trước đã; rồi sau Qua còn sống đặng ngày nào
Qua cũng tiếp tục cho toàn thiên hạ.
Chánh
quyền Ngô Đình Diệm cho Qua là thân Cộng mà Qua không biết triết lý của Cộng
Sản thế nào, có giống như thế chăng?
Nếu
quả nhiên giống như thế thì Qua dám can đảm khai cho thiên hạ biết rằng: Lời vu
cáo của Ngô Đình Diệm là đúng sự thật.
Nếu
mấy em đủ trí thức, đủ nghị lực làm đồng chí của Qua thì chúng ta nói thiệt
rằng: Làm Tín Đồ của Đạo Cao Đài, chúng ta phải đủ tinh thần và nghị lực đặng
thiệt hiện triết lý ấy nơi mặt thế nầy. Như vậy mấy em sẽ trở thành những đứa
con yêu dấu của Đức Đại Từ Phụ và là bạn thân của Qua.
Bất
kỳ quốc gia nào hiện hữu nơi mặt thế nầy đều phải do dân tâm mà xuất hiện. Từ
cổ chí kim, dầu cho thời đại nào, hễ là một nước tức nhiên phải có chánh quyền.
Thoảng như không có thì phải loạn lạc.
Dục
vọng của con người bao giờ cũng muốn mình hơn thiên hạ. Từ người sĩ phu cho đến
nhà bác học đều có ảo vọng làm chúa thiên hạ nên coi mình là hơn, không khiêm
nhường, không đoái hoài đến kẻ khác. Dầu luận với một dân tộc thiểu số: Mường,
Mán, Mọi (Tribus)... khuôn luật ấy vẫn y nhau. Muốn có người lệ thuộc, muốn con
người làm tôi mọi cho chúng, rồi mặc tình sanh sát, chẳng kể đến mạng người là
trọng.
Lẽ
bất công của xã hội từ trước đến giờ làm cho thiên hạ đảo điên cũng vì duyên cớ
ấy. Khi toàn thể quốc dân chịu nhiều thống khổ bất bình thì đứng lên lật đổ
chánh quyền của kẻ mạnh đặng binh vực kẻ yếu.
Nếu
chánh trị họ khéo léo, họ lấy lòng dân làm hàn thử biểu để đo lường tâm lý mà
tùng theo thì còn bền giữ đặng chủ quyền của họ. Trái lại nếu họ dùng võ lực mà
đàn áp thì toàn dân đủ quyền tranh đấu quyết liệt biến nên rối loạn, giặc giả,
chiến tranh... làm cho những kẻ cố cùng tăng thêm phần thống khổ.
Thoảng
như trong lúc tranh đấu giữa dân và chánh phủ mà có người đứng ra đảm đương
việc trị loạn đem lại thái bình; thì đó là món thuốc cứu sống toàn dân trong
cơn loạn lạc. Tức nhiên kẻ ấy trở thành người làm chúa xã hội. Cho dù là dân
tộc thiểu số Mường Máng cũng cùng khuôn luật ấy.
Rồi
trong cơn thắng thế họ đặt ra khuôn khổ luật pháp buộc toàn dân phải tuân theo.
Dầu người thay mặt họ là ông quan hay triều đình cũng có đủ thẩm quyền trị an
thiên hạ.
Hại
một điều là khi người chúa ấy đã ra đời thì quyền hành nó tự nhiên giảm bớt,
không còn tồn tại y như trước vì thiếu sự tín nhiệm của toàn dân. Thêm nổi
chánh sách truyền tử trái với thuyết thiên hạ vi công làm cho chinh tâm thiên
hạ là vì thế.
Đế
Nghiêu hiểu rõ cái hại của chánh sách truyền tử mới sửa cải lại thành chánh thể
truyền hiền. Đế Nghiêu nhường ngôi cho Đế Thuấn cầm quyền trị bình thiên hạ.
Thiên hạ đã xưng tụng đời Nghiêu Thuấn là Thánh Chúa. Họ được hưởng thái bình
và hạnh phúc do đó mà đời hằng truyền tụng.
Truyền
tử là một khuyết điểm của đế quyền. Do truyền tử mà di hại cho thiên hạ, tạo ra
nhiều lẽ bất công trong xã hội; nên hôm nay đã bị toàn dân đạp đổ.
Mấy
em xem lại tại mặt thế nầy tồn tại đặng bao nhiêu quốc gia còn chịu dưới quyền
của Đế Quyền?
.
Bây giờ ta luận về dân trị.
Trong
chánh thể dân trị ta hiểu rõ rằng bất kỳ một quốc gia nào hay xã hội nào cũng
phải do nơi sự tín nhiệm của dân mới thành một chánh thể.
Còn
luận về dân chủ dưới phương pháp đầu phiếu đặng tuyển chọn kẻ cầm quyền, chúng
ta sẽ thấy khuyết điểm chỗ nào?
Ta
biết rằng, dục vọng của con người phải có phương pháp mới đè nén được. Bởi dục
vọng ấy có thể giục loạn cả xã hội một cách dễ dàng. Với phương pháp đầu phiếu
để tuyển chọn kẻ cầm quyền thì có đặng thỏa mãn cả lòng dân hay chăng? Ta không
luận nơi đây về các phép đầu phiếu. Ta thấy đa số kẻ được tuyển chọn không vừa
lòng dân hay nói rõ ra là dân bị mưu gạt của những kẻ xão trá mưu mô, gian lận,
hứa hẹn mọi điều sở vọng của toàn dân rồi rốt cuộc không giữ lời hứa.
Chánh
thể của Pháp hôm nay đã biến sanh rối rắm trong nền dân chủ của họ. Đảng phái
phân tranh gây nên xã hội quốc gia nghiêng ngữa. Chủ quyền của Pháp đã trở nên
bấp bênh không còn gây đặng ảnh hưởng trong trường quốc tế. Vì lẽ người đại
diện của dân không trung thành, không coi quyền lợi quốc gia và xã hội của mình
là trọng hệ mà chỉ tìm phương bảo vệ quyền lợi cá nhân của mình mà thôi.
Mấy
em nghĩ coi, nhiều đảng phái đối diện cùng nhau mà chánh sách quốc gia của họ
đều khác hẳn với nhau thì làm thế nào hòa nhau cho đặng?
Luận
về đầu phiếu tuyển cử của họ; chưa chắc rằng toàn dân tín nhiệm họ. Theo luật
tuyển cử thì trong số đông ứng cử viên ra ứng cử dân chỉ chọn một số mà thôi.
Với phương pháp như thế mà gọi rằng toàn dân tín nhiệm là chưa đáng. Theo luật
tuyển cử thì những tay đắc cử ấy có thể chỉ cần hơn một lá thăm là đắc cử. Như
vậy mà nói là toàn quốc dân đều tín nhiệm có đúng hay chăng? Nói cho đúng là
chỉ có được một phần người tín nhiệm mà thôi.
Với
phương pháp như thế mà gọi rằng toàn dân tín nhiệm là phi lý. Nếu dân không
phản đối là sợ chánh quyền của họ mà kỳ trung chỉ một phần dân trong nước tín
nhiệm mà thôi chớ chẳng phải trọn vẹn. Vậy biểu sao họ không kết thù lập đảng?
Họ phải tạo nên đảng phái riêng của họ đặng làm hậu thuẫn, hầu bảo vệ chí
nguyện của họ. Tấn tuồng chủ quyền của Pháp hôm nay chỉ rõ điều đó. Nên toàn
dân Pháp chưa bao giờ thỏa mãn những người đã cầm vận mệnh nước nhà của họ.
Qua
nói rõ rằng, với chánh quyền mà do nơi dân đầu phiếu như vậy để tạo thành chẳng
hề có công bình chơn thật đặng. Mấy em xét kỷ lại trong lời dẫn giải của Qua sẽ
thấy rõ khuôn khổ chánh thể của Miền Nam và Bắc xem chánh thể nào đúng? Cho nên
sự đòi hỏi của quốc dân còn đang tiếp tục vì toàn thể còn chưa thỏa mãn.
Ai
đã đặt Ngô Đình Diệm lên cầm vận mạng Miền Nam nước Việt Nam ta?
