3 tháng 8 2016
BBC Tiếng Việt trích đăng các
bài đã đăng trên trang nhà của chúng tôi về một số gương mặt văn nghệ sỹ
thuộc thế hệ Việt Nam Cộng Hòa.
Võ Phiến (1925-2015):
"Nói với BBC ngày 29/9/2015, nhà phê bình Đặng Tiến từ Pháp
nhận xét tùy bút của Võ Phiến rất đa dạng.
“Tùy bút là thể loại mà Võ Phiến thành công nhất, để lại nhiều
tác phẩm và tư liệu hay nhất.”
Image copyright
Phát biểu từ Úc, nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc, người viết nhiều
về ông Võ Phiến, nói thế hệ cầm bút sau này vẫn còn học được ở Võ Phiến.
Những bài bình luận chính trị của ông trước 1975 chứng tỏ ông
rất am hiểu chủ nghĩa cộng sản.Nguyễn Hưng Quốc
“Ông viết nhiều đề tài nhưng lúc nào phong cách của ông luôn là
Võ Phiến. Nhà văn chỉ thành công khi anh có phong cách riêng, để khi đọc một
câu, một đoạn, độc giả biết ngay là của anh.”
Từ sau 1975 đến nay, hầu hết tác phẩm của Võ Phiến vẫn chưa được
xuất bản tại Việt Nam.
Vài năm trước, tại Việt Nam xuất hiện hai cuốn tạp văn của Võ
Phiến nhưng in với bút danh Tràng Thiên.
Ông Quốc giải thích: “Những bài bình luận chính trị của ông
trước 1975 chứng tỏ ông rất am hiểu chủ nghĩa cộng sản. Ông phê phán nó rất sắc
sảo, mới mẻ so với thời đại bấy giờ.”
“Vì vậy ông bị miền Bắc xem là nhà văn ‘biệt kích, phản động’,
toàn bộ sách của ông bị tịch thu sau 1975.”
Từ trong nước, nhà phê bình, giáo sư Trần Đình Sử cho biết tại
Việt Nam hiện nay, đánh giá về Võ Phiến “rất phân tán”.
“Chủ yếu là do nhìn vào khuynh hướng chính trị của tác giả.”
“Tuy vậy, nhà văn nào cũng có khuynh hướng chính trị của họ. Nếu
đặt nó sang bên để nhìn khía cạnh sáng tạo văn học, tôi nghĩ Võ Phiến là người
viết tùy bút lớn.”
Trước đây ta cho rằng Nguyễn Tuân viết tùy bút số một, nhưng còn
Võ Phiến. Nhiều khi tôi trộm nghĩ tùy bút Võ Phiến không hề thua kém, thậm chí
có khi hơn.Trần Đình Sử
Giáo sư Trần Đình Sử đánh giá rất cao các bài tùy bút của Võ
Phiến.
“Trước đây ta cho rằng Nguyễn Tuân viết tùy bút số một, nhưng còn
Võ Phiến. Nhiều khi tôi trộm nghĩ tùy bút Võ Phiến không hề thua kém, thậm chí
có khi hơn.”
Nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc nói “ân oán chính trị
sẽ ngày càng phôi phai”. (Toàn bài đã đăng tại đây).
Thanh Tâm Tuyền (1936-2006):
Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền (Dzư Văn Tâm) qua đời tại bang Minesota,
Hoa Kỳ, sáng thứ Ba, ngày 22 tháng Ba, 2006, hưởng thọ 70 tuổi.
Di cư vào Nam năm 1955, ông được xem là có đóng góp khai phá
hàng đầu trong phong trào Thơ Tự Do không vần.
Khoảng năm 1957, ông Thanh Tâm Tuyền chủ trương tạp chí Sáng Tạo
cùng với Mai Thảo, Nguyên Sa, Vũ Khắc Khoan, Tô Thùy Yên, Doãn Quốc Sỹ, Quách
Thoại, Lý Hoàng Phong, Lữ Hồ, Trần Thanh Hiệp, Thanh Nam... và các họa sĩ Thái
Tuấn, Ngọc Dũng, Tạ Tỵ, Duy Thanh.
Năm 1960, tạp chí Sáng Tạo bộ mới ra đời, cũng do Thanh Tâm
Tuyền thực hiện cùng các bạn hữu như Cung Trầm Tưởng, Thạch Chương, Dương
Nghiễm Mậu.
Theo tiểu sử, năm 1962, Thanh Tâm Tuyền bi động viên, vào học ở
Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, rồi về dạy Đại Học Chính Trị Đà Lạt và phụ trách
Nguyệt San Quốc Phòng.
