Bài viết từ 2013 nay đăng lại. Hội Thánh chưa kiểm duyệt, khi đọc nên cẩn thận.
Dương Xuân Lương.
2/-
CHẮC LỌC.
Phát
xuất từ bài thi:
Phong Thần đừng tưởng
chuyện mờ hồ,
Giữa biển ai từng gặp
lão Tô.
Mượn thế đặng toan
phương giác thế,
Cũng như nương viết của
chàng Hồ.
@@@
2.1/-
Câu một: Phong Thần đừng tưởng chuyện mờ
hồ,
Phong
thần là chuyện có khá nhiều ảnh hưởng trong xã hội.
2.1.1/-
Truyện Phong Thần trong văn học.
Chuyện
phong thần của Trung Hoa được lưu lại bằng tiểu thuyết chương hồi Phong Thần
Diễn Nghĩa (Tác phẩm có 100 hồi, viết vào đời nhà Minh). Tác giả bộ Phong Thần
là ai thì các nhà nghiên cứu vẫn còn đang tranh luận. Có
thuyết nói là Hứa Trọng Lâm, hiệu là Chung Sơn Dật Tẩu
(mất 1566), người Phủ Ứng Thiên huyện Trực Lệ biên soạn. Thuyết khác lại cho
rằng do Lục Tây Tinh,
hiệu Trường Canh (mất 1601), người huyện Hưng Hóa, tỉnh Giang Tô viết.
Ông Lê Quý Đôn và Trịnh Xuân Thụ khi làm sứ giả sang triều
cống nhà Thanh năm 1762 đã chọn mua bộ Phong Thần mang về. Nhưng đến Quế Lâm thì bị giữ lại (Đây là bằng cớ cho thấy chánh quyền Trung Hoa
không hề muốn nước Nam tiến bộ về mọi phương diện. Điều nầy cho thấy ý chí của
nhà chánh trị trái hẳn với ý chí người viết nên tác phẩm. Văn hóa chân chính
đem nhân loại đến gần nhau còn nhà chính trị thường lợi dụng văn hóa để tạo nên
sự phân biệt trong cộng đồng nhân loại. Tinh thần Thiên hạ vi công của Nho
Giáo đã bị triều đình chà đạp).
Đầu thế kỷ 20, tác phẩm Phong Thần được cụ
Trần Phong Sắc dịch ra tiếng Việt. Sau đó có Mộng Bình Sơn...
2.1.2/-
Truyện Phong Thần liên quan đến ĐĐTKPĐ.
Từ
khi nhân loại hiện sinh đã có 03 thời kỳ mở đạo: Nhứt Kỳ, Nhị Kỳ và Tam Kỳ. Ba
thời kỳ mở đạo nhưng chỉ có 02 nguyên lý.
Nguyên
lý của Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ là Đạo đi từ vô vi đến hữu hình và Nhứt bản tán vạn thù.
Nguyên
lý Tam Kỳ đi từ hữu hình đến vô vi và Vạn thù qui nhứt bản (phản tiền vi hậu).
Nên
ĐĐTKPĐ có thể pháp (hữu hình) và bí pháp (vô vi).
Thể
pháp qua kiến trúc Đền Thánh có 05 phần chính theo thứ tự: Nguyên Lý Đạo Pháp
(Lầu Chuông, Lầu Trống), Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài, Cung Đạo và Bát Quái
Đài (tính từ Tây sang Đông).
Phần
Cung Đạo giáp với Bát Quái Đài trên trần nhà có 03 khuôn diềm. Khuôn giữa (Chánh
Tây- Cung Đoài) bố trí Tam Giáo và Ngũ Chi. Bên phái Nữ bố trí Bát Tiên (Lý
Ngưng Dương, Hớn Chung Ly, Lữ Đồng Tân, Trương Quả Lão, Tào Quốc Cựu, Lâm Thể
Hòa, Hàn Tương Tử, Hà Tiên Cô). Bên phái Nam bố trí Thất Thánh (Lý Tịnh, Kim
Tra, Mộc Tra, Na Tra, Vi Hộ, Dương Tiển và Lôi Chấn Tử).
