TUYỂN TẬP
CHƠN PHÁP CAO ĐÀI Q.1. (tt 10)
III/ LONG HOA THỊ CHUYỂN
THẾ.
“Nắm cây huệ kiếm gươm
thần,
Dứt tan sự thế nợ trần
từ đây”.
Kinh Khai Cửu, Đại
Tường và Tiểu Tường.
Kiến
thiết đường giao thông trong Châu Thành Thánh Địa tỉnh Tây Ninh ẩn chứa nhiều
điều kỳ thú. Bởi vì đó là một thể pháp của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Tại sao gọi
là thể pháp? Bởi vì 05 chương trình gia cư, mưu sinh, giáo huấn, kiến thiết và
tôn giáo của Hội Thánh dùng để nâng cao dân đức, dân trí, dân sinh là bài bản
của thiêng liêng chỉ dạy. Bố trí đường giao thông trong Châu Thành Thánh Địa có
sự sắp xếp của thiêng liêng nên nó là một thể pháp. Trong bài nầy chúng tôi
giới thiệu một thể pháp đặc biệt: Lộ Trung Tim.
1/- Mô tả Lộ Trung Tim.
Theo
cách đặt tên đường của Hội Thánh Cao Đài có chữ LỘ đứng trước. Chữ lộ hiểu là
đường thì chắc chắn là đúng. Nhưng khi mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thì Đức Chí Tôn
dạy rằng dùng tiếng An Nam làm chánh tự. Lấy đó mà hiểu thì chữ lộ còn có nghĩa
là hiện ra. Cho nên chữ Lộ Trung Tim được hiểu như con đường tên Trung Tim
không sai. Còn như hiểu rằng con đường đó thể hiện trung tâm điểm của Đại Đạo
(bao gồm con người, tôn giáo, xã hội) là hiểu theo đạo học.
Ảnh 1: Lộ Trung Tim.
Lộ
Trung tim là con đường đi từ hướng Bắc về hướng Nam (từ A à Z). Khởi
tính từ đường Phước Đức Cù (nối với đường Phổ Đà Sơn, còn gọi là cua Lý Bơ “vì
khi xưa Giáo Sư Lý Bơ mở lớp dạy Anh Văn trên đoạn đường đó”). Đi lần đến Báo
Quốc Từ. Đi tới nữa là Long Hoa Thị. Qua khỏi Long Hoa Thị đi tiếp là đến ngã
ba Giang Tân. Tại đây Lộ Trung Tim gặp quốc lộ 22 và hết.
2/- Gươm Trí Huệ tại Nghinh Phong Đài.
Nghinh
Phong Đài Tòa Thánh Tây Ninh có bố trí một con Long Mã chạy từ hướng Đông sang
Tây và đầu quay lại ngó về phương Đông.
Ngụ
ý rằng Đạo khởi từ phương Đông, sau đó xuất sang phương Tây nhưng vẫn phải giử
cái gốc là đạo đức.
Trên
lưng Long Mã có cõng một Bát Quái. Có một cây gươm xuyên qua Bát Quái (cây gươm
từ
Đông sang Tây và từ trên chỉa xuống). Bát quái từ Tiên Thiên (8 quẻ),
đến Hậu Thiên (64 quẻ) hay Đồ Thiên (bố trí tại Bát Quái Đài Tòa Thánh Tây
Ninh) cũng đểu thể hiện cho sự nổ lực của con người để nhận thức về thế giới tự
nhiên, về các vấn đề trong xã hội và chính nội tâm mỗi người. Cây gươm xuyên
qua Bát Quái tượng trưng cho trí tuệ của nhân loại. Nên còn được gọi là Gươm
Trí Huệ hay Gươm Thần Huệ.
Ý
nghĩa Long Mã trong dịch lý.
Quẻ
Càn (Kiền): là quẻ đầu tiên của kinh Dịch. Sáu hào của quẻ Càn gọi là thời thừa
lục long (thì thừa lục long dĩ ngự thiên dã; tạm hiểu: sáu giai đoạn phát triển
của trí tuệ “long/rồng”). Bởi vì rồng là con vật không có thật, nó thay đổi tùy
sự phát triển của trí tuệ và tâm linh. Rồng (long) tượng cho trí tuệ. Theo chổ
hiểu của chúng tôi thì chữ Long trong Long Mã tượng cho cái dụng của quẻ Càn
(sáu hào dương hay dụng cửu).
