Trang

Chủ Nhật, 21 tháng 2, 2021

3328. HÒA BÌNH CHUNG SỐNG BIÊN NIÊN (tt 41)

 HÒA BÌNH CHUNG SỐNG BIÊN NIÊN (tt 41)

Thật ra nếu Bần Đạo có tham vọng chiếm đoạt chính quyền thì đã làm rồi, trước khi Đức Quốc Trưởng và Ngài về nước.

Trong Đạo Sử chúng ta chưa từng thấy một vị Giáo Chủ ra tranh đoạt đặng làm chủ quyền đời, ấy là điều đại kỵ của Bần Đạo, bởi vậy nên chính mình đi Hương Cảng hội đàm đặng rước Đức Bảo Đại về nước cầm quyền Quốc Trưởng trong buổi nước nhà nguy biến, chớ Bần Đạo không chịu mó tay vào nội bộ chánh quyền.


 

HỘ PHÁP ĐƯỜNG.

VĂN PHÒNG.

SỒ: 147 /HP.HN

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ.

      (Tam Thập Nhứt Niên).

       Tòa Thánh Tây Ninh.

 

 Hộ Pháp

Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng.

 

TÂM THƯ.

 

Kính Ngài Ngô Đình Diệm Tổng Thống nước Việt Nam Cộng Hòa Sài Gòn.

Kính Ngài Tổng Thống.

Từ ngày Bần Đạo ra khỏi nước đến nay, Bần Đạo chưa hề gởi thơ cho Tổng Thống về mục đích của Bần Đạo muốn đạt đến chỗ nào? Bần Đạo tin nơi lòng đạo đức và trí thức cao thượng của Ngài nên để cho Ngài tìm hiểu và suy đoán.

Tổng Thống và Bần Đạo chẳng phải là người xa lạ với nhau về tinh thần ái quốc và vị chủng. Bần Đạo bỏ công chức hồi Pháp thuộc cũng như Ngài đã bỏ quan trường buổi ấy, hai tâm đức cũng như nhau, bởi đau khổ thấy giống nòi bị lệ thuộc làm tôi đòi thiên hạ và nước nhà chịu nạn thống trị của ngoại bang. Trường hợp tranh đấu của chúng ta dầu khác đường lối mà chí ý có lẽ cũng đồng. Vậy tinh thần đôi ta cũng vẫn một khuôn khổ, một ý chí. Ngài đã thấy rõ rằng Bần Đạo đã liệt Ngài vào hạng Đồng Chí. Chỉ có một điều, Ngài có thể phiền trách Bần Đạo đặng là mọi hành vi của Bần Đạo đối cùng Ngài từ thử Ngài nắm chánh quyền đến giờ đều là âm thầm kín đáo, chớ chẳng phải như ai kia, xưng hô công nghiệp đặng thân cận cùng Ngài. Muốn nói cho rõ hơn nữa là Bần Đạo muốn cho cả sự chi mà Bần Đạo đã thi thố giúp đỡ Ngài, Bần Đạo không muốn chính mình Ngài hiểu nữa mà chớ?

Hôm nay Bần Đạo viết bức tâm thơ nầy vì thấy đủ bằng cớ rằng chánh phủ của Ngài họa ảnh của Bần Đạo với một vẻ lầm lạc vụng về, thô kém, từ hình trạng lẫn tinh thần, dầu rằng đôi ta đã được dịp gặp nhau, hiểu biết nhau từ lúc hội đàm tại Paris, cùng Đức Bảo Đại nơi một khách quán tại Paris trước khi Ngài về nước đảm nhiệm trọng quyền.

Thêm nữa, chúng ta đã có nhiều lúc mặt nhìn mặt, tay bắt tay, hội đàm cùng nhau mật thiết. Bởi cớ mà Bần Đạo lầm tưởng Ngài biết rõ tâm tình của Bần Đạo hơn ai hết mới thờ ơ như thế.