Khuôn
giữa bố trí Đức Khương Thượng (Tử Nha) cầm bảng Phong Thần (Thần Đạo), kế là
Đức Chúa Jésu (Thánh Đạo), Đức Lý Thái Bạch (Tiên Đạo), Đức Thích Ca (Phật
Đạo).
2.1.3/-
Đàn cơ về tiền kiếp của Đức Hộ Pháp.
Trong
Thất Thánh có Vi Hộ là một trong những tiền kiếp của Đức Hộ Pháp. Đức Thanh Sơn
Đạo Sĩ dạy trong đàn cơ tại Báo
Ân Đường Kiêm Biên, ngày 15-8-Bính Thân (dl 19-9-1956). Hợi thời.
Phò loan: Hộ Pháp - Bảo Đạo.
THANH SƠN ÐẠO SĨ
Bần tăng xin chào Thiên
Tôn, Chơn Quân và hiền đệ.
Thưa Thiên Tôn, có
Nguyệt Tâm Chơn Nhơn đến nhưng người lại nhượng cơ cho Bần tăng trước. Cười . .
.
Nhiều điều Thiên Tôn
hỏi thì Bần tăng khó trả lời đặng, duy Nguyệt Tâm đảm đương Thiên vụ, người
hiểu biết rõ hơn Bần tăng, vậy Thiên Tôn nên hỏi nơi người.
Chỉ có về bài thi của
Bần tăng có hơi huyền bí tiên tri, nên Bần tăng có thể giải đáp.
Thiên Tôn nhớ lại khi
lập thành Phong Thần Bảng, những người đứng vào hàng Thất Thánh là ai?
Đức Hộ Pháp bạch: - Lý Thiên Vương, Kim Tra, Na Tra, Mộc Tra,
Vi Hộ, Dương Tiễn, Lôi Chấn Tử.
- Phải, thì trước
đầu kiếp vào nhà họ Vi, còn nay vào nhà họ Phạm.
Điều ấy có chi khó hiểu mà phỏng đoán. Tiên tri của Bần tăng đã hiểu và
chỉ rõ, Việt Nam xuất Thánh thì đã hẳn rồi, còn chi không rõ rệt. Lại còn một
điều trọng hệ hơn nữa là Di-Lạc giáng linh, thì Thiên
Tôn đã thấy rằng tiên tri vốn không sai sót. Còn lời
thứ hai, Thiên Tôn hỏi Bần tăng thì xin Ngài vấn đáp với Nguyệt Tâm vì chính
mình người đã truyền tin ấy.
Vui mừng hơn nữa là từ
đây, thiên hạ đã hiểu rõ Thánh chất của Thiên Tôn và ngọn cờ cứu khổ sẽ cứu
quốc cho giống nòi Việt Nam, rồi lan truyền cho toàn thế giới chung hưởng.
Bảo
Đạo, có phải ta tri âm với nhau về điều ấy chăng? Cười ...
THĂNG.
@@@
2.1.4/-
Vi Hộ và Đức Hộ Pháp.
Trong
chuyện Phong Thần diễn nghĩa. Vi Hộ xuất hiện vào hồi 59:
Ân Hồng giữa đường thâu Chánh Ðáng
Vũ
khí Vi Hộ dùng là Gián Ma Xữ.
Tác
giả chuyện Phong Thần viết: Vũ khí nầy như cây chày nện vải luyện phép rất hay, cầm trên tay thì nhẹ
như bông, nhưng đánh nhằm người thì nặng như núi. Ðó là một vũ khí lợi hại phi
thường.
Có bài thơ rằng:
Trong lò Bát Quái luyện hằng lâu,
Chày Gián Ma Xử rất nhiệm mầu.
Vi Hộ ngày sau thành Hộ Pháp,
Văn Huy nay gặp nát tan đầu.
Chày Gián Ma Xử rất nhiệm mầu.
Vi Hộ ngày sau thành Hộ Pháp,
Văn Huy nay gặp nát tan đầu.
@@@
Tác giả viết chuyện
Phong Thần sống vào thế kỷ 16. Bối cảnh chuyện Phong Thần diễn ra trước tác giả
khoản 2.400 năm. Và trước khi ĐĐTKPĐ tổ chức Lễ Khai Đạo hơn 03 thế kỷ. Nhưng
chúng ta cũng tự hỏi vì sao tác giả viết rất đúng các chi tiết như:
. Vi Hộ ngày sau thành Hộ Pháp.
