Posted by adminbasam on 14/08/2016
Trích từ Nhân Văn
Giai Phẩm của Thụy Khuê
Khi lên án Phan
Khôi, người ta thường dẫn chứng rằng ông đã nói hoặc viết câu này câu kia chống
Đảng, chống Bác, là sai cả. Thực ra Phan Khôi chẳng coi cộng sản ra cái gì, ông
chống cái dốt, cái độc tài, cái thần tượng hoá, và cái ngu dân, từ trước khi có
Bác và Đảng viết hoa.
Ông, bà Phan Khôi. Ảnh: internet
Ngay từ năm 1930,
khi cộng sản mới nhen nhúm ở Việt Nam, ông đã viết mấy bài về cái ngu và cái
dốt của họ: như bài Quân cách mạng đời nay nói về việc ông tướng cách mạng Trần
Đại Lộc, “giơ tay lên trán đỡ đạn”; bài Quốc ngữ của bọn cộng sản nói về việc cộng
sản muốn sửa chữ: Pháp viết là Fáp, gì viết là zì, đ viết là d. Ý ông: Nếu chỉ
muốn thay đổi quốc ngữ thì cũng chẳng sao, nhưng họ lại chủ trương đấu tranh
giai cấp mới bậy.
Bình sinh, ngòi bút
Phan Khôi không sợ ai bao giờ: Năm 1906, ông viết đơn kiện triều đình vì thi cử
gian lận. Năm 1928, ông viết bài Cái dốt của triều đình Huế đại ý nói: Làm Hán
Việt từ điển, mà không biết từ điển với tự điển khác nhau như thế nào.
Năm 1928, bàn về
việc cấm sách, ông viết: Ở thế kỷ hai mươi, đâu đâu người ta cũng hô lớn nào tự
do, nào tôn trọng quyền ngôn luận, quyền xuất bản, mà lại có cái chuyện cấm
sách mới lạ. “Vậy thì chúng tôi viết đây để làm chi? (…) Một cuốn sách không
cấm thì người ta coi như thường, không chú ý. Đến cấm đi một cái, thì hết thẩy
ai nấy đều chú ý vào nó. Cấm đi, là muốn cho người ta đừng đọc, mà không ngờ
lại làm cho người ta càng đọc! (…) có nhiều cuốn sách hiển thánh rồi. Việt Nam
Vong quốc sử và Hải ngoại Huyết thư đã hiển thánh hai mươi năm nay (…) Không có
cái thú gì bằng cái thú trong lúc trời mưa, đóng cửa cho chặt lại, rồi… đọc
sách cấm! Cái thế lực của sách cấm là như vậy, còn cấm sách nữa thôi?…
Những lời này mà
viết ngày nay thì bị coi là nói xấu Đảng, là phản động, chẳng tờ báo nào dám
in. Nhưng sự thần tình của một tác giả lớn là tuy Phan nói phiếm về những việc
dưới thời Pháp thuộc, cách đây 90 năm, mà lại rất trúng với việc thời nay.
Trong thuật ngữ văn học, người ta gọi đó là một nhà văn có tính hiện đại.
_____
PHAN
KHÔI – VỤ ÁN NHÂN VĂN GIAI PHẨM
2-3-2012
Cố nhà văn Phan Khôi
hiệu là Chương Dân, sinh 20.08.1887 (Đinh hợi) tại làng Bảo An, Điện Bàn tỉnh
Quảng Nam, cha là phó bảng Phan Trân (1826-†1911) mẹ là Hoàng Thị Lệ
(1826-†1882) con gái của Tổng đốc Hoàng Diệu (1828-†1882). Năm 1906 Phan
Khôi ra Huế thi Hương, nhưng rớt cử nhân nên chỉ được sắp vào hạng tú tài. Ông
lấy biệt hiệu Tú Sơn (Tout Seul).
Phan Khôi xuất thân
trong gia đình khoa bảng, ông nội là Án sát Phan Nhu. Phan Khôi học Hán văn từ
nhỏ, nhờ đọc các sách Tân thư nên có tình thần Duy tân, tin ở Dân quyền. Phong
trào Duy Tân hoạt động (1906-†1908) do Phan Châu Trinh (1872-†1926), Huỳnh Thúc
Kháng (1876-†1947) và Trần Quý Cáp (1870-†1908) cùng các sĩ phu tại quê nhà
lãnh đạo, Phan Khôi hưởng ứng phong trào, ra Hà Nội học chữ Quốc ngữ và Pháp
văn tham gia hoạt động với trường Đông Kinh Nghĩa Thục mở cửa năm 1907.
Năm 1908, phong trào
bị thực dân Pháp đàn áp, tất cả đều bị bắt bỏ tù hay tử hình. Phan Khôi lúc đó
ở Hà Nội, bị bắt đưa về giam ở huyện Diên Phước (Điện Bàn), trong thời gian
ngắn được ân xá, ông ra Huế theo học trường Pellerin từ năm 1909 – 1911.
Thân phụ mất, ông về quê để tang, mở trường dạy học, hết tang ông lập gia đình
(1913). Nhạc phụ là ông Lương Thúc Kỳ (1867 ?) giáo viên trường Dục Anh tại
Phan Thiết do ông Nguyễn Trọng Lợi thành lập.
Sinh hoạt viết báo
– Đăng Cổ Tùng Báo
(1907) của trường Đông Kinh Nghĩa Thục.
– Nam Phong (1918) của Phạm Quỳnh (1892-1945), nhưng chẳng bao lâu bất đồng ý kiến, bỏ vào Sài Gòn viết tờ Lục Tỉnh Tân Văn (1907). Sau đó, ông ra Hà Nội tiếp tục viết:
– Hà Nội Thực Nghiệp Dân Báo (1920)
– Hữu Thanh (1921)
Phan Khôi lại trở về Sài Gòn vào năm 1925 cộng tác các tờ:
– Đông Pháp Thời Báo (1923)
– Trung Lập Báo (1924)
– Thần Chung (1929)
Ông làm chủ bút tờ Phụ Nữ Tân Văn (1929) một thời gian vì khó khăn về tài chánh nên báo phải đình bản.
Ông ra Hà Nội làm chủ bút tờ Phụ Nữ Thời Đàm (1932)
Ở Huế ông làm Chủ bút: Tràng An (1934), Phụ Nữ Tân Văn tục bản (1936).
Làm chủ nhiệm kiêm chủ bút: Nhân Văn tại Hà Nội (từ ngày 20.9.1956 đến ngày 15.12.1965)
Trong thời gian nầy ông viết thêm các tờ: Giai phẩm (1956), Tuần báo Văn (1957)
– Nam Phong (1918) của Phạm Quỳnh (1892-1945), nhưng chẳng bao lâu bất đồng ý kiến, bỏ vào Sài Gòn viết tờ Lục Tỉnh Tân Văn (1907). Sau đó, ông ra Hà Nội tiếp tục viết:
– Hà Nội Thực Nghiệp Dân Báo (1920)
– Hữu Thanh (1921)
Phan Khôi lại trở về Sài Gòn vào năm 1925 cộng tác các tờ:
– Đông Pháp Thời Báo (1923)
– Trung Lập Báo (1924)
– Thần Chung (1929)
Ông làm chủ bút tờ Phụ Nữ Tân Văn (1929) một thời gian vì khó khăn về tài chánh nên báo phải đình bản.
Ông ra Hà Nội làm chủ bút tờ Phụ Nữ Thời Đàm (1932)
Ở Huế ông làm Chủ bút: Tràng An (1934), Phụ Nữ Tân Văn tục bản (1936).