Ngô
Đình Diệm cầm được chánh quyền Miền Nam là do trên 10 năm ly loạn; quốc dân quá
thống khổ nên muốn người cầm vận mạng nước nhà cho đủ tín nhiệm. Trong khi quốc
dân đã thất chí với chánh quyền Bảo Đại. Dòng họ Ngô và bè đảng của họ thừa dịp
toàn dân oán ghét hết tín nhiệm nơi Bảo Đại; trong sự bất tín nhiệm ấy đã thúc
đẩy họ Ngô biến thành trưng cầu dân ý để Ngô Đình Diệm lên cầm quyền Quốc
Trưởng thay thế Bảo Đại.
Mà
kỳ trung quốc dân đã trả lời rằng: Chúng tôi tín nhiệm Ngô Đình Diệm hơn Bảo
Đại chớ không có nói Ngô Đình Diệm thế cho Bảo Đại hay chăng?
Sự
lường gạt về tâm lý ấy là một mánh khóe đại gian hùng của phép phổ thông đấu
phiếu. Nên nghiễm nhiên Ngô Đình Diệm đã lật đổ chủ quyền Quốc Trưởng của Bảo
Đại luôn về ngai vàng và dòng họ Nguyễn cũng vì cuộc đầu phiếu ấy. Quốc dân
biết đặng sự xão trá đó. Nhưng không phương minh biện ra đặng và Ngô Đình Diệm
đã gán rằng: Quyền hành đó là do dân giao phó cho mình nhưng sự thật không phải
vậy.
Hôm
nay Ngô Đình Diệm đã trở nên độc tài thì trước mặt quốc dân họ Ngô đã làm sai
với sự phú thác: TRỪ PHONG DIỆT THỰC.
Trừ
phong diệt thực, là hai điều thiết yếu của dân mong muốn.
Còn
chủ quyền Ngô Đình Diệm là do phương thức xảo trá và gian lận chớ không có sự
thật.
Qua
đã nói với mấy em là nền Đạo Cao Đài và Tòa Thánh đã bị chủ quyền độc tài của
Ngô Đình Diệm chiếm cứ và khủng bố. Đến đổi Chức Sắc Thiên Phong hôm nay cũng
dưới quyền lệ thuộc của Diệm. Sự lệ thuộc của chức sắc vào quyền hành của Diệm
ngày nay đã rõ hơn khi trước.
Vì
Ngô Đình Diệm tưởng rằng toàn thể quốc dân Việt Nam để quyền độc lập trong tay
của người, nên muốn làm chi đặng nấy. Khám đường của Diệm đã chật nức tù
nhân. Những khuôn luật cũ kỷ trước kia đều không chịu sửa đổi. Dân bị khổ não
nghèo nàn, sưu cao thuế nặng. Các đảng phái đối lập với Ngô Đình Diệm đều bị
tiêu diệt hết, không có công bình tự do chi cả. Toàn thể quốc dân Việt Nam đều
bị lệ thuộc họ Ngô, như Ngô Đình Diệm đã bị lệ thuộc vào Mỹ.
Ảnh
hưởng của Diệm đã tràn tới quốc gia Cao Miên là nơi của Qua trú ngụ. Qua đến
kinh đô Khmer Qua chỉ thấy sự khổ não của toàn Đạo nơi đây sống như chùm gởi
sống bám vậy. Dầu khổ nhọc vất vã nhưng Qua cũng cố gắng tạo cơ nghiệp cho họ,
nên làm nhà chung, gom họ lại trong đại gia đình Thiêng Liêng. Qua muốn tạo Báo
Ân Đường làm nơi hội cho đại gia đình. Nên đem thợ hiến thân tại Tòa Thánh lên
đặng xây dựng, với quyền điều khiển của Tổng Giám Võ Văn Khuê.
Đại
diện của Ngô Đình Diệm là Ngô Trọng Hiếu đã đầu cáo với chánh phủ Khmer rằng
Qua làm quốc sự và mượn cớ cất chùa đặng đem nha trảo hộ vệ của Qua lên. Đền
Thờ đã cất đặng hai phần thì chánh quyền Khmer không cho tiếp tục xây dựng. Họ
bắt 37 người công thợ trả về Việt Nam cho Ngô Đình Diệm giam ngục đến ngày nay
cũng chưa thả, và cho rằng mấy em công thợ đã theo Qua đặng làm chánh trị.
Ngô
Đình Diệm đã quả quyết lên án rằng: Qua đã xu hướng theo Cộng Sản và Cụ Hồ Chí
Minh nên không ngần ngại khủng bố một cách trắng trợn Qua và một số Chức Sắc
đang hành Đạo tại Kim Biên.
Họ
đã cố tình dụ dỗ những kẻ theo Qua để cô lập và phản loạn lại Qua. Điều ấy Qua
không ngần ngại, vì khi lìa Tòa Thánh Qua đã biết trước mưu toan gian ác phá
Đạo của họ. Qua chỉ cám cảnh một điều là trong hàng Chức Sắc ấy có cha mẹ chết
cũng không dám về Miền Nam. Còn các tín đồ Khmer nếu mà về Nam thì bị họ tra
khảo, khủng bố khổ khắc mọi điều, làm cho toàn con cái của Đạo không dám léo
hánh về Nam, cũng tự đồ lưu mình ở nơi quê người như thân Qua đây vậy.
Em
Giáo Hữu Hương Dự! Qua nghe tin rằng Em cầu xin Hội Thánh thăng phẩm cho mấy em
cho xứng vị với quyền Khâm Trấn Đạo của Em. Qua xin Em hãy ẩn nhẫn đợi cho qua
ngày Đạo khỏi bị khảo dượt và Hội Thánh trở lại cầm quyền đủ đầy pháp luật rồi
Qua sẽ cầu xin thăng thưởng cho Em. Muốn có kẻ giúp tay cho việc hành Đạo đắc
lực Qua xin Em tuyển chọn người chân thành, trọn tâm vì Đạo và Phúc sự cho Qua
ban quyền cho họ đủ phương hành Đạo.
Bức
thơ của Qua đây, Em nên truyền tống cho Chi Phái và truyền đọc trong mỗi kỳ đàn
cho tới ngày Qua về Tòa Thánh. Em cho toàn Đạo đều hiểu biết sự đi của Qua và
sự đồ lưu của Qua nơi ngoại quốc là do duyên cớ gì. Mấy em cũng nên nói rõ cùng
người cầm quyền chánh phủ Bắc Việt biết rằng Qua đi khỏi Tòa Thánh là vì quốc
gia chủng tộc đương lâm nguy nên qua đi tìm phương giải kiết.
Qua
đã viết rất dài bức thơ, Qua cậy Em nói cùng cả tín đồ không phân Tòa Thánh hay
Chi Phái rằng: Qua ban ân lành cho họ và cầu xin Đại Từ Phụ, Đại Từ Mẫu và các
Đấng Thiêng Liêng ban bố hồng ân cho họ đức tin, đủ nghị lực hầu đủ phương bảo
vệ Đạo.
Qua
cũng cầu xin mấy em mỗi kỳ đàn cúng cầu nguyện cho Tòa Thánh và toàn Đạo
nơi ấy đặng quyền Thiêng Liêng bảo vệ, giải ách lệ thuộc của Đạo nơi đó kẻo tội
nghiệp.
Kim Biên, ngày 12 tháng 3 năm Mậu Tuất
(dl.29-4-1958)
Hộ Pháp.
PHẠM CÔNG TẮC.
(Ấn Ký).
CHÚ
THÍCH:
(1)/- Đức Hộ Pháp đi Paris và Gevène.
Theo
Âu Du Ký của Ngài Hồ Bảo Đạo.
PARIS.
Ngày
18 tháng 4 năm Giáp-Ngọ (20-Mai-1954): lúc 07 giờ 15 Đức Hộ Pháp và phái đoàn
khởi hành từ VĂN PHÒNG 107 Trần-Hưng-Đạo (nay là Thánh Thất 891 Trần Hưng
Đạo) đi sang Paris cố vấn cho Quốc Trưởng Bảo Đại trong Hội Nghị Gevène về Việt
Nam.
Qua ngày sau:
20g15
Các
phóng-viên báo-chí, nhất là nhóm thợ săn ảnh chen-chúc nhau đón chụp ảnh ĐỨC
HỘ-PHÁP và phỏng vấn ĐỨC NGÀI. Về đến phòng, có người theo xin thâu thanh những
lời tuyên bố, thì ĐỨC HỘ-PHÁP phú cho Ô. Ngô Khai- Minh thay mặt đọc một bài
cho họ thâu-thanh. Từ đây tôi xin lấy giờ bên Âu-Châu cho dễ, nếu chúng ta muốn
tính giờ đối chiếu với giờ Saigòn, thì cứ tính giờ Saigon sớm hơn
CUỘC DU-HÀNH SANG
GENÈVE.
