Sau khi Trung Tá Thoại đi làm phận sự ấy thì chính
quyền Ngô Đình Diệm bắt giam giử đến nay chưa trả lại tự do nên Qua cho rằng
việc làm của nó rất nguy hiểm
HỘ PHÁP ĐƯỜNG. VĂN PHÒNG Số:
/HP.HN. |
CHÁNH SÁCH HÒA BÌNH CHUNG SỐNG. Do Dân- Phục Vụ Dân- Lập Quyền Dân. *** |
Gởi cho mấy em
trong HBGH Trung Ương.
Qua có đặng tờ
phúc số 31/GHTƯ ngày 13. 3. Mậu Tuất cho Qua biết mọi tình hình biến thiên của
chánh quyền Ngô Đình Diệm và hành tàng của chức sắc thiên phong Hiệp Thiên Đài
đã cầm quyền nơi Tòa Thánh thế nào. Mấy em lại cho Qua biết rằng, đã đem bằng
chứng và thơ từ của Qua đặng đọc cho cô Tám nghe hiểu mọi sự quyết định của Qua
trước khi Qua trở về Tòa Thánh.
Qua trích lục mấy
khoản dưới đây của mấy em hỏi:
1/- Về số tiền
2.110$00 của Thiện Mỹ định gởi cho Qua nhưng đã xài chung cho HBGH thì chúng ta
nên kể số tiền ấy đã xài rồi. Như vậy mấy em không cần nghĩ gì tới số tiền đó
nữa.
Mấy em nên cho
Minh Ánh Trưởng Ban Bảo Trợ miền Trung HBGH biết rằng Qua để lời cám ơn về số
quần áo và khăn mà hai vợ chồng đã hiến giúp cho mấy em trong HBGH.
2/- Về khoản bán
đất nơi vùng cực lạc của Thái Đầu Sư Nguyễn Ngọc Thơ đã để lại.
Mấy em nhớ rõ rằng
khi Thánh Địa mới phôi thai, thì sở đất rừng ấy ông Đầu Sư Thái Thơ Thanh và Bà
Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh nói rằng mua đất cốt để mở rộng Thánh Địa. Để cho
toàn con cái của Đạo đến lập nghiệp; đặng bổn đạo mở mang khai khẩn để lập
nghiệp cho mổi gia đình. Chính Qua cũng tin bằng lời nên để cho mấy em đến khai
cơ lập nghiệp. Trước kia nơi ấy là rừng hoang mà họ đã khai khẩn thì họ cũng
như Qua đều cho rằng đất ấy thuộc về Hội Thánh, tức là của tư của họ khi khai
phá Thánh Địa.
Vậy mà hôm nay
buộc họ phải mua lại thì sự bất mãn của họ là dĩ nhiên. Tuy họ không nói ra,
nhưng họ cho là công khai phá của họ như khai phá đất hoang họ có quyền vi chủ.
Vậy mà gia đình của ông Đầu Sư Thơ và Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh lại bán lại
đặng lấy tiền sau 30 năm khai khẩn và lập nghiệp của họ thì thế nào họ chịu
nghe lời Hội Thánh để cho cho con cái của hai người ấy bán đặng lấy tiền. Nên
họ lần lựa hẹn qua ngày chờ đến khi Qua trở về Tòa Thánh sẽ giải quyết.
Hội Thánh lại chia
phần tiền ấy ra hưởng huê hồng y như phúc sự của mấy em đã nói là một điều bất
công và bất chánh.
Theo Qua tưởng họ
làm điều ấy có lẽ là do những người có quyền thế chiếm nhiều đất, còn mấy đứa
cô thế thì phần ít. Như Hội Thánh muốn cho công bình thì số đất ấy phải phân
chia đều đủ cho mổi gia đình được bao nhiêu thước vuông. Qui định không ai hơn,
ai kém trong phần đất Hội Thánh đã mua và đã chia cho trong toàn đạo.
Như vậy thì mình
làm được một công hai việc:
. Là trong cơ hội
ấy mình chia đều đủ cho mấy em với một cách công bình không ai hơn ai kém.
. Rồi chính mình
Hội Thánh đứng ra mua sát đất ấy lại như số tiền đã mua lúc trước khi còn rừng.