Quẻ
khôn viết: Khôn nguyên hanh lợi tẫn mã
chi trinh. Quân tử hữu du vãng. Dịch nghĩa. Quẻ Khôn: Đầu cả, hanh thông,
lợi về nết trinh của ngựa cái. Quân tử có sự đi. Người xưa đã dùng đức tính của
con ngựa cái tượng cho sự bền bĩ, trinh chính trong đạo phụng sự (bầy tôi); bởi
vì Càn là sáng tạo đã xong, Khôn theo đó mà tạo ra cuộc luân chuyển hóa sanh
trong cõi ta bà, mà đi trong cõi ta bà thì gặp đủ thứ vấn đề nên phải lấy đức
trinh bền, nhu thuận của con ngựa cái. Chữ Mã trong Long Mã tượng cho cái dụng
của quẻ Khôn (sáu hào âm hay dụng lục).
Trong
Đạo Cao Đài thì Càn tượng cho trời. Khôn tượng cho đất. Càn Khôn
tượng cho Đại Đạo. Có Bát quái tiên thiên (8 quẻ) rồi khi xã hội phát triển thì
8 quẻ đó không đủ để diễn tả hết các vấn đề trong xã hội nên cần có sự chi tiết
hơn mới sanh ra Bát quái hậu thiên (64 quẻ). Như vậy về xã hội học thì bát quái
(Tiên thiên, Hậu thiên hay Đồ thiên) cũng tượng cho các vấn đề con người phải
đối diện. Trong xã hội có xã hội đạo và xã hội đời, chủ đích bài nầy là chỉ đi
vào phần thể pháp để xây dựng đạo và bảo tồn quốc túy mà không đi sâu vào dịch
lý Đồ thiên vốn là một lãnh vực đòi hỏi chuyên môn sâu.
Tóm
lại: Long mã trên Nghinh phong đài tượng cho Đại Đạo khởi từ phương Đông (Việt
Nam) truyền qua phương Tây. Muốn làm như thế phải có sự hiểu biết về con người
và xã hội để viết ra giáo án. Giáo án, sử chương phải phù hợp với 02 luồng tư
tưởng phương Đông (Đông Lang) và phương Tây (Tây Lang). Dù luồng tư tưởng nào
cũng phải lấy đạo làm gốc.
(Lưu
ý là hai cái đồng hồ ở Đông Lang và Tây Lang song song nhau và song song với
hướng chạy của Long Mã, nghĩa là cùng nhau nhìn về một hướng. Nó khác với Đông
Khán Đài và Tây Khán Đài đối diện nhau, từ hai hướng đối nhau nhưng cùng nhìn
vào mục tiêu)
3/- Gươm Trí Huệ trong nhân thế.
Từ
đối chiếu Lộ Trung Tim với Gươm Trí Huệ tại Nghinh Phong Đài chúng tôi thấy
rằng đã đủ yếu tố để gọi Lộ Trung Tim là Gươm Trí Huệ trong nhân thế.
Một
câu hỏi cần phải nêu ra là: Tại sao Gươm Trí Huệ phải đi qua Báo Quốc Từ và
Long Hoa Thị?
Xin
thưa rằng: trí tuệ có được là do sự học hỏi và rèn luyện của từng cá nhân, trí
tuệ đó phải được thể hiện qua hành động. Hành động là cơ sở để xã hội nhìn nhận
hay kiểm chứng xem nó có hữu ích chi cho quốc gia và thế giới chăng.
3.1/- Tại sao qua Báo Quốc Từ?
Báo
Quốc Từ để làm gì? Xin thưa để tưởng nhớ và thờ phượng tiền nhân.
Ai
được thờ phượng tại Báo Quốc Từ? Theo chổ hiểu của chúng tôi thì trước năm 1975
Báo Quốc Từ thờ Quốc tổ Hùng Vương, các vị khai quốc công thần, chiến sĩ trận
vong. Ba cựu hoàng Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân. Sau có thêm Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để và Tướng Trình Minh Thế. Như vậy Báo Quốc Từ là nơi thờ phượng các bậc
tiền nhân có công với nòi giống, giang san, đạo pháp.
Phụng
sự cho đạo pháp là gì?