Image copyrightTHANH TAM TUYENImage caption
Sau năm 1975, ông bị bắt giam và ở trại cải tạo nhiều năm.
Với cách viết thơ Tự Do, Thanh Tâm Tuyền được xem là một trong
những người đưa vào sự cách tân trong thơ Việt Nam vào lúc ảnh hưởng của thơ
Tiền chiến còn rất mạnh.
Trong một bài viết về ông của Bùi Vĩnh Phúc, tác giả nói Thanh
Tâm Tuyền đã "đẩy thơ tự do của ông, thời ấy, vào những con đường hết sức
mới lạ."
Một số tác phẩm đã xuất bản của Thanh Tâm Tuyền:
Tôi Không Còn Cô Ðộc (thơ, 1955); Liên, Ðêm, Mặt Trời Tìm Thấy (thơ, 1964);
Khuôn Mặt (truyện, 1964); Bếp Lửa (truyện); Dọc Ðường (truyện, 1966); Ba Chị Em
(truyện, 1967); Cát Lầy (truyện, 1967); Mù Khơi (truyện, 1970); Tiếng Ðộng
(truyện, 1970); Tạp Ghi (1970); Thơ Ở Ðâu Xa (thơ, Hoa Kỳ). Toàn bài đã đăng tại đây.
Nguyễn Mộng Giác (1940-2012):
"Trường thiên tiểu thuyết là thuật ngữ Nguyễn Mộng Giác đã
dùng để gọi thể loại mà ông sử dụng khi viết Mùa biển động: một tiểu thuyết dài
nhiều lần hơn mức trung bình, chia thành nhiều tập, đưa ra một tuyến nhiều nhân
vật, sống trong một giai đoạn lịch sử dài, và những hoàn cảnh khác nhau.
Image copyright
Có thể nói Nguyễn Mộng Giác là "chuyên gia" về thể
loại này. Ông còn là tác giả bộ tiểu thuyết lịch sử, lấy thời kỳ Tây Sơn làm
bối cảnh, bộ truyện Sông Côn Mùa Lũ, bốn cuốn, dài khoảng 2000 trang, viết tại
Sài Gòn từ tháng 5-1978 đến tháng 3- 1981, tu chính tại Hoa Kỳ 1990, và nhà An
Tiêm của Thanh Tuệ xuất bản, cùng năm, tại Cachan- Paris và California.
Sách được tái bản trong nước, tôi không nhớ xuất xứ, vì tôi có
một bộ nhưng đã gửi tặng…tác giả! Sách, vì ấn hành trong nước, đã gây tai tiếng
và phiền hà cho người viết tại Mỹ.
Như vậy, mấy chữ trường thiên tiểu thuyết đã mất nghĩa đầu tiên
của nó: trước kia, nó chỉ là truyện dài, khác với trung thiên tiểu thuyết là
truyện vừa, và đoản thiên tiểu thuyết là truyện ngắn. Từ ngày báo Phong Hóa,
năm 1932, đưa ra từ truyện ngắn, thì dần dần người ta chỉ còn dùng hai chữ
truyện dài, truyện ngắn. Cũng cần thêm rằng, hai chữ truyện ngắn mượn của người
Anh, dịch từ short story, chớ người Pháp và người Trung Quốc, thầy ta lúc ấy,
không có khái niệm truyện ngắn, hiểu theo quan niệm bây giờ...
...Tiểu thuyết xưa nay vẫn là niềm an ủi của quần hùng chiến
bại, là tiếng kèn bi thảm của hiệp sĩ Roland từ đèo Roncevaux đáp lại lời kêu
cứu thất thanh của Quan Công khi thất thủ Kinh Châu, là tâm sự của Từ Hải, chết
rồi còn đứng giữa trận tiền để đợi chàng Julien Sorel rụng đầu bên máy chém.
Tiểu thuyết, nơi hẹn hò của những Hạng Võ khi biệt Ngu Cơ. Ngược
lại lịch sử là triều đình của những người chiến thắng, của Tần Thủy Hoàng, Lưu
Bang, Câu Tiễn, Trần Thủ Độ, Đặng Trần Thường, tiểu thuyết là lối về của người
chiến bại, những Kinh Kha, Ngũ Tử Tư hay Ngô Thời Nhậm. Trong đám tàn quân rã
ngũ đó, có cả nhân vật Mùa biển động của Nguyễn Mộng Giác – và có lẽ có cả
Nguyễn Mộng Giác.