Ngày 28 tháng 5 năm Giáp-Ngọ
(28-Juin-1954):
Ngày 01 tháng 6 năm Giáp-Ngọ (30-Juin
1954):
Sáng ngày chúng
tôi hội nhau báo-cáo công-việc cho ĐỨC NGÀI hay. Bữa nay trời mưa, lạnh hơn mọi
bữa, hàn thử-biểu xuống 14 độ nên buổi sáng chẳng có đi đâu.
... Tôi có ngỏ ý
than với phái-đoàn Việt-Minh rằng "Hội-Nghị Génève lập thành cốt-yếu để
giải quyết vấn-đề Việt-Nam hiện nay. Tại Hội-Nghị Génève có hai phái-đoàn của
Dân-Chủ Cộng-Hòa và Phái-Đoàn của Chánh-Phủ Quốc-Gia cũng là Việt-Nam, thay vì
hai phái-đoàn ấy tương-thân tương-ái với nhau để bàn-tính để tìm phương đem lại
hòa-bình hạnh-phúc cho dân-tộc thì trái-lại hai bên phái-đoàn chẳng bên nào
chịu nhìn-nhận nhau và coi nhau như thù-địch. Công-việc là công-việc của
Việt-Nam mà đem cho chú ba-tàu là Chu-Ân-Lai và một chú Tây là Mandès France
phân-định, hỏi vậy có thương-tưởng gì mình hay không và công-việc của họ sắp
đặt có vừa lòng mình không?"
Phái-đoàn
Việt-Minh trả lời rằng: "Phái-đoàn của Chánh-Phủ Quốc-Gia chẳng có
tượng-trưng hay đại-diện cho một thực-lực nào tất cả nên dầu có thảo-luận với
họ cũng như không. Chớ như phái-đoàn Cao-Đài đây, tuy không phải một Chánh-Phủ,
nhưng đại-diện cho một đoàn thể có thực-lực hơn mấy triệu tín-đồ và mấy chục
ngàn binh-sĩ nên Chánh-phủ Cộng-Hòa Dân-Chủ luôn sẵn-sàng tiếp-đoán và
thảo-luận các vấn-đề cần-yếu".
Chất-vấn về vấn-đề
chia xẻ nước Việt
Vì cớ nên (theo
phái-đoàn Việt-Minh) thì việc đình-chiến và phân-ranh cho Quân-Đội đôi bên đóng
binh không phải là chia nước Việt
....Chúng tôi xin
bản kiến-nghị này về đọc kỷ và xem xét lại rồi bữa khác sẽ thảo-luận. Anh em
đồng-ý. Chúng tôi cáo-từ và được đưa về gần chỗ trọ (hotel Régina). Đến đây là
1 giờ sáng.
Ngày 2 tháng 6 năm Giáp-Ngọ (01-Juillet
1954):
Trời mưa sáng và
bên ngoài vẫn lạnh lối 14 độ, chúng tôi (Ông Phước “Bảo-Thế” và Thái) lấy bản
kiến-nghị ra xem lại, không thấy đoạn nào quá-khích, nhưng Ô. Thái vẫn
hoài-nghi. Trong lúc chúng tôi đang bàn-tán thì Ông Trần-Tuyên cũng vừa đến nên
hiệp với chúng tôi để thảo-luận và sau khi bàn-cãi xong mới đưa qua phòng ĐỨC
HỘ-PHÁP để trình-bày cho ĐỨC NGÀI nghe.
ĐỨC NGÀI chỉ nghe
sơ qua vì bận phải đi viếng phái-đoàn Quốc-Gia Việt Nam tại Hotel Bellevue nên
hứa chiều sẽ xem kỷ lại.
6 giờ Chúng tôi
đem các khoản trong bản kiến-nghị, của phái-đoàn Việt-Minh đã đưa ra Hội-Nghị
Génève, để trình lên ĐỨC HỘ-PHÁP. ĐỨC NGÀI tu-chỉnh các khoản như sau:
Khoản thứ nhứt: Hai bên, tức là
Chánh-Phủ Quốc-Gia Việt
Khoản thứ hai: Quân-đội Pháp
phải rút hết ra khỏi xứ Việt-Nam. Hai Chánh-Phủ phải thỏa-hiệp nhau và định chỗ
cho quân-đội Pháp đình-trú trước khi rút ra khỏi xứ Việt
Khoản thứ ba: Trong cuộc tổng
tuyển-cử dân chúng phải được tự-do đầu-phiếu, và cuộc tổng tuyển-cử phải đặt
dưới quyền kiểm-soát của Liên-Hiệp-Quốc, các ủy-ban Địa-phương có phân-sự coi
sóc tổ-chức Tổng Tuyển-Cử, phải là những ủy-ban hổn-hợp gồm có đại-diện của
Chánh-Phủ mỗi vùng.
Khoản thứ tư: Về vấn-đề Liên
Hiệp-Pháp thì hai Chánh-Phủ hai vùng phải hiệp nhau để xem xét lại, bản
hiệp-ước của Pháp đã ký-kết với chánh-phủ Việt-Nam.
Khoản thứ năm: Xin sửa câu: 'Tuy
vậy, ở những vùng mà sự giao-thông và mậu-dịch cắt đứt thì hai bên sẽ
thương-lượng thỏa-thuận để khôi-phục lại' như sau: 'Thì hai Chánh-Phủ Quốc-Gia
với Chánh-Phủ Dân-Chủ Cộng-Hòa sẽ thương-lượng thỏa-thuận để khôi-phục lại,
không cần có người Pháp nhúng tay vào việc nội-bộ của nước Việt Nam.
Khoản thứ sáu: Về việc không
trừng-phạt và khủng-bố những người đã hợp-tác với đối-phương thì hai Chánh-Phủ
hai vùng phải long-trọng tuyên-bố, chịu hết trách-nhiệm.
Khoản thứ bảy : Đồng ý việc
trao-đổi tù-binh.
Khoản thứ tám : Về việc ngưng bắn
xin chia ra ba khu:
* Bắc giao cho
Chánh-Phủ Dân-Chủ Cộng-Hòa.
* Một khu ở giữa
trung-lập dưới quyền kiểm-soát của Quốc-tế.
* Về việc
nhập-cảng quân-đội ngoại-quốc, quân-nhu, võ-khí v.v... việc này sẽ đặt dưới
quyền kiểm-soát của Ủy-ban hổn-hợp gồm có đại-biểu của Chánh-Phủ Dân-Chủ
Cộng-Hòa, Chánh-Phủ Quốc-Gia Việt Nam và đại biểu của Liên-Hiệp-Quốc.
* Về việc cấm Pháp
và Mỹ can-thiệp vào việc của Việt Nam, thì lẽ tất-nhiên Trung-Cộng và Liên-Sô
cùng tất cả, bất cứ nước (Ngoại-quốc) nào cũng không được nhúng tay vào nội-bộ
Việt Nam.
Các khoản xem-xét
và chấp-thuận xong, ĐỨC HỘ-PHÁP lại còn dặn thêm: Vào ngày mai, gặp phái-đoàn
Việt-Minh, thì phải nhấn mạnh hai Chánh-Phủ phải thừa-nhận nhau mới mong đem
lại Hòa-Bình.
Ngày 5 tháng 6 năm Giáp-Ngọ (Demanche 4
Juillet 1954):
Sáng ngày tôi và
Ông Bảo-Thế hội nhau đi xem lại bức thơ và trình cho ĐỨC NGÀI xem, ĐỨC NGÀI có
tu-chỉnh lại vài chỗ trước khi chúng tôi gởi cho phái-đoàn Việt-Minh.
Bức thư đó như
vầy:
Kính gởi Ông
Tổng-Trưởng Phan-Anh và Quí Ông Nhân-Viên
Phái-Đoàn Chánh-Phủ Việt
Kính quí Ông,
Nghĩ vì muốn mưu
cầu hòa-bình và hạnh-phúc cho dân-tộc Việt Nam đã chín năm thống-khổ, chúng tôi
không ngần-ngại đến đây gây cuộc tiếp xúc với quí Ông đặng cùng nhau áp-dụng
những phương-pháp thực-tế để chấm dứt chiến-tranh.
