9813. TÓM TẮT QUAN ĐIỂM CỦA MAO TRẠCH ĐÔNG VỀ CHIẾN
TRANH VIỆT NAM VÀ “MẶT TRẬN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM”
Posted
by adminbasam on 31/08/2016
Trong suốt cuộc chiến Việt Nam,
quan điểm chính trị và quân sự của Mao Trạch Đông thay đổi nhiều lần. Từ một
Mao chủ hòa sau hiệp định Geneva trở thành một Mao chủ chiến trong giai đoạn
đầu của cuộc chiến vào thập niên 1960 và lần nữa trở về với Mao chủ hòa sau
Thông Cáo Chung Thượng Hải ngày 27 tháng Hai 1972.
Mao và lý luận “chiến tranh giải
phóng dân tộc”
Phát xuất từ quan điểm cố hữu “lấy
nông thôn bao vây thành thị” và cũng vì không đủ khả năng để trực tiếp đương
đầu với Mỹ, Mao chủ trương gây khó khăn cho Mỹ, kẻ thù chính của Trung Cộng trong
giai đoạn từ 1949 đến 1972, qua hình thức chiến tranh cách mạng tại bất cứ quốc
gia nào Mỹ đang có quyền lợi hay có thể tạo ảnh hưởng.
Trong dịp tiếp phái đoàn báo chí
Chile ngày 23 tháng Sáu 1964, Mao tuyên bố: “Chúng tôi chống chiến tranh, nhưng
chúng tôi ủng hộ các cuộc chiến chống chủ nghĩa đế quốc do các dân tộc bị áp
bức phát động”. Từ Phi Châu, Nam Mỹ, và Á Châu, Mao tích cực yểm trợ võ khí và
cơ sở lý luận cho các phong trào “giải phóng dân tộc”, chống “đế quốc thực
dân”. Các phong trào Maoist lan rộng khắp nơi, từ Nepal bên rặng Hy Mã Lạp Sơn
ở Á Châu cho đến tận những cánh đồng ở Ecuador, Nam Mỹ.
Trong mắt Mao, ba “anh hùng” được
xem là những lãnh tụ tiêu biểu của phong trào “giải phóng dân tộc” là Hồ Chí
Minh tại Á Châu, Fidel Castro tại Nam Mỹ, và Ben Bella tại Phi Châu. Trong số
ba “anh hùng” đó, Hồ Chí Minh và đảng CSVN vì lý do ý thức hệ và địa lý chính
trị, được Mao quan tâm nhất và bằng mọi giá phải nắm chặt trong tay.
Khi phong trào giải thực bước vào
giai đoạn chót vào cuối thập niên 1960, hầu hết các nước thuộc địa đã được trao
trả quyền độc lập hoàn toàn hay độc lập trong khuôn khổ thịnh vượng chung. Hai
trong số ba nước tiên phong gồm Algeria và Cuba nghiêng về phía Liên Xô, Mao
chỉ còn lại một đàn em trung thành duy nhất ở Á Châu là CS Bắc Việt. Mao tìm
mọi cách để kiểm soát CSVN về mọi mặt từ giáo dục tuyên truyền, đường lối lãnh
đạo cho đến kinh tế, văn hóa, xã hội.
Mao và quan điểm về chiến tranh
Việt Nam
– Sau hiệp định Geneva 1954 đến 1964: Trung Cộng là
nguồn cung cấp duy nhất cho CS Bắc Việt, không chỉ từ chén cơm manh áo mà cả lý
luận tư tưởng. Nói chung đời sống từ vật chất đến tinh thần của đảng CSVN lệ
thuộc sâu xa vào đảng CSTQ. Khắp miền Bắc, từ công sở đến gia đình, hình ảnh
của Mao được đặt trên mức linh thiêng.
Hồ Chí Minh và lãnh đạo CSVN đã
thi hành một cách nghiêm chỉnh hầu hết các mệnh lệnh đầy tai họa từ Mao và các
chính sách phi nhân này đã dẫn đến cái chết oan uổng của nhiều trăm ngàn người
dân Việt Nam vô tội qua các chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất.
