ẤN TÝ BIÊN NIÊN (2013) (tt 16)
Lược ghi theo bài của Hòa Cao. Đăng trong Bán Nguyệt San Thông Liên số 67 ra ngày 20-04 Nhuận- Nhâm Thìn (09-06-2012)
(tt và hết)
PHỤ
LỤC 02.
LÝ THƯỜNG KIỆT VÀ VƯƠNG AN THẠCH.
“Họ Lý kết thúc sự nghiệp tể tướng họ Vương”.
@@@
Lý Thường Kiệt (1019–1105) là một danh tướng đời nhà Lý có công đánh bại quân nhà Tống vào năm 1075-1077. Họ Lý của
ông là do vua ban cho. Lý Thường Kiệt sinh 1019 lớn hơn họ Vương 02 tuổi.
Chiến công
phá Tống của anh hùng Lý thường Kiệt gắn liền với thời kỳ Vương An Thạch làm tể
tướng. Ông đã góp phần kết thúc sự nghiệp tể tướng họ Vương. Sử Trung Quốc chép tên ông là Lý Thường Cát hoặc Lý
Thượng Cát. Tướng
thời Lý Thái Tông và Thánh Tông.
Chiến tranh với Tống: Tiên phát chế
nhân
Năm 1075, Vương
An Thạch cầm quyền chính nhà Tống, tâu với vua Tống là Đại
Việt bị Chiêm Thành đánh phá, quân còn sót lại
không đầy vạn người, có thể dùng kế chiếm lấy được. Vua Tống sai Thẩm Khởi, và
Lưu Di làm tri Quế Châu đóng thuyền
bè, tập thủy chiến, cấm các châu huyện không được mua bán với Đại Việt (chuẩn bị
tiến chiếm Đại Việt). Vua Lý biết tin, sai ông và Tôn Đản đem hơn 10 vạn binh
đi đánh.
Quân bộ gồm 60.000 người do các tướng Tôn Đản, Thân Cảnh
Phúc, Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn, Vi Thủ An chỉ huy, tổng chỉ huy là Tôn Đản. Bộ
binh tập trung ngay ở các châu Quảng Nguyên, Môn (Đông Khê), Quang Lang, Tô Mậu
rồi tràn sang đánh các trại Vĩnh Bình, Thái Bình, Hoành Sơn, châu Tây Bình, Lộc
Châu. Một cánh quân khác đóng gần biên giới Khâm châu cũng kéo tới đánh các
trại Như Hồng, Như Tích và Đề Trạo. Quân ta thắng như chẻ tre.
Lý Thường Kiệt chỉ huy 40.000 quân thủy cùng voi chiến đi
đường biển từ châu Vĩnh An (Quảng
Ninh) đổ bộ lên đánh các châu Khâm, Liêm.. cùng Tôn Đản vây châu Ung.
Ngày 30-12-1075, quân Nam tiến chiếm thành Khâm Châu, bắt toàn bộ quan quân mà không phải giao chiến một trận
nào. Ba ngày sau, 2-1-1076 Liêm Châu cũng thất thủ.
Khi được tin hai châu Khâm, Liêm đã mất, nhà Tống rất
hoang mang, lo ngại, các tướng ở địa phương bối rối. Ti kinh lược Quảng Nam tây
lộ vội vã xin viện binh: 20.000 quân, 3.000 con ngựa, xin thêm khí giới, đồ
dùng và một tháng lương, và xin được điều động các dân khê động, tất cả lấy dọc
đường từ Kinh đến Quảng Tây. Để điều khiển quân được mau chóng, ti ấy cũng xin
dời đến thành Tượng, gần phía bắc Ung Châu.
Triều đình Tống đối phó rất lúng túng. Vua Tống cách chức
Lưu Di và sai Thạch Giám thay coi Quế Châu và làm kinh lược sứ Quảng Tây.
Trên các mặt trận, quân Đại Việt hoàn toàn làm chủ. Lý Thường Kiệt cho đạo quân ở Khâm và
Liêm Châu tiến lên phía Bắc. Đạo đổ bộ ở Khâm Châu kéo thẳng lên Ung Châu.