Ngài cũng nên hồi tưởng lại nhớ kỹ càng mọi lẽ tinh vi rồi định thử lại coi Bần Đạo là người ơn hay là người oán?

Vậy Bần Đạo xin tiếp tục tưởng rằng tại trạng thái bình thường của Bần Đạo chẳng phải chính tay của Ngài mà là tay của kẻ ngoại bang có lẻ, Bần Đạo xin nói rõ và thú thật Ngài rằng Bần Đạo không thể nào xem Tổ Quốc và nòi giống bị ngoại bang lệ thuộc một phen nữa, chẳng phải bị quyền lực ngoại ban của một nước mà bị hai khối đế quốc thực dân Tư Bản và Cộng Sản Quốc Tế đua nhau toan quyền bá chủ hoàn cầu.

Bần Đạo cốt yếu xuất ngoại để đủ quyền tự do của Bần Đạo đặng đầu cáo hội nghị Geneve đã chỉ định chia hai đất nước từ vĩ tuyến 17. Bần Đạo cho đó là một hành động áp bức, bất công xã hội như bức thư số 20/HP.HN ngày 26-3-1956 mà Bần Đạo đã gởi cho Liên Hiệp Quốc và các liệt cường Quốc Tế. Nếu Bần Đạo còn ở trong nước thì chắc Ngài không cho Bần Đạo làm điều ấy.

Việc làm nầy Ngài đã đặng biết trước vì khi hội nghị Genever dưới quyền Thủ Tướng của tứ cường. Bần Đạo đã đánh một bức điện văn mà bức điện văn ấy Bần Đạo đã cầu Ngài cùng ký với Bần Đạo.

Ngài cho một lịnh nội bộ chánh phủ của Ngài trả lời rằng theo thủ tục Ngài không thể ký bức điện văn ấy chung cùng Bần Đạo, và biểu Bần Đạo cứ tùy tiện gởi đi bức điện văn ấy cốt để làm ngưng cuộc tổng tuyển cử ngày 20-7-1956 cho đến ngày toàn dân giác ngộ, biết rõ chủ quyền của họ, rồi mới định đoạt, nếu thi hành liền thì không thể nào tránh khỏi nội loạn.

Nghe ra Ngài đã trách Bần Đạo đã làm Chủ Tịch của Chủ Tịch Đoàn Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia. Điều ấy là một điều mà Bần Đạo vẫn mãi còn ân hận. Khi ở Geneve sau khi Việt Minh đã thắng trận Điện Biên Phủ và hội nghị Geneve đã định chia đôi đất nước thì Bần Đạo đã biết trước rằng họ đã gieo một tai hại lớn lao cho tương lai Tổ Quốc, nên hội diện cùng phái đoàn Việt Minh cốt để tìm phương thế hiệp đồng tâm đức đặng thống nhứt nước nhà với phương pháp hòa bình hầu tránh nạn chiến tranh tàn khốc do ngoại bang xúi giục.

Nhưng Bần Đạo đã thất bại vì sự khinh rẻ khối quốc gia của Việt Minh cho rằng chánh phủ quốc gia là vô quyền hành, vô năng lực mà họ đã gọi là chánh phủ bù nhìn. Thật ra chánh quyền buổi nọ không căn bản, không năng lực vì nạn đảng phái tương tranh, nhơn tâm bất nhứt nên không thể đương đầu đối diện cùng họ. Các khuyết điểm trọng hệ hơn hết là chánh phủ Quốc Gia buổi nọ không Hiến Pháp và Quốc Hội làm hậu thuẫn. Không biết bao phen Bần Đạo đã than khổ cùng lịnh đệ của Ngài là Ngô Đình Nhu về lẽ ấy, Ngài có thể hỏi chứng nơi ông thì đủ rõ.

Bần Đạo đã cầu khẩn Quốc Trưởng Bảo Đại ban cho một khí cụ cần thiết, song Ngài vẫn chần chờ không định quyết, lại ra lịnh cho chánh phủ Nguyễn Văn Tâm lập một hội bù nhìn như Ngài đã biết.