Sau tổn thất nặng nề trong chiến
tranh Triều Tiên, Mao có ý định tập trung vào các chính sách đối nội, và cũng
muốn CSVN đặt thứ tự ưu tiên vào việc CS hóa xã hội miền Bắc trước. Tuy nhiên,
để đồng thuận với đảng CSVN anh em, Mao cũng đã tích cực yểm trợ quân sự trong
chủ trương CS hóa Việt Nam bằng võ lực. Tổng số viện trợ quân sự của Trung Cộng
trong giai đoạn này gồm 320 triệu yuan, 270 ngàn súng ngắn, 10 ngàn pháo, 200
triệu viên đạn, 2.02 triệu đạn pháo, 1 ngàn xe tải, 25 máy bay, 1.18 triệu bộ
quân phục.
– 1964 đến 1965: Thái độ của Mao đối với chiến
tranh trở nên kiên quyết hơn. Cuối năm 1964, Hồ Chí Minh chủ trương cân bằng
ảnh hưởng giữa Liên Xô và Trung Cộng mong nhận được viện trợ của cả hai để theo
đuổi mục tiêu CS hóa toàn cõi Việt Nam. Điều này làm Mao lo lắng. Mao sai Đặng
Tiểu Bình, lúc đó là Tổng Bí Thư đảng CSTQ, bí mật thăm Hà Nội và hứa viện trợ
Hà Nội một tỉ yuan nếu Hà Nội từ chối viện trợ của Liên Xô.
Ngoài ra, Mao cũng cứng rắn chống
lại mọi sáng kiến chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng phương tiện đàm phán. Mao
nói thẳng với Kosygin, Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Liên Xô, trong chuyến viếng
thăm của ông ta tới Bắc Kinh ngày 11 tháng Hai, 1965, “Liên Xô không được dùng
Việt Nam để mặc cả với Mỹ”. Mao cũng từ chối đề nghị của Liên Xô về một phiên
họp thượng đỉnh giữa ba đảng CS để thảo luận về đường lối chiến tranh Việt Nam.
Mao xem đảng CSVN chẳng khác gì một xứ bộ của đảng CSTQ.
– 1965 đến 1972: Khi chiến tranh Việt Nam gia tăng
cường độ, Lê Duẩn, trưởng phái đoàn đại diện đảng CSVN, trong chuyến viếng thăm
Trung Cộng tháng Tư 1965, đã chính thức yêu cầu Mao gởi quân sang Việt Nam. Đáp
lại lời thỉnh cầu của Lê Duẩn, Mao gia tăng hàng loạt viện trợ quân sự cho CS
Bắc Việt. Tháng Sáu 1965, các sư đoàn Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tiến
vào miền Bắc Việt Nam. Đến tháng Ba 1968, tổng số quân Trung Cộng có mặt tại
miền Bắc là 320 ngàn quân với tất cả phương tiện yểm trợ và trang bị vũ khí đầy
đủ.
Các cuộc dội bom ồ ạt của Mỹ lên
miền Bắc gây tổn hại trầm trọng trong mọi lãnh vực kinh tế, quốc phòng của CS
Bắc Việt. Cùng lúc đó, Liên Xô, các nước CS Đông Âu, và đồng minh của Mỹ Tây Âu
khuyến khích CS Bắc Việt và Mỹ ngồi vào bàn hội nghị để tìm cách giải quyết
chiến tranh Việt Nam. CS Bắc Việt đồng ý.
Chủ trương của lãnh đạo CS Bắc
Việt lúc đó là vừa đánh vừa đàm để tận dụng mọi cơ hội có lợi nhất cho mục đích
tối hậu CS hóa Việt Nam và đồng thời dùng bàn hội nghị để mặc cả Mỹ giảm mức độ
ném bom. Ngoài ra, Hồ Chí Minh lo ngại Mỹ sẽ tăng cường thêm 100 ngàn quân tại
miền Nam như y đã trao đổi với Mao vào tháng Sáu 1965.