Theo
chúng tôi nhận định nhiệm vụ quan trọng là góp phần để thực thi đôi liễn:
Cao Thượng Chí Tôn Đại
Đạo Hòa Bình Dân Chủ Mục.
Đài Tiền Sùng Bái Tam
Kỳ Cộng Hưởng Tự Do Quyền.
Đôi
liễn (công thức) nầy được trưng ra công khai cho cả thiên hạ biết và kiểm
chứng. Đức Chí Tôn dạy ngày 01. 02. 1927:
… Ấy vậy các con
phải lưu tâm mà chấn hưng mối Đạo; ấy là kế bảo tồn quốc túy, lại là phương
thoát tục. Cơ Trời Thầy không lẽ tỏ ra đây, song các con nên biết xét mình là
đứng vào địa vị tối cao hơn muôn loại, nên các con phải có trí độ phi phàm thì
mới có đủ tư cách làm người… (Hết trích).
(TNHT
Q1 trang 73. Tái bản lần 2, năm 2011, Hoa Kỳ (Tạp chí Ánh Sáng Phương Đông).
Chấn
hưng mối đạo là gì?
Một
trong những nội dung chính là biết tạo ra sự cộng hưởng để xây dựng hòa bình,
dân chủ, tự do.
Xây
dựng cho ai?
Xin
thưa cho bản thân, gia đình, tôn giáo và xã hội.
Căn
cứ vào lời dạy trên và kết hợp với đôi liễn (công thức) để hiểu thì các giá trị
hòa bình, dân chủ, tự do của Đạo Cao Đài phù hợp với những giá trị của nhân
loại trong thời toàn cầu hóa.
Ngày
10-9-1958 Đức Hộ Pháp giảng về: Nhơn Sanh nhập vào trường thi…
Buổi Hạ Nguơn nầy mãnh
liệt vô cùng khốc liệt, nên các cơ quan Đại Đồng Thế Giới phải nhập cuộc trường
thi Phong Thánh. Bần Đạo quả quyết cho Nhơn Sanh tự thức giác, có nghĩa là cuối
Hạ Nguơn Tam Chuyển, bắt đầu Nguơn Tứ Chuyển thì mở cửa cho cả thiên hạ nhập
trường chung cuộc khảo thí. (Hết trích).
Đôi
liễn:
Cao Thượng Chí Tôn Đại
Đạo Hòa Bình Dân Chủ Mục.
Đài Tiền Sùng Bái Tam
Kỳ Cộng Hưởng Tự Do Quyền.
Chính
là đề thi cho thời Tam kỳ phổ độ.
Trong
thời toàn cầu hóa thì cả nhân loại đang xây dựng cuộc sống hòa bình, dân chủ,
tự do. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền là một bằng chứng. Điều 18 của Tuyên Ngôn
khẳng định quyền tự do tôn giáo hay niềm tin.
TNNQQT,
điều 18: Tất cả mọi người đều có quyền tự do có tư
tưởng, tự do có lương tâm và tự do có tôn giáo; quyền này bao gồm cả quyền tự
do thay đổi tôn giáo hay thế giới quan của mình cũng như quyền tự do biểu thị
tôn giáo hay thế giới quan của mình bằng cách giảng dạy, thực hành, thờ phụng
và tuân thủ giáo điều cho riêng cá nhân mình hay chung với những người
khác, ở nơi công cộng hay chốn riêng tư
Các
cơ quan nhân quyền của Liên Hiệp Quốc, các tổ chức công dân (xã hội dân sự)
phải chăng đang xây dựng những giá trị nhân quyền chung cho toàn nhân loại? Các
cơ quan nhân quyền LHQ xây dựng, đề cao giá trị dân chủ, tự do là để xây dựng
hòa bình cho nhân loại. Cho nên họ cũng đang giải đề thi.
Nghĩa
là dù cho Đại Đạo hay các cơ quan đại đồng thế giới cũng đều xây dựng một xã
hội trong đó con người được sống xứng đáng với nhân phẩm. Chúng tôi nói về mục
đích hai bên theo cách hiểu về lời giảng của Đức Hộ Pháp mà chưa đi vào phần
giải pháp và phương tiện.
Muốn
giải quyết bài thi người đạo chúng ta phải làm gì?
Theo
chúng tôi hiểu là phải thực thi tam lập (lập công, lập đức, lập ngôn) để giải
quyết đề thi. Phải chuẩn bị đề cương, giáo án minh bạch.