Nguyễn Mộng Giác sinh năm 1940 tại Bình Định.Tốt
nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1963. Dạy học tại Huế, Quy Nhơn và làm chuyên
viên nghiên cứu giáo dục Bộ Giáo Dục, Sài Gòn. Bắt đầu viết văn năm 1971, đã
cộng tác với các tạp chí Bách Khoa, Văn, Thời Tập, Ý Thức. Vượt biển tị nạn năm
1981 qua Indonesia, định cư tại Hoa Kỳ cuối năm 1982. Cộng tác với các báo Đồng
Nai, Việt Nam Tự Do, Người Việt, Văn, Văn Học Nghệ Thuật Chủ bút tạp chí Văn
Học, California, Hoa Kỳ, từ 1986 đến tháng 8/2004
Tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa, ở một chân trời khác,
thì lật ngược quy luật: các nhân vật chính và chính diện – con người mới – sau
khi chiếm đoạt lịch sử thì chế ngự luôn cả nghệ thuật; họ làm anh hùng hai lần,
chỉ với một mũi tên; họ xe duyên với Thúy Vân rồi ép duyên cả Thúy Kiều, họ có
cái vẻ vang luộm thuộm lẫn cái hạnh phúc lúng túng của những người đàn ông hai
vợ.
Ngày nay, mấy chữ tiểu thuyết trường thiên nghe nó xa xôi quá.
Cứ gọi là bộ truyện Cửa biển, Mùa biển động, Sông Côn mùa lũ, nghe gần gũi hơn,
và đúng hơn. Vì khái niệm tiểu thuyết, du nhập từ phương Tây, từ thời kỳ này
sang thời đại khác, đã nhiều lần biến chất, và hiện nay là một văn loại đang tự
hủy hay băng hoại trước nhưng thể loại khác và phương tiện truyền thông mới.
Cái còn lại là cốt lõi, là phần "truyện", hiểu theo
nghĩa nôm na: truyện Tam Quốc, truyện Thạch Sanh. Khi mọi người đều nói truyện
Mùa Biển Động, thì Nguyễn Mộng Giác có quyền sung sướng."
Hoàng Anh Tuấn (1932-2006):
"Hoàng Anh Tuấn sinh ngày 7-5-1932 tại Hà Nội. Ngoài làm
thơ, viết văn, viết kịch với những vở kịch như: Ly Nước Lọc, Hà Nội 48, ông còn
là đạo diễn điện ảnh với những phim: Ngàn Năm Mây Bay, Xa Lộ Không Đèn
Năm 1949 ông du học bên Pháp và lập gia đình tại đó, vợ ông là
bà Ngô Thị Liên.
Hai người có với nhau sáu người con là: Hoàng Hôn Thắm, Hoàng
Ánh Thép, Hoàng Thu Thuyền, Hoàng Hương Thao, Hoàng Mạc Tiên, và cô gái út là
Hoàng Thái Trang kết duyên cùng anh Trần Văn Học, con trai của cố thi sĩ Nguyên
Sa.
Thời gian sau này ông sống chung với bà Khương Thị Phương Trâm.
Suốt thời gian ông bị bệnh bà Trâm là người cận kề chăm sóc ông.
Thơ Hoàng Anh Tuấn
Hà nội yêu, anh vẫn yêu muốn khóc
Mấy chục năm, xa đến mấy ngàn năm
Giã từ em – mười bảy tuổi – một lần
Thu rất mỏng, mưa hững hờ đẫm lá
Hà nội yêu, áo lụa ngà óng ả
Thoáng khăn san nũng nịu với heo may
Hai ngón tay nhón một trái ô mai
Chiếc răng khểnh xinh nụ cười cam thảo
Năm 1958 thi sĩ Hoàng Anh Tuấn về Việt Nam cộng tác với các tạp
chí văn nghệ, cùng nhiều tuần báo và nhật báo ở Sàigòn.
Ông là một trong những thi sĩ được cố nhà văn Mai Thảo yêu mến
nhất. Trước đó, mặc dù ông chưa có một thi phẩm nào ấn hành nhưng thơ của ông
rất được mọi người yêu mến và nhìn nhận ở ông là một tài thơ lớn.
Với Hoàng Anh Tuấn lúc nào cũng là bạn hữu. Tính ông thích bông
đùa. Người lớn tuổi hoặc nhỏ tuổi hơn ông cũng xưng hô với nhau là 'tao-mày'.
Nữ tài tử Kiều Chinh hay gọi đùa ông là đạo diễn 'trẻ mãi không
già'. Thi sĩ Du Tử Lê gọi ông là 'Châu Bá Thông'. Còn tôi, thân mến gọi anh là
'Hoàng Công Tử'.
Hoàng Anh Tuấn là một trường hợp vô cùng đặc biệt. Chưa có tác
phẩm nhưng lại vô cùng nổi tiếng.
