Qua dám quả quyết rằng: Nếu một ngày nào gần đây do
chế độ tàn bạo của Ngô Đình Diệm nó làm sức mạnh cho Mặt Trận kháng chiến có
nhiều lính và họ đủ năng lực thôn tính từ Bắc chí Nam. Rồi mấy anh lớn của mấy
em ăn làm sao, nói làm sao với thành tích nào giúp ích cho tổ quốc và giống nòi
Việt Nam. (14-01-1958.
ĐỨC HỘ PHÁP)
HẾT VĂN BẢN NĂM 1957.
KÍNH MỜI XEM VĂN
BẢN NĂM 1958.
HỘ PHÁP ĐƯỜNG. VĂN PHÒNG. SỒ: 62/HP.HN |
CHÁNH
SÁCH HÒA BÌNH CHUNG SỐNG. Do
Dân - Phục Vụ Dân- Lập Quyền Dân. *** |
Kiêm
Biên ngày 25-11- Đinh Dậu.
GỞI CHO:
. EM HƯƠNG PHÁN Nữ
Khâm Châu Phước Thiện Châu Đốc và Mấy em.
Qua có đặng Phúc
Sự số 15 ngày 10-11- Đinh Dậu và TỜ THỈNH GIÁO của mấy em về Chánh Sách Hòa
Bình Chung Sống.
. Có phải Hội Thánh Hiệp Thiên Đài lãnh lịnh
nơi Qua hay là Hội Thánh Cửu Trùng Đài mà rất nhiều người đi trong các Tỉnh tổ
chức tin thất thiệt, nhứt là tiền bạc làm cho Đạo hoang mang.
Điều mà Qua đã nói
rõ trong lịnh số 4: Hễ Chức Sắc dầu cầm quyền Hội Thánh cũng phải gửi chức
mới lãnh lịnh nơi Qua đặng làm phận sự công dân trong chánh sách HBCS. Nếu
không vậy là lợi dụng đường lối của Qua. Từ
Chức việc đến Chức sắc Đại Thiên Phong cũng vậy đều phải từ chức mới tham gia
vào đường lối Hòa Bình. Vậy khi nào có giấy ủy nhiệm của Qua mới đặng
tin.
Từ đây Qua không
nhận số tiền gì của ai gởi cho Qua, mấy em ngưng tất cả hoạt động về tiền; vì
đó mà sanh ra việc bắt bớ mấy em ở Tòa Thánh khổ vì Qua.
. Phần mấy vị Chức sắc lớn đang cầm quyền Đạo trong
Hội Thánh.
Kể từ ngày Thượng
Sanh về Tòa Thánh không còn liên lạc gì với Qua hết về Đạo (1). Về chánh sách
HBCS họ cũng từ khước. Qua không dè những tay cầm giềng mối Đạo gọi là thay cho
Qua hôm nay lại trở thành tay chơn, làm nhân viên đắc lực của chánh phủ Ngô
Đình Diệm.
Công trình Qua đào
tạo từ 30 năm qua, từ thử đến giờ, họ không làm điều gì, dù nhỏ hay lớn, đặng
giúp ích cho xã hội nhơn quần. Giờ phút này đồng bào đang lâm vào nạn chia đôi
đất nước. Chiến tranh nội chiến, cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt, không phương
cứu chữa vì đôi ảnh hưởng. Nên Qua mở giải pháp “thêm bạn bớt thù”, đặng có cơ
hội cho cả con cái Đức Chí Tôn trong cửa Đạo lãnh lịnh nơi Qua thực thi chánh
sách cứu dân, cứu nước cho toàn thể quốc dân Viêt Nam thấy cái “Nhơn nghĩa” của
Đạo Cao Đài đối với Tổ Quốc và chủng tộc Việt Nam… Giải pháp ấy hôm nay trở
thành bánh vẽ.
Qua dám quả quyết
rằng: Nếu một ngày nào gần đây do chế độ tàn bạo của Ngô Đình Diệm nó làm sức
mạnh cho Mặt Trận kháng chiến có nhiều lính và họ đủ năng lực thôn tính từ Bắc
chí Nam. Rồi mấy anh lớn của mấy em ăn làm sao, nói làm sao với thành tích nào
giúp ích cho tổ quốc và giống nòi Việt Nam. (2)
Giờ phút nầy Qua
chỉ còn trông cậy nơi mấy em Nam Nữ trong cửa Đạo cố gắng làm Nhơn Nghĩa đeo
đuổi chánh sách thêm bạn bớt thù cho đến ngày thống nhất đất nước chấm dứt nạn
sanh sát giữa tình huynh đệ ruột thịt của mấy em.
Kể từ đây các ban
HBCS và HBGH chung hiệp ở Tòa Thánh và mấy em làm việc trực tiếp với Qua. Lịnh
15 lên đường của Bảo Đạo dạy đi ra vĩ tuyến 17 qua đã hủy bỏ trong thơ số ...
Qua đã gởi cho ban Trung Ương và Ban Miền Nam ở Tòa Thánh. Qua sẽ ban Ủy nhiệm
thơ cho mấy em.
Nếu nơi nào dầu
chức sắc nhỏ lớn hoặc bất cứ người nào cũng vậy đi tổ chức hòa bình mà không có
mạng lịnh của Qua là giả dối để lường gạt chúng sanh mà thôi. Mấy em phải sáng
suốt để bảo vệ chánh sách của Qua tồn tại cho đến ngày thống nhất đất nước Thầy
Trò ta hội hiệp nơi Tổ Đình.
. Về phần Phối Sư Trần Quang Vinh.
Từ ngày Qua lên Nam Vang đến nay, Người không
có đến gặp Qua lần nào. Việc người tổ chức hiệp với Ngô Đình Diệm Qua không có
một dính líu mảy may nào trong tổ chức đó và Người không có lãnh lịnh gì của
Qua. Mấy em nên phổ biến cho cả thảy đều hay biết. (2).
Em nói lại với mấy
em Nam Nữ ở Châu Đốc rằng Qua để lời cảm ơn cả thảy. Từ ngày Qua lên Nam Vang
mấy em cực khổ với Qua.
Trước khi dứt lời
Qua cầu nguyện Đại Từ Phụ, Đại Từ Mẫu ban đầy đủ ân huệ cho cả thảy mấy em nơi
Tỉnh Châu Đốc đầy đủ tinh thần lo việc Đạo cứu dân cứu nước.
Kiêm
Biên ngày 25-11- Đinh Dậu.
14-01-1958.
Hộ
Pháp.
(Ấn
Ký)
&&&
(1)/- Đức Thượng
Sanh về Toà Thánh hành đạo ngày 15-4-Đinh Dậu (14-5-1957), do vi bằng ngày
10-3- Đinh Dậu (9/4/1957) của Hội - Thánh CTĐ và Phước Thiện nam nữ yêu cầu.