Rồi buộc mấy em phải hùn với nhau đặng đóng số tiền ấy lại hầu trả cho con cái
của hai người.
Nếu thoảng có điều
kêu nài của Ngọc Hồ và Hai Hương rằng số tiền mua buổi nọ giá trị khác còn đồng
tiền hôm nay lại có giá trị khác...; thì Hội Thánh nhơn danh toàn đạo đứng ra
thương lượng với hai người ấy coi mổi thước vuông bây giờ định giá bao nhiêu.
(1).
Rồi cũng đứng ra
thay mặt cho toàn đạo mua lại với giá phải chăng, rồi cả toàn đạo chiếu theo
giá định ấy trả tiền lại. Vậy là công bình.
Nhưng phải nhớ
rằng: cả thảy mổi gia đình đã lập nghiệp nơi đó đặng bao nhiêu thước vuông
không ai đặng lấn hơn hay là sút hơn. Nếu như có gia đình nào đã chiếm nhiều
hơn mà nay người khác đặng chia làm chủ thì người chủ đất mới ấy phải trả lại
sở tổn công khai phá cho người chủ củ.
Qua nghe lại thì
từ này Qua đi khỏi Tòa Thánh mấy em đã bị áp bức nên quá nghèo nàn. Mà nay buộc
họ phải mua đất ấy lại thì họ làm thế nào cho ra tiền để mua cho đặng.
Cái hay của Hội
Thánh là đứng ra đảm nhiệm trách vụ chung ấy cho họ. Tự Hội Thánh quyết định
cho mấy em nghèo được ân huệ của Hội Thánh giúp đở lần hồi trả số tiền đất ấy
lại. Đứa có của giúp đứa nghèo nàn, bao bọc lẫn nhau cho đến ngày Qua trở về
Tòa Thánh. Qua rất buồn là Qua bỏ Tòa Thánh đi để cho mấy em không ai bảo bọc
phải chịu truân chuyên khổ não. Khi Qua nhớ điều ấy Qua rất nên cảm động và
buồn tủi cho mấy em.
Cuộc đời thay đổi
nay vầy mai khác là lẽ tự nhiên, mấy em nên khuyên nhũ cùng nhau cố tâm nhẫn
nại đặng đợi ngày mai qua sự thay đổi... có thể gọi rằng khổ tận cam lai đặng
bảo tồn nghiệp đạo.
Qua chỉ biết một
điều rằng cho đến hôm nay Qua chưa tìm ra người đủ thành thật yêu ái để bảo
toàn hạnh phúc kiếp sống còn của mấy em. Mà trái lại dường như họ đã đưa tay ra
đặng tăng khổ thêm cho mấy em. Thời gian sẽ chứng minh cho họ những điều ấy.
Ngô Đình Diệm nó chưa chắc đặng tồn tại quyền hành của nó mãi mãi, qua sự thay
đổi để cho tòa lương tâm của toàn quốc định tội về mưu phá Đạo và chia rẽ con
cái Đức Chí Tôn. Điều nầy mấy em sẽ thấy trong tương lai tới đây.
.Về vụ đi xâu làm
đường Katum (Tây Ninh).
Theo lời phúc sự
của mấy em mổi người phải đi làm một bạn xâu. Nếu không làm đặng thì mổi người
phải đóng 50 đồng cho đến khi làm xong con đường ấy mới thôi. Qua thấy điều nầy
thì chính sách thi hành của chánh phủ Ngô Đình Diệm hiếp dân không thua chi
thời Pháp thuộc. Đường chung của quốc gia sao lại bắt toàn dân phải đi làm xâu?
Ngân quỷ của chánh phủ ở đâu lại còn phải vắt máu mỡ của dân nghèo sau 15 năm
loạn lạc, giặc giả chiến tranh? Dân đã quá thống khổ họ đã không nuôi lại còn
bốc lột thêm cho tới xương tủy. Chánh sách hiếp dân ấy có đặng bền vững hay
chăng?
. Về vụ buộc toàn
đạo nơi vùng Long Thành (Đệ Ngũ phận đạo) phải góp số tiền để cất nhà trường
công cộng.
Theo Tờ Phúc Sự của
mấy em thì toàn đạo mổi người phải làm 03 ngày xâu. Nếu khá thì đóng 50$.