Trong những cuộc
tiếp xúc vừa qua, chúng tôi nhận thức thiện-chí của quí Ông, cũng như quí Ông
nhận thức thiện chí của chúng tôi, làm cho chúng tôi đều được hài lòng, chúng
tôi hân-hạnh để lời cám ơn quí Ông.
Có một điều
thắc-mắc là dầu muốn dầu không trong xứ Việt
Trong cuộc lật-đổ
chánh-quyền Pháp-thuộc, ta đã hi-sinh xương máu bởi nạn tương-tàn tương-sát
nhiều hơn là sự hi-sinh chiến-tranh với Pháp nên mới biến hình một phần tranh
đấu võ-lực và một phần tranh-đấu chánh-trị. Nếu không khéo tính, thời-cuộc sẽ
đưa đẩy ta đến một cảnh-tượng như Triều-Tiên buổi nọ.
Thãm-khổ cho
dân-tộc Việt
Lẽ dĩ-nhiên theo
ý-kiến của ĐỨC HỘ-PHÁP thì hai bên phải được đồng danh, đồng đẳng, đồng ý, đồng
tình thảo-luận những biện-pháp cụ-thể để chấm-dứt chiến-tranh.
Thiết-tưởng việc
nội-bộ của Việt
Trong cuộc
tranh-đấu giải-ách lệ thuộc nước nhà thâu quyền độc-lập thì về mặt kháng-chiến
cũng như mặt thương-thuyết thâu-hoạch một thắng-lợi vẽ-vang cao-trọng đối cùng
quốc-tế. Hội-nghị Génève đã chứng-thật điều ấy, nếu ta biết tự-trọng, tự quyền,
tự mình định-liệu mạng-vận tương-lai thì giá-trị ấy mới về ta toại-hưởng, còn
như trái lại để có kẻ ngoại-nhơn nhúng tay vào đó, thì tự nơi ta đã tỏ thái-độ
trước mặt quốc-tế rằng ta còn tinh-thần lệ-thuộc.
Vì lẽ Đạo, vì
tiền-đồ Tổ-Quốc giống-nòi, chớ không vì công danh, vì quyền-lợi hay là vì ai
nên chúng tôi đứng ra đảm-nhận mối dây liên-kết này xin quí Ông để tâm
xét-đoán.
Nay kính.
Bức thư viết xong,
được Ông Bảo-Thế ký tên gởi cho phái-đoàn Việt-Minh và sau khi ĐỨC NGÀI
chuẩn-phê.
@@@
Ngày 06 tháng 6 năm Giáp-Ngọ (05 Juillet
1954):
2 g trưa Ông
Trần-Thanh-Hà cho biết rằng tại Génève không có nhà hàng nào có thể làm nơi
gặp-gỡ thuận-tiện, nên nhơn-danh phái-đoàn Việt-Minh thỉnh ĐỨC HỘ-PHÁP đến tại
trụ-sở của họ tại Versoix như mấy kỳ trước. Ông Trần-Thanh-Hà yêu-cầu tôi bạch
với ĐỨC HỘ-PHÁP xin cho phép Ông ra mắt ĐỨC NGÀI để tỏ bày câu chuyện. ĐỨC NGÀI
chấp-thuận mời Ông Trần-Thanh-Hà.
Ông Trần-Thanh-Hà
thỉnh ĐỨC HỘ-PHÁP đến tại trụ-sở Versoix. ĐỨC HỘ-PHÁP nhận lời nhưng từ khước
việc đãi cơm, Ông hứa sẽ đem xe đến rước.
X g 30 chiều
Tổng-Thư-Ký của Ông Dejean mời ĐỨC NGÀI đến viếng phái-đoàn Pháp tại Génève.
X g 30 chiều Ông
Tổng-Trưởng Nguyễn-Đắc-Khê đến viếng ĐỨC HỘ-PHÁP. Ông Khê hứa lo công-việc
tiếp-xúc với phái-đoàn Pháp.
6g 30 chiều ĐỨC
NGÀI đi xe song mã đến nhà hàng La Perle du Lac để hứng mát và dùng bữa. Xe đi
tốn 5 francs Suisse, nhằm 430 francs Francais. Khi dùng cơm nửa chừng, có cậu
Nguyễn An Mỹ đến, rồi Ông Hà cũng đến chờ chúng tôi.
9 g tối Trời mưa,
bên ngoài lạnh thấu xương, chúng tôi lên xe đi liền. Vì đông nên anh em
Việt-Minh đem tới hai xe để rước chúng tôi, đến trụ-sở Versoix trời đã tối. Ông
Phạm Văn Đồng và trọn phái-đoàn không nệ trời mưa đón ĐỨC HỘ-PHÁP tại sân vào
phòng khách.
ĐỨC HỘ-PHÁP và Ông
Phạm Văn Đồng ngồi chung một cái ghế dài lớn ngó mặt ngay vô bức chân dung cụ
Hồ Chí Minh, Ông Phan Anh ngồi phía mặt ĐỨC HỘ-PHÁP và bên cạnh ĐỨC NGÀI Ông
Bảo-Thế phía trái kế Ông Phạm Văn Đồng. Sau lưng Ông Phan-Anh có Ông
Việt-Phương lấy tốc-ký. Ngồi vòng quanh và đối-diện với chỗ ghế ĐỨC HỘ-PHÁP và
Ông Phạm-Văn-Đồng có cậu Nguyễn-An-Mỹ (ngồi gần Ông Việt-Phương), Ông
Trần-Thanh-Hà, Ông Trung-Tá Thái, Ông Trần-Công-Tường và Tôi. ĐỨC HỘ-PHÁP bắt
đầu câu-chuyện hỏi phái-đoàn Việt-Minh có liên-đới gì về việc thừa-nhận
Chánh-Phủ Quốc-Gia không? thì Ông Phạm-Văn-Đồng vui-vẻ trả lời rằng theo điều
thứ ba trong bản kiến-nghị có nói về việc triệu-tập hội-nghị hiệp-thương gồm
đại-biểu chánh-phủ hai bên ở Việt
ĐỨC HỘ-PHÁP day
qua trách chúng tôi sao lại nói với ĐỨC NGÀI rằng anh em bên phái-đoàn
Việt-Minh không thừa-nhận chánh-phủ Quốc-Gia. Thiếu chút nữa làm sai-lạc hết
ý-nghĩa. Ông Bảo-Thế xin phép ĐỨC NGÀI cho hỏi Ông Phan-Anh, có phải hôm nọ Ông
không có lúc nào chịu thừa-nhận chánh-phủ Quốc-Gia một cách rõ-rệt? Ông
Phan-Anh vẫn làm thinh mà cười thôi. Tôi thấy vậy hiểu ngay rằng hôm nọ Ông
Phan-Anh không dám tự mình thừa-nhận Chánh-Phủ Việt-Nam, vì Ông không phải là
Trưởng Phái-Đoàn, lại nữa việc ấy bất ngờ Ông không kịp hỏi ý-kiến của Ông
Phạm-Văn-Đồng là Trưởng Phái-Đoàn, thành-thử Ông chỉ giữ một thái-độ úp-mở mà
thôi, nghĩa là không thừa-nhận mà cũng không bài-bác. Nhận thấy cuộc hội-đàm có
phần xoay-chiều nên tôi để lời cám ơn Ông Phạm-Văn-Đồng có thiện-ý dung-hòa,
nhưng xin cho Ông biết rằng trong sở-hành của Chánh-Phủ, lắm khi không đúng như
lời nói, bằng cớ là tại hội-nghị trung giá phái-đoàn Việt-Minh không nhìn nhận
cho phái-đoàn chánh-phủ Quốc-Gia đi với cây cờ của họ.
Ông Phạm-Văn-Đồng
xây qua nói với ĐỨC HỘ-PHÁP như vầy: 'ĐỨC HỘ-PHÁP thử nghĩ coi biểu tôi phải
nhìn nhận Ngô-Đình-Diệm . . . thì làm sao đặng, vì họ không có đại-diện cho một
thực-lực, cho một ai hết, chớ như Đạo Cao-Đài đây, có một thực-lực hơn mấy
triệu tín-đồ và một quân-đội mấy chục ngàn người, thì chúng tôi sẵn-sàng tiếp
đón và thảo-luận tất cả mọi vấn-đề'.