Làm chủ nhiệm kiêm chủ bút: Nhân Văn tại Hà Nội (từ ngày 20.9.1956 đến ngày 15.12.1965)
Trong thời gian nầy ông viết thêm các tờ: Giai phẩm (1956), Tuần báo Văn (1957)
Dịch và viết sách
Phan Khôi dịch sang
Việt ngữ bộ Thánh Kinh cho Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, ông đối chiếu hai cuốn
Kinh Hán văn và Pháp (1921).
Phan Khôi gôm các bài viết từ 1917-1945 cuả ông( đã đăng báo) in thành tập Chương Dân Thi Thoại (1936).
– Trở vỏ lửa (1939 cuốn tiểu thuyết ít được nhắc đến)
– Việt ngữ nghiên cứu
Phan Khôi gôm các bài viết từ 1917-1945 cuả ông( đã đăng báo) in thành tập Chương Dân Thi Thoại (1936).
– Trở vỏ lửa (1939 cuốn tiểu thuyết ít được nhắc đến)
– Việt ngữ nghiên cứu
– Dịch sách Lỗ Tấn
(Chu Thụ Nhân 1858-1913)
Làm Thơ
Thơ ngụ ngôn ông
viết năm 1909 sau vụ Trung Kỳ Dân Biến (1908) thể thơ tự do nhưng chưa
được phổ biến rộng rãi, vì báo chí chữ Quốc ngữ còn phôi thai. Nhà phê
bình văn học Vũ Ngọc Phan trong tập Nhà Văn Hiện Đại bình luận „Phan Khôi là
một trong những nhà văn xuất sắc nhất trong phái nho học, một nhà cựu học như
ông,người ta đã thấy nhiều cái rất mới, nhiều cái mà nhiều nhà tân học cũng cho
là mới quá..“
Mồng bảy tháng bảy
năm Mậu Thân
Chiếu lệ bắc cầu qua sông Ngân
Hằng hà sa số cu-ly (cooly) quạ
Bay bổng về trời dường trẩy quân
Hai bên bờ sông đậu lốc ngốc
Con thì kêu đói, con kêu nhọc
Bỗng nghe lệnh trời truyền khởi công
Nào con đầu cúi, con lưng cong
Thêm bầy Lý Bẻo đứng coi việc
Đụng đâu đánh đó như bao bông!
Ngán cho cái kiếp làm dân thiệt
Làm có ăn không, chết cho hết
Cắn cỏ kêu trời, trời chẳng nghe
Một con bay lên đứng diễn thuyết
Hỏi đồng bào nghe tôi nói đây:
Dân quyền mạnh nhất là đời nay
Việc mà chẳng phải mà công ich
Không ai cho phép đem dân đày
Trối kệ Hoàng Ngưu với Chức Nữ
Qua được thời qua không thời chớ?
Quốc dân Ô thước tội tình chi?
Mà bắt xâu bơi làm khổ sở
Anh em ta, hè về quách thôi!
Chiếu lệ bắc cầu qua sông Ngân
Hằng hà sa số cu-ly (cooly) quạ
Bay bổng về trời dường trẩy quân
Hai bên bờ sông đậu lốc ngốc
Con thì kêu đói, con kêu nhọc
Bỗng nghe lệnh trời truyền khởi công
Nào con đầu cúi, con lưng cong
Thêm bầy Lý Bẻo đứng coi việc
Đụng đâu đánh đó như bao bông!
Ngán cho cái kiếp làm dân thiệt
Làm có ăn không, chết cho hết
Cắn cỏ kêu trời, trời chẳng nghe
Một con bay lên đứng diễn thuyết
Hỏi đồng bào nghe tôi nói đây:
Dân quyền mạnh nhất là đời nay
Việc mà chẳng phải mà công ich
Không ai cho phép đem dân đày
Trối kệ Hoàng Ngưu với Chức Nữ
Qua được thời qua không thời chớ?
Quốc dân Ô thước tội tình chi?
Mà bắt xâu bơi làm khổ sở
Anh em ta, hè về quách thôi!
Luôn thể kéo nhau
vào cửa trời
Dộng trống đăng văn, ầm đế tọa
Ngai vàng bệ ngọc, rung rinh rơi
Nghe tin dân quạ nổi cách mệnh
Đường xá xa xuôi, việc nặng nề
Phần lũ con thơ ở nhà khóc!
Trời sai Thiên lôi ra thám thính
Đầu đen máu đỏ quyết hy sinh!
Ngừng búa Thiên lôi không dám đánh
Năm nay bỗng thấy chiếu trời ra,
Đánh chữ đại xá trời ban cho
Dân quạ ở đâu về ở đó
Từ nay khỏi bắc cầu Ngân hà
Ờ té ra:
Mềm thì ai cũng cắn!
Rắn thì thời cũng nhả.
Hằng hà sa số cu-ly quạ
Bay về hạ giới kêu kha! Ô khá!
Dộng trống đăng văn, ầm đế tọa
Ngai vàng bệ ngọc, rung rinh rơi
Nghe tin dân quạ nổi cách mệnh
Đường xá xa xuôi, việc nặng nề
Phần lũ con thơ ở nhà khóc!
Trời sai Thiên lôi ra thám thính
Đầu đen máu đỏ quyết hy sinh!
Ngừng búa Thiên lôi không dám đánh
Năm nay bỗng thấy chiếu trời ra,
Đánh chữ đại xá trời ban cho
Dân quạ ở đâu về ở đó
Từ nay khỏi bắc cầu Ngân hà
Ờ té ra:
Mềm thì ai cũng cắn!
Rắn thì thời cũng nhả.
Hằng hà sa số cu-ly quạ
Bay về hạ giới kêu kha! Ô khá!
Hai mươi ba năm sau
bài thơ Tình Già trình làng, trên báo Phụ Nữ Tân Văn số 122 ngày 10-3-1932, bắt
đầu phong trào thơ mới , thơ tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, Đường luật nhường chỗ
cho phong trào thơ mới. Mở đầu cho thi ca Việt Nam phát triển phong phú
hơn. Tình Già của Phan Khôi được đưa vào chương trình giáo dục (trung
học) trước 1975 tại miền Nam.
Học giả Nguyễn Tấn Long đã viết „ Phan Khôi đem đến làng thơ Việt Nam bầu không khí khác lạ, một thể thơ mới hoàn toàn từ hình thức đến nội dung. Nó đã phá cái cổ lệ để chính thức cho chào đời một lối thơ mới, mở màn cuộc thay đồi quan trọng của thi ca dân tộc..“ ( VN thi nhân tiền chiến trang 87)
Học giả Nguyễn Tấn Long đã viết „ Phan Khôi đem đến làng thơ Việt Nam bầu không khí khác lạ, một thể thơ mới hoàn toàn từ hình thức đến nội dung. Nó đã phá cái cổ lệ để chính thức cho chào đời một lối thơ mới, mở màn cuộc thay đồi quan trọng của thi ca dân tộc..“ ( VN thi nhân tiền chiến trang 87)
Tình già
Hai mươi bốn năm
xưa,
Một đêm vừa gió lại vừa mưa
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ
Hai mái đầu xanh kề nhau than thở.
Ôi đôi ta tình thương thì vẫn nặng
Mà lấy nhau hẳn là không đặng
Để đến rồi tình trước phụ sau
Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau
Hay! Nói mới bạc làm sao chớ!
Buông nhau làm sao cho nở?
Thương được chừng nào hay chừng nấy
Chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy!
Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng
Mà tính việc thủy chung?
Hai mươi bốn năm sau
Tình cờ nơi đất khách gặp nhau!
Đôi mái đầu đều bạc
Nếu chẳng quen lung, đố nhìn ra được!
Ôn chuyện cũ mà thôi.
Liếc đưa nhau đi rồi!
Con mắt còn có đuôi
Một đêm vừa gió lại vừa mưa
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ
Hai mái đầu xanh kề nhau than thở.