. Vũ khí của Vi Hộ là Gián Ma Xử.
Hai chi tiết trên hoàn toàn phù hợp với Đức Hộ Pháp.
Ngày 13-10-Giáp Ngọ nhân lễ vía Đức Quyền Giáo Tông.
Đức Hộ Pháp làm bài thi kỷ niệm có câu:
Bầu linh gậy sắt ông an thế,
Chày Giáng Xử Ma tớ giúp đời...
[[[Quan sát cây Giáng
Ma Xử của Đức Hộ Pháp ta thấy có 02 phần cán và thân. Cán có hình dạng như cán
cây gươm. Phần thân có lóng (đốt) như cây tầm vông (hay mía) đầu hơi nhọn. Các
hình chụp khi Đức Hộ Pháp hành pháp cho thấy có 10 (mười) lóng. Cộng với phần
cán ra số 11 là số của Hộ Pháp). Tác giả Phong Thần viết: Vũ khí nầy như cây chày
nện vải. Trên thực tế chính Đức Hộ Pháp gọi là cây hay chày.
“dĩ nhiên chày đây khác với chày vồ của thợ mộc là một khúc gổ khoan một lổ ở
giữa rồi tra cán vào, có hình dạng như chữ T dùng thay cho búa”]]]
Và còn một chi tiết kín đáo nhưng rất thú vị khác ở
hồi 67:
Ðàn Kim Ðài, Tử Nha bái Tướng
Khương
Thượng lãnh ấn nguyên nhung xuất binh phạt Trụ hưng Châu thì lạy Thầy là Nguyên
Thỉ Thiên Tôn xin cho biết tiền trình...
Các
vị khác cũng xin Thầy như vậy.
Phần
Vi Hộ lạy Thầy là Đạo Hạnh Thiên Tôn xin cho biết việc đi chinh chiến thế nào.
Vi Hộ được dạy:
Dẫu bao nhiêu bạn tu hành kỹ,
Chỉ một mình ngươi quả vị cao.
Chỉ một mình ngươi quả vị cao.
Về
mặt hữu hình Ngài được thiên phong Hộ Pháp cầm quyền Chưởng Quản HTĐ. Từ năm 1934
Ngài được công cử cầm luôn quyền Chưởng Quản CTĐ. Cầm quyền Chưởng Quản Nhị Hữu
Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng là nắm quyền Giáo Chủ Đạo Cao Đài để ứng hợp
với Bài Kinh Đại Tường (câu 01 đến 04):
Hỗn Ngươn Thiên dưới
quyền Giáo chủ.
Di Lạc đương thâu thủ
phổ duyên.
Tái sanh sửa đổi chơn
truyền,
Khai cơ tận độ cửu
tuyền diệt vong....
ĐHP phê từ TỜ XIN TRẢ CHỨC của Lễ Sanh Ngọc Giác Thanh:
Bần Đạo buồn cười mà để
dấu hỏi coi ai dạy Giác mà nó ngoan đạo quá vậy. Đương chèo Thuyền Bát Nhã là
một tên bạn chèo mà coi mình trọng hơn phẩm Lễ Sanh cũng là một điều hi hữu.
Ừ phải nó chỉ biết nó theo khuôn
thuyền tế độ ấy là vì biết chủ chiếc thuyền là Đức Di Lạc Vương Phật. Nên nó nghĩ: Thà làm
tôi cho một vị Phật đặng đưa bước thiêng liêng sanh chúng cho các chơn hồn, hơn
là làm tôi đòi cho vạn linh sanh chúng. Sáng suốt ấy chẳng phải xác thịt phàm
của nó xúi biểu nó, mà là chơn linh phật tánh của nó đã nói nhỏ với nó...
@@@
Qua
lời phê trên chúng ta biết rằng Đức Di Lặc là chủ khuôn thuyền bát nhã. Trong
Bản Hát chèo thuyền Tổng Lái là chủ thuyền. Tổng Lái là hiện thân của Hộ Pháp.