Chất-vấn về vấn-đề
chia đôi cương-thổ thì Ông Phạm-Văn-Đồng cho biết rằng: giới-hạn cốt-yếu là để
đình-chiến rồi sẽ tổ-chức cuộc tổng tuyển-cử để lập thành chánh-phủ thống-nhứt
cho toàn lãnh-thổ Việt Nam, chớ không phải chia rẻ, và đề-cập nơi tám khoản
trong bản kiến-nghị đã đưa ra hội-nghị Génève để lập lại hòa-bình trong nước.
Thừa dịp đó Tôi cho Ông Phạm-Văn-Đồng biết trình-độ dân-tộc Việt Nam chưa dung
nạp trước thuyết cộng-sản và một số đông người vì sợ cộng-sản, không về ở với
chế-độ ấy được, nhưng không đủ sức chống lại thành ra buộc mình phải nương-dựa
vào một thế-lực khác, dầu Pháp hay Mỹ cũng vậy. Muốn cho họ đừng chạy theo
người khác thì chẵng nên buộc tội họ là Việt-gian hay phản-quốc mà chỉ nên làm
cách nào cho họ hết sợ mới đặng.
Ông Phạm-Văn-Đồng
cười và nói rằng: 'họ đã sợ mà còn có người hù nữa' và day qua ĐỨC
HỘ-PHÁP, hỏi ĐỨC NGÀI bị ai hù có sợ hay không?
ĐỨC NGÀI nói rằng:
'nếu tôi sợ thì tôi không có đến đây'. Chúng tôi có nhắc cho Anh em Việt-Minh
biết rằng cái công kháng-chiến của họ, quốc-dân không quên, nhưng họ phải làm thế nào cho cuộc
giải-phóng dân-tộc cho trọn vẹn chớ đừng gở ách này rồi mang cái gông khác hay
là đuổi cậu Pháp rồi rước chú Tàu về thì không ăn thua gì và quốc-dân sẽ
phán-đoán việc đó. Anh em Việt-Minh nói rằng họ biết việc đó và
không để xảy ra đâu.
Chuyện-vãn đến 11
giờ, Ông Phạm-Văn-Đồng mời ĐỨC HỘ-PHÁP và đoàn tùy-tùng sang phòng bên cạnh
dùng cháo chay và đồ ngọt.
Khi sửa-soạn ra về tôi nói với Ông
Phạm-Văn-Đồng rằng: 'Cuộc gặp-gỡ hôm nay có tư-cách chánh-trị, nhưng thật ra có
phần thân-mật rất nhiều vì giữa ĐỨC HỘ-PHÁP và Ông Phạm-Văn-Đồng có tình đồng
tông. Luôn dịp ĐỨC HỘ-PHÁP nói tiếp rằng: 'đồng họ Phạm luôn luôn phải trúng
nghe không’.
Ông Đồng cười, ĐỨC
NGÀI còn tiếp: 'Tôi đã có cất rồi một nhà thờ Tông-đường họ Phạm ở Tòa-Thánh,
vậy chừng yên rồi Ông nhớ về đó’.
Ông cười và nói:
'Dạ, chừng đó sẽ về'.
Trước khi ra đi,
Ông Đồng ôm ĐỨC HỘ-PHÁP mà hun hồi lâu rồi mới buông ra. Toàn phái-đoàn đưa
chúng tôi ra tận xe. Về đến phòng hơn 12 giờ đêm, ĐỨC HỘ-PHÁP có vẻ hài lòng về
cuộc gặp-gỡ này.
Ngày 7 tháng 6 năm Giáp-Ngọ (6 Juillet 1954):
Về sau Ông Bảo-Thế
và phái-đoàn Việt
Phái-đoàn Việt-Nam
bất thình lình cũng chào lại làm cho toàn hội đều ngạc-nhiên, vì từ khi mở cuộc
hội-nghị Génève này thì hai phái-đoàn Việt
Sau khi ĐỨC
HỘ-PHÁP về Paris rồi, Ông Trần-Văn-Đỗ, Trưởng phái-đoànViệt Nam cũng được giáp
mặt với Ông Phạm-Văn-Đồng. Sau nữa Cựu Thủ-Tướng Trần-Văn-Hữu qua Génève cũng
xin gặp Phạm-Văn-Đồng một lần nữa.
4 g chiều ĐỨC
HỘ-PHÁP và phái-đoàn ra phi-trường đáp phi-cơ trở về
@@@
(2)/- Về cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955.
Theo quyển HỒI KÝ
ĐỖ MẬU. (sách dày 415 trang in theo khổ giấy A4. Font chữ Times New Roman size
14) tại chương sáu trang 83 và 84 cuộc
trưng cầu dân ý diễn ra RẤT GIAN LẬN. Nguyên văn:
Cuộc Trưng cầu dân ý do chính quyền đương nhiệm của
ông Diệm đứng ra tổ chức và cũng do chính quyền đương nhiệm (dưới hình thức
Quốc hội Lập Hiến) kiểm soát.
Ngày 23 tháng 10 năm 1955, dân chúng miền Nam Việt nam
đến phòng phiếu để chọn lựa giữa Bảo Đại và Ngô Đình Diệm theo hai câu thơ
trước đó đã được bộ máy thông tin của ông Diệm ra rả suốt ngày đêm và xuất hiện
đầy rẫy trên các bờ tướng hè phố:
Phiếu
xanh ta bỏ vô bì,
Phiếu
đỏ Bảo Đại ta thì vất đi.
Kết quả chính thức cuộc Trưng cầu dân ý được đăng vào
công báo là 5.721.735 phiếu xanh có hình ông Diệm (98,2%) và 63.107 phiếu đỏ có
hình Bảo Đại (1,1%). Tại Sài gòn tổng
số cử tri là 450.000 người mà số phiếu bỏ cho ông Diệm lên đến 650.000, nghĩa
là số phiếu gian lận là 200.000. Giữa thủ đô Sài gòn có tai mắt quốc tế
mà còn gian lận trắng trợn đến thế, thử hỏi tại các tỉnh, tại thôn quê thì sự
gian lận đến mức nào?
Buồn cười là sự gian lận này đã bị đại tá CA Lansdale,
cố vấn Mỹ của ông Diệm, đoán trước thế nào cũng sẽ xảy ra nên đã cảnh cáo ông
Diệm. Sau khi giúp ông Diệm đè bẹp được Bình Xuyên rồi, Lansdale khuyên ông
Diệm phải tổ chức "Trưng cầu dân ý" để truất phế Bảo Đại cho có chánh
nghĩa. Trước ngày lên đường về Mỹ để lánh mặt cuộc “Tổng tuyển cử”, Lansdale
còn dặn ông Diệm: "Trong lúc đi vắng, tôi không muốn bỗng nhiên nhận được
tin ông thắng 99.99 phần trăm, vì biết đó là âm mưu sắp đặt trước”. Và ông Diệm
đã vâng lời để chỉ thắng... 98,2 phần trăm?...
Lansdale bảo ông Diệm nên tỏ ra công bằng và chỉ cần
thu lượm được một đa số phiếu tương đối là tốt đẹp rồi, không tham lam quá.
Nhưng với bản chất muốn cho mình cái gì cũng "Nhất" anh em ông Diệm
bèn tổ chức bầu cử gian lận. Khốn nỗi, thiên bất dung gian xui khiến cho
những kẻ tay chân vốn nòi nhạy cảm nhưng lại sơ hở bất lực làm cho việc gian
lận quá lộ liễu xảy ra ngay tại thủ đô Sài gòn để cho ngoại giao đoàn và báo
chí quốc tế biết được.
Nói cho cùng thì
nếu không tổ chức bầu cử gian lận chưa chắn ông Diệm đã đắc thắng vẻ vang. Thật thế, nhìn vào bối cảnh đất nước và mùa thu 1955,
lực lượng nhân dân hướng về ông Bảo Đại vẫn còn vô cùng đông đảo; Cao Đài, Hoà
Hảo, Đại Việt, Việt Quốc, Duy Dân, Nguyễn Phước Tộc, khối người miền Nam không
ưa người Bắc, khối người miền Nam còn nhớ ơn nhà Nguyễn, khối dân tộc thiểu số
của Hoàng Triều Cương Thổ, số người thân Pháp v.v... có thể làm lệch cán cân
"Trưng cầu dân ý". Nhưng quyền lực trong tay, thủ đoạn gian lận và
tiền bạc của Mỹ đã giúp ông Diệm đánh ngã vị cựu Quốc Trưởng của ông một cách
dễ dàng.