Đầu xâu nầy tuy
vẫn có sự ích lợi về mặt giáo hóa con cái của Đạo y như sự hy sinh của mấy em
từ trước với Hội Thánh và toàn đạo. Mấy em từ thử đã hy sinh thì không có chi
rằng lạ. Song hành vi vì Đạo mà làm nó khác hẳn với việc vì áp bức mà làm.
Nhưng trong nghèo
khổ của toàn thể mấy em mà chính quyền không nghĩ đến lại đặt ra làm xâu thuế
là điều đáng buồn. Qua ở bên nầy nghe tin vậy rất đau lòng. Nếu Qua còn có
mặt nơi Tòa Thánh thì chắc nhiều lẽ áp
bức ấy không thể xảy ra. Hại thay Hội Thánh và Chức Sắc cầm quyền không có một
lời phản đối để cho toàn đạo như khúc gỗ bị lăn tròn thật là thê thảm.
. Về lời thỉnh
giáo của em Lê Văn Ca thì em Nguyễn Thị Đồng và hai đứa theo nó đã đặng lịnh
của các Đấng Thiêng Liêng dạy nó làm điều ấy. Trong khi Qua lưu trú tại Kiêm
Biên Em Đồng có lên gặp Qua cho biết rằng mạng lịnh của các Đấng Thiêng Liêng
biểu nó làm. Sau khi Trung Tá Thoại đi làm phận sự ấy thì chính quyền Ngô
Đình Diệm bắt giam giử đến nay chưa trả lại tự do nên Qua cho rằng việc làm của
nó rất nguy hiểm. Nhưng trong khi nó đã thọ mạng lịnh mà làm như Thoại buổi
nọ thì chính mình Qua không để đức tin. (2).
Qua lại nghĩ: Phải chăng nó là một đứa đã tiền
định đứng vào công nghiệp cứu dân, cứu nước? Nếu Qua từ chối thì thất công
nghiệp của nó; nên Qua ưng thuận cho nó làm. Hôm nay nếu nó phải chịu tù tội
ngục hình thì có lẽ quyền Thiêng Liêng biết trước hơn Qua nữa. Để cho nó chịu
tức nhiên quyền Thiêng Liêng muốn vậy đặng cho danh thể của nó thêm cao giá
trị. Mấy em chuyển lời dẫn giải nầy cho em Lê Văn Ca đặng hiểu biết.
.Về vụ em Đinh
Thành Kỳ.
Kỳ đã nằm mộng
tiếp đặng mấy bài thi văn mà mấy em đã gởi lên cho Qua. Qua đọc đi đọc lại mấy
bài thi thì Qua thấy về phần văn chương chịu ảnh hưởng của phái Tiên Thiên là
nhiều hơn hết. Văn thi nói nhiều điều huyền bí cao kỳ... Nhưng Đinh Thành Kỳ đã
quên mất nhiều câu nên văn thi ấy nghĩa lý tối tăm làm cho ta không thể hiểu rõ
sự huyền bí trong thi phú... Có thể gọi là tiên tri mà hôm nay chúng ta không
thể hiểu rõ đặng. (3)
Sự khó hiểu của
mấy bài thi còn do thiếu mấy câu, bởi vì Đinh Thành Kỳ đã quên hẳn trong giấc
mộng. Nó làm cho Qua khó hiểu thấu phần nghĩa lý tối tăm ấy đặng. Song ta phải
nhìn nhận rằng điềm chiêm bao của nó không phải là mộng ảo, nhưng do kiến thức
hành văn không rõ rệt mà thôi. Mấy em nói lại cho Kỳ được hiểu.
. Sau đây là những
tờ Ủy nhiệm của Nữ Phái HBGH miền Trung mà mấy em đã cầu Qua phê chuẩn. Qua ký
tên gởi theo đây đặng mấy em giao lại cho họ.
Đến đây Qua chấm
dứt các vấn đề của mấy em đã thỉnh giáo.
Qua đã lưu vong
nơi xứ người nên hằng ngày Qua vẫn trông mong Phúc Sự của mấy em về tình hình
trong nước đối cùng đời cũng như đối cùng Đạo. Nhứt là các hành động của mấy em
về CSHBCS và HBGH. Nhưng Qua chưa có đặng tin tức chi về HBCS của mấy em. Vậy
mấy em cho họ biết rằng Qua đang trông tin của họ.