Người ta biết nhiều đến ông qua bản nhạc: 'Mưa Sàigòn, Mưa Hà
Nội' viết chung với cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương trên một căn gác ở Sài Gòn.
Những năm gần đây, nhạc sĩ Phan Nguyên Anh phổ nhạc bài thơ 'Yêu
Em Hà Nội' của ông được ca sĩ Như Mai trình bày rất xuất sắc.
Năm 1965 ông làm quản đốc đài phát thanh Đà Lạt cho đến năm
1975.
Năm 1979 thì ông được qua Pháp. Năm 1981 ông định cư tại
Mỹ..."
Nguyễn Ánh 9 (1940-2016):
Hoàng Nguyên Vũ viết về 'Nhân chứng âm nhạc Sài Gòn':
"...Sau sự kiện tháng 4/1975, ông không đi nước ngoài mà ở
lại với Sài Gòn, cũng là một hình thức “quyết liệt nghe theo cảm xúc của mình”
như thế.
Sau này, ông có tâm sự, ông muốn ở lại để thử thách cảm xúc của
mình có bị mất đi một cách dễ dàng với mọi đổi thay hay không. Và trong dòng
người đi, ông lại muốn mình ở lại. Vì ông thuộc về Sài Gòn, lớn lên với Sài Gòn,
cuồng yêu với Sài Gòn.
Ở lại với công việc của người chơi nhạc ở một đoàn văn công khi
ấy, chẳng bao lâu, vì mưu sinh, người nhạc sĩ, nhạc công này tạm xa cây đàn để
làm một công việc không liên quan: nhân viên soát vé tại xa cảng miền Tây trong
2 năm.
Tôi đã từng ái ngại hỏi ông, rằng con người thuộc về âm nhạc,
những ngón tay nhỏ nhắn dạo phím một đời thế, thì ông làm việc soát vé như thế
nào, ông nói: “Nhà chú còn bỏ để mà đi thì việc soát vé đâu có gì con. Hơn nữa,
những nghệ sĩ khi qua Mỹ cũng làm những việc phổ thông, thì mình ở đây, cũng
làm việc phổ thông. Như nhau thôi mà.”
Ông cho rằng, ông đã ở lại và nếm trải đủ cảm xúc của mình với
Sài Gòn, đủ cảm xúc của mọi kiếp người như ngoài phố, để hiểu Sài Gòn qua những
trải nghiệm suốt cuộc đời.
Và ông lại về chỗ của ông, là cây dương cầm. Ông thuộc về nơi
đó...
...Và hôm nay, người ngồi đó với cây đàn bao nhiêu năm, đã thành
người thiên cổ.
Ừ thì, sinh lão bệnh tử, vòng luân hồi tự nhiên ấy ai cũng phải
trải qua. Nhưng tiếc nuối thực sự cho một nhân chứng âm nhạc, là cảm xúc của
tôi lúc này.
Lẽ ra, ông nên ngồi đó thêm nhiều năm nữa, để người đời vẫn nghe
tiếng đàn ông. Và, một số những câu chuyện, những giai thoại về làng nhạc Sài
Gòn năm xưa, khi mà những ca khúc cũ đã được biểu diễn trở lại một cách mạnh mẽ
ở Việt Nam, cần nhân chứng xác tín một số giai thoại.
Và tôi thực sự tiếc nuối cho một nhân cách đẹp thực sự của làng
nhạc, một người có đời sống lặng lẽ, tận hiến cho những điều tốt đẹp trong số
ít những người như thế giữa đời, đã không ở lại với đời lâu hơn."
Phạm Duy (1921-2013):
Tiến sỹ Eric Henry, ĐH North Carolina, cựu binh lục
quân Mỹ (Củ Chi - Xuân Lộc - Quảng Trị) trả lời phỏng vấn về Phạm Duy:
"Tôi thấy rằng Phạm Duy là "đại vương" của nhạc
phổ thông Việt Nam.
Image copyrightBBC WORLD SERVICEImage caption
Không có một nhà sáng tác nào khác có thể nói là đa dạng, sâu
sắc, và đầy sức tưởng tượng bằng ông.
Nhưng tôi nói thế nhất định không có nghĩa là tôi muốn bác bỏ
những thành tựu của các người soạn nhạc khác. Trong giới nhạc phổ thông Việt
Nam, có rất nhiều nhân vật mà ta chỉ thể nói là "vĩ đại" đến tột độ.
Đối với con người Phạm Duy, thì tôi thấy là ông không những là nhạc
sỹ, mà là một vị tư tưởng gia nữa, và rất quan tâm đến tương lai và số mệnh của
người Việt Nam.