Đường thẳng dài chừng 120 cây số, nhưng phải qua dãy núi Thập Vạn. Còn đạo đổ
bộ ở Liêm Châu tiến sang phía đông bắc, chiếm lấy Bạch Châu, để chặn quân tiếp
viện của Tống từ phía đông tới. Hẹn ngày 18-1-1076, hai đạo quân sẽ cùng hội lại vây chặt
lấy Ung Châu.
Ung Châu là một thành lũy kiên cố, do tướng Tô Giám cùng
với 2.800 quân cương quyết cố thủ.
Đô giám Quảng Tây nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem quân
đến cứu. Lý Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn (nay thuộc thành phố Nam
Ninh, khu tự trị Quảng Tây) phá tan được, chém Trương Thủ Tiết tại trận.
Tri Ung Châu là Tô Giám cố thủ không hàng. Quân Đại Việt
đánh đến hơn 40 ngày. Sau cùng quân Việt dùng hỏa công, bắn các chất cháy như
nhựa thông vào thành, trong thành không thể chữa được cháy. Cuối cùng quân Nam
bắt dân Tống chồng bao đất cao lên để đánh thành. Ngày thứ 42, thành bị hạ, tướng chỉ huy Tô Giám
tự thiêu. Người trong thành không chịu hàng, nên bị giết hết hơn 58.000 người,
cộng với số người chết ở các châu Khâm, Liêm thì đến hơn 100.000.
Lý Thường Kiệt đánh xong thành Ung, lại lấy đá lấp sông ngăn cứu viện rồi đem quân lên phía Bắc
lấy Tân Châu. Viên quan coi Tân Châu, nghe thấy quân Nam kéo gần đến thành,
liền bỏ thành chạy trốn.
Mục tiêu hoàn thành, Lý Thường Kiệt cho rút quân về.
Lý Thường Kiệt bắt sống người ba châu ấy đem về nước. Nhà Lý cho những người phương bắc đó vào khai phá vùng Hoan - Ái
(Thanh - Nghệ).
@@@
Phòng thủ sông Như Nguyệt
Do tiền đồn ở Ung châu là căn cứ tập trung quân để nam
tiến bị phá tan, nhà Tống phải điều động thêm nhân lực và lương thảo để thực
hiện chiến tranh với Đại Việt.
Tháng 3-1076, nhà Tống sai tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân 9 tướng, hẹn với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn Đại
Việt.
Nhưng quân Chiêm Thành và Chân Lạp không dám tiến vào Đại
Việt. Quân Tống có bộ binh 10 vạn quân, một vạn kỵ binh và hai mươi vạn dân phu, khí thế rất mạnh mẽ.
Tuyến phòng thủ của quân Nam, Lý Thường Kiệt dựa vào sông
núi, các đèo hiểm trở, các sông rộng và sâu.
Trên bộ từ trại Vĩnh Bình vào châu
Lạng, phải qua dãy núi rậm, có đèo Quyết Lý, ở trên đường từ tỉnh Lạng Sơn đến
Đông Mô ngày nay, vào khoảng làng Nhân Lý, ở phía bắc châu Ôn. Rồi lại phải qua
dãy núi lèn (đá không phá đất), đá đứng như tường, ở giữa có đường đi rất hiểm:
đó là ải Giáp Khẩu, tức là ải Chi Lăng, ở phía bắc huyện Hữu Lũng thuộc Lạng Sơn ngày nay.
Về đường thủy, để chặn địch qua sông, quân Nam chỉ cần
đóng thuyền ở bến Lục Đầu thì đi đường nào cũng rất tiện và chóng.
Các tướng lĩnh thuộc Man Động như: Nùng Quang Lãm, Nùng
Thịnh Đức coi ải Hà Nội, Hoàng Kim Mãn và Sầm Khánh Tân giữ châu Môn, Vi Thủ An giữ châu Tô Mậu…
Quân Tống tràn xuống, theo đường tắt qua dãy núi Đâu
Đỉnh, tới phía tây bờ sông Phú Lương; trong khi đó, một cánh quân tách ra, vòng
sang phía đông đánh bọc hậu quân Nam ở Giáp Khẩu (Chi Lăng) và thẳng tới sông Cầu.
Vua Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh,
lập chiến lũy sông Như Nguyệt để chặn quân Tống. Sông Cầu từ địa phận Cao Bằng chảy đến Lục Đầu, hợp với sông
Bạch Đằng. Từ Lục Đầu ra đến biển,
là một cái hào tự nhiên sâu và rộng, che chở cho đồng bằng nước Việt để chống
lại quân ngoại xâm đường bộ từ Lưỡng Quảng kéo vào.