Theo tin tức Qua
thâu đặng thì dường như HBCS đã có ảnh hưởng rất nhiều trong quần chúng, dầu
cho họ không có đủ can đảm mà thi hành trọn vẹn theo bản CLHBCS.
Họ phải mở con
đường khác mới thi hành cho kỳ đặng CSHBCS, nhưng họ chịu ảnh hưởng rất mạnh mẽ
nhờ công nghiệp của mấy em chịu mọi khổ hạnh đặng giác mê cho họ.
Kỳ rồi Qua có định
mở thêm Ban Cố Vấn cho chính sách ấy do nơi mấy em Sĩ Tải đảm nhiệm. Song Qua không
thấy chúng trả lời. Mấy em hỏi lại coi sự quyết định đó ra thế nào?
Trước khi dứt lời
Qua cầu xin Đức Chí Tôn Đức Phật Mẫu và các Đấng Thiêng Liêng phù hộ mấy em làm
tròn phận sự cứu nước, cứu dân của mấy em.
Qua ban phép lành cho toàn thể mấy em cả Nam lẫn Nữ và mấy em chuyển lời
khen tặng của Qua đến Ủy Ban miền Trung và miền Bắc.
Khuyên họ cố gắng
lập thành ủy ban miền Bắc đặng khi Qua trở về có sẳn cơ quan ấy để đưa danh
sách HBCS của mình ra đến ngoài ấy.
Một lần nữa Qua
ban ơn lành cho mấy em cả thảy.
Kiêm
Biên ngày 08-4-Mậu Tuất.
(26-5-1958)
Hộ
Pháp.
(Ấn
Ký).
CHÚ THÍCH.
(1)/- Lễ Hôn Phối
đầu tiên của ĐĐTKPĐ.
Chính Đức Chí Tôn hành pháp tại Tân Định vào ngày 05-6- Bính-Dần
(15-7-1926) cho ông Nguyễn Ngọc Thơ và bà Lâm Ngọc Thanh. Cả hai vị đều là
người giàu có cả về tiền bạc lẫn tâm đạo và đã có gia đình riêng (có con riêng)
trước đó. Hai vị đã gá nghĩa với nhau trước khi biết ĐĐTKPĐ. Đến khi ngộ đạo
thì Đức Chí Tôn cho hai vị thọ phép hôn phối. Đồng tử phò loan trong Lễ hôn
phối đó là Đức Cao Thượng Phẩm và Đức Hộ Pháp tại nhà ông Nguyễn Ngọc Thơ. Đó
là lễ Hôn Phối đầu tiên của ĐĐTKPĐ.
Hai vị đã đem công sức và tiền của phụng sự cho Đạo, trợ giúp tiền bạc
cho những người đi hành đạo hay ấn tống kinh sách và mua số đất để tạo Cực Lạc
Cảnh....cả hai vị là một trong những rường cột của ĐĐTKPĐ.
Đành rằng tiền bạc không phải là tất cả nhưng việc Đạo diễn ra trong xã
hội nên có rất nhiều việc trong đời thường phải cần đến tiền bạc mới giải quyết
được. Việc giàu sang và có tâm đạo như hai vị không phải là tình cờ mà đó là
những nhân tố mà Chí Tôn chuẩn bị cho việc khai đạo rất khó khăn trong buổi
đầu.
Cách xài tiền của 02 vị và những vị khác nữa trong ĐĐTKPĐ hoàn toàn
khác với nhiều vị ngày nay đập bỏ di tích của Đạo để xây cái mới rất vô ý thức
và vô nghĩa lý.