Kiến
Chuẩn Đề thạch xá giải thi. (Kinh Đệ Thất Cửu).
Chuẩn
Đề là chuẩn bị đề cương, giáo án. Chúng tôi hiểu Chuẩn Đề như một công thức
trong Di Lặc Chơn Kinh. Chìa khóa để hiểu Chuẩn Đề như một công thức là do Ngài
Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa để lại. Khi giảng về các bài Kinh Cửu Ngài có giải
thích: Nên lưu-ý là danh-hiệu các vị
Phật nêu trong kinh Di-Lạc ở các tầng Trời từ Hạo-Nhiên Pháp Thiên đến
Hỗn-Ngươn Thiên không có đề Phật-danh của mỗi vị mà chỉ có đề nhiệm-vụ của mỗi
vị mà thôi.
Đó
cũng là nguyên do vì sao khi đọc Di Lặc Vương Phật hay Nhiên Đăng Cổ Phật chỉ
lạy có một lạy. Lời dạy của Ngài Hồ Bảo Đạo đã soi sáng vấn đề.
Người
đạo Cao Đài phải biết tạo sự cộng hưởng với các cơ quan đại đồng thế giới để
thêm sức cho nhau, trong công cuộc cộng hưởng đó phải lấy đạo đức làm gốc. Phải
giử gìn những giá trị của đạo (cho nên Long Mã chạy về Tây mà đầu vẫn ngó về
Đông).
3.2/- Tại sao Gươm thần huệ phải qua Long Hoa Thị?
3.2.1/- Sơ lược về nguồn gốc Long Hoa Thị.
Long
Hoa Thị hiện nay do Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc (1890-1959) ra lịnh khởi công xây
dựng ngày 12-11 Nhâm Thìn (1952).
Khi khởi công xây dựng Long Hoa Thị có nhiều
chức sắc cao cấp tham dự, xã hội có Kỹ sư Lưu Văn Lang (thường gọi Bác vật
Lang). Chợ thiết kế theo hình bát quái đồ thiên (là Bát quái tại Bát Quái Đài).
Theo lời phê của Đức Hộ Pháp thì Long Hoa Thị mở rộng ra đến Bến Kéo.
Ảnh Long Hoa Thị từ internet.
3.2.2/- Quyền sở hữu Long Hoa Thị.
Đức
Hộ Pháp định rõ Long Hoa Thị thuộc sở hữu của toàn đạo không cho ai có
quyền tư hữu trên đó. Hội Thánh quản lý thấy nhà nào nghèo thực sự thì xem xét
và cấp cho một chổ để mua bán, khi qua cảnh khó khăn phải trả lại cho Hội Thánh
để giúp đở cho người nghèo khó khác. Long Hoa Thị bán toàn đồ chay, không đem
đồ mặn vào đó. Đức Hộ Pháp buộc như vậy vì đó là chợ chuyển thế.
3.2.3/- Long Hoa Thị chuyển thế.
Khi
đó ông Trung Úy Nguyễn Ngọc Lầu thỉnh giáo về ý nghĩa chợ chuyển thế. Đức Ngài
trả lời rằng: Thầy muốn để cho nhơn sanh,
con cái của Đức Chí Tôn tìm mà hiểu biết, rồi tùy ý muốn của nhơn sanh muốn cái
gì thì nó sẽ biến ra cái nấy…. Các con lưu ý nhìn cái Long Hoa Thị biến chuyển
ra sao thì các con biết trước những việc đó là gì. Thôi, việc Thiên cơ Thầy
không nói nữa, các con tìm hiểu (trích ý).
Việc
nầy sẽ có 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh định đoạt.
Đức
Hộ Pháp không giải thích hết, Ngài để một khoản trống và khuyến khích người đạo
tìm hiểu. Cho nên đã cuốn hút rất nhiều chất xám của người đạo để đưa ra lời
giải thích. Chúng tôi cũng mạo muội đưa ra một cách giải thích.
3.2.4/- Muốn chuyển thế phải làm gì?