@@@
Đức
Hộ Pháp giảng rằng: Di Lặc ngự trên khối nguyên tử mà đến... Thực tế là năm
1941 Pháp bắt Đức Hộ Pháp đày sang Madagascar (Phi Châu). Mục đích của Pháp là
đày cho chết bên đó (các văn bản hành chánh của thực dân Pháp thể hiện như
vậy). Năm 1945 chánh phủ Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống đất Nhật để kết
thúc đệ nhị thế chiến. Năm 1946 Pháp phải đưa Ngài từ Madagascar về Tòa Thánh. Đó chẳng phải Đức Di Lạc ngự trên nguyên
tử hay sao?
Tái
sanh là phải đầu kiếp, thọ tinh cha huyết mẹ hưởng âm dương chi khí để nên
hình. Phải mang xác phàm theo luật tam thể với tên Phạm Công Tắc. Cửu tuyền
diệt vong là Đóng địa ngục mở tầng thiên
(Phạm Hộ Pháp - Kinh Giải Oan - câu 23). Sửa đổi chơn truyền là sửa đổi nguyên
lý của Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ bằng nguyên lý của Tam Kỳ.
.
Nhứt bản tán vạn thù sửa đổi thành Vạn thù qui nhứt bản.
.
Ngày trước đi từ vô vi xuống hữu hình; Tam Kỳ đi từ hữu hình đến vô vi.
.
Ngày trước là buổi buộc nên người tu phải nâng mình lên ngang với Thần, Thánh,
Tiên, Phật nên tu thì nhiều mà thành thì ít; bởi phàm thể níu kéo. Tam kỳ Thầy
cho DÂNG CÔNG ĐỔI VỊ bất luận lương hay giáo nếu biết thực thi Tam Lập (Lập
Công, Lập Đức, Lập Ngôn) được nhân loại nhìn nhận thì Thầy nhìn nhận bằng cách
đem phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật ban cho.
. Ngày trước gây tội
tình phải đọa lạc. Tam Kỳ Thầy mở cơ Đại Ân Xá nên ngày 16-06-Ất Mùi.
(03-08-1955) Đạo Núi Trần Ngọc Dương bịnh nặng làm Tờ Yêu Cầu Đức Hộ Pháp xá
tội cho hết căn bịnh chướng.
ĐỨC HỘ PHÁP PHÊ: Đức
Chí Tôn là Đại Từ Phụ, khi đến độ Bần Đạo, Bần Đạo có hỏi về phương tận độ các vong linh thì có
nói quả quyết như vầy: Dầu cho có kẻ
nào phạm tội dẫy đầy mặt đất mà khi hấp hối rồi chỉ kêu lấy danh ta thì cũng
đặng siêu thoát.
Cho
dù bị vào Phong Đô (Thanh Tịnh Đại Hải Chúng) vẫn có người đến PHỔ TẾ (Bà Thất
Nương).
@@@
2.1.5/- Giáng linh và tái sanh.
Giáng linh Hộ Pháp Di Đà...
Về
giáng linh Thầy dạy ngày 11 và 12 tháng 03 Bính Dần (22 &23- 04-1926):
.... Ngay chỗ bàn ngự
của Thầy, phải để một cái ghế, trước ngôi ba vị Đầu-Sư, vọng một bài vị, biểu
Lịch viết như vầy:
"CỬU THIÊN CẢM ỨNG
LÔI THINH PHỔ HOÁ THIÊN TÔN" lại vẽ thêm một lá buà "KIM QUANG
TIÊN" để thông ngay ở giữa, ai ai ngó vào cũng đều thấy đặng.
Bàn Thầy giáng cơ thì
để trước vọng Ngũ-Lôi, khi giáng cơ rồi thì dời đi cho trống chỗ đặng nhị vị
Đầu-Sư quỳ mà thề.
Con lại để thêm một cái
bàn giữa bên cửa sổ, đằng trước ngó vô.
Cư, nghe dặn: Con biểu
Tắc tắm rửa sạch sẽ (xông hương cho nó) biểu nó lựa một bộ quần áo tây cho sạch
sẽ, ăn mặc như thường đội nón...
Cười.....