Thí dụ như đập bỏ HỘ PHÁP TỊNH ĐƯỜNG ở Trí Giác Cung là nơi Đức Hộ Pháp
từng lui tới... để thay vào đó một căn nhà rất phản cảm... Vô ý thức vì không
biết bảo tồn di tích tôn giáo; vô nghĩa vì đồng tiền xài không đúng chổ. Đồng
tiền của họ đem ra để xóa đi dấu tích công quả của nhơn sanh khi lập HỘ PHÁP
TỊNH ĐƯỜNG. Tại thời điểm đó người đạo rất nghèo mà xây dựng nên HỘ PHÁP TỊNH
ĐƯỜNG như vậy là thể hiện tấm lòng của họ. Tấm lòng đó ngày nay bị những tay
trọc phú háo danh xóa bỏ. Chúng ta có chấp nhận việc xóa bỏ di tích tôn giáo và
dấu vết công quả của tiền nhân chăng?
Chúng tôi tin rằng khi cơ đạo phục hồi 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh sẽ có
quyết định kêu những người phá bỏ di tích tôn giáo nầy ra dỡ căn nhà của họ về
để toàn đạo xây dựng lại HỘ PHÁP TỊNH ĐƯỜNG đúng với buổi ban sơ. Căn nhà được
phục hồi nầy có một bia ghi rõ là nhà phục hồi và lý do vì sao phục hồi để tạo
ý thức chung cho người đạo. Chúng ta không thể chấp nhận những kiểu phá hoại di
tích tôn giáo bằng chiêu bài công quả như thế.
Nó cũng giống như khi Pháp chiếm Đền Thánh họ cạy gạch về lót chợ cá
Tây Ninh. Khi Đức Hộ Pháp từ Madagascar về Pháp ngõ lời trả lại số gạch khác.
Đức Hộ Pháp không chấp nhận; rồi Ngài sắp đặc công quả ra chợ cá Tây Ninh cạy
số gạch mà thực dân Pháp đã lấy trong nền Đền Thánh đem về rửa ráy sạch sẽ rồi
lót lại trong Đền Thánh như củ. Gạch của thực dân Pháp đền hẳn là phải đẹp hơn
nhưng đó không phải là gạch của người đạo hiến để làm Đền Thánh. Cái giá trị ở
cách thức viên gạch đến với Hội Thánh như thế nào chớ giá cả viên gạch chưa
phải là giá trị.
Ông Nguyễn Ngọc Thơ sau là Thái Đầu Sư Thái Thơ Thanh.
Bà Lâm Ngọc Thanh sau là Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh. Nhìn vào mặt tiền
Đền Thánh bên tay trái có Tượng của Bà Nữ Đầu Sư Hương Thanh bên phái Nữ.
a/- Ngài Đầu Sư
Thái Thơ Thanh (1873-1950).
Ngài Đầu Sư Thái
Thơ Thanh, thế danh là Nguyễn Ngọc Thơ, tên thật là Nguyễn Văn Tơ, sanh năm
1873 tại quận Bãi Xàu tỉnh Sóc Trăng, sau lên Sài Gòn lập nghiệp ở Tân Định.
Con đường kinh
doanh của Ngài thành công rực rỡ. Khi vào Đạo rồi Ngài đem tài vật phụng sự Đạo
rất tích cực.
Khi Đức Hộ Pháp đi
Paris 1954 có một người Pháp được Ngài Thái Thơ Thanh chứng đàn trong Lễ Nhập
Môn đến thăm phái đoàn... trong Âu Du Ký
Ngài Bảo Đạo ghi lại như sau:
Ngày 8 tháng 5 Giáp-Ngọ (8-Juin-1954):
.... 03g00 chiều
Ông Tòa Weil đến, hẹn ngày thứ năm 10 Juin sẽ rước ĐỨC HỘ-PHÁP và chúng tôi đi
Nantes.
04g30 chiều Ông
Weil chưa về thì có Đạo-Hữu Renard Roger, nhà ở đường Elisé Reclua số 26
Nanterre, đến thăm ĐỨC HỘ-PHÁP. Tôi tiếp Ông vào phòng bên cạnh. Ông nói rõ
lai-lịch mới biết rằng Ông khi trước có ở
Tiếp chuyện với
tôi một lúc, Ông Weil ra về, ĐỨC HỘ-PHÁP trở vô gặp Ông Renard Ông rất mừng rỡ
và khi nghe tin Ông Thái ĐẦU-SƯ tử-nạn, Ông mủi lòng khóc tức-tửi. ĐỨC HỘ-PHÁP
và Tôi thấy người Đạo-Hữu đã vì hoàn-cảnh phải xa Đạo gần 20 năm mà vẫn còn
tâm-đạo nên cũng bùi-ngùi. ĐỨC NGÀI và Tôi để cho Ông khóc một lúc cho hả
bớt tất lòng rồi mới khuyên lơn Ông và cho biết rằng từ nay ĐỨC NGÀI sẽ mở một
Văn-Phòng Đạo tại
b/- Bà Nữ Đầu Sư
Hương Thanh (1874-1937).
