TUYỂN TẬP
CHƠN PHÁP CAO ĐÀI Q.1. (tt 4)
HÌNH THỂ & TỔ CHỨC
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ.
(Bài 2)
Đức Chí Tôn lập ra Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (1926)
để chỉ dẫn nhơn loại xây dựng một xã hội hòa bình, dân chủ, tự do. Đạo là
phương thuốc hòa bình, dạy tương nhượng nhau để sống nên bảo tồn quốc hồn, quốc
túy của mỗi dân tộc. Đạo cũng là phương châm thoát tục vì Đức Chí Tôn lấy cái
công phụng sự nhân loại xây dựng xã hội hòa bình, dân chủ, tự do để phong
thưởng (theo nguyên tắc dâng công đổi vị).
Muốn đạt đến cứu cánh cao cả như thế thì bộ máy
hành pháp của tôn giáo bao gồm: hệ thống hành chánh tôn giáo, nhân sự hành
chánh tôn giáo, mục đích của hành chánh tôn giáo phải rõ ràng, minh bạch trước
nhơn sanh.
Bộ máy tôn giáo đi trong 02 khuôn luật: Tam quyền
phân lập và Nhứt thân tam thể.
Tổ chức của tôn giáo chặt chẽ như cách tổ chức
của một quốc gia (có tam quyền phân lập: lập pháp, hành pháp và tư pháp...)
đồng thời linh hoạt như một cơ thể sống (theo luật tam thể, có thể xác, chơn
thần và chơn linh). Hai khuôn luật cộng hưởng nhau tạo nên xe như ý đưa cá nhân
và xã hội đến nơi sở định.
Xét về đạo pháp hay tổ chức hành chánh tôn giáo
ĐĐTKPĐ có 03 đài: Bát Quái Đài, Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài. Ba đài trên
đây hiện hữu trong kiến trúc cũng như trong hành chánh tôn giáo như một cơ thể
thống nhất và hoàn chỉnh.
Bát Quái Đài (Thần, chơn linh: cầm quyền Lập
pháp). Theo luật tam thể thì BQĐ là linh hồn hay chơn linh của đạo, Đức Chí Tôn vi chủ. Cả giáo pháp của ĐĐTKPĐ đều do BQĐ mà có. Đức Chí Tôn là Giáo Chủ tối
cao của nền đạo. Ngài dùng cơ bút tại Cung Đạo để nắm chủ quyền của đạo. Pháp Chánh Truyền là hiến
pháp của nền đạo do Thiêng liêng ban cho. Theo tam quyền phân lập thì BQĐ nắm
quyền Lập pháp.
Hiệp Thiên Đài (Khí, Chơn thần cầm quyền Tư pháp): Theo luật tam thể thì HTĐ là chơn thần của đạo. Chơn thần là cầu nối giữa chơn linh và thể xác; một đầu nối với chơn linh (Bát
Quái Đài)
bằng cơ bút; một đầu nối với thể xác (Cửu Trùng Đài)
nên gọi là bán hữu hình. Hiệp Thiên Đài do Đức Chí Tôn chủ quản Ngài giao cho
Hộ Pháp Chưởng Quản phần hữu hình Hiệp Thiên Đài để kiểm soát về pháp luật đạo. Theo tam quyền phân lập thì HTĐ nắm quyền Tư pháp.
(Chú ý rằng trong kiến trúc thì Hiệp Thiên Đài không đứng giữa mà đứng
ngoài để đón nhân loại vào cửa đạo. Cũng như trong Luật tam thể thì chơn thần
vẫn ở ngoài thể xác để độ dẫn thể xác, chơn thần bao bọc thể xác như khuôn đúc
vậy. Khi một hài nhi vừa lọt lòng mẹ thì chơn thần “là không khí bao quanh thân
thể” hiện diện để độ dẫn cho thể xác)
Cửu Trùng Đài (Tinh, Thể xác cầm quyền Hành pháp): Theo Luật Tam Thể thì CTĐ là phần xác của
đạo. Cửu Trùng Đài cũng có hai phần: Phần vô vi do Đức Lý Đại Tiên nắm quyền
(do sự sắp xếp của Chí Tôn và Đức Lý). Phần hữu hình do phẩm Giáo Tông Chưởng
Quản Cửu Trùng Đài. Giáo Tông cầu rỗi nhưng quyền
siêu rỗi là của Bát Quái Đài. Trong Tam quyền phân lập thì CTĐ cầm quyền Hành pháp.