Khi Đức Thượng
Sanh cầm giềng mối Đạo có thâu hồi phẩm tước một số vị hoạt động cho HBCS. Có
lẽ đó là một phần làm cho nhiều người nghĩ rằng Đức Ngài phản lại Đức Hộ Pháp
(một phần nữa là do các văn bản của Đức Hộ Pháp quở trách Đức Thượng Sanh...).
Riêng việc Đức
Thượng Sanh thâu hồi chức phẩm một số vị theo chúng tôi chính là làm theo lịnh
Đức Hộ Pháp trong văn bản trên đây:
Từ Chức việc đến Chức sắc Đại Thiên Phong
cũng vậy đều phải từ chức mới tham gia vào đường lối Hòa Bình.
Ngay trong văn bản trên
Đức Hộ Pháp cũng dạy:
Hễ Chức Sắc dầu cầm quyền
Hội Thánh cũng phải gửi chức mới lãnh lịnh nơi Qua đặng làm phận sự công dân
trong chánh sách HBCS.
Đức Ngài dạy rõ: Phải gởi
chức hay từ chức khi tham gia HBCS.
&&&
(2)/- Lời quả quyết của Đức Hộ Pháp năm 1958
đến 30-4-1975 thì thành hiện thực.
Ngày nay cả dân
tộc Việt Nam đang chịu sống trong chế độ độc đảng thối nát của cộng sản.
Xét ra cộng sản
Việt Nam đã làm tôi tớ cho cộng sản Tàu từ năm 1954 khi Tàu cộng buộc Võ Nguyên
Giáp phải dùng chiến thuật BIỂN NGƯỜI đánh trận Điện Biên Phủ. Càng chết nhiều
thì càng suy yếu. Càng suy yếu thì càng lệ thuộc Tàu Cộng. Cộng sản Tàu muốn
cộng sản Việt Nam chết đến người cuối cùng là cho chủ nghĩa cộng sản một đòn
rất thâm hiểm.
Thực chất việc đề
cao lý tưởng cộng sản là để cộng sản Việt Nam mổi ngày một lệ thuộc vào Tàu
cộng. Nên sau ngày 30-4-1975 chúng ta thấy cộng sản Việt Nam dâng Hoàng Sa,
Trường Sa và nhiều vùng đất ở biên giới
như (Ải Nam Quan và thác Bản Giốc...) để trả nợ cho Tàu.
Trước khi dâng Ải
Nam Quan cho Tàu ông Hồ Chí Minh đã chuẩn bị trước nên đổi tên thành Hữu Nghị
Quan....là một thủ đoạn lừa dối dân tộc điển hình.
Chúng tôi tin rằng
những nhà viết sử chân chính sẽ làm rõ để trả lại sự công bằng cho lịch sử.
&&&
(3)/- Đức Hộ Pháp
có 02 lần viết về Phối Sư Thượng Vinh Thanh trong khoản thời gian lên Nam Vang
(1956-1959):
Ngày 14-01-1958
(62.HP.HN):
Về phần Phối Sư Trần Quang Vinh.
Từ ngày Qua lên Nam Vang đến nay, Người
không có đến gặp Qua lần nào....
Ngày 26-5-1958
(Văn bản 15.HP.HN):
. Các em nên tuyên bố cho thiên hạ biết rằng:
Những hành vi của
Trần Quang Vinh hiệp tác cùng Ngô Đình Diệm, không có một mảy may nào dính líu
đến Qua cả. Mấy em chán biết
nếu Qua muốn hợp tác cùng Ngô Đình Diệm thì có cần chi Qua xa lánh Tòa Thánh
đến xứ Nam Vang trót trên hai năm nay.
@@@
Chúng tôi tra cứu
một số sự việc theo thời gian Đức Hộ Pháp nêu ra thì ghi nhận được một số việc
sau:
a/- Hồi ký Ngài
Trần Quang Vinh ghi lý lịch 02 phần như sau:
.LÝ LỊCH VỀ PHẦN ĐẠO
Chí
Tôn giáng cơ tại Nam Vang (Cao Miên) do Đức Hộ-Pháp và ngài Cao Tiếp Đạo phò
loan, thâu vào hàng môn đệ (tháng 6 năm 1927).
·
Ân phong Lễ Sanh ngày 27-7-1927 (âl. 29-6 Đinh Mão).
·
Thăng Giáo Hữu ngày 2-4-1930 (âl. 4-3 Canh Ngọ).
·
Thăng Giáo Sư ngày 21-3-1932 (âl. 15-2 Nhâm Thìn).
· Thăng Phối Sư ngày 15-2-1948 (âl. 7-4
Mậu Tý).
KHỔ
HẠNH VÌ ĐẠO.
·
Bị
Việt-Minh bắt: 9-10-1945 (âl. 4-9 Ất Dậu).
·
Phá
khám tự do:26-1-1946 (ÂL. 24-12 Ất Dậu) ...107 ngày.
·
Về
tới Saigon:11-2-1946 (âl. 10-1 Bính Tuất) ...15 ngày.
·
Công
An Pháp bắt: 8-5-1946 (âl. 8-4 Bính Tuất).
·
Trả
tự do:30-5-1946 (âl. 30-4 Bính Tuất) ...22 ngày.
·
Liên
Minh bắt:1-11-1953 (âl. 25-9 Quí Tỵ).
·
Trả
tự do: 18-4-1954 (âl. 16-4 Giáp Ngọ) ...168 ngày.
·
Tổng
cộng những ngày khổ hạnh vì Đạo ... 312 ngày (10 tháng lẻ 12 ngày).
CÔNG
NGHIỆP TẠI HỘI THÁNH NGOẠI GIÁO.
Từ
ngày Đức Chí-Tôn giáng cơ phong chức Lễ Sanh, ngày 29 tháng Năm Đinh Mão (dl.
27-7-1927), chuyên lo hành Đạo tại Kim Biên và tạo dựng Hội Thánh Ngoại Giáo.
Ngày
2-4-1930, thăng Giáo Hữu, trách nhiệm Quản Lý Nội Viện.
Năm
1931, sang Pháp Quốc mở Đạo, phổ độ được tất cả 15 người, trong số này có nhiều
vị được tân phong vào hàng Chức Sắc năm 1932 kể tên sau đây:
Tiếp
Dẫn Đạo Nhơn: Ông Gabriel Gobron.
Nữ
Giáo Sư: Bà Felicien Challaye.
Giáo
Hữu:Ông Charles Bellan.
Giáo
Hữu: Ông Gabriel Abadie de Lestrac.
Nữ Lễ Sanh:Bà Gabriel Gobron, sau thăng
Giáo Hữu.