Bà Nữ Đầu Sư Hương Thanh, thế danh là Lâm Ngọc Thanh, sanh năm Giáp Tuất
(1874) tại làng Trung Tín, quận Vũng Liêm, Tỉnh Vĩnh Long.
Bà Lâm Ngọc Thanh là vợ của ông Huyện Huỳnh Ngọc Xây, nên bà thường gọi là
bà Huyện Xây, là một nghiệp chủ rất giàu có tại Vũng Liêm. Ông bà Huyện Xây có một người con gái tên là Huỳnh Thị Hồ.
Ông Huyện Xây chết, bà gá nghĩa với ông Huyện Hàm Nguyễn Ngọc Thơ, một
nghiệp chủ ở Tân Định Sài Gòn.
c/- Ngọc Hồ là
Huỳnh Thị Hồ.
Là con riêng của
Ông Huyện Xây và bà Lâm Ngọc Thanh. Ông và bà có một
người con gái tên là Huỳnh Thị Hồ.
Trong
kỳ Phong Thánh Nữ-phái lần thứ I ngày 14 tháng giêng năm Đinh Mão (dl:
15-2-1927), Đức Chí Tôn phong Bà Huỳnh thị Hồ, vào phẩm Nữ Giáo Sư, Thánh danh
Hương-Hồ.
Trong danh sách
Giáo Sư đứng thứ tự số 06.
d/. Hai Hương là
Nguyễn Thị Hương.
Con gái của Ngài
Nguyễn Ngọc Thơ là Nguyễn thị Hương, có chồng là Trương Văn Tuấn, chủ nhà
in Đức Lưu Phương (có in
nhiều Kinh Sách cho Hội Thánh) ở Tân Định.
Bà Nguyễn thị
Hương cũng theo cha nhập môn vào Đạo Cao Đài, đắc phong phẩm Giáo Hữu ngày
14-Giêng-Đinh Mão (dl 15-2-1927) đàn cơ Phong Thánh Nữ phái kỳ I.
Trong danh sách
Giáo Hữu Bà đứng thứ tự số 10.
***:/- Hai vị nầy
là hậu duệ của Ngài Nguyễn Ngọc Thơ và Lâm Lâm Ngọc Thanh. Và cả hai vị đang là
chức sắc.
Như vậy việc đòi
bán lại số đất vùng Cực Lạc Cảnh nầy xãy ra sau khi Ngài Thái Thơ Thanh và Bà
Nữ Đầu Sư tạ thế.
Đây là việc làm do
nơi 02 người con của các vị, không liên quan đến tiền nhân.
Câu viết của Đức
Hộ Pháp:
Hội Thánh lại chia
phần tiền ấy ra hưởng huê hồng y như phúc sự của mấy em đã nói là một điều bất
công và bất chánh.
Thiết tưởng là
điều mà sau nầy Hội Thánh nên tránh xa.
Đọc vi bằng Hội
Nhơn Sanh năm Giáp Dần (1974) chúng ta thấy Nhơn Sanh đã thẳng thắn chất vấn
Hội Thánh nhiều vấn đề. Chúng tôi xin đơn cử ra để thấy:
Vấn đề 1: Tại
trang 129. (tự sửa bản đồ Long Hoa Thị)
Hội Nhơn sanh chất
vấn vì sao Hội Thánh công bố bản đồ Long Hoa Thị trái với bản đồ của Đức Hộ
Pháp để lại?
Hội Thánh nhìn
nhận có sửa bản đồ của Đức Hộ Pháp.
Nhưng chưa giải
quyết dứt khoát vấn đề nầy về pháp lý.
Một việc quan
trọng như thế tại sao Hội Thánh sửa và không đưa ra 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh
bàn thảo? Theo Nội Luật Hội Thánh thì Hội Thánh có đủ quyền tự sửa cải bản đồ
của Giáo Chủ hay không?