Đáng lẽ nó phải sấm
khôi, giáp như hát bội, mà mắc nó nghèo, Thầy không biểu.
Bắt nó đứng trên, ngó
mặt ngay ngôi Giáo-Tông, lấy chín tấc vải điều đắp mặt nó lạị.
Lịch, con viết một lá
phù (Giáng-Ma-Xữ) đưa cho nó cầm.
Các con, phải cho thanh
tịnh kể từ ngày nay, diệt tận phàm tâm chớ nhơ một điểm, thì ngày ấy thề mới
đặng. ...
.... Cả hết thảy Môn-Đệ
phân làm ba ban, đều quỳ xuống biểu
Tắc leo lên bàn, con chấp bút bằng nhang, đến bàn Ngũ-Lôi đặng Thầy triệu nó
đến rồi mới tới trước mặt Tắc đặng Thầy trục xuất chơn-thần nó ra: nhớ
biểu Hậu, Đức xông hương tay của chúng nó, như em có giựt mình té thì đỡ.
Rồi biểu hai vị Đầu-Sư
xuống ngai, quỳ đến trước mặt Ngũ-Lôi, hai tay chấp trên đầu quì ngay bùa
(Kim-Quang-Tiên) mà thề như vầy:
"Tôi là Lê Văn
Trung tự Thiên Ân là Thượng Trung Nhựt và Lê Văn Lịch tự Thiên Ân là Ngọc Lịch
Nguyệt, thề Hoàng Thiên, Hậu Thổ, trước Bửu Pháp Ngũ Lôi rằng làm trọn Thiên
Đạo mà dìu dắt cả mấy em chúng tôi đều là môn đệ của Cao Đài Ngọc Đế; nhứt nhứt
do lịnh Thầy phân định chẳng dám chuyên quyền mà lập thành tả đạo; như ngày sau
hữu tội thì thề có Ngũ Lôi tru diệt."
Đến bàn Vi-Hộ Pháp cũng
quỳ xuống,vái y vậy đều câu sau như vầy:
"Như ngày sau phạm
Thiên-Điều, thề có Hộ-Pháp đọa Tam-đồ bất năng thoát tục".
(TNHT Q1 trang 16 & 17. Bản in 1973)
@@@
Như
vậy tái sanh khác với giáng linh. Tái sanh là phải mang xác phàm. Mang xác phàm
thì phải ở theo Luật Tam Thể. Có tái sanh rồi mới có giáng linh.
Giáng
linh có nhiều bước chuẩn bị nhưng cuối cùng là: Thầy trục xuất chơn-thần
của Phạm Công Tắc ra để đưa linh của Hộ Pháp Di Dà vào ngự trị trong xác phàm.
@@@
2.1.6/- Chắc lọc lẽ
thật và mê tín (giữ chữ Hòa).
Đức Hộ Pháp dạy Thần
Đạo thì là Trung Huê Phong Thần, Hi Lạp Phong Thần và Ai Cập Phong Thần,
(Mythologie Chinoise, Grecque et E¨gyptienne).
Thầy
dạy: Phong Thần đừng tưởng chuyện mờ hồ
Nghĩa
là nó có phần thật và phần mê tín trong đó.
Ngày
15-08-Quí Dậu (04-10-1933) Đức Hộ Pháp giảng về Khương Thái Công: Ông Khương Thái Công gọi là Thái Công
Vọng hay là Tử Nha, vâng lịnh đức Nguơn Thỉ Thiên Tôn ở Côn Lôn sơn cầm Phong
Thần bảng đến giúp nên nghiệp nhà Châu, cũng vì nhơn mà khai minh chơn lý của
quyền hành thưởng phạt thiêng liêng, giúp thế trị đặng thêm mỹ mãn. Tôn sùng
trinh liệt, trừ khử nịnh tà, mượn tinh thần làm nhuệ khí đặng trừ tan ác nghiệt
của xác thân.
Ấy là dụng quyền phép
vô hình đặng điều khiển hành tàng mặt thế. Ngài giúp cho thế gian kinh nghiệm
đủ cớ hiển nhiên rằng vạn ác đã đào tạo của kiếp sống con người chẳng
trốn tội khỏi nơi kiếp chết. Phép thưởng phạt thiêng liêng có đủ quyền năng cả
xác cùng hồn, thế thì có trí tuệ của loài người, còn Đạo thì lại có Thần minh
ám sát.