Tuy nhiên dù gian lận thì kết quả cuộc đấu phiếu,
riêng đối với ông Diệm, cũng đã giúp ông đạt được hai mục tiêu mà ông đã nhắm
đến là trình diện được một bề mặt dân chủ với chính quyền lẫn Quốc hội Hoa kỳ,
và nâng cao uy thế cá nhân của ông lên đến mức độ tôn sùng như một vị cứu tinh
anh minh của dân tộc.
Riêng đối với dân tộc Việt nam, ngày 23 tháng 10 năm
1955 có một ý nghĩa quan trọng hơn hắn những mục tiêu chính trị giai đoạn của
ông Diệm. Đó là ngày chấm dứt triều đại nhà Nguyễn và chế độ quân chủ tại miền
Nam và trao lại cho ông Diệm quyền quản trị đất nước để chống Mỹ, và quan trọng
hơn cả để xây dựng nên móng cho kỷ nguyên dân chủ sau này. Chính sách và chế
độ ông Diệm 9 năm sau đó có làm cho nền móng đó thui chột và có làm cho Cộng
sản mạnh thêm là tội của ông và gia đình đã phản bội lại niềm tin yêu và
lòng tín nhiệm của nhân dân miền Nam thể hiện trong ngày 23 tháng 10 lịch sử
này.
@@@
Tướng Đỗ Mậu là
một công thần của chế độ Ngô Đình Diệm đã viết như thế. Những nhận xét của
Tướng Đỗ Mậu về khoản nầy rất giống với Đức Hộ Pháp ngay đặc biệt là đoạn: Chính sách và chế độ ông Diệm 9 năm sau
đó có làm cho nền móng đó thui chột và có làm cho Cộng sản mạnh thêm là tội
của ông
Rất giống câu Đức
Hộ Pháp viết:... Qua chưa thấy ai Việt Minh cho bằng Ngô Đình Diệm
***: Trước khi có
cuộc bầu cử nầy Ngô Đình Diệm đã mở chiến dịch khủng bố Đức Hộ Pháp.
Ngày 05-10-1955 (20-8- Ất Mùi)
Ngô Đình Diệm mở chiến dịch khủng bố Đạo Cao Đài. Tướng Nguyễn Thành Phương đem
binh lính bao vây Hộ Pháp Đường.
. Ngày 10-10- 1955
(25-8-Ất Mùi) Hội Thánh họp với Thiếu Tướng Lê Văn Tất là đại diện của Nguyễn
Thành Phương.
. Ngày 23-10-1955
Thủ Tướng Diệm được bầu làm Tổng Thống.
. Ngày 26-10-1955,
chính thể Việt Nam Cộng Hoà được thành lập.
. Ngày 16-02-1956
(05-01- Bính Thân) lúc 3 giờ Đức Hộ Pháp rời Toà Thánh đi Nam Vang.
@@@
(3)/- Về 70 năm
sống trong vòng lệ thuộc....
Rất nhiều lần Đức
Hộ Pháp viết rằng Việt Nam chịu lệ thuộc thực dân Pháp 80 năm vậy cớ sao nơi
đây Ngài viết là 70 năm.
Xem kỷ trong nội
dung 70 năm nếm đủ mùi mặn lạc...
đây là Ngài tính từ ngày cá nhân Phạm Công Tắc chào đời (1890) đến năm 1958 là
69 tuổi ta nên Ngài viết tròn là 70 năm.
Nó cũng giống như
câu: ...Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi...trong
bài thài hiến lễ kỷ niệm lúc triều thiên vậy.
Chúng ta thấy Hộ
Pháp về thiêng liêng vị thì quyền năng còn cao hơn khi còn tại thế (nắm trọn
quyền phong thưởng cho chức sắc Hiệp Thiên Đài và Phước Thiện...) nên chúng tôi
thấy chữ TRIỀU THIÊN là chính đáng hơn cả. Còn những chữ khác như QUI THIÊN,
hay ĐĂNG TIÊN... chưa đúng với quyền năng Đức Ngài sau khi bỏ xác phàm.
@@@
4/-
Tính thời sự trong nhận xét của Đức Hộ Pháp.
“Hễ
một con người mà thất chí bất mãn vì quá thống khổ thì họ tự vận, còn toàn thể
quốc dân của một nước mà thất chí bất mãn vì quá thống khổ thì họ sẽ làm cách
mạng”.
@@@
Ngày
30-4-1975 cộng sản thắng trận và thống nhất đất nước. Một nữa nước liên quan
đến Việt Nam Cộng Hòa khốn khổ nên mấy triệu người bỏ nước ra đi tìm cuộc sống
mới.
Năm
2013 cả nước là con tin của lợi ích nhóm và tham nhũng. Đó là quốc nạn do Đảng
cộng sản tạo ra. Đảng cộng sản đang bức tử cả dân tộc Việt Nam để phục vụ cho
lợi ích của Đảng.
Xưa
Việt Nam Cộng Hòa thất trận vì bị Mỹ bán đứng để đổi lấy quyền lợi kinh tế với
Tàu cộng. Mỹ cắt viện trợ nên ngân sách, các khí tài chiến tranh cạn kiệt phải
thua cộng sản. Thời điểm đó khối cộng sản tăng quân viện cho cộng sản miền Bắc
lên 04 lần. Trong cuộc chiến bằng vũ lực mà tương quan lực lượng quân sự chênh
lệch như vậy thì sự thắng thua là tất yếu. Thêm vào đó là do không có intrenet
nên nhân loại bị bưng bít và bị đánh lừa những thông tin thật sự về cuộc chiến
tranh Việt Nam. Đến khi người Việt Nam bỏ nước ra đi tạo ra làn sóng thuyền
nhân thì nhân dân Mỹ và những người ủng hộ cộng sản bắt đầu biết được sự thật
thì đã muộn màng.
Hoa
kỳ là nước có quyền tự do dân chủ và nền báo chí phát triễn như thế mà sự nhận
định về việc người Mỹ tham dự vào cuộc chiến tranh Việt Nam chưa thống nhất
được... đó là bằng cớ cho việc thông tin bị bưng bít.
Nay
internet là vũ khí hiện đại của TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN & TỰ DO TÔN
GIÁO. Người Việt Nam đã biết mình bị lừa dối và đang chịu nô lệ dưới những mỹ
từ của cộng sản. Người dân đang bị tước đoạt mọi quyền lợi từ nhân quyền đến tự
do tôn giáo. Nhân phẩm người Việt Nam đang bị Đảng chà đạp...
Cuộc
chiến của dân tộc Việt Nam với Đảng cộng sản Việt Nam đang mổi ngày một quyết
liệt. Đây là cuộc chiến của chất xám và lẽ phải. Vũ khí sát thương không còn
đóng vai trò quyết định như cuộc chiến 20 năm nồi da xáo thịt (1954-1975) do
cộng sản tạo ra. Tin về dân oan, về những người bị công an mời rồi chết trong
đồn, về những chiến sĩ cho tự do dân chủ và nhân quyền bị xử lý theo xã hội
đen, những tham quan ô lại, những tư duy ngu ngốc hằng ngày bị phơi bày trước
công luận...
Dân
chúng cả nước Việt Nam đang làm cách mạng. Chính người dân chủ động tạo ra cuộc
chiến. Cuộc chiến nào do người dân tạo ra thì họ luôn luôn thành công.
Ngày
tàn của chủ nghĩa cộng sản đang tới.
Nghĩa
là tính thời sự trong nhận xét của Đức Hộ Pháp còn đó là động lực cho những
người yêu tự do, dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo trên thế gian nầy đấu
tranh cho cuộc sống hòa bình, tự do dân chủ. Tự người dân chiến đấu để LẬP
QUYỀN DÂN.
Người
dân không còn chờ Đảng hay bất cứ ai ban quyền cho dân nữa mà tự LẬP QUYỀN DÂN
thì cái cơ thắng thua đã rõ.
Còn
như quan sát cả thế giới ta thấy cuộc chiến để người dân trong mổi quốc gia LẬP
QUYỀN DÂN đang nở rộ.