Ngoài
việc phổ thông, còn lo binh vực Đạo Cao-Đài được kết quả mỹ mãn: tự do tín
ngưỡng được Chánh Phủ Pháp nhìn nhận. Lúc Giáo Hữu Thượng Vinh Thanh sang Pháp
trở về, nhân ngày vía Đức Chí Tôn năm 1932, sau thời cúng Đại Đàn, được Anh Cả
Quyền Giáo Tông, Đức Hộ-Pháp, các Chức Sắc và toàn cả Đàn hoan nghênh nhiệt
liệt.
Ngày
21-3-1932, thăng Giáo Sư, trách nhiệm Phó Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo.
Năm
1937, lãnh trách nhiệm Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo.
Từ
năm 1942 tới năm 1952, trở về Nam Kỳ, tuân lịnh Đức Lý Đại Tiên và Đức Quyền
Giáo Tông, hiệp tác với Quân Đội Thiên Hoàng, đảo chánh Pháp ngày 9-3-1945.
PHỔ
THÔNG NGOẠI QUỐC.
Pháp
Quốc: Do nơi sự can thiệp của Phối Sư THƯỢNG VINH THANH, nên ngày 3-5-1967 (âl.
24-4 Đinh Mùi) Hội Thánh Hiệp Thiên Đài biểu quyết ban phẩm Lễ Sanh tạm phong
cho bà Lê Kim Huê và từ đây tại Paris (Pháp Quốc) đã có tiểu Thánh Thất ở số 12
đường Francois Xavier, Paris 5è.
Congo
(Phi Châu): Ngày 22-3-1966 (âl. 1-3 Bính Ngọ) Phối Sư THƯỢNG VINH THANH đã phổ
thông tại đây được 32 đạo hữu nam nữ.
Ngày
7-2-1972, có tin Bàn Trị Sự Congo cho hay rằng số tín đồ đã lên 100.
Bàn
Trị Sự Congo đã thành lập ngày 1-4-1967 (âl. 22-2 Đinh Mùi) gồm 8 Chức Việc nam
phái và 2 Chức Việc nữ phái.
Chánh
Trị Sự tên Mata Georges, địa chỉ: B.P. 1371, Kinshasa (R.D. du Congo).
CÔNG
NGHIỆP TẠI TÒA THÁNH TÂY NINH.
Ngày 12-2-1952 (âl. 17-1 Nhâm Thìn), trong
phiên nhóm Đại Hội các Cơ Quan Đạo dưới quyền chủ tọa của Đức Hộ-Pháp, được ủy
quyền: Phối Sư Cố Vấn Hành Chánh Đạo kiêm Thượng Thống Hộ Viện.
Thánh
lịnh số 59 ngày 12-3-1952 (âl. 17-2 Nhâm Thìn) Cố Vấn Cho Chỉ Huy Cơ Thánh Vệ.
Thánh
lịnh số 76 ngày 25-4-1952 (âl. 2-4 Nhâm Thìn) Trưởng Ban Kinh Tế.
Thánh
lịnh số 95 ngày 28-6-1952 (âl. 7-5 Nhuần Nhâm Thìn) Nghị Trưởng Hội Đồng Tối
Cao.
Thánh
lịnh số 41 VPHP ngày 25-1-1953 (âl. 12-1 Quí Tỵ) Tổng Giám Đốc Ban Kinh Tế
Trung Ương.
Thánh
lịnh số 65 ngày 26-3-1953 (âl. 12-2 Quí Tỵ) Tải Thơ Lịnh Hành Chánh Đạo: Thay
quyền 3 Chánh Phối Sư tiếp quan khách và đi dự các Hội nhóm ngoài Đời khi có
thư mời.
Thánh
lịnh số 30/TL ngày 20-1-1964 (âl. 6-12 Quí Mão) Trưởng Ban Phổ Tế Hải Ngoại.
Ngoài
ra còn lảnh trách nhiệm:
Đại
Biểu Đạo Cao-Đài (1942-1946).
Đại
Diện Đức Hộ Pháp về mặt Quân Sự (1947-1951).
Ngày
1-11-1953 (âl. 25-9 Quí Tỵ), bị tai nạn Liên-Minh nên việc hành Đạo đứt đoạn
một thời gian.
Ngày
30-10-1961 (âl. 21-9 Tân Sửu), trở về Tòa Thánh hành Đạo, lãnh trách nhiệm sau
đây:
Phối
Sư Đặc Nhiệm: Giao thiệp với Chánh Phủ và Chánh Quyền địa phương, giao thiệp
với Quốc Tế, giao thiệp với Chi Phái.
Trưởng Ban Huấn Đạo:Cố vấn cho ba vị Chánh
Phối Sư (Cố Vấn Hành Chánh Đạo).
Nhiệm
vụ trên đây chấm dứt do bài Thánh Giáo của Đức Lý Giáo Tông giáng tại Cung Đạo
Tòa Thánh Tây Ninh đêm rằm tháng Tư năm Giáp Thìn (dl. 26-05-1964).
.LÝ LỊCH VỀ PHẦN ĐỜI.
Trần
Quang Vinh, sanh tại Long Xuyên ngày 8-9-1897.
·
Cựu sinh viên tốt nghiệp trường Chasseloup-Laubat, Saigon.
·
Công Chức: Thông Phán ngạch Chánh Phủ Pháp Bảo Hộ tại Nam Vang (Cao Miên).
·
Công Cán tại Pháp Quốc nhân dịp Đấu Xảo Quốc Tế tại Vincennes (Paris) năm 1931.
·
Sáng lập Quân Đội Cao Đài năm 1943 Đệ Nhứt Tổng Tư Lịnh.
·
Bộ Trưởng Quốc Phòng trong Chánh Phủ Nguyễn Văn Xuân từ 1-6-1948 đến 30-6-1949
và trong Chánh Phủ Bảo Đại từ ngày 1-7-1949 đến 31-1-1950.
·
Tổng Trưởng Bộ Quân Lực trong Chánh Phủ Trần Văn Hữu từ ngày 6-5-1950 đến
28-2-1951.
·
Công Cán Chánh Phủ về Quân Sự tại Pháp Quốc trong thời gian 6 tháng kể từ
9-3-1951.
·
Phó Chủ Tịch Thượng Hội Đồng Quốc Gia từ ngày 24-9-1964 đến ngày 19-12-1964.
·
Phó Chủ Tịch Hội Đồng Quốc Gia Lập Pháp từ ngày 17-2-1965 đến ngày 19-6-1965.
Tòa Thánh Tây Ninh.
Ngày rằm tháng 4 năm Nhâm Tý (dl.
27-5-1972).
TRẦN QUANG VINH.
Đạo Hiệu HIỂN
TRUNG.
@@@
TÌM HIỂU TỪ HỒI KÝ.
1/- Ghi lại mốc thời gian:
a/- Phần Đạo (từ 1953 đến khi bị ngưng quyền chức 1964):
Ngày 1-11-1953 (âl. 25-9 Quí Tỵ), bị tai nạn Liên-Minh nên
việc hành Đạo đứt đoạn một thời gian.