Năng lực tranh đấu cùng Việt Minh đã thất thế về mọi mặt và quân sự, khi họ thắng trận Điện Biên Phủ, đánh bại Pháp quân thời họ đã quá hãnh diện kiêu căng khinh khi quốc gia đáo để, không kể quyền hành chi cả. Họ quyết định ký thỏa ước với chánh phủ Pháp mà thôi chớ chẳng kể rằng ta có mặt. Bởi hổ nhục ấy nên Bần Đạo mới tìm phương thống nhất quân lực các đảng phái đặng hiệp một cùng Quân Lực Quốc Gia thành một lực lượng đáng kể đủ uy tín oai quyền hầu ăn nói với họ.

Hại nổi, trong khi Bần Đạo đã cầu nài cho Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh buổi nọ là Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia cùng Trần Văn Soái, Nguyễn Thành Phương, Lê Văn Viễn hội hiệp cùng nhau liệu phương thống nhất, bởi tin tưởng rằng sở vọng ấy đạt thành nên mới xin phép chánh Ngài đi giao du Đài Loan, Nhựt Bổn và Triều Tiên đặng tìm hiểu rõ tình hình quốc tế. Khi trở về thì thấy sự nghiệp ấy đã bị tan vỡ bởi ngụy quyền tranh chấp uy tín, đã chia đôi họ trở thành thù địch, điều ấy có lẻ chẳng cần nói mà chính Ngài cũng đã đủ hiểu.

Có lẽ Ngài còn nhớ, khi Bần Đạo đến Geneve làm quan sát viên cho Ủy Ban do Đức Bảo Đại chỉ định. Khi đã hay biết quả quyết rằng: Hội Nghị đã quyết định chia nước làm hai không có sự chấp thuận của toàn dân Việt Nam thì ta phải chiến đấu cùng cả đôi bên hết thảy. (1).

Lời tuyên bố ấy của một người như Bần Đạo nghĩ ra cũng quá đáng, vì không lẻ Bần Đạo làm điều ấy đặng? Đến nay Bần Đạo đã nhìn nhận công nghiệp ấy đã về Ngài vì Ngài đã thắng Pháp với đường lối chánh trị hay khéo. Ước mong rằng Ngài sẽ thắng Việt Minh với đường lối ấy thì kỳ công của Ngài sẽ đặng hoàn toàn trọn vẹn.

Bần Đạo chỉ lo âu một điều là trên 80 năm bị Pháp thuộc, dân tộc ta quật cường với không biết bao nhiêu xương máu, mà ta lại e còn chịu nạn lưu huyết xảy ra một cách oan uổng, cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt thêm nữa.

Chủng tộc ta dân số chẳng hơn ai mà trót trên 10 năm tranh đấu hy sinh sanh mạng tài sản đã quá nhiều, quốc dân đã quá đau khổ với nạn chiến tranh nên trong bức thơ số 21/HP.HN ngày 26-3-1956 của Bần Đạo gởi cho Ngài và Hồ Chủ Tịch cầu khẩn với lòng ái quốc nồng nàn đã sẵn có của hai Ngài đặng tránh nạn diệt vong cho đồng bào và Tổ Quốc.

Kết luận,

Bần Đạo tưởng quả quyết rằng tại hành động của Bần Đạo đều là công khai và hợp pháp, chẳng có một điều chi bí mật, dối gian, vì các hành động ấy đều xuất hiện do nơi lòng ái quốc nồng nàn mà lương tâm Bần Đạo đã ra lịnh thi thố.

Ngài đừng nghe chi những lời xàm nịnh của kẻ hầu cận, cho là Bần Đạo mong mỏi đoạt thủ chánh quyền lập thành chánh phủ. Thoản như tình thế biến thiên thế nào đi nữa thì cũng là tuồng cũ soạn lại mà thôi chớ không chi khác lạ cùng Bần Đạo hết. Sự hay khéo của ta là làm thế nào bảo thủ toàn vẹn cả các thắng lợi mà toàn thể chúng ta đã thu hoạch đặng mãi mún thành hình.