Vì vậy những Hội
Nhơn Sanh tới đây bản đồ Long Hoa Thị sẽ được mang ra để làm rõ là: Long Hoa
Thị phải chỉnh trang theo bản đồ của Đức Hộ Pháp hay bản đồ của Hội Thánh đã
chỉnh sửa?
Hiện nay chánh
quyền Việt Nam không công nhận quyền tư hữu về đất mà chỉ công nhận quyền sử
dụng đất. Nhưng điều nầy trái với tập tục và trào lưu thế giới nên khó mà tồn
tại. Còn ĐĐTKPĐ thì miên viễn trường tồn; nếu Long Hoa Thị không do Đạo làm chủ
thì chương trình phụng sự nhân loại của ĐĐTKPĐ bị trở ngại...
Vấn đề 02: Tại
trang 232. (Cấp đất sai pháp luật đạo).
Hội Nhơn Sanh chất
vấn thẳng thắn Ngài Thái Chánh Phối Sư Thái Hiểu Thanh cấp 02 phần đất (ở
Trường Lưu) cho CÙNG MỘT người thân... Ngài Thái Hiểu Thanh phải xin khất lại
hẹn trả lời sau... Việc khất lại trả lời sau là đúng hay sai với nội luật Hội
Nhơn Sanh?
Xin xem qui định
Nội Luật Hội Nhơn Sanh tại điều thứ hai:
Thái và Ngọc Chánh Phối Sư và các Quản lý Toà Nội
Chánh đều đến dự Hội hoặc trả lời những điều nào nghị viên không rõ mà xin bày
tỏ hoặc minh triết những vấn đề nghị viên hạch hỏi. Nếu một vấn đề nào bị công kích thì Chánh Phối Sư hay là Quản lý
thuộc về vấn đề ấy phải trả lời hay là bày tỏ cho khỏi sanh điều khó khăn cho
việc bàn cải.
@@@
Như vậy các chất
vấn tại Hội Nhơn Sanh phải TRẢ LỜI LIỀN. Ngài Thái Hiểu Thanh hẹn trả lời sau
là sai với Nội Luật Hội Nhơn Sanh.
Nhưng không rõ vì
sao các thành phần tại Đại Hội không nêu ra?
Trong tương lai những
điều như vậy không nên để xãy ra. Nếu nhỡ như có những sơ sót thì Thanh Tra
Chánh Trị Đạo sẽ có ý kiến chấn chỉnh giúp cho tính pháp lý những kỳ hội sau
được rõ ràng.
@@@
Tại sao điều 02
qui định chỉ có Thái Và Ngọc Chánh Phối Sư đến dự hội? Bởi vì Ngài Thượng Chánh
Phối Sư là Nghị Trưởng Hội Nhơn Sanh nên phải có mặt tại đại hội. Như vậy là đã
đủ 03 vị Chánh Phối Sư.
@@@
Những phân tích
trên có phải công kích hay nghịch mạng Hội Thánh hay không?
Xin thưa căn cứ
theo luật đạo để phân tích không bao giờ bị qui vào 02 diện trên; mà trái lại
nó rất cần thiết để người đạo tuân y luật đạo.
Các vị chức sắc
căn cứ vào PCT để chất vấn rằng Phước Thiện không có trong PCT là việc nghiêm
túc. Đức Hộ Pháp đã giải thích rõ rằng PCT ở trong thiên thơ mà ra thì Phước
Thiện cũng trong thiên thơ mà ra... và còn nhiều cơ quan của Đạo sau nầy cũng
sẽ ra đời từ thiên thơ.... nhờ vậy mà nguồn gốc của Phước Thiện được sáng tỏ...
Trong diễn văn
ngày 15 - 8 - Quí Dậu (dl 4 - 10 - 1933). Đức
Hộ Pháp dạy: ....Thật ra thì nhơn
sanh ngày nay còn theo người chớ chưa theo Thầy, nghe Chức sắc chớ không nghe
Đạo. Nếu chúng sanh theo người thì là theo phàm tâm, mà phàm tâm vốn một người
một thể, dầu cho tánh đức của mấy vị Giáo chủ cũng chẳng phù hợp nhau nên sanh
hại chia phe lập phái.....