Ôi đôi ta tình thương thì vẫn nặng
Mà lấy nhau hẳn là không đặng
Để đến rồi tình trước phụ sau
Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau
Hay! Nói mới bạc làm sao chớ!
Buông nhau làm sao cho nở?
Thương được chừng nào hay chừng nấy
Chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy!
Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng
Mà tính việc thủy chung?
Hai mươi bốn năm sau
Tình cờ nơi đất khách gặp nhau!
Đôi mái đầu đều bạc
Nếu chẳng quen lung, đố nhìn ra được!
Ôn chuyện cũ mà thôi.
Liếc đưa nhau đi rồi!
Con mắt còn có đuôi
Lý luận Phan Khôi
Mỗi khi nói về cá
tính của người Quảng Nam, không bao giờ người ta quên nhắc đến chuyện cãi. Phan
Khôi là một kiện tướng “Quảng Nam hay cãi”. Người
xưa nói “quân
tử hòa nhi bất đồng” người
quân tử không đồng nhất với nhau nhưng vẫn giữ tư tưởng sự hòa thuận tôn trọng
nhau và cộng tác. Phan Khôi ảnh hưởng Nho học và Tân học (say mê khoa luận lý
học, logique) khả năng lý luận uyên bác. „Ngay trong gia đình đối với thân phụ
ông cũng cãi lại. “Tôi đã từng biết một gia đình cãi nhau những ba đời. Đó là
gia đình ông Phan Khôi, Cha Phan Khôi, một bậc đại khoa Phan Trân (con án sát
Phan Nhu), tôi không rõ giữa ông Phan Nhu và ông Phan Trân có hay cãi nhau như
thế nào không, nhưng giữa ông Phan Trân và Phan Khôi, các cụ vẫn còn kể lại
những vụ cãi nhau rất kinh động. Rốt cuộc, cha thường vác roi đuổi con chạy tơi
bời. Điều ấy dễ hiểu ông phó bảng Phan Trân bênh vực cổ nhân như các bậc đại
khoa thời ấy; ông Phan Khôi chống lại vì ông đọc Tân thư, tin ở Dân Quyền..”
theo (Nguyễn Văn Xuân, Phong trào Duy
Tân, sđd trang 93-94)
Phan Khôi phê bình
bộ Nho Giáo của Trần Trọng Kim (1883-†1953) xuất bản gây các cuộc bút chiến với
Phạm Quỳnh (1892-†1945) năm 1930. (1) . Tờ Phụ Nữ Thời Đàm (1932)
bài “Văn minh vật chất và Văn minh tinh thần” của Phan Khôi đưa đến bút
chiến với nhà văn cộng sản Hải Triều Nguyễn Khoa Văn (1908-†1954).
Nhà nước Hà Nội muốn
lấy lòng Phan Khôi vì ông là nhà văn miền Nam có danh tiếng, nên cử Phan Khôi
đi dự lễ kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Lỗ Tấn (1881-†1936) tại Bắc Kinh
(Peking), dù nước đàn anh cộng sản giáo điều, nhưng Phan Khôi tranh luận cãi
với cán bộ Trung Cộng về chủ nghĩa Mác xít (Marxist), Phan Khôi phê bình khi
tới thăm nhà máy An Sơn như sau:
Ngày xưa ông Mác nói “lao động sáng tạo nhưng tôi nghĩ rằng nên nói trí thức và lao động sáng tạo mới đúng”.
Cán bộ Tàu lễ phép chữa lại:
“Thưa cụ, ông Mác nói là lao động là bao gồm cả trí thức trong đó chứ ạ!”
Cụ Phan trả lời ngay:
“Không đâu, ý ông Mác chỉ muốn nói công nhân thôi, còn trí thức thì sau nầy người ta mới thêm thắt vào đó”.
Ngày xưa ông Mác nói “lao động sáng tạo nhưng tôi nghĩ rằng nên nói trí thức và lao động sáng tạo mới đúng”.
Cán bộ Tàu lễ phép chữa lại:
“Thưa cụ, ông Mác nói là lao động là bao gồm cả trí thức trong đó chứ ạ!”
Cụ Phan trả lời ngay:
“Không đâu, ý ông Mác chỉ muốn nói công nhân thôi, còn trí thức thì sau nầy người ta mới thêm thắt vào đó”.
Dạy học và hoạt động
chính trị
Năm 1934 dạy Việt
văn cho trường tư thục Hồ Đắc San tại Huế.
Năm 1936 Phan Khôi
dạy tại trường Chấn Thanh Sài Gòn do Phan Bá Lân làm hiệu trưởng. Năm 1941
trường Chấn Thanh dời về Đà Nẵng. Thời đệ nhị thế chiến (1939-1945) đời sống
tại Sài Gòn khó khăn, Phan Khôi về Quảng Nam. Cụ lớn tiếng công kích cán bộ địa
phương phá hủy nhà thờ Hoàng Diệu, và chính sách khủng bố của Việt Minh
bắt thủ tiêu các đảng phái đối lập, nhất là các đảng viên VNQDĐ, ông Trương
Phước Tường bị Việt Minh bắt tại Tam Kỳ ngày 4-2-1946. Phan Khôi được bầu làm
chủ nhiệm tượng trưng cho tỉnh đảng bộ. Phan Bá Lân làm Bí thư và ban chấp hành
tỉnh Hoàng Tăng, Phan Khoang, phụ trách Tuyên nghiêm huấn. Lê Thận phụ trách
Đặc vụ (Hoàng văn Đào sđd trang 354).
Hà Nội ngày
13-7-1946 Võ Nguyên Giáp cho người lục soát trụ sở Ban Tuyên huấn Đệ thất khu
Đảng Bộ của VNQDĐ tại số 9 phố Ôn Như Hầu, trụ sở nầy vốn của quân đội Nhật
giao lại cho quân đội Trung Hoa; rồi chuyển cho VNQDĐ. Việt Minh phao tin
tìm thấy trong khu vực nhà nầy có chôn xác người, lấy đó làm bằng cớ, lập biên
bản kết tội VNQDĐ là tổ chức “hắc điếm” để bắt cóc, giết người. Vụ nầy được gọi
là vụ án Ôn Như Hầu. Từ đó Việt Minh thanh toán VNQDĐ trên toàn quốc. (Minh Vũ
Hồ Văn Châm, báo đd tr.45) .
Cán bộ địa phương
không dám thanh toán Phan Khôi và báo cáo lên cấp trên, vì con trai của Phan
Khôi là Phan Thao (1915-†1960) cán bộ cao cấp trong Ủy Ban Trung Bộ, và Phan
Bôi (1910-†1949) bí danh Hoàng Hữu Nam (anh em chú bác với Phan Khôi) làm thứ
trưởng bộ nội vụ Việt Minh. Phan Khôi viết thư gởi Huỳnh Thúc Kháng đang giữ
chức Bộ trưởng Bộ nội vụ Huỳnh Thúc Kháng vội can thiệp với Hồ Chí Minh
dàn xếp vấn đề, viết thư mời Phan Khôi ra Hà Nội hợp tác, nhưng kỳ thực giao
Phan Bôi để quản thúc. Việt Minh tiếp tục đàn áp tại cầu Chiêm Sơn tháng 7.1946
xã Phú Tân, Điện Bàn, Quảng Nam Việt Minh lấy cớ Quốc Dân Đảng mưu toan phá
hoại cầu khi có tàu lửa chở vũ khí vào Nam và thanh toán các đảng viên VNQDĐ.
Ngày 20-10-1946 tại Hà Nội Việt Minh tấn công tòa báo của VNQDĐ tại số 80 đường
Quan Thánh do nhà văn Khái Hưng (1896-†1947) phụ trách, tất cả bị bắt trong đó
có Phan Khôi.