Một đường lụa đã dệt mà mổi tay thợ thay đổi mổi cắt đứt rồi khởi đầu lại nữa thì đường lụa ấy không thể nên hình, càng thay tay càng rối rấm. Bần Đạo đã hiểu rõ như thế nên định phận mình chỉ biết giúp đỡ cho mỗi chánh phủ từ trước đến giờ chớ rất gớm ghê những phen thay đổi. Thật ra nếu Bần Đạo có tham vọng chiếm đoạt chính quyền thì đã làm rồi, trước khi Đức Quốc Trưởng và Ngài về nước.

Trong Đạo Sử chúng ta chưa từng thấy một vị Giáo Chủ ra tranh đoạt đặng làm chủ quyền đời, ấy là điều đại kỵ của Bần Đạo, bởi vậy nên chính mình đi Hương Cảng hội đàm đặng rước Đức Bảo Đại về nước cầm quyền Quốc Trưởng trong buổi nước nhà nguy biến, chớ Bần Đạo không chịu mó tay vào nội bộ chánh quyền.

Cả đời của Bần Đạo đã nguyện hy sinh đặng làm bạn và làm tôi tớ cho những tâm hồn đau khổ, cho những kẻ dốt nát nghèo hèn, ngoài ra không có điều chi  tham vọng. Không công danh, không quyền lợi, vậy  mới sanh ra một tâm tình không nịnh hót, không bợ đỡ, không cầu thân, không xàm nịnh, dường như đã thành kiêu căng tự tín.

Với tánh đức ấy nên muốn cho kẻ hèn hạ đặng nên danh, người vinh hoa đặng công chánh. Bằng cớ hiển nhiên là cả toàn chủng tộc ta đều thấy rõ là Bần Đạo dám can đảm nâng đỡ binh vực dạy dỗ những hạng cùng dân, nghèo hèn, dốt nát, đứng ra thi thố cùng đời, không hơn không kém. Bần Đạo đã hy sinh cả kiếp sống tạo sự nghiệp chung của họ nơi cửa Đạo, cho họ đủ sang trọng vinh hiển, chớ chẳng kể biết chi đến gia nghiệp riêng rẽ của mình.

Bắt chước HẠNH CHÚA là thương yêu, nuôi dưỡng kẻ nghèo khó, cơ hàn nhịn cơm chia áo cho họ. Tuy vào Đạo Cao Đài mà trước mặt cả tín đồ Bần Đạo chưa hề chối Đạo Công Giáo của Bần Đạo. Một điều có thể làm cho kẻ gian ác xảo trá tà tâm oán ghét hơn là bởi làm theo lời Chúa dạy: “Chẳng nên lấy bánh trẻ con đem cho chó, kẻ nghèo khó bần cùng là con yêu dấu của Chúa”.

  Một điều đáng buồn cười hơn hết là những hạng dốt nát thường có tinh thần bội phản, khi nó đã lập nên danh nó coi mình là trọng, không biết nhơn nghĩa là gì. Bởi thiếu học nó trở lại phản phúc, là lẽ thường tình không chi làm lạ. Thường người ta vì từ bi mà bị làm nạn nhơn của kẻ gian hùng ấy là điều phiền hơn hết. Bần Đạo tiếc rằng Ngài không tìm hiểu rõ ràng Bần Đạo mà đã ra lịnh cho chánh phủ của Ngài làm điều không hay đối với Đạo và Bần Đạo, đã làm tình thâm giữa đôi ta một phen tiêu giảm quá nhiều, rất nên đáng tiếc.

Bần Đạo nhứt quyết ngày trở về nước là ngày thấy đủ bằng cớ là chánh phủ Quốc Gia khỏi bị lệ thuộc khối Mỹ và chánh quyền Miền Bắc khỏi bị lệ thuộc khối Nga bất cứ với phương pháp nào; một cách trực tiếp hay gián tiếp cũng vậy. Sự đòi hỏi nầy chắc Ngài cũng biết rằng Bần Đạo không có xin xỏ chi cho cá nhân của Bần Đạo mà chỉ là cho Ngài và cho cụ Hồ Chí Minh rõ rệt.