Mao thì khác. Mao chống đối phương
pháp thương thuyết và chủ trương kéo dài chiến tranh càng lâu càng tốt. Chủ
trương kéo dài chiến tranh của Mao phát xuất từ ba lý do: (1) Mao muốn tiếp tục
làm tiêu hao khả năng của Mỹ, (2) chứng tỏ vai trò lãnh đạo của Mao trong thế
giới thứ ba, (3) dùng chiêu bài chống đế quốc xâm lược để củng cố vai trò cai
trị của Mao tại lục địa Trung Quốc.
– Thông Cáo Chung Thượng Hải 1972
đến 30-4-1975: Quan hệ giữa Trung Cộng và Liên Xô ngày càng xấu và khó có cơ
hội hòa giải giữa hai nước CS hàng đầu. Chỉ riêng năm 1969, đã có tới 400 vụ
đụng độ dọc biên giới. Đáp lại ý định rút lui khỏi Việt Nam của TT Richard
Nixon, Mao nghĩ đã đến lúc phải bắt tay với Mỹ để tránh bị bao vây cả hai mặt
bằng hai kẻ thù mạnh nhất nhì trên thế giới.
Sau chuyến viếng thăm Trung Cộng
của TT Richard Nixon cuối tháng Hai 1972, tới phiên Mao cổ võ một giải pháp hòa
bình cho cuộc chiến Việt Nam mà trước đó không lâu ông ta đã chống lại.
Mao và “Mặt Trận Dân Tộc Giải
Phóng Miền Nam Việt Nam”
Hôm nay cả thế giới đều biết những
tổ chức được gọi là “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam” hay “Chính
phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” đều chỉ là các bộ phận thuộc đảng bộ
miền Nam do Trung Ương Cục Miền Nam, tên mới của Xứ ủy Nam Bộ đảng Lao Động,
lãnh đạo.
Tổ chức gọi là “Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam” (MTDTGPMNVN) hay thường được gọi tắt là “Mặt trận
Giải phóng Miền Nam” được thành lập ngày 20 tháng 12, 1960 với mục đích: “Đoàn kết toàn
dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập
đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ; thành lập một chính quyền
liên minh dân tộc dân chủ rộng rãi ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, tự
do, dân chủ, cải thiện dân sinh, giữ vững hoà bình, thi hành chính sách trung
lập, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở
Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới.”
Bí thư Trung Ương Cục đầu tiên là
Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ chính tri đảng Lao Động Việt Nam. Tháng 10 năm
1964, nhu cầu quân sự gia tăng, Nguyễn Chí Thanh được điều vào Nam làm Bí thư
Trung ương Cục kiêm Bí thư Quân ủy Miền.
Từ 1967 đến 1975, Trung ương Cục
miền Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Phạm Hùng, Ủy viên Bộ chính trị kiêm Chính ủy
các lực lượng vũ trang miền Nam. Đầu năm 1961, “Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam” cũng được Trung Ương Cục Miền Nam thành lập. Dù chỉ trên danh nghĩa, “quân
giải phóng” này lẽ ra phải trực thuôc “MTDTGPMNVN”, tuy nhiên, theo nội dung
chỉ thị của Tổng Quân ủy CSVN tháng 1 năm 1961 nhấn mạnh: “Quân giải
phóng miền Nam Việt Nam là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, do Đảng
sáng lập và xây dựng, giáo dục và lãnh đạo“.
Đáp ứng nhu cầu tạo thế đối trọng
với chính phủ VNCH, ngày 8 tháng 6, 1969, Trung Ương Cục thành lập thêm một tổ
chức mới gọi là “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam” do
Huỳnh Tấn Phát, đảng viên CS từ thời 1945 làm Chủ tịch và Nguyễn Thị Bình làm
Bộ trưởng Ngoại Giao.
Nhân dịp đánh dấu 40 năm hiệp định
Paris, các cơ quan tuyên truyền của đảng ca ngợi bà Bình là “nhà ngoại giao
sáng tạo linh hoạt”. Điều đó không đúng. Về nguyên tắc lãnh đạo, vai trò của
“Chính phủ Lâm thời” trong đó có “Bộ trưởng Ngoại Giao Nguyễn Thị Bình” chỉ là
mặt nổi đối ngoại, tất cả lời ăn tiếng nói của bà đều được chỉ thị từ đảng ủy
bên trong, đứng đầu là Lê Đức Thọ. Chắc bà Bình cũng phải thừa nhận, dưới sự
lãnh đạo của đảng CS, mọi “sáng tạo linh hoạt” cá nhân là những điều cấm kỵ.