Ngày 30-10-1961 (âl. 21-9 Tân Sửu), trở về Tòa Thánh hành
Đạo, lãnh trách nhiệm sau đây:
Phối Sư Đặc Nhiệm: Giao thiệp với Chánh Phủ và Chánh Quyền
địa phương, giao thiệp với Quốc Tế, giao thiệp với Chi Phái.
Trưởng Ban Huấn Đạo: Cố vấn cho ba vị Chánh Phối Sư (Cố Vấn
Hành Chánh Đạo).
Nhiệm vụ trên đây chấm dứt do bài Thánh Giáo của Đức Lý Giáo
Tông giáng tại Cung Đạo Tòa Thánh Tây Ninh đêm rằm tháng Tư năm Giáp Thìn (dl.
26-3-1964).
b/- Phần đời: (từ 1951 đến 1965).
· Tổng Trưởng Bộ Quân Lực trong Chánh Phủ Trần Văn Hữu từ
ngày 6-5-1950 đến 28-2-1951.
· Công Cán Chánh Phủ về Quân Sự tại Pháp Quốc trong thời gian
6 tháng kể từ 9-3-1951.
· Phó Chủ Tịch Thượng Hội Đồng Quốc Gia từ ngày 24-9-1964 đến
ngày 19-12-1964.
· Phó Chủ Tịch Hội Đồng Quốc Gia Lập Pháp từ ngày 17-2-1965
đến ngày 19-6-1965.
@@@
2/- Đối chiếu và ghi nhận:
2.1./- Với Thánh Lịnh Quốc Gia hóa Quân Đội Cao Đài.
Đức Hộ Pháp ký Thánh Lịnh Quốc Gia hóa Quân Đội Cao Đài ngày
02-5-1955:
Điều thứ nhứt.
-Từ
đây Quân Đội Cao Đài đã quốc gia hóa tức là thành Quân Đội Quốc Gia dưới quyền
chánh phủ Việt Nam điều khiển, nên Hộ Pháp không còn làm Thượng Tôn Quản Thế
cho Quân Đội nữa.
Điều thứ nhì:
-
Các chiến sĩ đã dày công hạn mã thâu hồi độc lập cho Tổ Quốc Việt Nam đã trót
10 năm chinh chiến đặng trọn quyền lựa chọn hoặc vào hàng ngũ Quân Đội Quốc Gia
Việt Nam hay là trở về cùng Đạo.
@@@
a/- Đức Hộ Pháp thực hiện Thánh Lịnh: chọn đường Đạo.
Nơi điều thứ nhứt Thánh Lịnh viết:
Hộ
Pháp không còn làm Thượng Tôn Quản Thế cho Quân Đội nữa.
Chúng ta thấy rõ chính Đức Hộ Pháp đã gương mẫu thực hiện
Thánh Lịnh.
@@@
b/- Ngài Phối Sư chọn đường Đời:
Ngài Thượng Vinh Thanh còn tham gia vào chánh quyền Việt Nam
Cộng Hòa sau khi Thánh Lịnh ban hành (02-5-1955) đến ngày 30-10-1961 (âl. 21-9
Tân Sửu) mới trở về Tòa Thánh hành Đạo.
Tính ra hơn 06 năm sau Ngài Phối Sư mới về hành đạo.
(Tháng 11-1954 Ngài Phối Sư đã về Việt Nam. Trong khoản thời
gian nầy lý lịch để trống).
@@@
Lưu ý rằng điều 02 Thánh Lịnh viết rõ: đặng trọn quyền lựa chọn hoặc
vào hàng ngũ Quân Đội Quốc Gia Việt Nam hay là trở về cùng Đạo.
Nghĩa là Thánh Lịnh
cho phép các chiến sĩ Cao Đài được tự quyền chọn một trong hai con đường:
. Trở về cùng Đạo.
. Tiếp tục binh nghiệp thì theo quốc gia hành sự.
Nên người tiếp tục theo binh nghiệp vẫn là người thi hành
Thánh Lịnh. Nếu hiểu các chiến sĩ Cao Đài tiếp tục theo binh nghiệp phục vụ cho
quốc gia không thi hành thánh lịnh là không công bằng, là hiểu sai.
Bởi vì Thánh Lịnh cho phép các chiến sĩ chọn một trong hai con
đường. Mổi con đường dĩ nhiên có khuôn luật định rõ.
Kết luận 1:
Ngài Thượng Vinh Thanh TỰ Ý chọn con đường tiếp tục binh
nghiệp, theo quyền đời như lý lịch Ngài đã viết.
@@@
Hồi Ký không viết rõ:
. Sau khi quốc gia hóa (02-5-1955) Ngài làm nhiệm vụ gì trong
chế độ Ngô Đình Diệm cho đến ngày 30-10-1961 (âl. 21-9 Tân Sửu) là ngày trở về Tòa Thánh hành Đạo.
Khoản thời gian hơn 06 năm nầy Hồi Ký để trống.
Thực tế thì Ngài Phối Sư đã làm gì? Có cộng tác với Chính Phủ
Ngô Đình Diệm như sự phản ánh của Bà Nữ Khâm Châu Phước Thiện Châu Đốc cùng bổn
đạo hay không?
Đức Hộ Pháp viết rõ 03 việc:
. Ngài Phối Sư có hợp tác với chế độ Ngô Đình Diệm.
. Từ năm 1956 đến 26-5-1958 Ngài không có lên Kiêm Biên gặp
Đức Hộ Pháp lần nào hết.
. Ngài Phối Sư TỰ Ý hợp tác với Ngô Đình Diệm chớ Đức Hộ Pháp
không hề cho phép.
@@@
Để cho sự việc được rõ ràng trong lẽ công bằng chúng ta cũng
nên tự hỏi: Ngài Phối Sư có lãnh khổ nhục kế để thi hành hay không?
Nếu có thì vì sao Ngài không thố lộ trong Hồi Ký? (Thời gian
viết Hồi Ký thì chế độ Ngô Đình Diệm đã sụp đổ).
Trong văn bản 10.HP.HN ngày 22-02-1958 Đức Hộ Pháp viết:
Mấy
em có cho Qua biết rằng mấy em đã gặp Hiến Pháp ở Saigon những lời căn dặn của
người về vụ can thiệp của Phối Sư Trần Quang Vinh và 96 người được thả trong
lúc đã bị cường quyền NĐD bắt giam cầm trót năm nay không tội tình và án tiết
chi....
@@@
Bấy nhiêu đó có đủ sức cho một khổ nhục kế hay không?
Theo chúng tôi là cần thêm tư liệu. Phần biên niên chúng tôi
không có tư liệu nào thêm. Còn như có quí vị nào tìm thấy xin công bố cho mọi
người cùng biết. Lưu ý rằng chúng tôi chỉ nêu sự kiện mà chưa hề kết luận chi.