Phan Khôi những ngày
trên đất Bắc
Phan Thao và Phan Bôi đưa Phan Khôi lên các vùng chiến khu Việt Bắc do Việt Minh hoàn toàn kiểm soát, sống biệt lập và giao trách nhiệm dịch sách từ Hán hay Pháp văn ra Việt ngữ. Phan Khôi tán thành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nên phải đứng chung với chủ nghĩa Cộng sản nhưng lòng vẫn hoài nghi.
Phan Thao và Phan Bôi đưa Phan Khôi lên các vùng chiến khu Việt Bắc do Việt Minh hoàn toàn kiểm soát, sống biệt lập và giao trách nhiệm dịch sách từ Hán hay Pháp văn ra Việt ngữ. Phan Khôi tán thành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nên phải đứng chung với chủ nghĩa Cộng sản nhưng lòng vẫn hoài nghi.
Hồng nào hồng chẳng
có gai
Miễn đừng là thứ hồng dài không hoa,
Là hồng thì phải có hoa
Không hoa chỉ có gai mà ai chơi?
Ta yêu hồng lắm hồng ơi!
Có gai mà cũng có mùi hương thơm.
(16.03.1951)
Trong những tháng ngày buồn chán bị cấm đoán cô đơn, Phan Khôi gởi tâm sự qua các bài thơ hớt tóc:
Tuổi già thêm bệnh hoạn
Kháng chiến thấy dài ra
Mối sầu như tóc bạc,
Cứ cắt lại dài ra.
Miễn đừng là thứ hồng dài không hoa,
Là hồng thì phải có hoa
Không hoa chỉ có gai mà ai chơi?
Ta yêu hồng lắm hồng ơi!
Có gai mà cũng có mùi hương thơm.
(16.03.1951)
Trong những tháng ngày buồn chán bị cấm đoán cô đơn, Phan Khôi gởi tâm sự qua các bài thơ hớt tóc:
Tuổi già thêm bệnh hoạn
Kháng chiến thấy dài ra
Mối sầu như tóc bạc,
Cứ cắt lại dài ra.
Trong bài thơ Hán
văn sáng tác năm 1950 Thế Lữ dịch:
Một mình đêm giao thừa
Đến ngọn đèn làm bầu bạn cũng không có
Đắp lên thân suy tàn một tấm chăn kép
Chợp mắt mơ là nhằm miếng chua cay
Có vợ con mà sống chia cách
Không sinh kế đành phải ăn nhờ
Nghe tiếng gà mừng vùng dậy
Kháng chiến bốn lần gặp xuân rồi!
Một mình trước cảnh xanh núi rừng
Ta ngồi ngạo nghễ với bầy chim bầy vượn
Vì ta chạy loạn mà tình cờ gặp cảnh lâm tuyền
Phan Khôi tự ví mình như con heo sống dưới chế độ cộng sản miền Bắc:
Một mình đêm giao thừa
Đến ngọn đèn làm bầu bạn cũng không có
Đắp lên thân suy tàn một tấm chăn kép
Chợp mắt mơ là nhằm miếng chua cay
Có vợ con mà sống chia cách
Không sinh kế đành phải ăn nhờ
Nghe tiếng gà mừng vùng dậy
Kháng chiến bốn lần gặp xuân rồi!
Một mình trước cảnh xanh núi rừng
Ta ngồi ngạo nghễ với bầy chim bầy vượn
Vì ta chạy loạn mà tình cờ gặp cảnh lâm tuyền
Phan Khôi tự ví mình như con heo sống dưới chế độ cộng sản miền Bắc:
Đánh đùng một cái
Kêu éc éc ngay
Bịt mồm, bịt miệng
Trói chân, trói tay……
Từ dây đến cái đao
Chẳng còn bao xa
Kêu éc éc ngay
Bịt mồm, bịt miệng
Trói chân, trói tay……
Từ dây đến cái đao
Chẳng còn bao xa
Hiệp định Genève ký
20.7.1954, Việt Nam bị chia đôi sông Bến Hải ngăn cách hai miền Nam Bắc tại vĩ
tuyến 17. Hơn 1 triệu người bỏ miền Bắc di cư vào Nam, ngược lại Việt Minh cho
các cán bộ tập kết ra Bắc khoảng 100 ngàn người và để lại một số cán bộ nằm
vùng. Gia đình Phan Khôi tập kết ra Bắc, được đoàn tụ gia đình và sống trong
phòng hội Văn nghệ Hà Nội, số 151 đường Trần Hưng Đạo. Tương truyền rằng trong
bữa cơm người bạn mời có thịt gà Phan Khôi cầm đũa, chỉ dĩa thịt gà trên mâm
nói rằng “chín năm nay tao lại gặp mầy” (Hoàng Văn Chí, sđd tr.11).
Suốt trong thời gian Phan Khôi sống trên miền Thượng du rất khổ cực không được ăn thịt gà, đời sống về vật chất cũng như tư tưởng bị giới hạn, có thể nói đây là giai đoạn giam lỏng, không muốn Phan Khôi chống lại chế độ. Hồ Chí Minh tặng cho Phan Khôi một chiếc áo, nhưng lòng ông vẫn lạnh lùng, vật chất không thể quyến rũ được ông.
Suốt trong thời gian Phan Khôi sống trên miền Thượng du rất khổ cực không được ăn thịt gà, đời sống về vật chất cũng như tư tưởng bị giới hạn, có thể nói đây là giai đoạn giam lỏng, không muốn Phan Khôi chống lại chế độ. Hồ Chí Minh tặng cho Phan Khôi một chiếc áo, nhưng lòng ông vẫn lạnh lùng, vật chất không thể quyến rũ được ông.
Vụ án Nhân văn –
Giai Phẩm
Phim tài liệu về
Nhân Văn Giai Phẩm
Tết Bính Thân, tháng
2.1956 tại Hà Nội xuất hiện đặc san Giai Phẩm mùa Xuân do nhà xuất bản Minh Đức
(tư nhân) do Trần Thiếu Bảo ấn hành (Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1939-1975,
nxb Văn Hóa, Houton tr. 108). Giai phẩm Xuân nầy tập hợp các cây bút sáng
tác tự do, không lệ thuộc chính quyền, không chấp nhận sự “lãnh đạo văn nghệ”.
Trong giai phẩm nầy nổi bậc nhất bài thơ “Nhất định thắng” của Trần Dần, bị
chính quyền kết án chụp mũ phản động, báo bị tịch thâu ngày mồng 2 Tết Bính
Thân (13.2-1956)
Văn nghệ sĩ sống tại
Hà Nội chia làm hai thành phần: theo đảng làm bồi bút, hoặc độc lập sống vì
nghệ thuật. Thời bấy giờ dư luận xôn xao trong quần chúng về việc công bố kết
quả các “Giải Thưởng Văn Học” năm 1954-1955 trên báo Văn Nghệ Hà Nội số 112 ra
ngày 15.3.1956 và báo Nhân Dân ngày 17.3.1956. Các tác giả vừa có tác phẩm tham
dự, vừa được làm giám khảo. Họ là văn, thi sĩ của đảng của chính quyền, nộp bài
và tự chấm bài lãnh giải thưởng. (Tố Hữu giải nhất; giải nhì Xuân Diệu…). Phan
Khôi người cương trực, viết bài phê bình vạch trần sai lầm đó. Tựa bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” dài 14 trang đánh máy
đăng trong Giai phẩm mùa Thu tập 1 ngày 29.8.1956. “Lãnh đạo văn nghệ thành ra vấn đề, quần chúng văn nghệ thắc mắc
với lãnh đạo” đưa các
vấn đề chính: Sau năm (1954) từ chiến khu trở về Hà Nội, thời gian chấm dứt
chiến tranh, văn nghệ sĩ tiếp tục bị trói buộc trong khuôn khổ của chế độ cộng
sản, không có tự do sáng tác. Giai phẩm mùa Xuân bị tịch thu, Trần Dần bị tù,
văn nghệ sĩ góp tiếng nói ôn hòa xây đựng xã hội, không sách động bạo hành,
nhưng tiếng nói của họ bay vào hư vô. Phan Khôi viết truyện ông Năm Chuột trong
giai phẩm mùa Thu tập 1 (giai phẩm nầy có thêm tập 2, tháng 10.1956 và tập 3
tháng 11.1956. Giai phẩm mùa Đông tháng 12-1956, bị đóng cửa cấm phát hành).