Đối với đường sá từ châu Ung tới Thăng Long, thì sông Bạch Đằng không can hệ,
vì đã có sông Lục Đầu, là cái hào ngăn trước rồi.
Trái lại, sông Cầu rất quan trọng. Thượng lưu sông Cầu
qua vùng rừng núi rất hiểm. Chỉ có khoảng từ Thái Nguyên trở xuống là có thể qua dễ dàng, và qua rồi thì có đường
xuôi. Nhưng sau sông, ở về phía tây có dãy núi Tam Đảo, là một cái thành không thể vượt. Chỉ có khoảng từ huyện
Đa Phúc đến Lục Đầu là phải phòng ngự bờ nam mà thôi. Trong khoảng ấy, lại chỉ
khúc giữa, từ đò Như Nguyệt đến chân núi Nham Biền, là có bến, có đường qua
sông để tiến xuống miền nam một cách dễ dàng (thẳng và gần).
Lý Thường Kiệt phòng thủ nhiều lớp. Đem chủ lực chặn con đường từ trại Vĩnh Bình đến sông Nam
Định (sông Cầu) bằng cách đặt những doanh đồn và phục binh ở hai ải tiếp nhau:
ải Quyết Lý ở phía bắc châu Quang Lang và ải Giáp Khẩu (Chi Lăng) ở phía nam châu ấy. Nếu hai phòng tuyến ấy bị tan, thì
phải cố thủ ở phòng tuyến thứ ba, tức là nam ngạn sông Nam Định. Để cản quân
Tống qua sông, Lý Thường Kiệt sai đắp đê nam ngạc cao như bức thành. Trên
thành, đóng tre làm giậu, dày đến mấy từng. Thành đất lũy tre, nối với dãy núi
Tam Đảo, đã đổi thế sông Nam Định và bờ nam ngạn ra một dãy thành hào, che chở
cả vùng đồng bằng Giao Chỉ. Thành hào ấy dài gần trăm cây số, khó vượt qua và
nhưng lại dễ phòng thủ hơn là một thành lẻ như thành Thăng Long.
Cùng lúc đó thuỷ binh Tống do Hòa Mân và Dương Tùng Tiểu
chỉ huy đã bị thủy quân Nam do Lý Kế Nguyên điều động, chặn đánh ngoài khơi lối
vào Vĩnh An. Quân Tống có kỵ binh mở đường tiến công quyết liệt, có lúc đã chọc
thủng chiến tuyến quân Nam tràn qua sông Như Nguyệt, nhưng quân Nam đều kịp
thời phản kích, đẩy lùi quân Tống. Lý Thường Kiệt còn dùng chiến tranh tâm lý để
khích lệ tinh thần quân Nam chiến đấu. "Đang đêm, nghe tiếng vang trong
đền đọc bài thơ ấy, quân ta đều phấn khởi. Quân Tống sợ, táng đảm, không đánh
đã tan".
Quân Tống tiến không được, thoái không xong, hao mòn vì
chiến sự và khí hậu, không được thủy quân tiếp viện. Quân Nam lại tập kích,
doanh trại của phó tướng Triệu Tiết bị phá... dù quân Tống cũng giết được hoàng tử quân Nam là Hoàng Chân và Chiêu Văn nhưng quân Tống 10 phần chết đến 6, 7 phần.
Lý Thường Kiệt biết tình thế quân Tống đã lâm vào thế bí,
mà người Nam bị chiến tranh liên miên cũng nhiều tổn thất, nên sai sứ sang xin
"nghị hoà" để quân Tống rút về. Quách Quỳ vội chấp nhận giảng hòa và
rút quân.
Sách Việt
Sử kỷ yếu của Trần Xuân Sinh
dẫn cổ sử nói về nội tình của nhà Tống về sự kiện này: Triều thần nhà Tống cho
rằng "Cũng may mà lúc đó
địch lại xin giảng hoà, không thì chưa biết làm thế nào"…
@@@
Lược ghi
theo bài của Hòa Cao. Đăng trong Bán Nguyệt San Thông Liên số 67 ra ngày 20-04 Nhuận-
Nhâm Thìn (09-06-2012).
HẾT.