Đây là việc vô cùng hệ trọng nên chắc là chỉ có Khảo Cứu Vụ của Hội Thánh mới
đủ điều kiện làm sáng tỏ.
Đức Lý Giáo Tông có dạy chuyện thưởng phạt của Thiêng Liêng
thì cấm luận nhãm bàn khùng... mà mang tội rất uổng...
Chúng tôi BIÊN NIÊN thì ghi chép và đối chiếu rồi nêu lên để
cùng nhau làm cho sáng tỏ chớ chẳng hề dám kết luận về chuyện quan trọng như
vậy. Vì không có mạng lịnh Hội Thánh nên tự kết luận CÔNG TỘI là sai ở chổ quá
quyền.
Những chữ kết luận mà chúng tôi dùng chỉ là kết luận có đúng
với pháp luật đạo hay không chớ chẳng phải dám đề cập đến công hay tội, thưởng
hay phạt của thiêng liêng.
Phải hiểu đúng mức rằng phân tích xem có đúng pháp luật hay
không là chuyện Đạo vẫn dạy người đạo nên làm và Đức Hộ Pháp cũng dạy rõ phải
đọc luật cho thường rồi kiếm hiểu. Bởi không phân tích hay tìm hiểu thì làm sao
biết điều đúng để theo và biết điều sai để tránh?
Đức Lý cấm là cấm bàn chuyện thưởng phạt. Minh định rõ điều
đó để khỏi sanh ra những dư luận không hay...
@@@
2.2/- PHẦN MỞ RỘNG (NHẬN XÉT RIÊNG):
Năm 1941 thực dân Pháp bắt Đức Hộ Pháp và một số chức sắc đày
đi Madagascar, nhiều chức sắc khác cũng bị bắt vào ngục thất trong nước hay đày
đi côn đảo... Tòa Thánh bị chiếm làm chuồng ngựa, gạch nền trong Đền Thánh Pháp
cho cạy lên đem về lót chợ cá... Pháp bắt người đạo vào đào hầm hố làm công sự
chiến đấu trong Nội Ô Tòa Thánh... hầu như toàn bộ cơ sở của Đạo ở Đông Dương
đều bị tịch thâu. Số chức sắc còn lại hiệp nhau hợp tác với Nhật lập ra Nội Ứng
Nghĩa Binh (trong đó Ngài Thượng Vinh Thanh đóng vai trò rất quan trọng).
Điều nầy có sai với Pháp Luật Đạo hay không?
Xin thưa rằng KHÔNG SAI.
Căn cứ vào đâu mà viết không sai?
Xin thưa rằng căn cứ vào Pháp Chánh Truyền chú giải phần Hiệp
Thiên Đài có dạy rõ:
...
Đức Lý Giáo Tông xin buộc cả Chức Sắc Hiệp Thiên Đài phải Minh Thệ giữa Hội
Thánh rằng: Lấy dạ vô tư mà hành Đạo, lại muốn tỏ ra rằng: Chức Sắc Hiệp Thiên
Đài thật trọng quyền, Ngài mới ban dây sắc lịnh, buộc cả Tín Đồ và cả Chức Sắc
Thiên Phong, hễ mỗi Chức Sắc Hiệp
Thiên Đài mang dây sắc lịnh vào mình mà hành chánh nơi nào, thì phải tuân mạng,
dầu lỗi quấy cũng phải chìu theo, chỉ để cho Hội Thánh có quyền định tội,...
@@@
Việc
lập ra Nội Ứng Nghĩa Binh có Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng tham gia từ buổi đầu. Ngài
Tiếp Đạo được ban dây sắc lịnh nên đủ quyền làm điều đó. Về sau Hội Thánh
ĐĐTKPĐ đã nhìn nhận việc đó là đúng.
Rồi khi Đức Hộ Pháp hồi loan (1946) với tư cách Giáo Chủ Đạo
Cao Đài cũng đã nhìn nhận Nội Ứng Nghĩa Binh và lấy lực lượng nầy lập ra Quân
Đội Cao Đài.
@@@
Chúng tôi làm rõ điều nầy để tự cầu chứng với pháp luật đạo
và trả lời với những người muốn chỉ trích rằng:
Sao lúc lập Nội Ứng Nghĩa Binh (1941) vừa làm đạo vừa cầm
súng không bảo sai đến khi Đức Hộ Pháp ký Thánh Lịnh quốc gia hóa lại buộc phải
chọn một trong hai đường.
Đức Hộ Pháp là Giáo Chủ và được ban dây sắc lịnh nên khi Ngài
ký Thánh Lịnh quốc gia hóa thì mọi người đạo phải tuân y. Các vị được ban dây
sắc lịnh khác cũng tuân y. Đó là căn cứ vào quyền hạn của dây sắc lịnh từ PCT
chú giải làm khuôn thước.
@@@
Thực ra việc lập ra Nội Ứng Nghĩa Binh có sự chỉ dẫn của
Thiêng Liêng (Đức Lý Giáo Tông và Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt) qua cơ
bút rất rõ ràng. Nhưng trong bài nầy chúng tôi chỉ nói về phần hữu hình để trả
lời với những người xuyên tạc việc lập ra Nội Ứng Nghĩa Binh là sai với pháp
luật đạo...
Chúng tôi trả lời rõ rằng: Việc lập Nội Ứng Nghĩa Binh đúng với Pháp Chánh Truyền chú giải.
Còn với những chi phái ĐĐTKPĐ không nhìn Pháp Chánh Truyền
chú giải thì không có gì để thảo luận với họ. Bởi vì không căn cứ vào PCT chú
giải thì không có cái gì làm khuôn thước rồi họ tự tung tự tác...làm cho nhơn
sanh mờ hồ đặng lợi dụng.
Một số chi phái hay cơ quan liên quan đến ĐĐTKPĐ như (Cơ Quan
Phổ Thông Giáo Lý 171/b Cống Quỳnh) đang ra sức cổ vũ cho việc chỉ nhìn PCT gốc
mà chối bỏ phần chú giải. Họ dụ cho người đạo trở về với con số 0 to tướng để
họ lên đầu lên cổ nhơn sanh mà kinh doanh đạo đức... họ đang làm Aladin dụ ông
thần đèn vào trong cái chai để đóng nút lại và chịu làm nô lệ mãi mãi... Ngày
nay họ được chính quyền Việt Nam dựng lên 09 chi phái và mấy chục cơ sở đạo rồi
muốn dìm chết cái gốc là ĐĐTKPĐ. Nhưng Đức Chí Tôn đã giao cho quyền cho nhơn
sanh tham gia vào việc giử gìn chánh giáo thì không ai diệt được ĐDTKPĐ hết.