Trong bài phê bình
lãnh đạo văn nghệ Phan Khôi viết: “Dưới
chế độ tư sản, sự đối lập là thường, nhân dân đối lập với chính phủ, công
nhân đối lập với chủ xưởng, học sinh đối lập với nhà trường, nhưng ở dưới chế
độ của chúng ta, về mọi phương diện, yêu cầu phải không đi đến đối lập, hễ còn
đối lập là cái hiện tượng không tốt, cái triệu chứng không tốt..”. “Trường thi
phong kiến thưở xưa tuy có ám muội gì bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn giữ sạch
tiếng: một người nào đó con em đi thi, thì người ấy có được cắt cử cũng phải
“hồi tị”, không được đi chấm thi. Bây giờ cả đến chính mình đi thi mà cũng
không “hồi tị” một lẽ ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đổi mới, “liêm
chính” cả rồi, một lẽ là trán trơn vì thấy mọi cái “miệng” đã bị “vú lấp”. Bài
báo gây dư luận sâu rộng tại Hà Nội “có người thốt lên rằng chín mười năm nay
mới nghe tiếng nói sang sảng của cụ Phan Khôi” (Hoàng Văn Chí, sđd 26)
Cụ Phan Khôi kể
chuyện ngụ ngôn:
Một dạo, giữa loài
dở cạn dở nước, mở cuộc thi sắc đẹp. Nhân có sự tranh chấp, ba con ếch, cóc,
ễnh ương đấu khẩu với nhau, tiếng cóc nhỏ hơn hết, nhưng mà động đến trời. Trời
phán:
– Chỉ có mày là đồng
loại với chúng nó, mày sẽ làm vừa ý ta, không được từ chối.
Sau khi cực chẳng đã
phải làm trọng tài, Nhái bén tâu kết quả:
– Ễnh ương giải nhất,
ếch giải nhì, cóc không ở giải nào cả?
Trời tỏ dáng không
vui, bảo Nhái bén:
Mày cố hết sức tìm
ra ưu điểm cóc xem.
Nhái bén tâu:
– Cóc có mụt nằm
khắp cả người, con không tìm ra ưu điểm nào.
Trời phán:
– Thôi cho mày đi
về.
Mấy hôm sau, có nghị
định của Hà Bá sức về:
– Nhái bén bị đày
vĩnh viễn ở dưới nước, không được lên cạn nữa.
Nhái bén gặp cá trê,
kể cảnh ngộ của mình, cá trê bảo:
Mày dại lắm đi đâu
chẳng biết con cóc là cậu ông Trời. Tao đây mà cũng còn thua kiện nó nữa là..”
Nhân Văn
Sau giai phẩm mùa
Thu tập1. Nhân Văn ra đời. Phan Khôi giữ chức chủ nhiệm kiêm chủ bút số 1 ra
ngày 20.9.1956 đến số 6 đang in tại nhà in Xuân Thu bị tịch thu và đóng cửa
ngày 15.12.1956 . Tuổi về già nhưng Phan Khôi tận lực theo đuổi lý tưởng, không
sợ bạo quyền đe dọa, dùng ngoài bút đấu tranh mong dành lại cho văn học Việt
Nam, một chỗ đứng trung thực dưới chế độ cộng sản.
Nắng chiều tuy có
đẹp
Tiếc tài gần chạng vạng
Mặc dầu gần chạng vạng
Nắng được thì cứ nắng
1956 (Hoàng Văn Chí, sđd tr 57)
Nhân Văn và Giai phẩm như những bông hoa hương sắc nở ra trên đất Bắc “Trăm hoa đua nở” không lâu, trăm hoa bị vào tù!
Tiếc tài gần chạng vạng
Mặc dầu gần chạng vạng
Nắng được thì cứ nắng
1956 (Hoàng Văn Chí, sđd tr 57)
Nhân Văn và Giai phẩm như những bông hoa hương sắc nở ra trên đất Bắc “Trăm hoa đua nở” không lâu, trăm hoa bị vào tù!
Báo Văn
Báo Văn 10.5.1958 số 36 do nhà văn Nguyễn Hồng quản lý tòa soạn, đăng bài Ông Năm Chuột của Phan Khôi trong số 36, ngày 10.11.1958 từ đó bị đóng cửa. Cộng sản làm cái bẩy “Trăm hoa đua nở” để bắt toàn bộ văn nghệ sĩ có tư tưởng chống lại chế độ, thanh trừng bỏ tù đưa đi lao động, cải tạo trên các vùng rừng sâu nước độc. Các nhà văn, thi sĩ thời tiền chiến (trước 1945) nổi danh như: Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Nguyễn Tuân họ sống với cái xác trong xã hội cộng sản, hồn thơ, lời văn của họ đã chết từ lâu.
Báo Văn 10.5.1958 số 36 do nhà văn Nguyễn Hồng quản lý tòa soạn, đăng bài Ông Năm Chuột của Phan Khôi trong số 36, ngày 10.11.1958 từ đó bị đóng cửa. Cộng sản làm cái bẩy “Trăm hoa đua nở” để bắt toàn bộ văn nghệ sĩ có tư tưởng chống lại chế độ, thanh trừng bỏ tù đưa đi lao động, cải tạo trên các vùng rừng sâu nước độc. Các nhà văn, thi sĩ thời tiền chiến (trước 1945) nổi danh như: Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Nguyễn Tuân họ sống với cái xác trong xã hội cộng sản, hồn thơ, lời văn của họ đã chết từ lâu.
Văn nghệ sĩ tại miền
Bắc sống trong đe dọa thường bị kết án phản động. Phan Khôi viết :Thật là cái
tội phản động ở xứ nầy sao mà ghép một cách dễ dàng quá.. nhược bằng bắt mọi
người phải viết theo lối của mình, thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa
cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết …Cụ Đồ Chiểu ơi! Cụ Đồ Chiểu ơi! Ở thời cụ,
cụ đã kêu: Ở đây nào phải trường thi, ra đề hạn vận một khi buộc ràng! Thế mà
ngày, bảy tám mươi năm sau cụ, người ta còn làm ăn gì được nữa cụ ơi! Tôi đâu
còn là tôi đâu được nữa cụ ơi!
Đầu năm 1956 người ta đưa cho Phan Khôi dịch sách trong đó có chữ “Pomme de terre” ông dịch chữ đó “khoai nhạc ngựa”. Báo Cứu Quốc chê Phan Khôi già lẩm cẩm dịch sai cho rằng hai chữ trên phải dịch là “khoai tây” sao dịch là “khoai nhạc ngựa”?
Phan Khôi trả lời: ai cũng biết “pomme de terre” là “khoai tây” nhưng lâu nay cán bộ phụ trách cấm ông dùng chữ “Tây” và chữ “Tàu”..vv. khi ông viết chữ “chè Tàu” thì bị sửa lại thành “chè Trung Quốc”, thịt “kho Tàu” thì đổi thành “thịt kho Trung quốc”. Do đó ông chiều ý lãnh đạo đỉnh cao trí tuệ dịch chữ “pomme de terre” là “khoai tây” mà dịch là “khoai nhạc ngựa” vì theo tiếng Trung Quốc gọi là “mã linh thự”. Phan Khôi thông hiểu hai ngôn ngữ Hán và Pháp văn. Ông lý luận rõ ràng không thể chê vào đâu được.