Đạo Nghị Định thứ sáu ngày mùng 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930) viết: Chiếu theo Pháp
Chánh Truyền của cả Hội Thánh Bát Quái Ðài, Cửu Trùng Ðài, Hiệp Thiên Ðài... Căn cứ vào đó chúng ta hiểu rằng mỗi đài đều có Hội Thánh riêng.
Cửu Trùng Đài muốn vào Bát Quái Đài phải qua Cung
Đạo; trong kiến trúc khi hết 09 bậc của CTĐ có một gian nhỏ gọi là Cung Đạo rồi
mới tới BQĐ. (1: Xem bài tìm hiểu cung Đạo. Link: http://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2019/12/3005-tim-hieu-cung-ao.html#more)
Thể pháp qua kiến trúc tại Tòa Thánh phần Lôi Âm
Cổ Đài (Lầu Trống) và Bạch Ngọc Chung Đài (Lầu Chuông) theo hiểu biết của chúng
tôi thuộc về nguyên lý đạo pháp. Tiếng trống tượng cho tiếng nổ Big Bang để tạo
thành Ngôi Thái Cực và từ đó biến thành Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Bát Quái tạo ra Càn
Khôn Vũ Trụ (tài nguyên và môi trường sống) rồi đến Càn khôn Vạn Vật là sinh
vật sống trong vũ trụ (gọi chung là Càn khôn Thế Giới). Tiếng chuông tượng cho
tiếng ngân sau tiếng nổ Big Bang.
Thầy (Ngôi Thái Cực) dạy rằng nếu không có Hư Vô
Chi Khí thì không có Thầy. Dịch lý cũng viết rằng Vô Cực sinh ra Thái Cực.
Như vậy từ trong Hư Vô Chi Khí (Vô Cực) phát ra
tiếng nổ Big Bang để tạo ra Ngôi Thái Cực (Vô Cực sinh Thái Cực hay Hư Vô Chi
Khí sinh ra Ngôi Thái Cực). (Trong bài thuyết đạo ngày 01/02/Đinh Hợi (1947)
tại Báo Ân Từ Đức Hộ Pháp cũng nói rõ Phật Mẫu có trước Đức Chí Tôn). Như vậy
Lôi Âm Cổ Đài và Bạch Ngọc Chung Đài có trước cả Ngôi Thái Cực nên thuộc về
Nguyên Lý Đạo Pháp.
Đạo có Thể pháp và Bí pháp để thể hiện Chơn pháp
(dụng).
Cái thể của đạo bày ra trước mắt như công trình
kiến trúc, cách tổ chức tôn giáo về hành chánh thể hiện qua văn tự, sơ đồ tổ
chức hay các phẩm bậc nhân sự trong tôn giáo... nên có thể căn cứ vào thể pháp
để tìm hiểu được và có kế hoạch, giáo án thực thi (Bí pháp).
Cái dụng của đạo từ thấp đến cao như một cái
thang vô vàn nấc. Cái dụng ở cấp thấp có thể phân tích, chứng minh còn cao lên
phải nhờ đến trực giác để lý hội, mặc khải. Có khi cái dụng phải nhờ cái thể để
hiện ra cho người đạo có căn cứ mà tìm hiểu. Thể Pháp Đạo Cao Đài là do Thầy
hay các Đấng thiêng liêng dạy bố trí ra nên ẩn tàng những lý lẽ sâu xa, một màu
sơn, một phương vị, một con số... trong thể pháp đều có ý nghĩa ẩn tàng.
Thí dụ như Nghinh Phong Đài bố trí tại Đền Thánh
trong phần của Cửu Trùng Đài. Thể pháp bố trí Thập Thiên Can trên đường tròn.
Bố trí Thập Nhị Địa Chi trên hình vuông. Thể Pháp biểu thị cho cái dụng của
trời và đất (làm nhà cửa, ruộng nương, đường xá... tính toán theo góc vuông),
nếu hiểu lầm rằng thể pháp biểu thị cho cái thể trời và đất thì sẽ kết luận
rằng đạo trái với khoa học. Nghinh Phong Đài là một công án để hiểu câu trời
tròn đất vuông của người xưa đã bị hiểu sai. Sai vì đã chuyển vị trí từ câu
biểu thị cho cái dụng của trời đất lại chuyển vị trí thành ra câu diễn tả cái
thể của trời và đất.