....Cũng vì chư
Đạo hữu trong Hội Nhơn Sanh chưa hiểu rõ quyền hành nên Chức Sắc Thiên Phong
lộng phép. (Xin chư Đạo hữu lưỡng phái đọc luật cho thường, rồi kiếm hiểu).
....
Hễ phá pháp luật là phá giá trị của Hội Thánh, mà Hội Thánh mất giá trị thì Đạo
phải điêu tàn tiêu diệt. Bần đạo tưởng muốn hại Đạo, không có thế nào hay hơn là phá
tiêu pháp luật.
Hiệp Thiên Đài là cơ quan bảo thủ chơn truyền có nên
để cho Chức sắc lộng quyền phá tiêu pháp luật hay không? Bần đạo để cho
chúng sanh định lý mà trả lời giùm, chớ ngòi bút của kẻ biết tu chẳng nỡ để câu
ác luận. Chức sắc Thiên phong cốt để thi hành luật pháp, chớ chẳng phải nương
chánh giáo đặng làm quyền. Hễ vị nào lập thế lực riêng thì vị ấy tự nhiên lộng
pháp.
@@@
Tóm lại căn cứ vào
pháp luật đạo để xây dựng chánh giáo về mọi mặt là điều cần thiết. Còn thực tế
có một số người đạo không học, thích hành xử theo kiểu bắt chước nên rất dễ bị
sai mà không hay. Tệ hơn nữa là họ không lắng nghe, không chấp nhận thảo luận
(vì không chịu học nên không có vốn để thảo luận) nhưng lại tự cao nên sẳn sàng
quay ra công kích và chụp mũ những người căn cứ vào văn bản của đạo làm khuôn
thước.
Luật đạo cho phép
căn cứ vào văn bản hay luật pháp đạo để kích trách, trích điểm, phê bình công
khai. Còn công kích, nghịch mạng là những phát biểu tùy tiện, không căn cứ vào
pháp luật đạo hay văn bản của Hội Thánh. Nói rõ như thế để tránh những ngôn
luận không hay.
Cái khác nhau về
căn cơ là: một đàng thì là căn cứ vào văn bản để làm rõ và đi đến thống nhất để
thực thi; còn một đàng thì nói theo cảm tính không căn cứ vào văn bản rồi biện
minh rằng do trung với Hội Thánh nên ai phát biểu khác với họ thì họ chụp mũ là
công kích Hội Thánh.
Ai cũng muốn mình
theo đúng chánh giáo chơn truyền nhưng trên thực tế rất nhiều người không biết
chánh giáo dạy như thế nào?
Họ có lòng với
chánh giáo nhưng không để công ra tìm hiểu xem chánh giáo dạy như thế nào. Khá
hơn nữa là nhiều người có tìm hiểu nhưng lại không phân biệt giá trị cái nguồn
từ Hội Thánh (mới đáng tin) còn cái nguồn do cá nhân biên soạn (chưa được Hội
Thánh kiểm duyệt) chớ nên vội tin. Ngày nay lên tìm thông tin trên net cái
nguồn không do Hội Thánh nhiều hơn cái nguồn do Hội Thánh ban hành như vậy bảo
sao không bị lầm lạc.
Đó là ghi nhận từ
thực tế chớ không phải tưởng tượng hay phóng đại để quảng bá cá nhân. Muốn giúp
nhau hiểu được chánh giáo trong tình trạng Hội Thánh không cầm quyền hành chánh
chỉ có cách trông cậy vào ý thức tự giác mà thôi.
Nói rõ lần nữa là
trên đây chúng tôi đối chiếu từ vi bằng Hội Nhơn Sanh năm 1974 với Nội Luật Hội
Nhơn Sanh và lời dạy Đức Hộ Pháp để xây dựng đại nghiệp đạo trong tương lai chớ
không hề biêu riếu cá nhân một vị chức sắc nào hay là Hội Thánh. Chúng tôi theo
đạo chớ không theo chức sắc là làm đúng với lời Đức Hộ Pháp dạy.
(2) + (3)/- Xem
phụ lục về việc trương cờ Nhan Uyên năm 1956 ở cầu Bến Hải (sau khi xong phần
biên niên năm 1959).