Thậm chí Thầy còn cho quyền của Vạn Linh mạnh hơn quyền của Chí Linh tại thế.
Thầy dạy rõ rằng dù ai có quyền phép tiêu diệt càn khôn thế
giới cũng khó ngăn được đạo Thầy.
Vậy chúng ta hiểu sao về việc chi phái ông Nguyễn Thành Tám
chiếm Tòa Thánh?
Thầy cũng dạy: thảng như có kẻ dùng cường quyền đóng cửa chùa
các con cứ tuân mạng chờ ngày kia các sắc con cái Thầy về sẽ hay...
Các sắc con cái của Thầy về không chỉ bằng xương bằng thịt mà
còn về bằng cách bắt buộc cường quyền phải thực thi nhân quyền và tự do tôn
giáo. Quan sát xem có phải cả thế giới đang yêu cầu Việt Nam phải thực thi nhân
quyền và tự do tôn giáo đó chăng?
Tháng 05-2013 chủ tịch nước Trương Tấn Sang đi Mỹ để xin vào
TPP Tổng Thống Mỹ xác định: phải cải thiện nhân quyền và tự do tôn giáo. Châu
Âu và các tổ chức phi chánh phủ cũng đều yêu cầu như thế....
Thời Pháp thuộc Đạo không bị diệt.
Thời Ngô Đình Diệm khủng bố đến vậy mà Đạo vẫn lớn mạnh.
Thời cộng sản không cho Hội Thánh ĐĐTKPĐ hành chánh, xóa
trắng hành chánh đạo tôn giáo, triệt tiêu cả danh hiệu và cơ ngơi ĐĐTKPĐ...
Thêm nỗi các chức sắc Đại Thiên Phong buổi đầu đã về thiêng liêng vị. Một phần
lớn các chức sắc buổi sau đã thành người của chi phái Nguyễn Thành Tám tại Nội
Ô Tòa Thánh. Đó là bài thi rất khó khăn cho việc phục hồi cơ Đạo.
Nhưng Đức Chí Tôn sắp xếp cho internet ra đời. Internet là
một trợ thủ mạnh mẽ cho chân lý đạo và đời. Các thể chế độc tài ở mọi Châu lục
thi nhau gục ngã dưới sức mạnh internet và những thể chế độc tài còn lại đang
run sợ nên ra sức đàn áp... nhưng Thượng Đế lòng lành đã ban cho nhân loại vũ
khí internet nên tự do tôn giáo và nhân quyền sẽ chiến thắng.
Ngày cơ đạo phục hồi lại không còn xa xôi chi nữa, nó đang
đến rất rõ ràng. Nhơn sanh đang chuẩn bị các căn cứ pháp lý của Hội Thánh
ĐĐTKPĐ đã ban hành để giải quyết rõ ràng với 09 chi phái Cao Đài và mấy chục cơ
sở liên quan đến ĐĐTKPĐ trong những ngày sắp tới.
Khai thông cơ đạo lần nầy sẽ căn cứ vào khuôn vàng thước ngọc
của Hội Thánh để lại hầu giải quyết sạch sẽ các chi phái xuất phát từ ĐĐTKPĐ mà
không có mạng lịnh của Hội Thánh.
Đạo Thầy là công lý. Công lý đánh đổ cường quyền mới đáng là
Đạo của Trời lập. Thầy đã tuyên bố: Hòa Bình, Dân Chủ, Tự Do là nền tảng của xã
hội thánh đức thì Thầy cũng chỉ ra công thức, mô hình, phương án và bộ máy thực
thi. Internet chính là năng lượng cho nguồn máy ĐĐTKPĐ và nhơn sanh là người
kiểm tra chánh trị đạo thì thiệt tướng của Đạo phải nên hình.
Một chương trình toàn cầu vĩ đại như thế đương nhiên không thể
thực hiện trong một thời gian ngắn; thêm nữa là thời điểm hiện nay Hội Thánh
không cầm quyền hành chánh cho nên Báo Xa Lộ Pháp Luật mới dám mạnh miệng mĩa
mai Đạo trong 04 số báo liên tiếp (từ số 33
ngày 07-8-2013 đến số 36) cũng là dễ hiểu chẳng có chi rằng lạ.
Cái lạ và mạnh mẽ ở đây là trong thời internet nên đồng đạo
theo chơn truyền từ quốc nội đến quốc ngoại đã phản ứng tức thời và quyết liệt.
Có người còn mua vé máy bay đi ra tận Hà Nội để nói chuyện với mấy xếp của tờ
báo nầy cho ra nhẽ... Cái chiêu núp gò mối huýt sáo của mấy tay tiến sĩ
nầy...bị lôi ra và bị đập tơi tã.
Đến khi báo ra số 42 ngày 07-8-2013 đã phải có bài xin lỗi
nơi trang 20. Tính ra mất đúng một tháng. Bởi vì Hội Thánh ĐĐTKPĐ không được
quyền hành chánh nên người đạo phản đối với tư cách cá nhân; chớ nếu có Hội
Thánh thì chắc chắn tờ báo nầy không dám; mà nếu dám thì Hội Thánh sẽ đứng ra
giải quyết không đợi đến người đạo.
Cái giá trị trong mấy bài báo đó nằm ở số 36 ra ngày
17/8/2013 trang 16 cột bốn dòng 26 viết:
...Hiện
nay, Cao Đài Tây Ninh được nhà nước công nhận là một trong chín chi phái Cao
Đài hoạt động hợp pháp ở Việt Nam.
@@@
Ô hay!!! ....chi phái ông Nguyễn Thành Tám bị mấy tay Tiến Sĩ
nầy bắn ngay cổ họng rồi.... sống làm sao nổi.... Chính quyền cộng sản dấu rất
kín việc ÔNG TÁM LÀ CHI PHÁI bằng trò chơi chữ nghĩa (chỉ trong văn bản mật và
tối mật họ mới viết CHI PHÁI TÂY NINH) mà mấy tay Tiến Sĩ nầy làm lộ ra nên
đang bị khiển trách nặng nề.
Điều buồn cười là ông Đầu Sư Nguyễn Thành Tám Chưởng Quản Hội
Thánh chi phái 1997 định đánh trống lãng việc BÁO VIẾT CAO ĐÀI TÂY NINH LÀ CHI
PHÁI và tranh công nên cũng lên tiếng phản đối trên trang web caodai.net.vn rồi
bị quan chức rầy mắng té tát và ra lịnh rút bài xuống trước khi báo Xa Lộ Pháp
Luật xin lỗi.
Báo Xa Lộ Pháp Luật xin lỗi vì đã nói sai với người theo chơn
truyền. Còn với chi phái ông Nguyễn Thành Tám báo nói đúng rằng: CAO ĐÀI TÂY
NINH LÀ MỘT CHI PHÁI trong 09 chi phái nên nhà báo chẳng có gì phải xin lỗi. Họ
lịnh cho ông Tám phải rút bài xuống trước giờ báo xin lỗi.