Đầu năm 1956 người ta đưa cho Phan Khôi dịch sách trong đó có chữ “Pomme de terre” ông dịch chữ đó “khoai nhạc ngựa”. Báo Cứu Quốc chê Phan Khôi già lẩm cẩm dịch sai cho rằng hai chữ trên phải dịch là “khoai tây” sao dịch là “khoai nhạc ngựa”?
Phan Khôi trả lời: ai cũng biết “pomme de terre” là “khoai tây” nhưng lâu nay cán bộ phụ trách cấm ông dùng chữ “Tây” và chữ “Tàu”..vv. khi ông viết chữ “chè Tàu” thì bị sửa lại thành “chè Trung Quốc”, thịt “kho Tàu” thì đổi thành “thịt kho Trung quốc”. Do đó ông chiều ý lãnh đạo đỉnh cao trí tuệ dịch chữ “pomme de terre” là “khoai tây” mà dịch là “khoai nhạc ngựa” vì theo tiếng Trung Quốc gọi là “mã linh thự”. Phan Khôi thông hiểu hai ngôn ngữ Hán và Pháp văn. Ông lý luận rõ ràng không thể chê vào đâu được.
Phan Khôi với Nắng
Chiều”
Vụ án Nhân văn Giai phẩm năm 1956 Phan Khôi không bị tập trung cải tạo như các văn nghệ sĩ trí thức khác phải đi lao động khổ sai, nhưng cuộc đời của ông là chuỗi ngày còn lại cô đơn!
Vụ án Nhân văn Giai phẩm năm 1956 Phan Khôi không bị tập trung cải tạo như các văn nghệ sĩ trí thức khác phải đi lao động khổ sai, nhưng cuộc đời của ông là chuỗi ngày còn lại cô đơn!
Làm sao cũng chẳng
làm sao
Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi
Làm chi cũng chẳng làm chi
Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao
(theo Hoàng văn Chí, sđd 58)
Ngày sinh nhật thất thập, Phan Khôi viết:
Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi
Làm chi cũng chẳng làm chi
Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao
(theo Hoàng văn Chí, sđd 58)
Ngày sinh nhật thất thập, Phan Khôi viết:
Lên bảy mươi rồi mẹ
nó ơi!
Thọ ta, ta chúc nọ phiền ai
Thọ ta, ta chúc nọ phiền ai
Tai vách mạch rừng
đến tai nhà văn Nguyễn Công Hoan, nhà văn bồi bút đắc lực với chế độ Cộng sản
kiếm miếng đỉnh chung, họa lại bài thơ thật vô lễ, khiếm nhã với nhà thơ lão
thành Phan Khôi.
Nhắn bảo Phan Khôi
khốn kiếp ơi!
Thọ mi, mi chúc chớ hòng ai
Văn chương! Đù mẹ thằng cha bạc!
Tiết tháo! Tiên sư cái mẽ ngoài
Lô-dích, trước cam làm kiếp chó
Nhân văn nay lại hít gì voi
Sống dai thêm tuổi cho thêm nhục,
Thêm nhục cơm trời chẳng thấy gai
(Theo Hoàng văn Chí, sđd tr.15)
Nắng Chiều là tựa đề của tác phẩm Phan Khôi tập hợp các bài bút ký, tạp văn viết từ năm 1946. Bản thảo của Phan Khôi đưa nhà xuất bản Hội Nhà Văn bị dìm không được xuất bản. Có thể bản thảo Nắng Chiều được các nhà văn “bồi bút” trong hội đọc. Thế Lữ (1907-1989) trên báo Nhân Dân ngày 12-4-1956 số 1501 lên án Phan Khôi “Phan Khôi phản cách cách mạng, ngấm ngầm chống đảng lãnh đạo cách mạng từ trong kháng chiến, đó là việc hiện giờ ta đã thấy rõ hiển nhiên.. Phan Khôi vẫn khoe là được Hồ Chủ tịch tặng chiếc áo lụa, và kể cho tôi nghe một chuyến gặp Hồ chủ tịch. Chuyện được chiếc áo, tôi không thấy ông ta tỏ ra một ý nào là cảm kích..” (Nguyễn Minh Cần, sđd tr. 33)
Thọ mi, mi chúc chớ hòng ai
Văn chương! Đù mẹ thằng cha bạc!
Tiết tháo! Tiên sư cái mẽ ngoài
Lô-dích, trước cam làm kiếp chó
Nhân văn nay lại hít gì voi
Sống dai thêm tuổi cho thêm nhục,
Thêm nhục cơm trời chẳng thấy gai
(Theo Hoàng văn Chí, sđd tr.15)
Nắng Chiều là tựa đề của tác phẩm Phan Khôi tập hợp các bài bút ký, tạp văn viết từ năm 1946. Bản thảo của Phan Khôi đưa nhà xuất bản Hội Nhà Văn bị dìm không được xuất bản. Có thể bản thảo Nắng Chiều được các nhà văn “bồi bút” trong hội đọc. Thế Lữ (1907-1989) trên báo Nhân Dân ngày 12-4-1956 số 1501 lên án Phan Khôi “Phan Khôi phản cách cách mạng, ngấm ngầm chống đảng lãnh đạo cách mạng từ trong kháng chiến, đó là việc hiện giờ ta đã thấy rõ hiển nhiên.. Phan Khôi vẫn khoe là được Hồ Chủ tịch tặng chiếc áo lụa, và kể cho tôi nghe một chuyến gặp Hồ chủ tịch. Chuyện được chiếc áo, tôi không thấy ông ta tỏ ra một ý nào là cảm kích..” (Nguyễn Minh Cần, sđd tr. 33)
Trong bài phê bình
tiếp tục của tác giả Đoàn Giỏi (1925-†1989) tựa đề “Tư tưởng phản động trong sáng tác của Phan Khôi” đăng trên báo Văn Nghệ số 15 tháng
8-1958. Nhờ bài phê bình trên có trích dẫn, những bài viết trong tác phẩm cuối
cùng Nắng Chiều của Phan Khôi gồm có hai phần:
Phần một gồm các
truyện: Cầm Vịt – Tiếng Chim – Cây Cộng Sản.
Nói về chuyện Cầm Vịt “Tôi thấy làm cái nghề này tuy vất vả mà ăn ở như thế thì đầy
đủ lắm, giữa chủ và bạn cũng không có chi khác nhau. Ông chủ nói rằng nếu không
thế thì không thuê được người, chẳng những phải trả tiền thuê mỗi tháng mà cuối
mùa còn phải chia hoa hồng cho anh em nữa, vì thế tuy được lãi nhiều mà vào tay
người chủ không còn mấy..”
Tiếng Chim: “Một lần ở Cẩn Nhân, tôi ngồi nơi nhà sàn, thấy hai con quạ rình bắt gà con kia bị gà mẹ chống cự, bắt không được cũng bay đi tuốt, nó không hề nói “Mầy phải cho tao với!” Cây Cộng Sản “Có một thứ thực vật, cũng như sen Nhật Bản ở xứ ta, trước kia không có mà bây giờ có rất nhiều. Đâu thì tôi chưa thấy, chỉ thấy ở Việt Bắc không chỗ nào không có.” Theo Phan Khôi có nơi gọi loại cây trên là “cỏ bù xít” hoặc “cây cứt lợn” hoặc “cây chó đẻ”. Ông nói rằng những tên cây đó đều không nhã tí nào, người có học không gọi như vậy mà gọi là “cây cộng sản”
Cây cộng sản: “Không mấy lâu rồi nó mọc đầy cả đồn điền, trừ khử không hết được, nó lan tràn ra ngoài đồn điền. Cái tình trạng ấy bắt đầu có những năm 1930-1931 đồng thời với Đông Dương Cộng sản đảng hoạt động. Phong trào cộng sản cũng lan tràn nhanh chóng như thứ cây ấy, cũng không trừ khử được như thứ cây ấy, cho nên bọn Tây đồn điền đặt tên nó là “herbe communiste” đáng lẽ dịch là cỏ cộng sản. Nó còn một tên rất lạ hỏi ông già Thổ tên nó là cây gì, ông nói tên nó là “cỏ cụ Hồ”. Thứ cỏ nầy trước kia ở đây không có, từ ngày cụ Hồ về đây lãnh đạo cách mạng, thì thứ cỏ ấy mọc lên, không mấy lúc mà đầy cả đường sá đồi đống, người ta không biết tên nó là gì, thấy nó cùng một lúc với cụ Hồ về thì gọi nó là như vậy”.
