Trang

Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2016

1950. Đức Hộ Pháp giảng về nhân quyền.

Sau khi đăng bài: 05 vị Chức sắc sập bẫy cộng sản, một số bạn đọc hỏi việc Đức Hộ Pháp nói về nhơn quyền. BBT xin đăng bài từ BNS Thông Liên số 74 ra ngày 20/09/2012 hầu bạn đọc.
NGÀY LỄ HỘI QUỐC LIÊN NHƠN QUYỀN.
.11-11- Tân Mão (1951). ĐỀN THÁNH.
 ĐỨC HỘ PHÁP.
Hôm nay là ngày Hội Quốc Liên, là ngày kỷ niệm tuyên dương của Hội Nhơn quyền. Nhơn Quyền của Hội Quốc Liên hôm nay do căn bản của Hội Nhơn Quyền do Pháp đào tạo và là cái danh dự cao trọng của Pháp hơn hết.
Y như lời Bần Đạo đã thuyết minh ngày lễ của Hội Quốc Liên về cái danh dự tạo Hội Nhơn Quyền cho nhơn loại, cái danh dự nước Pháp đã đạt đặng và đã đem lại cái danh thể cho nước Pháp thêm lớn lao với toàn cả thiên hạ, là chính nước Pháp đã đề xướng Nhơn quyền. Phàm mỗi việc nó khởi đương ra vẫn nhỏ rồi mới biến sanh ra lớn, mỗi sự chi ở thế gian này, vận mạng con người vẫn do theo cái luật tiến triển của tinh thần của hình thể, của năng lực cả toàn nhơn loại trên mặt địa cầu này. Ban sơ tại sao và do nơi cớ gì đã xuất hiện Hội Nhơn Quyền của nước Pháp buổi nọ? Có một vị sĩ quan kia tên Dreyfus bị cường bức phải mất chức và bị lao tù, nhưng cái lẽ bất công ấy một người không thể chi minh oan đặng. Các bạn đồng kiếm phương giải cứu. Một khối người họ nghĩ cũng chưa đủ, thế nên họ phải đề xướng lên làm thế nào cho toàn cả quốc dân nước Pháp phải chung hiệp với họ, đặng đem nhơn đạo lại cho kẻ hàm oan nhờ và tranh đấu đặng quyết định thâu hoạch nhơn quyền, các Hội viên của Hội Nhơn Quyền gọi danh là Dreyfusards, thành thử buổi nọ có nhiều trường hợp chiến đấu kịch liệt, một bên nhà cầm quyền, một bên nhứt định phản kháng cái bất công của chánh phủ làm phương nào cứu đặng Dreyfus ra.
Họ chiến đấu một cách khó khăn nhưng mà họ đã đắc thắng. Ngày hôm nay cả toàn thể thiên hạ tức nhiên các liệt cường điều nhìn nhận rằng: Tổ chức ấy rất trọng yếu, chánh đáng cho toàn thể nhơn loại được hưởng vậy, vì cớ cho nên Hội Quốc Liên mới tuyên dương ra các nước dân chủ trên mặt địa cầu này, cả thảy điều tùng theo cái tổ chức ấy và thiệt hiện cho toàn thể quốc dân hưởng quyền sở hữu làm người của họ. Cái sở năng của họ muốn cho nhơn quyền đạt đặng làm thế nào cho cả toàn thể dầu cho cá nhân, dầu cho xã hội nhơn quần điều đặng tự do, tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, tự do sinh sống, tự do định phận của mình đối với mọi người bất cứ xã hội nào, cần yếu là trong tự do ấy họ có cái đặc phận đối với xã hội của họ mà thôi.
Ấy vậy, hôm nay tại sao chúng ta là Đạo Cao Đài mà làm lễ long trọng dâng sớ cho Đức Chí Tôn, cầu nguyện Thiêng Liêng bảo hộ, binh vực cái tổ chức ấy được thiệt hiện nơi mặt địa cầu này. Bởi chưng đó là khuôn khổ cho nhơn đạo, nó phải có để giúp Đạo Cao Đài dìu dắt nhơn loại đi đến đại đồng thiên hạ trong bác ái công bình.