Muốn
chuyển thế phải cung ứng được nhu cầu chính đáng cho đời sống từ vật chất đến
tinh thần đúng qui luật cung cầu. Muốn có nguồn cung thì phải có những phát
minh mới. Muốn có phát minh mới phải có trí tuệ. Muốn có trí tuệ phải tu thân như 04
công thức tại Bao Lơn Đài (bên ông Thiện). Bốn công thức đó là: Cần mẫn học tập
(Ngưu giác quải thư), thanh liêm (Hứa Do, Sào Phủ), tín nghĩa (Bá Nha, Tử
Kỳ) và chí nhẫn (Khương Thượng, Võ Kiết).
Xây
dựng xã hội có
04 công thức bên ông Ác: Xây dựng hạ tầng (Vua Hạ Võ trị thủy); chương trình
lương thực (ông Thuấn canh điền); chương trình khoa
học và giáo dục (Toại Nhân, Hữu Sào); sách lược kinh thương (Phạm Lãi, Tây
Thi). Chát xám của đạo phải cung ứng bài bản tu thân và xây dựng xã hội như hai
thanh thép tạo nên đường ray để XE NHƯ Ý của đại đạo qua Báo Quốc Từ và Long
Hoa Thị (Kinh
Đệ Ngũ Cửu: Dựa xe Như Ý oai thần
tiễn thăng).
3.2.5/- Ai làm việc đó?
Đó
là Hội Thánh Cao Đài, đó là trách nhiệm của tất cả những người đã nhập môn cầu
đạo. Bằng cớ là Kinh Nhập Hội câu 17, 18:
Cơ chuyển thế khó khăn
lắm nỗi,
Mượn thánh ân xây đổi
cơ Đời
Căn
cứ vào kinh sách của Hội Thánh ban hành mà luận về trách nhiệm. Thánh Thất,
Điện Thờ, Hương đạo, Ấp đạo đều có hội ít nhất một tháng một lần, mà có hội
phải đọc Kinh Nhập Hội. Đọc kinh rồi phải làm đâu thể chờ người khác làm.
Nhập
môn cầu đạo thì phải biết rằng Lời minh thệ là một tiền đề cơ bản. Lời minh thệ
ghi rõ: … Thề rằng: Từ đây biết có
một “Đạo Cao Đài Ngọc Đế,… hiệp đồng chư Môn Đệ, gìn luật lệ Cao Đài. …”; theo
đó thì chỉ có một Đạo Cao Đài của Ngọc Đế lập năm 1926, nếu có một Đạo Cao Đài
nào ra đời sau đó thì phải biết ngay rằng đó không phải của Ngọc Đế (Thí dụ: chi
phái 1997 là do cộng sản Việt Nam lập ra). Bởi vì Ngọc Đế trước sau như một;
Ngài đã dạy rõ chỉ có MỘT Đạo Cao Đài của Ngọc Đế thì cứ noi
đó mà hành
đạo. Nghĩa là Hội Thánh Cao Đài và toàn đạo phải đảm đương nhiệm vụ xây cơ chuyển thế bảo tồn vạn linh.
3.2.6/- Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là một phát minh.
ĐĐTKPĐ
ra đời để làm chứng trước nhân loại rằng con người có thể nối kết được với các
Đấng cao trọng trong thế giới vô hình. Các Đấng sẳn lòng giúp nhân loại xây
dựng xã hội hoà bình, dân chủ, tự do. Đó là xây dựng nền văn minh mới (Văn minh
tâm linh hay Văn minh Cao Đài Giáo) cho nhân loại trong thời toàn cầu hóa.
ĐĐTKPĐ
nối kết được với các Đấng Thiêng liêng cao trọng chính là một phát minh. Phát
minh nầy là gốc cho những phát minh sau đó. Thời điểm của phát minh gốc chính
là ngày Trung Thu năm Ất Sửu (1925). Đó là ngày Đức Chí Tôn dạy lập Hội Yến
Diêu Trì Cung tại nhà Đức Cao Thượng Phẩm.
Bởi
vì trong Lễ Hội Yến đó có 03 người mang xác phàm là Ngài Cao Quỳnh Cư, Phạm
Công Tắc và Cao Hoài Sang ngồi dùng yến tiệc với Phật Mẫu và Cửu Vị
Tiên Nương và bà Nguyễn Hương Hiếu là người tiếp đãi.