Phần hai tạp văn các truyện: Thái Văn Thu, Ông Năm Chuột- chuyện ba ông vua Kiền Long, Quang Trung và Chiêu Thống và Nguyễn Trường Tộ, được trích dẫn:
Tiếng Chim: “Một lần ở Cẩn Nhân, tôi ngồi nơi nhà sàn, thấy hai con quạ rình bắt gà con kia bị gà mẹ chống cự, bắt không được cũng bay đi tuốt, nó không hề nói “Mầy phải cho tao với!” Cây Cộng Sản “Có một thứ thực vật, cũng như sen Nhật Bản ở xứ ta, trước kia không có mà bây giờ có rất nhiều. Đâu thì tôi chưa thấy, chỉ thấy ở Việt Bắc không chỗ nào không có.” Theo Phan Khôi có nơi gọi loại cây trên là “cỏ bù xít” hoặc “cây cứt lợn” hoặc “cây chó đẻ”. Ông nói rằng những tên cây đó đều không nhã tí nào, người có học không gọi như vậy mà gọi là “cây cộng sản”
Cây cộng sản: “Không mấy lâu rồi nó mọc đầy cả đồn điền, trừ khử không hết được, nó lan tràn ra ngoài đồn điền. Cái tình trạng ấy bắt đầu có những năm 1930-1931 đồng thời với Đông Dương Cộng sản đảng hoạt động. Phong trào cộng sản cũng lan tràn nhanh chóng như thứ cây ấy, cũng không trừ khử được như thứ cây ấy, cho nên bọn Tây đồn điền đặt tên nó là “herbe communiste” đáng lẽ dịch là cỏ cộng sản. Nó còn một tên rất lạ hỏi ông già Thổ tên nó là cây gì, ông nói tên nó là “cỏ cụ Hồ”. Thứ cỏ nầy trước kia ở đây không có, từ ngày cụ Hồ về đây lãnh đạo cách mạng, thì thứ cỏ ấy mọc lên, không mấy lúc mà đầy cả đường sá đồi đống, người ta không biết tên nó là gì, thấy nó cùng một lúc với cụ Hồ về thì gọi nó là như vậy”.
Phần hai tạp văn các truyện: Thái Văn Thu, Ông Năm Chuột- chuyện ba ông vua Kiền Long, Quang Trung và Chiêu Thống và Nguyễn Trường Tộ, được trích dẫn:
“Theo lời Thu thì
nhà hắn cũng đủ ăn, hắn đi ăn trộm không phải vì túng thiếu mà không muốn làm
nghề gì hết. Cái nhân sinh quan hắn đại khái là “người An Nam” phải làm là đánh
giặc Tây mà hắn không làm được, thì đi ăn trộm, ăn trộm của “Tây” (Thái Văn
Thu). “Tự Đức có phê vào bổn điều trần của Nguyễn Trường Tộ do quan tỉnh dâng
lên một câu Dùng được đấy hay là cho nó một chức quan để lấy lòng nó, dùng sức
nó một chức quan. Ông ấy tưởng người ta báu cái chức quan của ông ấy lắm đấy,”. Vua thì như thế còn
đám quan liêu từ triều đình đến ở các tỉnh phần nhiều là hủ nho, đám sĩ phu ở
dân gian càng đông hơn, cũng đều là hủ nho. Dưới vua, hai hạng người nầy nắm
quyền lợi một nước trong tay họ cấu kết với nhau để giữ lấy quyền lợi, thì còn ai
mà làm gì được? Lấy trường hợp Nguyễn Trường Tộ để án chỉ xã hội dưới thời Cộng
sản. (Nguyễn Trường Tộ)
Phan Khôi con người
khẳng khái, sống và viết trung thực không luồn cúi dưới chế độ cộng sản, để mưu
cầu danh lợi. Ông sống đúng tiết tháo của một nhà nho cho đến cuối cuộc đời.
Những bài ông viết trong tập Nắng Chiều dù không được xuất bản, nhưng nhờ Đoàn
Giỏi trích dẫn phê bình, chúng ta thấy Phan Khôi chủ đích chính trong bài là
chỉ trích chế độ cộng sản độc tài cai trị tại miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ.
Phan Khôi một vì sao
lạc dưới chế độ cộng sản, đã giết chết cuộc đời văn chương của ông. Nhưng trong
tuổi già nắng xế Phan Khôi viết và chửi chế độ cộng sản như loại “cỏ bù xít” vì loại cỏ nầy có mùi hôi như con bọ xít, “hoa cứt
lợn” hay là cây “chó đẻ”. Tình
thần sống và hoạt động của nhà văn Phan Khôi thật đáng ngưỡng mộ. Ông mất vào
lúc 11 giờ sáng ngày 16-1-1959 tại số 73 phố thuốc Bắc, Hà Nội, nhà văn
Phan Khôi sống và mất như nhà thơ Phùng Quán (1932-†1995) viết:
Tôi muốn làm nhà văn
chân thật
Chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết lên đá
(Hoàng Văn Chí, sđd 121)
Nguyễn Quý Đại (2000)
Chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết lên đá
(Hoàng Văn Chí, sđd 121)
Nguyễn Quý Đại (2000)
(Sau nầy người con
trai Phan Thao viết bài phê bình báo Nhân Văn do thân phụ giữ chức chủ nhiệm
kiêm chủ bút ngày 16-12-1956 tại Hà Nội. Bởi vì tư tưởng không đồng nhất Phan
Khôi thích dân quyền, ngược lại con ông thích cộng sản. “con cãi lại cha”)
Tài liệu tham khảo
thêm:
Ân tích cộng sản
Việt nam của GS Trần Gia Phụng
http://www.xuquang.com /links/vanhoc/phankhoi/)
độc giả có thể đọc toàn bài thơ nhất định thắng của Trần Dần
http://www.xuquang.com /links/vanhoc/phankhoi/)
độc giả có thể đọc toàn bài thơ nhất định thắng của Trần Dần
Hình trên internet
ĐỌC LẠI “CHƯƠNG DÂN
THI THOẠI”
-Của Phan Khôi
Thi thoại là “Sách
bình luận thi văn hoặc chép chuyện Thi nhân”. Đó là một dạng Phê bình thơ, xuất
hiện từ đời Tống : Âu Dương Tu (1007-1072) có “Lục nhất thi thoại” cùng mổi
tiếng với “Thạch Lâm thi thoại” của Diệp Mộng Đắc. Sau này sáng giá nhất là
“Tùy Viên thi thoại” của Viên Mai (1716-1797).
Ở Trung Hoa và ta
xưa nay coi đọc” Thi thoại chẳng khác nào được một người chơi hoa sành sỏi dắt
ta di xem và kể cho ta nghe câu chuyện lạ lùng về từng loài hoa một” (theo
Nguyễn Hiến Lê). Vì thế Thi thoại thường được hoan nghênh hơn thơ.