Nếu
quyền dân được thiết lập đúng mức thì chánh phủ Hoa Kỳ không bị đóng cửa như
mới xãy ra hồi tháng 10-2013.
@@@
(5)/-
Về Tôn chỉ ĐĐTKPĐ.
Nguyên
văn lời dạy của Đức Hộ Pháp trên đây:
Chính mình phải tự
hiểu lấy mình rằng: Đứng trước một kẻ thù nghịch của mình đủ quyền năng, đủ thế
lực mưu hại lại mình mà dám vỗ ngực xưng tên rằng mình là kẻ thù địch của họ...
thì họ tìm phương hại lại mình là đúng, còn than thở trách móc mà làm gì.
Dầu rằng mình biết
lẽ ấy; nên đã đề xướng ra thuyết: QUI TAM GIÁO, HIỆP NGŨ CHI đặng làm cho dịu
bớt tình thế. Nhưng cũng không đủ phương bào chữa. Và cũng vì nơi đó mà chính
Qua đủ đức tin chịu nổi khổ hạnh đặng tranh đấu vượt qua các trở lực.
@@@
Như
vậy tôn chỉ của ĐĐTKPĐ do chính Đức Chí Tôn đề ra là gì?
TNHT
Q1 dòng 18 tr 69 bản in 1973. Thầy dạy ngày 03-11-1926:
Chư Nhu nghe:
Ta vì lòng đại-từ đại-bi vẫn lấy
đức háo sanh mà dựng nên mối Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ; tôn chỉ để vớt những kẻ hữu phần vào nơi địa-vị cao thượng, để tránh
khỏi số mạng luân hồi và nâng những kẻ tánh đức bước vào cõi nhàn, cao hơn phẩm
hèn khó ở nơi trần thế nầy...
TNHT
Q2 dòng 25 tr 18 bản in 1963. Thầy dạy ngày 03-02-1927:
Chư chúng-sanh nghe:
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, chiếu theo
luật Thiên-Đình hội Tam-giáo, mở rộng mối Đạo Trời, ấy cốt để dìu-dắt nhơn-sanh
bước lên con đường cực-lạc, tránh khỏi đọa luân-hồi và dụng Thánh-tâm mà dẫn
dân-sanh, làm cho hoàn-toàn trách nhậm nặng-nề của đứng làm người, về bực
nhơn-phẩm ở cõi trần-ai khốn-đốn nầy.
@@@
Căn
cứ vào 02 trích đoạn trên chúng ta rút ra được TÔN CHỈ của ĐĐTKPĐ từ Đức Chí
Tôn dạy:
.
Vớt
những kẻ hữu phần vào nơi địa-vị cao thượng, để tránh khỏi số mạng luân hồi. (Bực
Thượng Thừa theo Điều 12 Tân Luật. Phần Đạo Pháp).
.
Nâng những kẻ tánh đức bước vào cõi nhàn, cao hơn phẩm hèn khó ở nơi trần thế
nầy... (Bực
Hạ Thừa theo Điều 12 Tân Luật. Phần Đạo Pháp).
.
Dụng
Thánh-tâm mà dẫn dân-sanh, làm cho hoàn-toàn trách nhậm nặng-nề của đứng làm
người, về bực nhơn-phẩm ở cõi trần-ai khốn-đốn nầy. (Đây là bộ máy hành chánh của ĐĐTKPĐ: Dùng lương sanh dẫn dắt
quần sanh thực hiện tôn chỉ của ĐĐTKPĐ).
@@@
***:
TÔN CHỈ THỂ HIỆN QUA TÂN LUẬT
./.
CHÍ TÔN KHÔNG ĐỊNH PHẨM TRUNG THỪA.
Như
vậy Tân Luật ĐĐTKPĐ ứng hợp với Thiên Thơ (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển) nên qui định
02 phẩm Thường Thừa và Hạ Thừa.
Nhiều
người viết sách thêm vào Trung Thừa (theo nghĩa Tiểu Thừa, Đại Thừa thì thêm
vào Trung Thừa).
(Ban
Chỉnh Đạo ở Bến Tre còn lập hẳn NHÀ TU TRUNG THỪA: vậy là từ cái đúng với TKPĐ
là nhị thừa các vị thêm vào TRUNG THỪA rồi lấy tiếng là chỉnh đạo. Chỉnh cái
chi mà từ cái đúng thêm vào TRUNG THỪA thành ra cái sai???sic!.
Mía
sâu có đốt, nhà dột có nơi...Chúng tôi nói riêng cho phẩm TRUNG THỪA chớ không
dám nói tất cả. Các vị lãnh đạo Ban Chỉnh Đạo hiện nay có đầy đủ quyền để biện
minh trước công luận xem việc thêm NHÀ TU TRUNG THỪA đúng với chánh giáo ĐĐTKPĐ
ở sách nào? Trang nào?)
Với
ĐĐTKPĐ thì thêm vào TRUNG THỪA là sự lầm lạc. Bởi vì thời kỳ Đại Ân Xá nên Đức
Chí Tôn không quyết về Trung Thừa để cho nhơn sanh tự quyết định lấy. Phẩm
Trung Thừa trong ĐĐTKPĐ là phẩm Lễ Sanh. Lễ Sanh chưa ở vào bộ máy Thánh Thể
hành chánh của Trung Ương (từ phẩm Giáo Hữu đổ lên). Cũng không còn ở bộ máy
Hội Thánh Em.
Xin
xem lời phê của Đức Hộ Pháp sau:
@@@
Lời Thỉnh Giáo của
vị Khâm Châu Đạo Gò Công về Lễ Nghi niêm thức của chư vị Luật Sự và sắc phục
của Phó Trị Sự.
LỜI
PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
PHẦN
THỨ NHẤT:
Chỉ dải
sau lưng: Chí Tôn muốn định phân minh tam thừa.
Phó Trị Sự: Hành quyền về Hạ Thừa chớ chưa vào Thánh
Thể nên mang một thẻ nơi lưng.
Còn Phối Sư là bậc Thượng Thừa nên có ba thẻ.
Trung Thừa Chí Tôn
không cần định để cho mỗi người cố gắng lập vị mình mau chóng tới bậc Thượng
Thừa.
Nếu qua khỏi ba thẻ lên 9 thẻ tức là vào hàng phẩm Cửu
Thiên Khai Hoá.
Cách nhau có một mức Phối Sư với Chánh Phối Sư mà xa nhau như Trời với vực.
Hể đủ tài đức cầm quyền Đạo có Quyền Vạn Linh và Chí
Tôn ủy nhiệm, ân tứ quyền hành thời là vào ngay Cửu Thiên Khai Hoá qua khỏi tam
thừa.
@@@
./.-
KHÔNG CÓ TỐI THƯỢNG THỪA & ĐẠI THỪA.
ĐĐTKPĐ
có phẩm Tối Thượng Thừa hay không?
Khi
mới khai đạo Thầy dạy các vị Minh Lý dâng kinh cho ĐĐTKPĐ. Hội Thánh dùng làm
KINH TỨ THỜI NHẬT TỤNG.
Ngày
Thầy ban Pháp Chánh Truyền cho ĐĐTKPĐ các vị Minh Lý cũng có hầu đàn.
Năm
2007 Minh Lý Đạo (Tam Tông Miếu) ở Đường Cao Thắng (Saigon) xin với chính phủ
Việt Nam gia nhập vào ĐĐTKPĐ với danh hiệu 09 chữ: ĐĐTKPĐ MINH LÝ ĐẠO.
Một
số vị bên Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý (171/b Cống Quỳnh Saigon) hô hào rằng các
vị Minh Lý sẽ đảm nhận việc tu theo TỐI THƯỢNG THỪA của ĐĐTKPĐ.
Điều
nầy có đúng với chánh giáo ĐĐTKPĐ hay không?
Xin
thưa ĐĐTKPĐ không có phẩm tối thượng thừa.
Tân luật dạy rõ ở điều 12. Tín đồ
ĐĐTKPĐ có 02 phẩm: Hạ Thừa và Thượng Thừa.
@@@
ĐĐTKPĐ
có phẩm Đại Thừa hay không?
Xin
thưa cũng không có phẩm ĐẠI THỪA.
Đại
thừa là dành cho Pháp Môn Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi của Ngài Ngô Văn
Chiêu (ĐẠI THỪA CHƠN GIÁO).