Nghĩa
là con người đối diện với thiêng liêng để học hỏi điều hay lẽ phải. Từ đó đem
truyền bá cho nhân loại, nhân loại có quyền tin và có quyền không tin. Người
tin lại chia ra làm nhiều diện. Có diện tuyệt đối tin tưởng, sùng kính hết mức, thể
hiện bằng cách cúng kính, cầu nguyện hằng ngày
để tu thân. Có diện tìm hiểu để thực thi các bài bản trong tôn giáo ra xã hội (hành đạo).
Khai
ĐĐTKPĐ thầy dùng tiếng An Nam làm chánh tự. Cho nên chữ yến còn có nghĩa là ánh
sáng trong màn đêm. Như vậy Hội yến còn một nghĩa nữa là hội tụ các sáng kiến,
các phát minh.
Diêu
Trì Cung do Phật Mẫu làm chủ. Phật Mẫu chủ về việc nuôi dưỡng muôn loài, từ vật
chất đến tinh thần. Cửu Vị Tiên Nương có trách nhiệm đối với Cửu viện của
ĐĐTKPĐ, mỗi vị Tiên Nương phụ trách một viện (xem Con Đường Thiêng Liêng Hằng
Sống của Đức Hộ Pháp, bài 01). Phật Mẫu vâng lịnh Đức Chí Tôn đến độ rỗi cho
con cái của Ngài, muốn độ rỗi phải có một nền văn minh mới phù hợp với tài
nguyên và môi trường sống trong thời toàn cầu hóa. Phù điêu thờ Phật Mẫu nơi
Báo Ân Từ có Ngài Đông Phương Sóc đứng cung kính nâng một cái dĩa. Trong dĩa có
04 quả đào tiên do Đức Phật Mẫu ban cho nhân loại. Tại sao là bốn quả mà không
phải là một con số nào khác?
Bởi
vì 04 quả đào tượng trưng cho 04 nền văn minh: Văn minh nông nghiệp, văn minh
công nghiệp, văn minh điện, điện tử và thời tam kỳ là văn minh tâm linh (thiên
nhân hiệp nhứt; Trời, Người đồng trị).
Phù
Điêu thờ Đức Phật Mẫu tại Báo Ân Từ (Tây Ninh). Một: Ngài Đông Phương Sóc nhận
04 quả đào tiên do Phật Mẫu ban cho. Hai: Hớn Vũ Đế cung nghinh Đức Phật Mẫu và
Cửu Vị Tiên Nương.
Đặc
trưng của văn minh tâm linh là con người kết hợp với các Đấng cao trọng để thực
hiện. Các Đấng không có xác phàm nên không thể thực hiện được những công việc
cần có xác phàm. Con người có xác phàm, có trí óc, có lương tâm nhưng bị thâm
nhiễm bụi trần nên thường là không đủ sáng suốt. Do vậy phải nhờ sự giúp đở của
thiêng liêng. Hơn nữa mỗi xác phàm đều hiện hữu một thời gian rồi phải bỏ. Khi
bỏ xác phàm thì cái trí khôn vẫn còn tồn tại nhưng không có môi trường để vận
dụng. Đức Thích Ca, Đức Chúa Jésus hành đạo một thời gian rồi phải bỏ xác phàm.
Khi đã bỏ xác phàm thì môn đệ tiếp tục, nhưng không thiết lập được cách liên
lạc với Phật, với Chúa nên các Đấng khó có thể tiếp tục hướng huấn môn sinh.
Nền văn minh tâm linh khi khởi đầu đã có sự nối kết với các Đấng thiêng liêng
và trong suốt chu kỳ đều có các Đấng phò trợ qua cơ bút tại Cung Đạo Tòa Thánh
Tây Ninh.
Nền
văn minh nào cũng phải có những phát minh, cho nên văn minh Cao Đài Giáo cũng
trong lẽ cố nhiên ấy. Ngày Hội Yến Diêu Trì Cung năm 1925 là ngày khởi đầu cho
một nền văn minh mới thì ngày Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung hằng năm chính là ngày
trình chánh phát minh của cá nhân hay tập thể ra xã hội. Cá nhân hay tập thể có
thể là người trong tôn giáo Cao Đài, tôn giáo bạn hay người không thuộc
một tôn giáo nào, không phân biệt một đảng phái nào, một chủ nghĩa nào, miễn là
họ chủ động hợp tác với đạo để trình chánh.
3.2.7/- Tại sao không phân biệt?