Biên soạn Thi thoại
rất khó : phải là người có tài, có uy tín lớn, phải đọc nhiều Sách, nghiền
ngẫm, từng trải, quen biết nhiều Thi nhân, bản thân không chỉ làm thơ hay mà
còn phải viết văn cũng hay nữa.
Ở ta có Phan Khôi
(1887-1959) là Nhà văn đạt tiêu chí như thế: về văn nghiệp , trước Cách mạng
tháng 8-1945 để lại tập “Chương Dân thi thoại”-( năm 1931). Tập sách tuy mỏng,
nhưng với tinh thần nhập thế và niềm say mê cái mới đã đưa Phan Khôi vào vị trí
2 lần đi tiên phong vừa là “ông tổ thơ mới” vừa là “ông tổ cuả thi thoại”
nước ta.
Chương Dân Thi thoại
là sách phê bình thơ của Chương Dân tiên sinh (tên hiệu – bút danh của Phan
Khôi) là tập hợp các bài viết đã đăng trên các tờ báo khác nhau :
Mở đầu là giải thích
: -Thơ là một lối văn có vần theo âm thanh từ điệu của một thứ tiếng (ngôn
ngữ) mà thi nhân sáng tác ra. – Thi thoại là lối trứ thuật chuyên nói về
chuyện làm thơ.
Trong Thi thọai
thường sưu tầm các bài thơ, câu thơ hay và kèm đôi lời “bình”…cốt lưu
truyền những câu thơ HAY của tao nhân mặc khách để giới làm thơ thưởng
thức học tập nâng cao phát triển… Trong Chương Dân Thi thoại , Phan Khôi
đề cao 2 quan điểm về thơ:
-Thơ Hay có 2 cách;
1 là cách tự nhiên, 1 cách đúc đắn. Cách tự nhiên thì có phần lưu lợi, đúc
đắn thì có phần trang nghiêm. Nhưng trang nghiêm thì được bên văn từ, mất bên
tình tính, còn lưu lợi thì có thể lưỡng toàn hơn (hiểu đơn giản là chỉ
nên viết khi thật hứng khởi, tự do, phóng khoáng, không nên quá lý
trí gò theo niêm luật “thôi xao” ?) .Phan Khôi chủ trương : “làmThi thoại không
được bỏ sót thơ HAY, nhất là khi cả nước đã thành ra 1 cái vô hình thi xã”
(nói như kiểu hôm nay là không được phân biệt thơ Trung ương/ thơ địa phương,
thơ Hội viên/ thơ câu lạc bộ…mà chỉ có một tiêu chuẩn là thơ HAY mà thôi). Vì
thế trong Chương Dân thi thoại , Phan Khôi đã chọn bình thơ từ Miên Thẩm, Hồ
Xuân Hương, Tú Xương…đến các tác giả vô danh trong thiên hạ, không phân biệt
địa vị xã hội, nam/nữ với mục đích ủng hộ sự đổi mới thi ca.
Câu chuyện thú vị
là: có bài “tống biệt” của một ông ở Bình Thuận đọc lên để làm trò
cười lúc tiễn bạn:
Trái Mù U trên núi
Chảy xuống cửa Phan
Rang.
Anh đi về
ngoài nớ
Trong lòng tôi chẳng
an.
Bao giờ anh
trở vô
Gặp tôi ở giữa
đàng.
Nắm tay nói
chuyện chơi
Uống rượu cười
nghênh ngang.
Bài thơ chợt tưởng
“Quê mùa”, nhưng ngẫm nghĩ thì : 2 câu đầu là thể hứng, mà cái ý hứng rất kỳ.
Câu thứ 6 trông lại nhau mà gặp” ở giữa đàng” thì lại có cái biệt thú. Toàn bài
“nhất khí quán hạ”, thêm cùng cái cảnh tượng “trái mù u trên núi chảy xuống cửa
Phan Rang” thật là vừa tự nhiên , vừa lưu lợi chảng thua gì một bài tuyệt
tác .
BI KICH PHAN KHÔI: đúng như Tố Như đã tiên tri ” càng tài tình lắm càng oan trái
nhiều”, hồi 1956-1957 Phan Khôi bị coi là “đầu sỏ Nhân văn Giai Phẩm”…rồi
đành phải bó gối ngồi chơi xơi nước tại gia với bà vợ già…đầu năm 1957 :
Phan khôi làm bài thơ tự mừng thọ mình, mở đầu bằng 2 câu:
Lên bảy mươi rồi, mẹ
nó ơi!
Thọ ta, ta
chúc nọ phiền ai…
Bài thơ
không được đăng báo , nhưng đến tai Nguyễn Công Hoan, Nhà
văn này liền làm bài “họa”:
Nhắn bảo Phan Khôi
khốn kiếp ơi !
Thọ mi, mi
chúc, chớ hòng ai .
Văn chương đù
mẹ thằng cha bạc,
Tiết tháo !
Tiên sư cái mẽ ngoài.
Lô-dích, trước
cam làm kiếp chó,
Nhân văn nay
lại hít gì voi.
Sống dai thêm
tuổi cho thêm nhục,
Thêm nhục cơ
trời chẳng thấy gai.
Là dân “Quảng Nam
hay cãi…” nên Phan Khôi có bài thơ như kiểu trần tình tự biện hộ cho mình :
Làm sao cũng chẳng
làm sao
Dẫu có thế nào
cũng chẳng làm chi
Làm chi cũng
chẳng làm chi
Dẫu có làm gì
cũng chảng làm sao.
Cuối năm 1957, sau
cuốn “Nắng chiều: không được in, Phan Khôi từ đó ngừng mọi chuyện viết lách…Già
yếu, cô đơn, bệnh tật, ông từ trần lúc 11 giờ sáng ngày 16-1-1959 tại số nhà 73
phố Thuốc Bắc – Hà Nội Suốt đời Phan Khôi sống (bảo thủ-không tùy thời) đúng
theo châm ngôn của Đại Nho Mạnh Tử “Phú quí bất năng dâm,bần tiện bất năng
di,uy vũ bất năng khuất”…Ông phải chăng đáng là một Văn Hào của
Việt Nam ta trong thế kỷ 20?
Quê Đình Bảng, ngày
hội đền Đô , 15-3-ta (2012)
Nguyễn Khôi – cẩn
bút…
Chú
thích thêm văn nghệ bồi bút
Xuân Diệu đã viết:
Chúng con thề nguyện một lời,
Quyết tâm thành khẩn.. lột người từ đây
Chúng con thề nguyện một lời,
Quyết tâm thành khẩn.. lột người từ đây
Hoặc trong bài
“Trước đây bốn tháng”, viết năm 1953:
..Mẹ xưa chăm cháo,
chăm cơm,
Đảng nay nuôi nấng còn hơn mẹ hiền.
Bệnh từ đời cũ liên miên,
Đảng trong thức ngủ chăm liền sớm hôm.
Anh em ơi quyết chung lưng
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tử thù
Địa hào, đối lập ra tro
Lưng chừng phản động đến giờ tan xương
Thắp đuốc cho sáng khắp đường
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống đọa đày chết thôi..
Đảng nay nuôi nấng còn hơn mẹ hiền.
Bệnh từ đời cũ liên miên,
Đảng trong thức ngủ chăm liền sớm hôm.
Anh em ơi quyết chung lưng
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tử thù
Địa hào, đối lập ra tro
Lưng chừng phản động đến giờ tan xương
Thắp đuốc cho sáng khắp đường
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống đọa đày chết thôi..
Tố Hữu bài “Đời đời
nhớ ông”, viết năm 1953:
..Sta-lin! Stalin!
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Sta lin!
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười
Giết giết nữa bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Sit-ta-lin bất diệt.
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Sta lin!
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười
Giết giết nữa bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Sit-ta-lin bất diệt.