Dù sao, trước 1975, nhờ che đậy
dưới mục đích rất nhân bản và lương thiện “dân tộc dân chủ rộng rãi ở miền Nam,
thực hiện độc lập dân tộc, tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh, giữ vững hoà
bình, thi hành chính sách trung lập”, “MTDTGPMNVN” đã thu hút khá đông “trí
thức” miền Nam về phía họ và nhanh chóng làm suy yếu cơ chế chính trị dân chủ
còn rất non trẻ ở miền Nam.
– Mao ve vãn các lãnh đạo “Mặt
trận Giải phóng miền Nam Việt Nam”: Không ai hiểu con bằng cha mẹ, tác
giả của sách vở mà CSVN dùng là của Mao và đường lối CSVN dùng cũng là của Mao
đã từng áp dụng tại Trung Quốc như trường hợp Hội nghị Hiệp thương Chính trị
Nhân dân Trung Quốc, gọi tắt là Chính Hiệp sau 1949. Chủ tịch của các Hiệp
Chính này không ai khác hơn là những lãnh đạo tối cao của đảng. Mao Trạch Đông
chủ tịch khóa I (1949 – 1954), Chu Ân Lai chủ tịch các khóa II, III, IV (1954 –
1976), Đặng Tiểu Bình chủ tịch khóa V (1978 -1983) Đặng Dĩnh Siêu chủ tịch khóa
VI (1983 – 1988), Lý Tiên Niệm chủ tịch khóa VII (1988 – 1992) v.v…
Qua kinh nghiệm lãnh đạo Chính
Hiệp tại Trung Quốc, Mao biết dù sao vẫn còn tồn tại một thành phần ngây thơ
trong hàng ngũ “MTDTGPMNVN” nên sau Thông Cáo Chung Thượng Hải, Mao tìm cách
khai thác và ve vãn hàng ngũ này. Điều Mao dự đoán không sai nhưng không đủ thế
và lực để tạo ra ảnh hưởng lớn. Sau 1975 các thành phần ngây thơ này tập trung
dưới hình thức Câu Lạc Bộ Kháng Chiến và nhiều trong số họ đã bị bắt.
Mao tiếp Nguyễn Thị Bình tại Bắc
Kinh ngày 29 tháng Hai 1972 và nói với bà Bình “Chúng ta thuộc vào một gia đình.
Bắc Việt, Nam Việt, Đông Dương, Triều Tiên cùng một gia đình và chúng ta ủng hộ
lẫn nhau. Nếu các bạn thành công tại hội nghị Paris, không chỉ Nam Việt mà Bắc
Việt cũng đạt đến mức bình thường hóa với Mỹ ở mức độ nào đó”.
Tháng 11, 1973, Nguyễn Hữu Thọ và
phái đoàn MTDTGPMNVN thăm Bắc Kinh. Phái đoàn của y được Mao tiếp đón nồng
nhiệt và hứa các khoản viện trợ không hoàn trả. Các thành viên trong phái đoàn
MTDTGPMNVN ngạc nhiên trước cách đối xử khác biệt của Mao. Trương Như Tảng, Bộ
trưởng Tư Pháp của “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam”,
kể lại trong vài ngày đầu thăm viếng Bắc Kinh, các lãnh đạo Bắc Kinh tưởng
Trương Như Tảng là người của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nên tỏ ra lạnh nhạt,
nhưng khi biết y là thành phần của phái đoàn Nguyễn Hữu Thọ, họ đã trở nên niềm
nở.
– Mao và chủ trương hai nước CS
Việt Nam: Chiều ngày 11 tháng 8, 1975, Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc
Daniel P. Moynihan, hai lần đưa tay phủ quyết đơn xin gia nhập Liên Hiệp Quốc
của cả Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lẫn Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam sau khi đơn gia
nhập của Nam Hàn bị bác bỏ tuần trước đó.
