ẤN TÝ BIÊN NIÊN (2013) (tt 8)
2/- ĐỨC HỘ
PHÁP DẠY CÁCH BẮT ẤN TÝ. (1947).
Bần Đạo nhắc lại, người
tín đồ Cao Đài luôn luôn nằm lòng lời minh thệ, đó là nghĩa vụ mà cũng là quyền
lợi của mình. Phải ghi tâm mới giử được sự thương yêu bạn đồng môn; và chúng
sanh là con chung của Đức Chí Tôn để khỏi bị thất thệ mà mình đã hứa: “Hiệp đồng chư môn đệ gìn luật lệ Cao Đài...”.
Cúng lạy phải tuân thủ tuyết đối thực hành nghiêm chỉnh và hoàn chỉnh: “Đàn không nghiêm thì Thầy không giáng”.
Chí Tôn đã dạy: Bắt ấn
tý “khi bái lễ hai tay con chấp lại, song
phải để tay trái ấn tý, tay mặt ngữa ra nằm dưới, tay trái ấn tý chụp lên trên”
Nghĩa là đầu ngón cái
tay trái điểm vào gốc ngón áp út (cung Tý) nắm chặt lại để khủyu ngón tay trái
ấn vào gốc ngón tay giữa (cung Sửu) tay mặt ngữa ra đỡ bàn tay trái rồi nắm
lại, ngón cái của tay mặt điểm vào gốc ngón trỏ của tay trái (cung Dần) nắm
chặt lại, tức nhiên các ngón của tay mặt không che khuất gốc của ba ngón trỏ,
giữa và áp út của bàn tay trái (tức ba cung Tý, Sửu và Dần). Ấn tý là thể hiện Đức
Chí Tôn nắm trọn Tam Tài: Thiên, Địa, Nhơn. Thiên
khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần. Nhớ giữ ấn tý nơi ngực cho
chặt, mắt ngó ngay Thiên Nhãn ấy là phương pháp tịnh tâm. Thể pháp hoàn chỉnh
mới mong tìm được bí pháp đó vậy. Khi bắt ấn Tý tức điểm đủ Tam Tài. Xá và lạy
cũng thực hiện Tam Tài đến với bản thể của chúng ta ở thể pháp mà Kinh Phật Mẫu
có câu:
“Lập Tam Tài định kiếp
hòa căn,
Chuyển luân định phẩm
cao thăng”
Vậy ấn tý tiêu biểu cho Tam Kỳ Phổ Độ để
chư môn đệ của Thầy sử dụng khi bái lễ Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng. Nếu
bắt ấn tý không đúng, để bàn tay phải (âm) khi nắm lại trùm phủ ba cung Tý,
Sửu, Dần tức bao trùm Tam Tài: Thiên, Địa, Nhơn ở bàn tay trái (dương) là một
điều sai lạc rất hệ trọng “Dương thạnh
tất sanh, Âm thạnh tất tử” sẽ có ảnh hưởng đến nghiệp đạo.
Chí Tôn đã dạy: “Nơi lòng Thầy ngự hễ động Thầy hay” nên
ấn Tý luôn ở nơi ngực, tuyệt đối không được thả xệ xuống bụng mà thất lễ.
Bần Đạo nhắc lại lần
nữa, khi xá và lạy đều thể hiện kỉnh đủ Tam Tài Thiên Địa Nhơn. Đưa tay lên
trán: Kỉnh Thiên; xá thẳng hết tay,
đầu hơi cúi: Kỉnh Địa; đưa về nơi
ngực: Kỉnh Nhơn.
Đức Chí Tôn đã dạy: “Thập
Nhị Khai Thiên là Thầy. Chúa cả càn khôn thế giới, nắm trọn Thập Nhị Thời Thần
vào tay, số 12 là số riêng của Thầy”.
Bái lễ Đức Chí Tôn thì
ba lạy, mỗi lạy bốn gật, mỗi gật phải niệm danh Thầy “Nam Mô Cao Đài Tiên Ông
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát”.
Còn làm lễ Đức Phật Mẫu
cũng ba lạy, mỗi lạy ba gật, mỗi gật niệm “Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên
Tôn”.
@@@
PHÂN
TÍCH.