Xin minh họa để hiểu là có 02 chữ số 0 và 1.
Người biết viết cách các chữ số có thể viết 01 (một) và 10 (mười). Số một hay
mười là do vị trí đứng của hai số 0 và 1 mà có. Hai cách viết tạo ra giá trị
khác nhau cũng tương tự như thể pháp biểu thị cho thể hay dụng mà hiểu vậy.
I/- BÁT QUÁI ĐÀI (Thần,
Chơn linh cầm quyền Lập pháp).
Kiến trúc Đền Thánh thể hiện: Hiệp Thiên Đài mở cửa cho nhơn sanh để vào
Cửu Trùng Đài mà lập vị, trên đường lập vị phải qua cung đạo mới đến Bát Quái
Đài. Chúng tôi xin chia ra làm 02 phần: Thể pháp qua kiến trúc và BQĐ trong tổ
chức tôn giáo.
1/- Thể pháp qua kiến trúc.
Có thể tìm hiểu qua 03 phần: lộ thiên, nội điện, tầng hầm. Cả ba phần đều kiến trúc theo hình bát quái.
1.1/ Phần lộ thiên:
Đứng bên ngoài Đền Thánh ta nhìn
thấy BQĐ sơn màu vàng, tính từ nền lên có phần nóc và phần
hình trụ bát quái. Chúng tôi tính phần hình trụ bát quái từ nóc trở lên là phần
lộ thiên.
Cao chót vót trên hết là cột thu
lôi và cây đèn màu xanh. Kế đó là Tam Thế Phật (còn gọi Chí Tôn tam thế: sáng
tạo, huỷ diệt, bảo tồn).
- Brahma Phật:
đứng trên thiên nga, mặc khôi giáp đầy đủ ngó về hướng Tây. Tay bắt ấn tay cầm
châu. Tượng
cho sáng
tạo.
- Civa: đứng trên thất đầu xà, da
xanh vận khố vàng, thổi ống tiêu, cán ống tiêu quay về Đông, mắt ngó
về hướng Bắc. Tượng cho huỷ diệt.
- Christna: đứng trên giao long,
vận khố xanh. Tay trái chống nạnh, tay trái chống gươm mắt ngó
về hướng Nam. Tượng cho bảo tồn.
Tam Thế Phật đứng theo ba hướng
Bắc, Tây, Nam. Còn hướng Đông để trống.
Tại sao để trống hướng Đông? Bởi hướng Đông là hướng của mặt trời mọc,
hướng của đạo, của chân lý: Ánh Thái
Dương giọi trước phương Đông ... (Khai Kinh, câu 2).
./ Tầng thứ nhất: Là nóc
điện với 8 khuôn hình tam giác ráp lại. 8 cạnh đáy
của 8 tam giác tạo ra một hình bát giác.
Liền đó là 8 cung bố trí 8 quẻ của
bát quái: Càn,
Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Cung Càn khởi ở Tây Nam đi ngược chiều
kim đồng hồ và cung Đoài ở hướng chánh Tây. (Bát Quái bố trí ở
Bát Quái Đài là Bát Quái Đồ Thiên, không phải là Bát
Quái Tiên Thiên hay Bát Quái Hậu Thiên)
Mỗi thời kỳ phổ độ đều có một Bát Quái tương ứng. Theo đó, Tiên Thiên vào
thời Nhứt Kỳ, Hậu Thiên vào thời Nhị Kỳ và Đồ Thiên vào thời Tam Kỳ.
./ Tầng thứ hai:
Bố trí 08 chữ Càn, Khảm,
Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài theo đúng với phương
vị của các cung ở tầng thứ nhất. Phương chánh Đông có một một cửa ngay dưới
cung Chấn.
./- Tầng thứ ba.
Bố trí bửu pháp của Bát Tiên trấn thủ BQĐ. Đây là vấn đề rất phức tạp.
Chúng tôi tra cứu văn bút xưa trong các cổ văn và nay là văn bút các vị liên
quan đến Đạo Cao Đài đều có những kiến giải khác nhau. Một khó khăn nữa là các
bửu pháp ở BQĐ có hình dạng không giống như văn bút xưa mô tả bửu pháp của Bát
Tiên. Do vậy cần phối hợp văn bút xưa với bửu pháp Bát tiên tại bức diềm trong
Đền Thánh bên nữ phái. (Xem bài tại
link: https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2019/12/3006-bat-tien-tran-phap-tai-bat-quai-ai.html)
1.2/-
Phần nội điện.