Sau đó Ban Tôn Giáo Trung Ương tức tốc cử người vào Tòa Thánh
RÚT KINH NGHIỆM ông Nguyễn Thành Tám về vụ dám ra văn bản khi chưa được Ban Tôn
Giáo cho phép.
Chi phái 1997 mang ơn chính phủ cấp pháp nhân rồi giúp cho họ
chiếm cứ cơ ngơi và danh hiệu ĐĐTKPĐ nên phải tuyệt đối vâng lời Ban Tôn Giáo.
Muốn nói gì trước công luận phải xin phép Ban Tôn Giáo. Tướng Công An về làm
Trưởng Ban Tôn Giáo nên quản lý Ông Nguyễn Thành Tám rất hiệu quả.
Rốt lại từ khi mấy bài báo đó đăng lên thì người đạo theo
chơn truyền lập tức nắm lấy và phân tích làm rõ khiến cho mấy Tiến Sĩ viết bài
bị kỷ luật. Ông Nguyễn Thành Tám bị rút kinh nghiệm.
Ý chí, trí tuệ cùng với sự gan gốc của Tín Đồ ĐĐTKPĐ trong và
ngoài nước được internet hổ trợ đã tạo ra sức mạnh kỳ diệu buộc tờ báo phải
viết bài chịu lỗi ở số 42 trang 22.
Cho nên việc phục hồi cơ đạo là điều tất yếu.
&&&
3/- ÂU DU KÝ &
HỒI KÝ.
Theo Hồi ký Ngài Phối Sư thì sau khi bị Tướng Trình Minh Thế
bắt giam. Đức Hộ Pháp can thiệp mạnh mẽ nên ông được thả về trước khi Đức Hộ
Pháp đi Paris năm 1954.
Đến ngày 04-7-1954 Ngài Phối Sư sang Pháp và có gặp Đức Hộ
Pháp ở Paris 02 lần.
Âu Du Ký của Ngài Hồ Bảo Đạo ghi như sau:
Ngày 7 tháng 6 năm Giáp-Ngọ (6 Juillet
1954):
....4 g chiều ĐỨC
HỘ-PHÁP và phái-đoàn ra phi-trường đáp phi-cơ trở về
6g chiều Phi-cơ
cất cánh bay và một giờ sau đáp xuống phi-trường
(Theo Âu Du ký
cũng trong ngày nầy ĐỨC NGÀI nói với Ông Chauvel một câu rất lý thú là: 'Ne
mettez pas vos doigts dans le panier de crabes. (Nghĩa là: xin Ông đừng để tay
vào giõ đựng cua).
ĐỨC NGÀI muốn cho
Ông Chauvel biết rằng: 'Việc nước Nhà tôi khó lắm, nếu Ông xía vào thì chẵng
khác nào Ông thọc tay vào một giõ đựng đầy cua, không thể tránh khỏi bị cua
kẹp, không rút tay ra đặng).
[Xuất xứ câu: xin
Ông đừng để tay vào giõ đựng cua mà
nhiều văn bút trích dẫn có nguồn gốc như vậy].
Ngày 8 tháng 6 năm Giáp-Ngọ (7 Juillet 1954):
Phái-đoàn về xe,
ghé nghỉ đêm tại
11 g trưa
Thiếu-Tướng Lê-Văn-Viễn viếng ĐỨC HỘ-PHÁP để báo cáo tình-hình nước nhà và cuộc
tiếp-xúc của Ông với ĐỨC-QUỐC-TRƯỞNG. ĐỨC HỘ-PHÁP mời riêng Ông vào phòng tư
nói chuyện và có mật lịnh cho Thiếu-Tướng về trước sắp đặt công việc.
12 g ĐỨC HỘ-PHÁP
mời Thiếu-Tướng Lê Văn Viễn đến dùng cơm tại nhà hàng. Bữa tiệc có Quí Ông:
Thiếu-Tướng Lê-Văn-Viễn, Trần-Văn-Ân, Đỗ-Hữu-Tấn, Trần-Quang-Vinh và trọn
phái-đoàn tùy-tùng ĐỨC HỘ-PHÁP.
@@@
Ngày 20-7-1954 ký Hiệp Định Geneve cũng là ngày Đức Hộ Pháp
rời Paris về Việt Nam.
Ông Phối Sư còn ở lại thăm 02 người con trai đang du học.
Đến 04-11-1954 ông mới trở về Việt Nam.
Ngài Phối Sư viết Hồi ký ngày 29-3-1972 tại Tòa Thánh Tây
Ninh.
@@@
LƯU Ý: Hồi ký của Ngài Phối Sư Thượng Vinh Thanh trên
internet hiện nay có 02: bản pdf (gốc) và bản đánh vi tính.
Bản vi tính trên trang web caodai.net trước đây thiếu một số
đoạn so với bản pdf. Hiện nay (10-10-2013) bản vi tính đã thêm vào nhiều đoạn
so với trước đó.
Bản pdf trang 104 dòng 19 (đoạn viết về lý lịch phần đời) có
câu: SANG PHÁP QUỐC DƯỠNG BỊNH TỪ NGÀY 05-7-1954 ĐẾN 04-11-1954 VỀ SÀI GÒN.
Bản vi tính vẫn còn thiếu câu nầy, chưa thêm vào cho đầy đủ.
@@@
4/- Về việc Ngài
Phối Sư Thượng Vinh Thanh hoạt động HBCS Ngài Thanh Minh tác giả quyển ĐẠO ÁN
TÔN GIÁO viết tại trang 109 đến 110 chúng tôi tóm lược như sau:
MƯỢN DANH HÒA BÌNH
CHUNG SỐNG CỦA ĐỨC HỘ PHÁP ĐỂ THEO NGÔ ĐÌNH DIỆM.
Từ năm Bính Thân
đến Đinh Dậu (1956-1957), chánh phủ Ngô Đình Diệm lùng bắt ráo riết những người
làm Hòa Bình Chung Sống do Đức Hộ Pháp lãnh đạo. Thế mà ông Trần Quang Vinh lại
mở văn phòng công khai hoạt động HBCS tại Sài Gòn và tuyên bố rằng: “Người vâng
lệnh Đức Hộ Pháp làm HBCS mà chính phủ Ngô Đình Diệm không bắt bớ gì”. Thấy
vậy, đa số Chức sắc Khâm Châu, Đầu Tộc rủ nhau đến ký tên hưởng ứng rất đông,
có thể nói gồm toàn bộ các địa phương (Nam phần).
Thấy chuyện lạ và
lạ thật – Hòa Bình nào đang bị bắt giam cầm, đày ải, Hòa Bình nào làm trước
chánh quyền Diệm mà không bị bắt?