Với lãnh đạo CSVN, việc hai miền
CS Việt Nam cùng tham gia vào LHQ chỉ là một chiến thuật đối ngoại về mặt nhà
nước, nhằm “hợp thức hóa” việc cưỡng chiếm miền Nam của Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa và gia tăng áp lực buộc Hoa Kỳ phải viện trợ để “tái thiết Việt Nam”. Về
mặt lãnh đạo, chỉ do một đảng CSVN mà thôi.
Mao biết khuynh hướng thân Liên Xô
trong lãnh đạo CSVN và hy vọng lãnh đạo CSVN tại miền Nam hay gốc miền Nam sẽ
có một khuynh hướng khác. Những ve vãn của Mao đối với MTDTGPMNVN cũng chỉ là
hành động “còn nước còn tát”.
Bắt được ý định đó, Hoa Kỳ đưa ra
một “giải pháp trọn gói” tức cả bốn nước Đông Nam Á gồm Bắc Hàn, Nam Hàn, Bắc
Việt, Nam Việt cùng vào LHQ. Trung Cộng không chấp nhận. Mao, vào thời gian đó,
sức khỏe yếu dần nhưng đã đóng vai trò quyết định trong “giải pháp trọn gói”
của Mỹ.
Mao và lãnh đạo Trung Cộng khi ủng
hộ chủ trương hai Việt Nam không phải phát xuất từ lòng thương xót Việt Nam
Cộng Hòa hay người dân miền Nam mà chỉ muốn tiếp tục chi phối chính trị Việt
Nam qua vai trò của Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên để trả giá cho chính
sách đó bằng việc chấp nhận Nam Hàn vào LHQ, Mao cho rằng không tương xứng. Vì
Mao không đồng ý “giải pháp trọn gói” tức cả bốn nước cùng vào LHQ nên chiều
ngày 11 tháng 8, 1975, Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc Daniel P. Moynihan Mỹ
phủ quyết CS Bắc Việt và CS Nam Việt.
Tìm hiểu quan điểm của Mao qua các
giai đoạn của cuộc chiến để thấy phía sau những khẩu hiệu tuyên truyền đường
mật, dã tâm của Mao vẫn là khống chế Việt Nam bằng mọi cách. Tập Cận Bình hãnh
diện là truyền nhân của Mao, do đó, đọc lại Mao để có thể đo lường những bước
đi tới của họ Tập.
Ngoài các đặc điểm kế thừa từ Mao,
Tập Cận Bình còn đi xa hơn khi tham vọng bành trướng cả Á Châu.
CSVN ngày nay không còn chọn lựa
nào khác hơn là quy phục Trung Cộng để tiếp tục tồn tại và duy trì quyền cai
trị đất nước. Chọn lựa duy nhất của các tầng lớp người Việt Nam yêu nước hiện
nay là đóng góp hết sức mình vào cuộc vận động dân chủ tại Việt Nam. Dân chủ
hóa Việt Nam là phương cách “thoát Trung” đúng đắn và phù hợp với sự phát triển
văn minh thời đại nhất. Mục tiêu đầu tiên trong tiến trình dân chủ hóa là tháo
gỡ cho được cơ chế chính trị xã hội độc tài CS hiện nay.
Tham khảo
– Discussion between Mao Zedong
and Nguyen Thi Binh. December 29, 1972. Wilson Center.
– Rosemary Foot, John Gaddis,
Andrew Hurrell (2002). Order and Justice in International Relations. Oxford.
– Yang Kuisong (2002). Changes in
Mao Zedong’s Attitude toward the Indochina War, 1949-1973. Woodrow Wilson
International Center for Scholars.
– Qiang Zhai (2002). China &
The Vietnam Wars, 1950-1975. University of North Carolina Press.
– Eric J Ladley (2007) Balancing
Act: How Nixon Went to China and Remained a Conservative. iUniverse.
– Trương Quảng Hoa. Hồi kí cố vấn
Trung Quốc. Diendan.org.
– New York Times, August 7, 1975 –
New York Times, August 12, 1975
– Trần Gia Phụng (2016). Lịch Sử
Sẽ Phán Xét, Nhà xuất bản Non Nuoc, Toronto, Canada.
– Chen Jian (1995), China’s
Involvement in the Vietnam War, 1964-69, Cambridge University Press.