Nội điện là nơi thờ phượng Đức Chí
Tôn cùng các Đấng Thần Thánh Tiên Phật. “Phần nầy có rất nhiều văn bút nói rõ
chúng tôi chỉ xin lướt qua”.
Quả Càn Khôn có thiên nhãn là trung tâm trong nội điện, trên đó bố trí 3072
ngôi sao với ý nghĩa: Ngày
12-8-Bính Dần (1926). Thầy dạy.
Ngọc-Hoàng
Thượng-Đế Viết Cao-Đài
Giáo
Đạo Nam Phương
....Bính - Thầy giao cho con lo một trái
Càn-Khôn; con hiểu nghĩa gì không? ... Cười... Một
trái như trái đất tròn quay, hiểu không? Bề kinh tâm ba thước ba tấc, nghe con,
lớn quá mà phải vậy mới đặng, vì là cơ mầu nhiệm Tạo-Hóa trong ấy, mà sơn màu
xanh da trời; cung Bắc-Đẩu và Tinh-Tú vẽ lên Càn-Khôn ấy. Thầy kể
Tam-Thập-Lục-Thiên, Tứ-Đại-Bộ- Châu ở không-không trên không khí, tức là không
phải Tinh-Tú, còn lại Thất-thập-nhị-Địa và Tam-Thiên thế giái thì đều là
Tinh-Tú. Tính lại ba ngàn bảy mươi hai ngôi sao, con phải biểu vẽ lên đó cho
đủ. Con dở sách thiên-văn Tây ra coi mà bắt chước. Tại ngôi Bắc-Đẩu con phải vẽ
hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc-Đẩu cho rõ ràng. Trên vì sao Bắc-Đẩu vẽ con
mắt Thầy, con hiểu chăng? Đáng lẽ trái ấy phải bằng chai, đúc trong một ngọn
đèn cho nó thường sáng; ấy là lời cầu nguyện rất qúy báu cho cả nhơn-loại
Càn-Khôn Thế-Giái đó; nhưng mà làm chẳng kịp, thì tùy con tiện làm thế nào cho
kịp đại-hội - Nghe à!
Còn chư Phật, chư
Tiên, Thánh, Thần đã lên cốt thì để dài theo dưới, hiểu không con? (TNHT Q1 trang 45 bản in 1973)
Theo lời phê của Đức Hộ Pháp thì
các môn đệ hữu công với Đạo có quyền vạn linh nhìn nhận cũng được thờ phượng
tại đây. Sau mỗi tịch đạo thì lấy hài cốt tín đồ đem hoả thiêu tại Cửu Trùng
Thiên rồi một phần tro cũng được đưa vào Bát Quái Đài thờ phượng; phần còn lại
đem rãi ở sông Vàm Cỏ Đông đoạn Giang Tân, Bến Kéo… .
8 cột rồng ở Bát Quái Đài có đặc điểm là rồng vàng.
Từ Bát Quái Đài có 08 con rồng trắng chạy ra ngay các cột, tượng cho Bát
phẩm chơn hồn từ BQĐ mới xuất ra nên trong trắng tinh anh. Khi đã nhập thế rồi
bì bị ô trược ở dòng Bích hải chịu trược trần nên đen thui, dị hợm. (Trong kiến
trúc khi khởi thủy 8 đầu rồng ở Nghinh Phong Đài sơn màu đen nhưng hiện nay đã
đổi thành màu khác; vậy cái lý nào để chuyển màu cần được làm rõ. Theo Đức Hộ
Pháp giảng trong Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống thì con người khi sống trong Bích
hải đen thui. Tám rồng ở Nghinh Phong Đài chỉ có cái đầu nổi lên nên có khả
năng là 8 rồng ấy “bát phẩm chơn hồn xuất từ BQĐ” ở Bích Hải)
Đức Hộ Pháp:
- Ngày 14/02/Mậu
Thìn “05/3/1928”.
Bát Quái Đài là Bạch Ngọc Kinh tại thế.
- CĐTLHS. Đêm 26 tháng 3 năm Kỹ Sữu
Bài 34:
Kỳ
tới Bần Đạo sẽ dắt con cái của Đức Chí Tôn qua Bạch Ngọc Kinh là hình ảnh của
Bát Quái Đài chúng ta để tại mặt thế này.