Việc đầu
tiên cần xác định là văn bản trên đây có phải là của Đức Hộ Pháp hay không?
Chúng tôi
có được văn bản nầy chung với một số văn bản khác từ một vị Lễ Sĩ. Nhưng nhiều
người nêu nghi vấn và cho rằng đây là văn bản giả danh Đức Hộ Pháp vì không
thấy ghi là dạy ở đâu... một số vị còn dẫn chứng câu coi chừng Hộ Pháp giả
của Tôn Sư dặn dò rồi kết luận đây là văn bản không đáng tin cậy. Nếu Đức Hộ
Pháp dạy như vậy cớ sao Hội Thánh không đem thi hành???
Chúng
tôi đem văn bản trình với nhiều vị chức sắc còn theo chơn truyền Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ để thỉnh ý xem văn bản trên có đáng tin hay không?
Tất cả
các vị đều xác định rằng căn cứ vào nội dung và cách hành văn thì văn bản
trên là của Đức Hộ Pháp. Trưởng huynh
Thừa Sử Lê Quang Tấn khi còn sanh tiền cũng xác định đây là lời dạy của Đức Hộ
Pháp và đề nghị phải phổ biến sâu rộng văn bản nầy.
Song điều
quan trọng nhất là lời dạy trong văn bản trên đây phù hợp với lời dạy của Đức
Chí Tôn nên chúng tôi tin chắc rằng văn bản trên là của Đức Hộ Pháp. Nghĩa là
căn cứ vào nội dung nên chúng tôi tin rằng đây là lời dạy của Đức Hộ
Pháp. Do vậy chúng tôi xin phép phân
tích.
Lời dạy trên
đây đúng với bốn thao tác căn bản của Đức Chí Tôn và chỉ dẫn tường tận hơn.
Thứ nhứt:
đầu ngón tay cái (của bàn tay trái) bấm vào cung Tý, khuỷu ngón cái ấn vào
cung Sửu.
Thứ nhì:
ngón cái của tay mặt điểm vào gốc ngón trỏ của tay trái (cung Dần) nắm chặt
lại
Thứ ba: các
ngón của tay mặt không che khuất gốc của ba ngón trỏ, giữa và áp út của bàn
tay trái (tức ba cung Tý, Sửu và Dần).
Cách bắt ấn Tý của Đức Hộ Pháp dạy cũng theo thứ tự TRÊN & DƯỚI. Bên trên là 03 ngón trỏ,
giữa và áp úp phải lộ ra không bị che khuất. Bên dưới là 04 ngón trỏ, giữa,
áp út và ngón út của bàn tay mặt.
Bảy ngón
tay chia ra 03 ngón ở trên và 04 ngón ở dưới cho ta hình ảnh của Thất Đầu Xà
03 đầu Hỉ, Lạc, Ái ở trên bên dưới là Nộ, Ái, Ố, Dục. Còn nói về dịch lý (3/4)
ứng với quẻ Hỏa Lôi Phệ Hạp.
&&&
Lời dạy
trên đây cũng chỉ ra sự tai hại nếu bắt Ấn Tý sai:
Nếu bắt ấn tý không đúng, để bàn tay phải
(âm) khi nắm lại trùm phủ ba cung Tý, Sửu, Dần tức bao trùm Tam Tài: Thiên,
Địa, Nhơn ở bàn tay trái (dương) là một điều sai lạc rất hệ trọng “Dương
thạnh tất sanh, Âm thạnh tất tử” sẽ có ảnh hưởng đến nghiệp đạo.
&&&
Tóm lại:
Văn bản của Đức Hộ Pháp chỉ ra cách bắt Ấn Tý đúng và chỉ ra cái tai hại của
bắt Ấn Tý sai.
ẢNH
MINH HỌA.
LƯU Ý:
chữ ĐÚNG & SAI là nơi văn bản của Đức Hộ Pháp chúng tôi không dám cải
sửa. Phần chúng tôi đã thưa trước là nói khác nhau mà thôi (nhắc lại để khỏi
phải tranh cãi hay chỉ trích nhau rất vô bổ).
VÌ SAO LỜI DẠY NẦY CÓ RẤT ÍT NGƯỜI BIẾT?
Tìm hiểu
cuộc đời hành đạo của Đức Hộ Pháp khi còn mang xác phàm chúng ta thấy có 02
trường hợp:
./- Thấy
sai Ngài chỉnh đốn ngay.