Nếu Bần Đạo muốn cầu danh lợi cho Đạo và riêng cho Bần Đạo thì chắc hẳn rằng không phải đường lối như thế. Không dám đủ can đảm ôm thù thiên hạ nơi mình đặng cứu vận mạng tổ quốc và giống nòi. Cử chỉ như thế không lẽ bị Ngài ghét bỏ.

Trường hợp của Ngài cũng như của Bần Đạo, thời thế gây nên cái hại phân chia nhau, điều ấy do đâu mà đến chớ, chẳng phải do đôi ta đào tạo. Cổ tục ta có nói: Thời thế tạo anh hùng mà cũng không quên nhắc đến cái phản ảnh của nó là anh hùng tạo thời thế. Hai điều đó Ngài đủ sức lực, đủ can đảm, đủ quyền hành thi thố thực hiện đặng cả hai.

Bần Đạo ước mong và cầu khẩn Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng bảo hộ Ngài, giúp đỡ Ngài thành công trong sứ mạng cứu nước, cứu giống nòi trong lúc quốc gia nguy biến. Ta có ngày gặp gỡ nhau nữa.

Bần Đạo gởi lời thân ái chào Ngài.

Nam Vang ngày 10-10-Bính Thân (12-11-1956)

Giáo Chủ Đạo Cao Đài

HỘ PHÁP

(Ấn Ký)

&&&

 

 

(1) CHÚ THÍCH:

Theo Âu Du Ký do Ngài Hồ Bảo Đạo ghi thì lời tuyên bố trên đây của Đức Hộ Pháp được báo chí loan tin trong tình thế rất đặc biệt: NGOÀI Ý MUỐN CỦA TÒA SOẠN. Nhờ vậy mà chúng ta có thêm bằng chứng về quan điểm, lập trường của Đức Hộ Pháp.

ĐỨC HỘ PHÁP TUYÊN BỐ KHI ĐANG GẶP PHÁI ĐOÀN CỦA CỘNG SẢN Ở PARIS DO THỦ TƯỚNG PHẠM VĂN ĐỒNG LÀM TRƯỞNG PHÁI ĐOÀN...

LẦN GẶP SAU ĐÓ 03 NGÀY ÔNG PHẠM VĂN ĐỒNG TRẢ LỜI ĐỨC HỘ PHÁP:

Ông Phạm-Văn-Đồng xây qua nói với ĐỨC HỘ-PHÁP như vầy:

 'ĐỨC HỘ-PHÁP thử nghĩ coi biểu tôi phải nhìn nhận Ngô-Đình-Diệm . . . thì làm sao đặng, vì họ không có đại-diện cho một thực-lực, cho một ai hết, chớ như Đạo Cao-Đài đây, có một thực-lực hơn mấy triệu tín-đồ và một quân-đội mấy chục ngàn người, thì chúng tôi sẵn-sàng tiếp đón và thảo-luận tất cả mọi vấn-đề'.

VÀ ĐÂY LÀ MỘT ĐOẠN ĐỐI THOẠI GIỮA ĐỨC HỘ PHÁP VỚI ÔNG PHẠM VĂN ĐỒNG.

Ông Phạm-Văn-Đồng cười và nói rằng: 'họ đã sợ mà còn có người hù nữa' và day qua ĐỨC HỘ-PHÁP, hỏi ĐỨC NGÀI bị ai hù có sợ hay không?