Cho nên chúng tôi hiểu Bát Quái Đài
trong Đền Thánh là Bát Quái Đài hữu hình. Trong hữu hình vẫn có thể pháp và bí
pháp….
(Bát Quái Đài vô vi là cột phướng trước Đền Thánh)
Nền phần nội diện được
bố trí theo bát quái. Nền có 12 bậc. Cấp 12 trên nền có bố trí chữ TAM GIÁO QUI
NGUYÊN NGŨ CHI PHỤC NHỨT (dùng chữ Quốc ngữ). Nơi cung Càn có
chữ Tam, từ đó đọc ngược với chiều kim đồng hồ đến cung Đoài là chữ
Nhứt.
8 quẻ
bố trí ở phần lộ thiên cũng bố trí ở
cấp 12 theo thứ tự…
1.3/- Tầng hầm.
Cuối cung Chấn đầu cung Tốn có một
nấp hầm để xuống tầng hầm của Bát Quái Đài. “Cách khuôn hình Thiên Nhãn một lối
đi”. Trong
bát hồn xuất ra từ Bát Quái Đài thì Cung Chấn là cửa của Nhơn Hồn và cuối cung
Chấn đầu cung Tốn là giáp mối của Thú Cầm Hồn … đúng với luật tấn
hoá. Tầng hầm cũng bố trí bát quái theo hình thể như bên
trên nhưng không có chữ hay quẻ.
2/- Bát Quái Đài trong tổ chức hành chánh tôn giáo.
PCT chú giải viết rõ rằng Thầy cao
không với tới, khuất không rờ đặng nên lập ra Thánh Thể tại thế và dùng cơ bút
để điều đình mối đạo.
Cơ bút tạo đạo được thì cơ bút cũng có thể diệt đạo được. Cho nên Hội Thánh
Cao Đài cấm tuyệt đối việc lấy cơ bút những nơi ngoài Cung Đạo làm lịnh. Đức Hộ
Pháp có bút phê dạy rằng các Đấng dạy cho môn đệ Chí Tôn thì giáng cơ công khai nơi Cung
Đạo Đền Thánh trước Thánh Thể Đức Chí Tôn....
Căn cứ vào lời minh thệ thì Đạo Cao Đài của Ngọc Đế chỉ có một, được thành
lập năm 1926; nếu có một nơi nào khác xưng danh Cao Đài thì người có chánh tín
sẽ biết ngay đó không phải do Ngọc Đế lập. Khi thể pháp tôn giáo đã nên hình
thì Cung Đạo là nơi xuất phát những đàn cơ dạy cho cả nhơn sanh. Những đàn cơ
nào ngoài Cung Đạo thì người đạo có đủ quyền không nhìn nhận.
2.1/ Nhân sự Cửu Trùng Đài.
Toàn bộ nhân sự CTĐ (là bộ máy hành pháp) từ phẩm Lễ Sanh trở lên đều phải
qua 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh tuyển chọn, sau đó đến Quyền Chí Tôn tại thế chấp
nhận rồi dâng lên quyền thiêng liêng quyết định qua cơ bút tại Cung Đạo. Đức Hộ
Pháp dạy trong vi bằng 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh năm 1937 thì chỉ có: Đức Chí
Tôn, Đức Lý Giáo Tông và Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn có quyền phong
thưởng. Phần Đức Hộ Pháp chỉ có quyền tạm phong tới phẩm Lễ Sanh (thường là
phái Ngọc, sau đó thiêng liêng sẽ định phái chính thức).
2.2/ Nhân sự HTĐ và Phước Thiện.
Khi Đức Hộ Pháp về thiêng liêng vị thì Đức Lý Giáo Tông trả quyền ấy lại
cho Hộ Pháp.
2.3/ Thỉnh giáo những việc quan trọng.
Ngoài việc phong thưởng theo Pháp Chánh Truyền thì cũng có những việc quan
trọng khác Hội Thánh cũng có thể xin lập đàn cơ để thỉnh giáo. Tóm lại: Những
vấn đề quan trọng của đạo đều phải do nơi sự chỉ dẫn của BQĐ.
(còn tiếp)
II/- HIỆP THIÊN ĐÀI (Khí, Chơn
thần cầm quyền Tư Pháp).