Bao giờ cái phản động lực của mình cũng do nơi quyền năng vô đối của năng lực nhơn quyền Thiêng Liêng kia đã đem đến, hễ có dữ, có hiền, vì có bất công, vì có đau khổ, của những kẻ cô thế bị cường quyền áp bức, họ không biết nương tựa nơi đâu đặng họ tự vệ lấy họ, tự bảo lấy họ, cái bất công ấy dẫy đầy nơi mặt thế gian này. Vì cớ mới sản xuất phản động chủ nghĩa, phải có một phương pháp chi bảo vệ nhơn quyền của họ, bằng chẳng vậy cái lẽ bất công trên mặt địa cầu này, chúng ta đã đoán xét thấy một tấn tuồng trước mắt làm cho thiên hạ đau khổ không thể gì giúp đặng, nên mới sản xuất ra phản động lực mạnh mẽ bảo vệ Hội Nhơn Quyền. Phải có một năng lực bảo vệ đặng đối thủ với lẽ bất công xã hội ấy đã làm cho thiên hạ phải thống khổ, làm cho thiên hạ phải ly loạn, phải tương tàn tương sát với nhau, sanh ra một cơ tận diệt.
Muốn đem lại hạnh phúc hòa bình, hòa bình thiệt hiện được, phải bảo vệ quyền hành cho cá nhân, cho xã hội và cho toàn thể nhơn loại, tất phải đem lại công chánh bác ái để nơi mặt thế gian này mới đặng. Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn khiến Hội Quốc Liên dung nạp cái tổ chức Hội Nhơn Quyền của Pháp đặng tuyên dương cùng toàn mặt địa cầu đặng thiệt hiện đại đồng thiên hạ đó vậy.
@@@


***: Theo wiki thì ông Alfred Dreyfus sinh ngày  9-10-1859 tại Mulhouse, mt ngày 12-9-1935 tại Paris.
Alfred Dreyfus
18591935.
Ông là người Pháp gốc Alsace, theo đạo Do Thái. Ông là sinh viên trường Bách khoa Paris.
Ông là sĩ quan pháo binh, tham gia thế chiến thứ nhất, trận Verdun, trận sông Aisne lần 2; cấp bậc sau cùng trong quân đội Pháp là Trung Tá. Ông được thưởng Bắc Đẩu Bội tinh Đệ ngũ (1906) và Bắc Đẩu Bội tinh Đệ tứ (1918).
Ông là nạn nhân của vụ vi phạm tư pháp năm 1894 vốn là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng chính trị nghiêm trọng những năm đầu của Đệ tam cộng hòa Pháp được biết dưới tên vụ Dreyfus (1898-1906).
 Trong vụ án đó người dân Pháp thời ấy chia làm hai phe: ủng hộ Dreyfus (dreyfusard) và chống Dreyfus (anti-dreyfusard).
&&&


Ông Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) viết quyển Bài Học Israel vào năm 1968. (Lần tái bản năm 1974 ông có bổ sung phụ lục I, II và II b để cập nhật tình hình Israel từ 1968 đến 1974).
Chương IV và IV B có liên quan đến vụ án Anfred Dreyfus mà Đức Hộ Pháp đề cập đến trong bài trên.
BBT xin trích nguyên văn gởi đến quí bạn đọc.
&&&


BÀI HỌC ISRAEL.
Chương IV
Một cuốn sách mỏng
ảnh hưởng rất lớn tới lịch sử thế giới hiện đại.
Vụ án Dreyfus
Năm 1894, ở Paris xảy ra vụ án làm sôi nổi dư luận châu Âu. Kẻ bị kết án là một sĩ quan Do Thái tên là Anfred Dreyfus. Bộ Quốc phòng Pháp ngờ Dreyfus do thám cho Đức, gởi những tài liệu quân sự bí mật cho Đức và toà án xử ông ta bị tội đày.
Dân chúng hay tin đó phẫn nộ, hô hào “Diệt tụi Do Thái!”. Ông Dreyfus một mực kêu oan, bảo rằng mình vô tội. Nét mặt ông khi ra toà thật thảm thương, chân thành, lảm cho một số người động lòng trắc ẩn, trong số này có một vị nguyên lão nghị viên tên là Scheurer Kestner và văn hào Emile Zolr.
Zolr thấy chứng cớ không đủ vững, tin rằng Dreyfus vô tội, can đảm viết một bài bất hủ nhan đề “J’accuse” (Tôi buộc tội) để buộc chính phủ phải xét lại vụ đó. Dư luận sôi nổi vì một số người cho rằng Dreyfus bị xử oan chỉ vì ông ta là Do Thái và chính quyền làm như vậy tức là tỏ ra rằng vẫn có tinh thần kỳ thị Do Thái.