ĐỨC NGÀI nói rằng: 'nếu tôi sợ thì tôi không có đến đây'. Chúng tôi có nhắc cho Anh em Việt-Minh biết rằng cái công kháng-chiến của họ, quốc-dân không quên, nhưng họ phải làm thế nào cho cuộc giải-phóng dân-tộc cho trọn vẹn chớ đừng gở ách này rồi mang cái gông khác hay là đuổi cậu Pháp rồi rước chú Tàu về thì không ăn thua gì và quốc-dân sẽ phán-đoán việc đó. Anh em Việt-Minh nói rằng họ biết việc đó và không để xảy ra đâu. (a)

&&&

Nguyên nhân báo đăng

Lời tuyên bố trong Âu Du Ký:

Ngày 3 tháng 6 năm Giáp-Ngọ (2 Juillet 1954):

Sáng ngày báo-chí Suisse đăng tin thất-thủ Bùi-Chu, Phát-Diệm. Quân-đội Pháp rút chạy xuống tàu độ-binh không kịp, phải lấy thêm ghe thuyền chở đi, còn quân Việt-Minh thì xả súng bắn theo. Binh Pháp-Việt chống cự yếu-ớt, chỉ có một vài đồn tự-vệ của Công-Giáo là chống cự mãnh-liệt, quyết tử-chiến, đến khi hết đạn phải đánh bằng dao găm cho đến tên lính cuối cùng mà chẳng có một viện-trợ võ khí nào do Phi-Cơ Hà-Nội đưa đến.

ĐỨC HỘ-PHÁP và chúng tôi đọc hết tin ấy rất bùi-ngùi vì cảnh người giết người.

10 giờ Có vị phóng-viên báo Agence France Press (A.F.P.) đến phỏng-vấn ĐỨC NGÀI về thời cuộc trong lúc ĐỨC NGÀI đang xúc-động. ĐỨC NGÀI có mấy lời tuyên-bố mà báo Journal d'Extrême Orient ở Sai-Gon đã đăng ngày 3 Juillet, mà các báo ở Paris vẫn yên-lặng cũng là chuyện buồn cười. Số là vị phóng-viên AFP sau khi nói chuyện với ĐỨC HỘ-PHÁP xong liền đánh về cho Văn-Phòng Trung-Ương ở Paris. Ở đây có 3 phòng: 1.- Phòng Thông-Tin, 2.- Phòng Tòa-Soạn, 3.- Phòng Chủ-Nhiệm và Quản-lý.

 Khi bức điện ở Génève đánh về thì phòng Thông-tin tiếp đặng thay vì đưa phòng Tòa-soạn hay phòng Chủ-nhiệm xem trước, lại sao lục gởi tuốt qua Sai-Gòn một bản, còn một bản mới đưa qua phòng Tòa-soạn. Chừng phòng Tòa-soạn xem thấy lời tuyên-bố của ĐỨC NGÀI, thì cho là quá khích nên ngăn lại không cho đăng báo, nhưng không ngăn kịp bên Sai-Gon, vì vậy mà lời tuyên-bố của ĐỨC NGÀI tại Génève làm chấn-động ở Sai-Gon, còn ở Paris chẵng có một ai hay biết. Theo lời tuyên-bố này, ĐỨC NGÀI phản-đối sự chia xẻ nước Việt Nam.

&&&

 

(a): Đức Hộ Pháp đã nhìn thấu rõ cái hiểm họa cộng sản của ông

http://i52.tinypic.com/33yl0z7.jpg

Miền Bắc trói dân đem đấu tố trong CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT năm 1956

Hồ Chí Minh đuổi Pháp để rước Tàu (THEO KẾ HOẠCH CỦA TÀU CỘNG). Nên đã nói rõ tới gan ruột của người cộng sản. Do vậy bị họ căm thù nhưng không dám có thái độ chi; mãi đến năm 1978 cộng sản mới ra BẢN ÁN CAO ĐÀI lên án Đức Hộ Pháp.

Còn trước khi có bản án chính phủ Cộng Sản chưa từng dám xúc phạm Đức Hộ Pháp MỘT LẦN NÀO.

Chính trị của cộng sản là như vậy nên khi họ GHÉP ĐỨC HỘ PHÁP LÀM CHÁNH TRỊ (theo kiểu cộng sản là TÀ TRỊ) thì lập tức một số chức sắc không chấp nhận...

&&&