Trước diễn cảnh lạ
mắt này, vị Nữ Khâm Châu Đạo Châu Đốc bà Hương Phán dâng Phúc sự thỉnh giáo lên
Đức hộ Pháp, do Phúc sự số 15 ngày 10-11-Đinh Dậu (1957):
“Kính Bạch Đức
Thầy
Chánh sách Hòa
Bình Chung Sống có phải Hội Thánh HTĐ và CTĐ lãnh chịu nơi Đức Hộ Pháp, mà có
nhiều vị Chức sắc đi các tỉnh tổ chức, đưa tin thất thiệt, nhứt là thâu góp
tiền bạc làm cho bổn đạo hoang mang, không biết đâu là thiệt, đâu là giả.”...
(Nhưng phần trả
lời của Đức Hộ Pháp trong quyển ĐẠO ÁN TÔN GIÁO có một vài đoạn không giống
quyển THÁNH THƠ HẢI NGOẠI. Chúng tôi theo bản TTHN).
@@@
(Lưu ý rằng Ngài
Phối Sư về Saigon ngày 04-11-1954 thì các sự việc như quốc gia hóa Quân Đội Cao
Đài. Sau đó Thủ Tướng Ngô Đình Diệm mở ra chiến dịch khủng bố Đức Hộ Pháp giao
cho Tướng Nguyễn Thành Phương thực hiện dẫn đến việc Đức Hộ Pháp đi Nam Vang
1956 Ngài Phối Sư đều ở Việt Nam.
Nhiều văn bút viết
rằng Tướng Nguyễn Thành Phương mở chiến dịch thanh trừng... Chúng tôi nghĩ rằng
viết như thế chưa đúng với bản chất và mức độ sự việc. Chính Đức Hộ Pháp viết
rõ là KHỦNG BỐ).
&&&
5/- Đối chiếu với quyển Cao Triều Phát Lâm Lụy Trần.
Đầu năm 2013 chúng tôi được Ngài Thừa Sử Lê Quang Tấn biếu
quyển sách Cao Triều Phát Lâm Lụy Trần. Sách in theo khổ giấy A4 dày 81 trang.
Tác phẩm biên khảo của Ngài Huỳnh Tâm (Lễ Sanh) ở Paris. Xuất bản tháng 07 năm
1990.
Trang 41 cho biết ngày 20-5-1956 Ngài Cao Triều Phát đáp phi
cơ đến Nam Vang....nhận mật lịnh ám sát Đức Hộ Pháp. Ngày 22-5-1956 ông thâm
nhập vào Báo Ân Đường....gặp Đức Hộ Pháp....thú nhận mật lệnh và ở lại Báo Ân
Đường...
Trang 55 tác giả viết: Ông Cao Triều Phát gặp các ông Trần
Quang Vinh, Phan Khắc Sữu và Trần Văn Hương tại Báo Ân Đường....
Trang 74: Ông Trần Quang Vinh từ giả Đức Hộ Pháp (và Ngài Cao
Triều Phát) về Tòa Thánh sáng ngày 26-5-1956. (ở Kiêm Biên 04 ngày).
Trang 78: ngày 30-6-1956 ngài Cao Triều Phát từ biệt Đức Hộ
Pháp để hôm sau về Bắc (01-7-1956).
Trang 80: ngày 09-09-1956 ông Cao Triều Phát mất ở Hà Nội.
@@@
Chính Đức Hộ Pháp viết: Ngày 14-01-1958 (62.HP.HN). Về phần
Phối Sư Trần Quang Vinh: Từ
ngày Qua lên Nam Vang đến nay, Người không có đến gặp Qua lần nào....
Trong khi nguồn của hiền huynh Lễ Sanh Huỳnh Tâm tham khảo
lại có việc ông Phối Sư Trần Quang Vinh gặp Đức Hộ Pháp ở Báo Ân Đường 04 ngày
vào tháng 05-1956.
Vậy nguồn nào đáng
tin cậy hơn?
Theo chúng tôi
nguồn từ Đức Hộ Pháp là chính xác.
&&&
***: Trong quyển
Cao Triều Phát Lâm Lụy Trần trang 01 có LỜI TRÌNH DẪN của Ngài Giáo Sư Gustave
Meillon TM Hội Thánh Ngoại Giáo Cao Đài
Châu Âu viết tại Paris ngày 05-8-1990.
Chúng tôi xin
(Mượn Hoa Hiến Phật) giới thiệu về vị Giáo Sư người Pháp đã đến thăm Đức Hộ
Pháp vào ngày 29-5-1954 khi sang Paris cố vấn cho Đức Quốc Trưởng Bảo Đại về
Hội Nghị Geneve 1954.
Âu Du Ký của Ngài
Hồ Bảo Đạo ghi như sau:
Ngày 29 Mai 1954:
..... 04g00 chiều
Ông Giáo-Sư Gustave Meillon đến thăm ĐỨC NGÀI, có vẻ hiền-hậu và khiêm-tốn. Ông
này đang nghiên-cứu về Đạo và đang viết một quyển sách bằng Pháp-Văn về Đạo
Cao-Đài. Ông rất chăm-chỉ từng câu khi ĐỨC NGÀI giải-thích về Đạo và hứa sẽ
cố-gắng viết cuốn sách này cho đầy-đủ. Hỏi Ô. chừng nào xuất-bản, thì Ô. trả
lời rằng cần một năm nữa mới có thể xuất-bản, vì viết rồi còn phải xem đi xem
lại năm mười lần và phải cần tìm tài-liệu khảo-cứu cho thiệt châu-đáo để cuốn
sách ấy có thể đưa vào HÀN-LÂM-VIỆN (Académie) vì Ông cho rằng sáng-tác một
tác-phẩm là trọng-hệ lắm, nếu sơ-sót thì không làm sao lấy lại đặng.
05g00 chiều Đại-Úy
Jansson đến viếng, Ô. Meillon kiếu-từ....
@@@
Như vậy Giáo Sư
Gustave Meillon là một người có lòng và rất tâm huyết với Đạo. TƯ CÁCH và Quan niệm của Ngài về cách viết sách
thật đáng cho chúng ta kính phục và noi theo trên con đường thực thi Tam Lập.
Chúng tôi ước sao
được đọc sách của Ngài Giáo-Sư Gustave Meillon viết ra.... Quí vị nào biết xin
vui lòng giới thiệu và phổ biến, chúng tôi xin cảm ơn trước.
&&&
TNHT Q2.
Gắng sức trau-giồi một chữ tâm,
Đạo đời muôn việc khỏi sai lầm.
Tâm thành ắt đạt đường tu vững,
Tâm chánh mới mong mối Đạo cầm.
Tâm ái nhân-sanh an bốn biển,
Tâm hòa thiên-hạ trị muôn năm.
Đường tâm cửa Thánh dầu chưa vẹn,
Có buổi hoài công bước Đạo tầm.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)