Thế là ở Pháp nổi lên hai phe: một phe bài xích Do Thái, một phe bênh vực. Bài “J’accuse” được dịch ra nhiều thứ tiếng ở châu Âu, đăng lên nhiều từ báo làm cho khắp châu Âu ngó về nước Pháp. Nhà cầm quyền Pháp sau đành phải đưa vụ đó ra xử lại ở toà án quân sự Rennes: lần này án được giảm xuống mười năm cầm cố (1899). Bảy năm sau có đủ tài liệu chứng thực rằng Dreyfus vô tội, toà phải đem xử lại và tha bổng cho Dreyfus, nhưng sau mười hai năm bị oan uổng, tủi nhục, ông hoá ra con người bỏ đi.
Dreyfus có ngờ đâu nỗi bất công ông phải chịu đã làm thay đổi hẳn một người đồng chủng của ông, làm cho người từ một ký giả tầm thường hoá ra một danh nhân, đóng một vai trò quan trọng vào bậc nhất trong lịch sử thế giới. Ký giả đó là Théodore Herzl, sinh ở Budapest năm 1860.
Chương IV (B)
"Théodore Herzl
và cuốn “Quốc gia Do Thái”.
Théodore Herzl (1860-1904) viết trong cuốn tự truyện của ông:
“Tôi sanh năm 1860 ở Budapest, ngay sát giảng đường Do Thái giáo, nơi đó mới rồi viên Giáo trưởng (Rabbin) kết tội tôi kịch liệt chỉ vì (…) tôi muốn cho người Do Thái được vinh dự hơn, tự do hơn hiện nay… Mới đầu tôi vô học một trường tiểu học Do Thái, ký ức xa xăm nhất của tôi về trường đó là lần tôi bị trừng phạt vì không thuộc các chi tiết, về cuộc di cư ra khỏi Ai Cập. Ngày nay thì chắc có nhiều giáo viên muốn phạt tôi vì tôi nhớ kỹ cuộc di cư đó quá”.
Ông cùng với gia đình tới Vienne, nhập tịch Hung, và viết báo, soạn vài vở kịch, ông làm thông tín viên ở Paris cho tờ “Neue Freie Presse”, sau làm chủ bút trang văn chương của tờ đó.…
Năm 1894, Herzl sống một đời vô tư, vui vẻ như phần đông người Do Thái trí thức ở châu Âu tin rằng thế giới đã văn minh, luật pháp các nước đối với người Do Thái đã công bằng thì các mối thù truyền kiếp hồi xưa rồi đây dần dần sẽ mất hẳn không có gì đáng lo ngại nữa.
Ngày 22-12-1894, ông được toà báo “Neue Freie Presse” phái lại dự vụ lột lon Dreyfus trước công chúng ở Paris để viết bài tường thuật.
Ông vì phận sự mà tới chớ không cho việc đó là quan trọng. Nhưng khi ông thấy Dreyfus mặt tái xanh, giọng vô cùng thiểu não, thốt ra câu: “Tôi vô tội”, thì ông bỗng thấy quặn ở trong lòng. Và khi ông nghe quần chúng Pháp hô hét “Giết chết tụi Do Thái!” thì ông kinh hoàng, toát mồ hôi mặc dầu trời lạnh: ông tin chắc rằng Dreyfus chỉ vì lỡ sinh là người Do Thái như ông mà bị tội oan.
Về nhà ông đâm ra suy nghĩ: Dân tộc Pháp là dân tộc có tinh thần rộng rãi nhất, biết trọng tự do và bình đẳng nhất; tư tưởng cách mạng đã thấm nhuần họ trên trăm năm rồi kể từ cái hồi họ phá ngục Bastille, vậy mà còn kì thị, bài xích Do Thái đến mức đó, thì còn mong gì ở các nước khác nữa? Nông nỗi này thì thảm kịch Do Thái quả là bất tuyệt, vô phương giảm được. Dân tộc Do Thái còn bị nguyền rủa, xua đuổi, căm thù đến lúc tận thế thôi. Trừ phi là lật ngược lại vấn đề, không xin đồng hoá với các dân tộc khác nữa, không ở nhờ một quốc gia nào nữa - họ có thực tâm cho mình đồng hoá đâu - mà tạo lấy một quốc gia Do Thái được Hội Vạn Quốc thừa nhận.