Triết lý Thần linh,
nghĩa là quyền phép của lương tâm do đó mà lập thành căn bổn và năng lực vận hành
hiện tượng của tư tưởng cùng tùng bổn nguyên thần pháp đặng nảy sanh.
Ôi! Cũng vì cớ
quả nhiên thật sự Bí pháp nầy đây mà đời chất chứa nhiều điều mê tín.
Tuy vân, chẳng phải
chính mình Ngài làm chủ tạo phép huyền vi bí mật Phong Thần, song Ngài biết
tùng lệnh thật hành những tư tưởng cao thượng của Đức Nguơn Thỉ Thiên Tôn, thì
công ấy đủ làm đầu Thần giáo.
Đời khi ấy dường như bị
phát bối ung thư chịu đau đớn sầu than chẳng xiết, mà Ngài lãnh đặng hoàn thuốc
linh đơn thoa cho đặng lành lẽ tốt tươi mặt thế.
Ngài nhờ thấy bạo tàn
Thương Trụ và thương đạo nhơn nghĩa của nhà Châu, vua Văn Vương và Võ Vương, giục
khai bổn thiện, nên tuổi dầu cao, tác dầu lớn, mà dám chịu nhọc nhằn khổ cực,
giúp đạo đức khử bạo tàn, thâu cơ nghiệp Thành Thang, cứu dân đen trong nước
lửa. Tuy đôi bên: Thương - Châu khác giá, mà đối với bậc trung cang trí dõng vị
quốc vong xu, Ngài vẫn giữ dạ vô tư, trong Thần vị, chỉ ngó mặt công phong phẩm
tước. Dầu điều dị đoan mê tín trong Truyện Phong Thần dẫy đầy, nhưng ngó đến
Bảng Phong Thần lẽ công chánh phải đành nhìn nhận thật.
@@@
Đêm
27-7-Mậu Tuất. (10-9-1958).
Hôm nay Bần Đạo giảng về Nhơn Sanh nhập vào trường thi.
Học thì phải có thi, thi mới biết giá trị của thí sinh dày
công học tập chẳng uổng công phu.
Phẩm Thần Tiên cũng phải thi nếu không thi mở hội Phong
Thần để làm gì?.
Đâu phải chuyện Phong
Thần không có, có nên sử mới ghi lại đó.
Đó là mầu nhiệm của thời kỳ Trung Nguơn định vị.
Buổi Hạ Nguơn nầy mãnh liệt vô cùng khốc liệt, nên các cơ
quan Đại Đồng Thế Giới phải nhập cuộc trường thi Phong Thánh. Bần Đạo quả quyết
cho Nhơn Sanh tự thức giác, có nghĩa là cuối Hạ Nguơn Tam Chuyển, bắt đầu Nguơn
Tứ Chuyển thì mở cửa cho cả thiên hạ nhập trường chung cuộc khảo thí.
Tín Đồ Cao Đài là thí sinh có trường lớp, có Thầy dạy hẳn hoi.
Thế mà hôm nay Bần Đạo xem môn sinh quá tệ.
Bài vở Thánh Ngôn Thánh Giáo tiềm tàng nhưng không chịu nghiên
cứu học thuật để làm Thánh làm Tiên; ngược lại theo học bóng chàng đồng cốt,
sấm giảng bá vơ, cúi đầu lạy tà mị, đem tiền dưng cho kẻ lợi dụng mê tín ăn
hưởng...
@@@
Tóm
lại:
Trong
chuyện phong thần có những điều thật lẫn lộn với hư cấu, phải chắc lọc ra. Nói
đến chắc lọc là nói đến khả năng riêng của cá nhân và thời đại. Đó là nói về
nguyên tắc còn thực tế trường của Thầy có 05 lớp (ngũ chi), bài của lớp nào thì
vừa với trình độ lớp đó. Hiểu như vậy được thì thuận nhĩ nhau để HÒA BÌNH CHUNG
SỐNG.
2.2/- Câu
hai: Giữa biển ai từng gặp lão Tô.
(còn tiếp).