@@@
***:
PHÂN BIỆT ĐĐTKPĐ & PHÁP MÔN CĐCMTTVV.
Lâu
nay nhiều người (trong đạo, ngoài đạo và một số vị viết sử..) chưa đưa ra những
văn bút phân biệt ĐĐTKPĐ (có Tổ Đình là Tòa Thánh Tây Ninh) và Pháp Môn Cao Đài
Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi (có Tổ Đình ở Cần Thơ). Nên gán ghép Ngài Chiêu là
Đệ Nhứt Giáo Tông, rồi Ngài Thượng Trung Nhựt là Đệ Nhị Giáo Tông, đến Ngài
Nguyễn Ngọc Tương...
Lại
có những vị đi xa hơn (như Ngài Đồng Tân) phân ra vô vi, phổ độ. Rồi đến Cơ
Quan Phổ Thông Giáo Lý 171/b Cống Quỳnh viết Lịch Sử Đạo Cao Đài (2005) có khá
hơn một chút phân ra 02 nhánh: Nhánh một của Ngài Ngô và nhánh hai ĐĐTKPĐ.
Nay
chúng tôi phân định rành mạch:
ĐĐTKPĐ
là cái nhánh do chính Đức Chí Tôn làm chủ. (TNHT Q1 trang 08 dòng 01 bản in
1973: ... Cái nhánh các con là nhánh
chính mình THẦY làm chủ, sau các con sẽ hiểu...)
Còn
phần Ngài Ngô thọ pháp môn Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi.
Phân
biệt rõ ĐĐTKPĐ và pháp môn của Ngài Chiêu thì những lý luận nhập nhằng lần hồi
bị tiêu diệt. Bởi vì SỰ THẬT MẠNH HƠN TẤT CẢ. Sự thật là Ngài Chiêu không ký
tên vào TỜ KHAI ĐẠO. Không dự LỄ KHAI ĐẠO. Những vị ghép Ngài Ngô vào ĐĐTKPĐ
với phẩm vị Giáo Tông thì thật là sai trái.
Đức
Cao Đài đến giáo đạo Nam Phương mở ra Pháp Môn dạy cho Ngài Chiêu. Sau đó mở ra
ĐĐTKPĐ dạy cho quí Ngài Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, Lê Văn
Trung, Bà Nguyễn Thị Hiếu... đó là 02 việc riêng nhau.
Nó
giống như Đức Cao Đài mở ra một Viện Đại Học mà ĐĐTKPĐ là một phân khoa trong
Viện Đại Học đó.
Cho
nên ĐĐTKPĐ còn được gọi tắt là Đạo Cao Đài.
Nhưng
không phải Đạo Cao Đài nào cũng là ĐĐTKPĐ.
Nó
cũng như Trường Đại Học Y Khoa có phân khoa Thần Kinh Học. Người học khoa Thần
Kinh Học chắc chắn là sinh viên trường Đại Học Y Khoa. Nhưng không phải sinh
viên Y Khoa nào cũng học ở Khoa Thần Kinh Học.
@@@
***:
LIÊN HỆ ĐẾN LỜI MINH THỆ.
ĐĐTKPĐ
chỉ có một. Bất cứ nơi nào xưng danh hiệu ĐĐTKPĐ (mà không có mạng lịnh của Hội
Thánh ĐĐTKPĐ) là giả.
Trong
lời minh thệ khi nhập môn cầu đạo có câu:...
Thề rằng: Từ đây biết một Đạo Cao-
Đài Ngọc-Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư Môn-đệ, gìn luật lệ Cao-Đài,
như sau có lòng hai thì Thiên-tru, Địa-lục".
@@@
Muốn
hiểu nghiêm túc lời minh thệ trên thì phải xác định Đạo Cao Đài Ngọc Đế là gì?
Lời minh thệ đó dạy cho ai? Và nội dung gì?
./.
Biết một Đạo Cao Đài Ngọc Đế có nghĩa là Đức Cao Đài chỉ mở có một ĐĐTKPĐ.
Những nơi khác có xưng danh ĐĐTKPĐ thì đó không phải của Thầy. Đó là mượn danh
Thầy.
./.
Lời dạy trên đây là dạy cho các vị trong ĐĐTKPĐ.
./.
Trong kỳ ba nầy Thầy chỉ mở có một đạo là ĐĐTKPĐ.
Những
hệ luận từ lời minh thệ:
./.
Pháp môn của ngài Chiêu chưa phải là một tổ chức tôn giáo và không can dự vào
lời minh thệ. Nói trắng ra là pháp môn độc lập với ĐĐTKPĐ. Những định nghĩa về
chi phái... không bao gồm Pháp Môn Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi.
./.
Đức Cao Đài chỉ mở có một ĐĐTKPĐ. Bất cứ nơi nào xưng danh hiệu ĐDTKPĐ (mà
không do mạng lịnh của Hội Thánh ĐĐTKPĐ đều là giả).
./.
Cái thiệt chỉ có một. Cái giả thì rất nhiều. Chín chi phái ĐĐTKPĐ được chính
phủ Việt Nam cấp pháp nhân hiện nay đều đồ giả.
Cái
giả khó phân biệt nhất là chi phái 1997 của Hội Đồng Chưởng Quản lập thành. Bởi
vì nó xuất phát ngay tại Nội Ô Tòa Thánh và chiếm dụng cơ ngơi lẫn danh hiệu
ĐĐTKPĐ để dùng mà dấu cái tên có 10 chữ (ĐĐTKPĐ Cao Đài Tây Ninh) rồi tăng lên
12 chữ và 02 dấu ngoặc như hiện nay {ĐĐTKPĐ (Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh)}.
***:
XÁC ĐỊNH MỐI QUAN HỆ VỚI CÁC TÔN GIÁO KHÁC.
./.
Đức Cao Đài không có dạy bài bác tôn giáo khác hiện sinh trước ĐĐTKPĐ hay cùng
thời hoặc ra sau ĐĐTKPĐ. Đây là điều rất tế nhị mà người Đạo Cao Đài cần phải
hiểu đúng đắn để thể hiện sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của người
khác.
Đức
Hộ Pháp (Giáo Chủ Đạo Cao Đài) viết thư cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm ngày
10-10-Bính Thân (12-11-1956) có câu:
Tuy vào Đạo Cao
Đài mà trước mặt cả tín đồ Bần Đạo chưa hề chối Đạo Công Giáo của Bần Đạo.
Xem
Âu Du Ký, Á Du Ký chúng ta thấy Đức Ngài vẫn kỉnh lễ đầy đủ khi đến nơi thờ tự
các tôn giáo khác... Lời minh thệ dạy chỉ biết một Đạo Cao Đài Ngọc Đế hàm ý sẽ
có nhiều nơi mạo danh Cao Đài Ngọc Đế. Ngày nay 09 chi phái đều lấy danh hiệu
ĐĐTKPĐ rồi thêm cái đuôi phía sau nên danh hiệu chi phái nào cũng nhiều hơn 06
chữ gốc là ĐĐTKPĐ. TỜ PHỔ CÁO CHÚNG SANH (1926) có dạy rõ đừng nghe Cao Đài nơi
nầy, nơi kia mà lầm...
@@@
Theo
chánh giáo thì ĐĐTKPĐ chỉ có một. Bất cứ nơi nào xưng danh ĐĐTKPĐ mà không có
mạng lịnh Hội Thánh thì đó là Bàng môn Tả đạo. Thầy dạy ngày 01-10-Đinh Mão (1927).
Thầy chẳng dùng sự chi mà thế-gian
gọi là tà-quái dị-đoan mà nếu xảy ra có một ít dị-đoan trong Đạo đã dùng lỡ,
thì ấy là tại nơi tâm của vài môn-đệ đó, nếu
chẳng giữ theo lẽ chánh mà hành Đạo, và bày-biện nhiều sự vô lối, thì trong ít
năm sau đây, sẽ trở nên một mối Tả-đạo, mà các con đã từng thấy. (TNHT Q2 tr 42 dòng 23 bản in
1963).
Tóm
lại:
.
Đối nội: nghiêm khắc với nội bộ (định quyết các chi phái do bởi ĐĐTKPĐ làm gốc
lập thành mà không do mạng lịnh Hội Thánh là Bàng môn Tả - đạo).
.
Đối ngoại: tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng của tôn
giáo bạn và người lương.
@@@