Vẻ mặt thê thảm của Dreyfus, tiếng gầm thét: “Giết tụi Do Thái!” ảm ảnh ông hoài. Tháng 6-1895 sang Paris, Herzl viết trong hai tháng xong một cuốn sách nhỏ nhan đề “Quốc gia Do Thái” (L’Etat juif). Cuốn sách xuất bản ở Vienne ngày 14-2- 1896 và được dịch ra nhiều thứ tiếng:
“Quốc gia Do Thái cần thiết cho thế giới; vậy thì thế nào nó cũng sẽ thành lập. Nếu tinh thần thế hệ hiện nay còn hẹp hòi quá thì sẽ có một thế hệ khác tốt hơn, cao thượng hơn. Người Do Thái nào muốn có một quốc gia của mình thì sẽ có quốc gia và xứng đáng được có quốc gia”.
Ông đã suy nghĩ rất kỹ, đã tiên liệu hết thảy, cả những tiểu tiết nữa, như các vấn đề thuộc về pháp luật vì ông có bằng tiến sĩ luật. Ông tưởng tượng sự di trú (ông chưa gọi là hồi hương) sau này sẽ thực hiện trong những điều kiện, hoàn cảnh ra sao. Ông vẽ cờ và quốc huy cho quốc gia tương lai của ông, đưa ra những dự án về các cơ quan cần thiết cho sự thành lập quốc gia đó. Có người cho là giản dị, ngây thơ nhưng chính cái ngây thơ đó là thiên tài của ông, vì quả nhiên sau thực hiện được.
Trước ông đã có vài người- Do Thái và không Do Thái – viết những cuốn sách tương tự cuốn của ông, họ nuôi mộng thành lập quốc gia Do Thái.  Ông đã không được đọc những cuốn ấy, vì nếu đọc thì tất ông sẽ không viết, mà quốc gia Do Thái sẽ không bao giờ thành lập…..
***: Trong bài thuyết đạo trên đây có câu: Phàm mỗi việc nó khởi đương ra vẫn nhỏ rồi mới biến sanh ra lớn,….
BBT nhận thấy ngay chương IV B có đoạn tiếp theo nói về công việc của Ông Herzl trong tiến trình lập quốc của Isarel (ở thế kỷ 20) diễn ra rất đúng với câu trên nên cũng không ngại dài dòng trích hầu quí vị:
…Cái công lớn nhất của Herzl, sự nghiệp lịch sử của ông là đã tiêm được một bầu nhiệt huyết vào lòng người Do Thái, đã làm cho lòng tư hương của của họ có thêm một ý chí hành động, tích cực chiến đấu. Lần đầu tiên trong lịch sử Do Thái, ông đã tạo cho dân tộc đó một sức mạnh để xây dựng tương lai. Lần đầu tiên, một người Do Thái nhận ra rằng nếu mọi người Do Thái ở khắp nơi trên thế giới tự coi mình là một dân tộc, tự tổ chức thành một dân tộc thực sự có non sông, tổ quốc, thì các dân tộc kia phải nhận họ là một dân tộc, đối đãi với họ như với một dân tộc - chứ không phải như một giống người ăn đậu ở nhờ, lang thang, bị khinh bỉ, hắt hủi, ông bảo: chỉ có mình mới tự cứu mình được thôi, và vấn đề Do Thái phải do người Do Thái giải quyết lấy.
Tác phẩm của ông hơn hẳn nhưng tác phẩm trước ở điểm ông là người Do Thái, biết nhìn vấn đề một cách đích xác, với tấm lòng thiết tha hơn những tác giả không phải Do Thái, mà đồng thời lại biết vượt lên trên phạm vi Do Thái, đặt vấn đề vào một phạm vì quốc tế, điều mà các tác giả Do Thái trước kia chưa ai nghĩ tới
Nhưng khi tác phẩm mới xuất bản, nhiều người trong giới trí thức Tây Âu đã cho là ông điên. Một mình đứng lên hô hào thành lập một quốc gia khi mà giang san đã vào tay người khác non hai ngàn năm rồi, khi mà đồng bào đã phiêu bạt khắp thế giới, mất cả ngôn ngữ! Mà tại sao lại xui người Do Thái ở Đức, Pháp, Anh… về Palestine về cái thẻo đất cháy khô đó để làm gì. Bỏ tất cả các ngân hàng, các hãng, xưởng, bỏ công trình nghiên cứu, công ăn việc làm ở châu Âu này à? Rồi con cái đương học ở Đại học, Trung học, về bên đó làm gì có trường. Khí hậu bên đó nóng như thiêu, chịu sao nổi? Đương sống yên ổn được mấy chục đời nay, vụ Dreyfus là một vụ nhỏ, nên dìm nó đi, quên nó đi chứ sao lại đổ thêm dầu vô lửa, khêu gợi lại vấn đề kỳ thị chủng tộc. Người ta mỉa mai ông là ôm cái mộng xây dựng một quốc gia để làm một quốc vương, làm ngài Ngự, và khi ông vô rạp hát thì người ta chỉ trỏ nhau: “Kìa, ngài Ngự đã tới!”. Chính chủ nhiệm tờ “Neue Freie Presse” cũng chê là ông gàn, cấm ông không được bàn tới vấn đề Do Thái trên tờ báo.