Điều đó có thể thấy rõ khi đọc bốn quyển Hồi Ký của ông.
Tôi đã được cái may mắn làm quen với nhiều người "không
phàm," nhưng chưa hề gặp một ngưởi nào thông minh hơn, hoặc phức tạp hơn,
nhạc sỹ Phạm Duy.
Nếp sống của ông đã bận rộn vô cũng và ông lúc nào cũng phải
chuyên tâm về nghề nghiệp của mình—tuy vậy ông luôn luôn đối xử với tôi một
cách tử tế, đẹp đẽ không thể tả được.
Tôi không khó mà thấy tại sao những người gọi ông bằng
"bố" là nhiều như thế.
Ông Phạm Duy được cho là chỉ muốn trung thành với văn hóa dân
tộc chứ không phải chính quyền.
Image copyrightPD
...Việc dịch Hồi Ký đã giúp tôi hiểu là: suốt đời ông, Phạm Duy
đã rất quyết tâm không công nhận là người Việt Nam có một thứ chia lìa nào cả
về chính trị, tư tưởng, nếp sống.
Phần đông người khác cảm thế là mình có bổn phận ủng hộ phe nọ
phe kia, nhưng Phạm Duy từ chối làm như thế, và trái lại tiếp tục đứng ở trung
gian.
Thái độ đó đã khiến nhiều người đâm ra hoài nghi đối với ông.
Họ đều tin tưởng là bổn phận của mỗi con người là có một thứ
'lập trường' chính trị.
Họ đều tin tưởng là 'thiếu lập trường' giống như không có nguyên
tắc ăn ở nào cả.
Nhưng đối với Phạm Duy, trên đời này không có gì đáng ghét hơn
'lập trường'.
Theo ông, hai chữ "yêu nước" chỉ thể mang một ý nghĩa
thôi; đó là 'trung thành với văn hóa, ngôn ngữ, và cảnh vật của nước mình', tôi
thấy là cách suy nghĩ đó rất là có lý..."
Dương Nghiễm Mậu (1936-2016):
Tên thật là Phí Ích Nghiễm, sinh tại làng Mậu Hòa, Ðan Phượng,
phủ Hoài Ðức, Hà Ðông. Ông di cư vào Nam năm 1954, là nhà văn, phóng viên quân
đội VNCH và làm họa sỹ sơn mài để mưu sinh sau 1975.
Image copyrightImage caption
Nhà thơ, blogger Trần Tiến Dũng viết trên Facebook 03/08/2016:
"Tôi không có câu chuyện gì để kể về anh, chưa tặng anh tập
thơ nào cũng như anh chưa từng muốn để lại trong tôi vài câu chuyện văn và
nghiệp văn chương của anh.
Những gì tôi biết về anh đều qua việc đọc các tác phẩm đã in của
anh.
Dương Nghiễm Mậu di cư vào Nam năm 1954. Từ năm
1957, ông bắt đầu viết nhiều đoản văn, truyện ngắn, truyện dài. Năm 1962, ông
chủ trương tạp chí Văn Nghệ với Lý Hoàng Phong, đồng thời viết cho các báo Sáng
Tạo, Thế Kỷ, Tia Sáng, Văn, Văn Học, Bách Khoa, Giao Ðiểm, Chính Văn, Sóng
Thần, Giữ Thơm Quê Mẹ…Ngoài ra, ông còn chủ trương nhà xuất bản Văn Xã.Báo
Người Việt, California
Tôi không muốn đi quá vị trí của một độc giả thế hệ văn nghệ sau
biến cố 1975; tôi muốn gìn giữ trạng thái cảm xúc trước một nhà văn lớn đáng
kính trọng, rồi thu mình lại giữ ranh giới giữa độc giả và nhà văn.
Có lần đến thăm anh khi anh vừa qua khỏi cơn đột quỵ nhẹ.
Tôi nghe anh Trịnh Cung hỏi:
'Sao toa không viết hồi ký?'
Anh cười; đó là lần đầu tôi thấy từ đôi mắt thấu thị của nhà văn
ánh nhìn thanh thản.
Anh nói: 'Lâu nay moa là thợ tranh, hồi ký cái gì!'
...Hôm nay, tôi ngồi đục mưa trong quán cà phê, nhận tin nhắn
cho biết anh mất đêm qua.
Sài Gòn mấy ngày nay mưa mù trời, mù người. Bỗng nhiên hình ảnh
của anh hiển hiện khiến tôi nhớ bài hài cú của thiền sư Ba-Sô.
"Lữ khách!
Xin gọi tôi là thế
Cơn mưa thu này."