./- Thấy
sai và cho biết cái sai mà không chỉnh đốn ngay lại dạy:
. Để đó
ngày sau toàn đạo sẽ tính:
...Câu chú mà khi thượng sớ, chúng ta thường nghe đọc
"TAM CHÂU BÁT BỘ HỘ PHÁP THIÊN TÔN". Thật sự thì như vầy "TAM
THIÊN THẾ GIÁI HỘ PHÁP GIÁNG LÂM". Từ trước đến giờ, các bậc tiền bối
của chúng ta đã để như nói trên nên không thể sửa cải được, phải để y như
vậy....
(LTĐ Ðền Thánh, đêm 14-02- Mậu Tý - dl. 24-03-1948).
@@@
Theo đây thì có sai nhưng Ngài không sửa, dạy cứ để y vậy
nhưng nếu để y vậy thì người đời phê bình rằng TU LÀ SỬA mà quí vị thấy sai
tại sao không sửa...? thì mới trả lời sao?
. Trường
hợp chờ có tướng lễ ra đời sẽ chỉnh đốn.
Như
trường hợp lạy Phật Mẫu khi dâng Tam Bữu. Đức Hộ Pháp lạy tổng cộng cho 03
bữu là 09 lạy (mỗi lần cúi lạy 03 gật).
Bà Nữ
Chánh Phối Sư lạy tổng cộng cho 03 bữu là 27 lạy (mỗi bữu cúi lạy 03 lần, mỗi
lần 03 gật).
Khi có
người thỉnh giáo Ngài trả lời: ...cứ làm theo cách
27 lạy chờ sau nầy tướng lễ ra đời sẽ định....
(Chúng tôi
hiểu tướng lễ là các văn bản chính thức của Hội Thánh ra đời chớ không phải
là một người nào mang xác phàm gánh trách nhiệm làm Tướng Lễ. Bởi vì hành
chánh tôn giáo có vị Tiếp Lễ Nhạc Quân nhưng vị đó chưa phải là tướng lễ.
Quyển
QUAN HÔN TANG LỄ của Hội Thánh ban hành (1976) mới là tướng lễ của Đạo.
Hội
Thánh nhìn nhận quyển QUAN HÔN TANG LỄ còn thiếu sót... nên nhân sự tôn giáo
thỉnh giáo một số vấn đề Ngài Ngọc Đầu Sư và Hồ Bảo Đạo có bút phê rằng chờ
khi chỉnh đốn quyển QUAN HÔN TANG LỄ sẽ giải quyết...(lời thỉnh giáo về việc
bắt Ấn Tý khi cầu siêu như thế nào của Q Tiếp Lễ Nhạc Quân là một bằng
chứng).
. Khuyên
nhơn sanh tìm hiểu để hành xử đúng mức quyền của mình.
Diễn văn ngày 15-8-Quí Dậu (04-10-1933).
Bần đạo xin tỏ rằng: Duy bậc phẩm
hèn của Đạo mới dày công nghiệp với Chí Tôn, còn có công nghiệp thì có đủ
quyền hành, có quyền hành thì có tự do ngôn luận. Cũng vì chư Đạo hữu trong
Hội Nhơn Sanh chưa hiểu rõ quyền hành nên Chức Sắc Thiên Phong lộng phép.
(Xin chư Đạo hữu lưỡng phái đọc luật cho thường, rồi kiếm hiểu).
Tóm lại
cách dạy của Ngài làm cho Tín đồ không đặng ỷ lại rằng: Các việc đúng sai đã
có Hộ Pháp hay Hội Thánh lo hết rồi, mình không phải lo đến hay thắc mắc
chi... ĐHP
vẫn để khoản trống cho con cái Chí Tôn tìm hiểu và thể hiện khi thực thi tam
lập.
Đức Chí
Tôn không hề bồng ẩm con cái vào bất cứ một địa vị nào mà để cho nhân loại tự
lập thân danh với đời với đạo thì Đức Hộ Pháp cũng đi trong khuôn viên ấy.
Ngài chỉ đường dẫn lối cho Tín đồ lập vị mình nhưng Ngài không thể làm thay. Đó
là pháp công bình.
|