Nhưng cuốn sách của ông đã gây được ảnh hưởng khá lớn trong giới Do Thái lao động ở Nga và vì họ sống điêu đứng, vẫn còn bị kỳ thị, bị ức hiếp, vẫn hướng về Jérusalem. Thấy vậy ông sung sướng, hăng hái hoạt động, không ngại phá sản, không ngại kiệt sức, bỏ công ăn việc làm, mà tận tuỵ phục vụ dân tộc Do Thái.
Ông hoạt động trên hai mặt: về nội bộ, ông tổ chức phong trào Sion, đào tạo cán bộ, cung cấp phương tiện vật chất và tinh thần, vạch chương trình hoạt động rồi điều khiển, theo dõi; đồng thời về ngoại giao ông bôn tẩu khắp các xứ, ráng thuyết phục các vị vua chúa, các vị tổng thống, các người có thế lực để họ giúp ông lập lại quốc gia Do Thái ở Palestine. Ông muốn rằng dân tộc Do Thái tự tạo lấy vận mạng cho mình, nhưng các dân tộc khác cũng phải tiếp tay với họ.
Năm 1897, ở Bâle, ông họp nghị Sion đầu tiên, vẻ uy nghi, râu rậm, trán cao, nét mặt như một quốc vương Syrie. Có kẻ la: “Vạn tuế ngài Ngự”, ông bất chấp lời mỉa mai đó. Trong nhật ký ông chép:
Ở Bâle tôi đã thành lập quốc gia Do Thái, nhưng không tuyên bố, nếu tuyên bố ra thì chắc mọi người sẽ cười rộ. Nhưng có lẽ trong năm năm nữa, chắc chắn là trong năm chục năm nữa, mọi người sẽ thừa nhận quốc gia đó”.
Thực là một lời tiên tri đúng lạ lùng. Đúng năm mươi năm sau, năm 1947, Hội Vạn Quốc (tức Liên Hiệp Quốc ngày nay) quyết định tạo một quốc gia Do Thái ở Palestine và năm sau 1948, quốc gia Israel được hết thảy các quốc gia Âu, Mỹ thừa nhận.
Ông hoạt động không tiếc sức. Đâu đâu cũng có mặt ông, lại Paris thuyết phục nhà xã hội học Max Nordau, qua London thuyết phục văn hào Do Thái Zangwill; lại Istambul bệ kiến vua Thổ Nhĩ Kỳ Abd Ul-Hamid II để xin ban bố một hiến chương cho Palestine (Palestine thời đó còn là thuộc địa của Thổ Nhĩ Kỳ); ông tới Rome yết kiến Giáo hoàng, và vua Victor Emmanuel III; rồi gặp Đức Hoàng, Nga Hoàng, Joseph Chamberlain.
Ông sáng lập tuần báo “Die Welt”, sáng lập ngân hàng Do Thái “Jewish Colonial Trust”, sáng lập Quĩ quốc gia Do Thái “Keren Kayemeth Leisrael) để mua đất ở Israel, và mỗi năm đèu tổ chức một hội nghị Sion.
Người Anh thực tình muốn giúp ông, sẵn lòng tặng ông xứ Ouganda ở trung bộ Châu Phi để thành lập quốc gia, nhưng các người Do Thái ở Nga đặc biệt là một thanh niên đầy nhiệt huyết, Chaim Weizmann, sau này thành vị tổng thống đầu tiên của Quốc gia Israel - nhất định không chịu, đòi về Israel cho được. Ouganda ở đâu? Nó là cái thứ ma quỉ gì? Trong thánh kinh không thấy có tên đó! Ông đành nhượng bộ, hứa không khi nào quên Jérusalem, sở dĩ nghĩ tới Ouganda là muốn tạm thời giảm nỗi khổ của người Do Thái đương chịu cái nạn pogrom tại Kichinev.
Người Anh còn để nghị một miền ở Ba Tây, rồi đảo Chypre ở Địa Trung Hải, họ vẫn một mực lắc đầu. Không, Chúa đã hứa cho tổ tiên chúng tôi xứ Israel thì chúng tôi sẽ về Israel.
Herzl mừng thầm: phong trào ông gây nên bây giờ đây mạnh, sẽ không có sức gì ngăn cản được nó nữa. Mỗi năm, ông trình bảy tất cả các hoạt động của ông cùng những bước tiến của phong trào Sion cho các đồng chi ở hội nghị Sion.
Ngày 2 tháng 5 năm 1901, ông viết trong nhật ký:
“Hôm nay tôi đúng bốn mươi mốt tuổi. Tôi đã gây phong trào gần được sáu năm rồi. Nó làm cho tôi già đi, kiệt sức, nghèo đi.” “Một ngày kia khi quốc gia Do Thái thành lập, người ta sẽ thấy cái gì cũng có vẻ giản dị, tự nhiên. Nhưng một sử gia có công tâm có lẽ sẽ nhận rằng thật lạ lùng…, sao mà một ký giả Do Thái tầm thường có thể biến đổi một miếng giẻ rách thành một lá cờ và một đám người bị đày đoạ thành một quốc gia được”.
Vì lao tâm khổ tứ, ngày đêm chiến đấu với các chính quyền, thư từ liên lạc với đồng bào ở khắp thế giới, Herzl kiệt lực tắt nghỉ năm 1904, sau một cơn đau tim, hồi mới bốn mươi bốn tuổi.
Ngày 3.7.1904, ở Vienne, mấy ngàn người đi sau xe tang của ông.
“… Ngày tháng bảy đó, ai đã thấy cũng không sao quên được. Vì bỗng nhiên từ mọi nhà ga, do tất cả các chuyến xe lửa đêm cũng như ngày, những người ở mọi xứ, mọi quốc gia ùa cả tới: Do Thái phương Tây và phương Đông, Thổ, Nga; từ mọi thị trấn nhỏ họ đỗ tới như một cơn giông và trên nét mặt người nào cũng hoảng sợ vì tin đó; không bao giờ người ta cảm thấy một cách rõ rệt hơn rằng (…) đây là đám đưa ma của vị lãnh tụ một đại phong trào. Đám tang dài bất tận. Cả thành phố Vienne bỗng nhận thấy rằng không phải chỉ là đám tang một văn sĩ, thi sĩ tầm thường, mà đám tang của một trong những nhà phát minh tư tưởng mà lâu lắm mới thấy rực rỡ xuất hiện trong một quốc gia, một dân tộc.
Ở nghĩa địa, thật là huyên náo. Biết bao nhiêu người chen lấn nhau cố tới gần quan tài, khóc lóc, la hét, vang dội lên như thất vọng điên cuồng. (…) và lần đầu tiên trước nỗi đau khổ vô tả bột phát từ thâm tâm cả một dân tộc gồm mấy triệu người đó, tôi cảm thấy rằng sức mạnh tư tưởng của một người lẻ loi đã gây biết bao nhiệt tâm, biết bao hy vọng trên khắp thế giới” (Stefan Zweig - Thế giới hôm qua).
Khi hài cốt của ông cải táng về một ngọn đồi ở cửa thành Jérusalem (ngọn đồi đó mang tên ông: núi Herzl) thì không chỉ có mấy ngàn người như ở Vienne mà là mấy trăm ngàn người đi theo quan tài.
&&&
Đạo Đức Kinh chương 64 viết:
Hạp bao chi mộc, Sanh ư  hào mạc.
Cửu tằng chi đài, Khởi ư lũy thổ.
Thiên lý chi hành, Thỉ ư túc hạ.…
Cụ Nguyễn Duy Cần dịch:
Cây to một ôm, khởi sanh gốc nhỏ.
Đài cao chín tầng, khởi từ nhúm đất con.
Đi xa ngàn dặm, khởi đầu một bước chân,..
Kinh Thánh: ….chút men làm dậy cả đống bột….
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo (Bài Kinh Nhập Hội. Câu 10-11):
Phép tu vi là kế tu hành,
Mở đường tích cực oai linh…

Xét ra đều có chung một ý với câu trên.