Bởi
vì Phật Mẫu là mẹ chung của cả nhân loại, tình thương của Mẹ là đại bi, đại ái,
cho nên trước mắt của Phật Mẫu chúng sanh đều bình đẳng như nhau. Tình thương
của mẹ là vô điều kiện. Chứng cứ rõ ràng nhất là khi cúng Phật Mẫu thì người
đạo đều mặc đạo phục như nhau, không được mặc thiên phục. Còn người ngoài tôn
giáo muốn cúng cũng tự nhiên như về nhà của người mẹ thân yêu. Quan sát cảnh
cúng Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung hằng năm ta thấy người mặc đạo phục, người mặc
thường phục, ngồi cạnh nhau trên sân rồi tới ngoài đường hướng về Phật Mẫu, mặc
cho mưa Thu thì cảm nhận được tình ý thân thiện, nồng nàn của chúng sanh đối
với Mẹ thiêng liêng.
Như
vậy bất cứ ai có công trình nghiên cứu, sáng kiến hay phát minh và muốn trình
chánh vào ngày 15. 08. Âm Lịch (là ngày Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung) thì liên hệ
với hệ thống hành chánh tôn giáo nơi địa phương để Hội Thánh Anh biết và sắp
xếp cho việc trưng bày. Đạo Cao Đài không có quyền từ chối nếu phát minh đó
đúng với chủ trương hòa bình, dân chủ, tự do (đề thi nêu trên).
Hội
Thánh lập phái đoàn tiếp nhận các công trình, rồi giao về cho Cửu
viện nghiên cứu xem xét đã hoàn chỉnh chưa. Khi đã xong thì giao qua cho Hàn
Lâm Viện xem lại trước khi giao qua Hội Thánh công bố.
(Hội Thánh minh giao
sách Trường Xuân. Kinh
Đệ Tam Cửu).
Vậy
Ngày công bố là ngày nào? Theo chúng tôi dự đoán là ngày Vía Đức Chí Tôn hằng
năm.
3.2.8/- Công bố rồi làm gì?
Thiễn
nghĩ công bố xong xuôi thì đem ra trưng bày tại Long Hoa Thị. Nghĩa là trí tuệ
tinh anh (Long) và đẹp đẽ (Hoa) được thể hiện nơi thập mục sở thị
(Thị).
Khi
đã trưng bày thì bất cứ ai cũng có đủ quyền đến quan sát và thấy thích hợp thì
liên hệ với Hội thánh để được hướng dẫn, giúp đở cách thức vận dụng công trình
đó để xây dựng đoàn thể, quê hương mình. Đúng với phương châm: Cái đẹp của quê hương anh do chính anh xây
dựng mà có.
Nghĩa
là từ Long Hoa Thị sẽ cung cấp điều kiện ắt có và đủ để nhân loại xây dựng cuộc
sống ấm no hạnh phúc. Cuộc sống bấp bênh chưa có nồi mơi đã lo buổi tối sẽ lùi
xa. Chính cái nghèo nàn về tinh thần đem đến sự nghèo khó về vật chất. Long Hoa
Thị là tài nguyên, là môi trường để nâng người ít hiểu biết thành người có hiểu
biết, nâng người nghèo khó về vật chất có cuộc sống ấm no và đi đến sung túc.
Đó là làm cho đời sống thay đổi. Đó là chuyển thế.
Ý
nghĩa chuyển thế như vậy Hội Thánh hoàn toàn chủ động chứ không phải chờ ai làm
dùm hay ban phát.
3.2.9/- Hội thánh có lấy tiền với các phát minh nầy không?
Theo
chúng tôi nghĩ là không (còn sự việc thế nào là do 03 Hội lập quyền quyết
định). Bởi vì Trời tạo lập ra môi trường sống cho vạn loại và Trời không hề bán
thứ gì do Trời tạo ra. Vậy thì đạo của Trời phải giống Trời. Không thể ra giá
muốn xài phát minh nầy phải trả bao nhiêu tiền. Nếu Hội Thánh ra giá như thế
thì không bao giờ chuyển thế được. Nó sẽ rơi vào cái vòng luẫn quẫn, do nghèo
không có tiền trả cho phát minh, và do không dùng được phát minh nên tiếp tục
nghèo. Không chuyển thế được thì nhiệm vụ của Đạo Cao Đài chưa hoàn thành. Chưa
tạo điều kiện để Lãng tử cô nhi tảo
hồi hương lý. Can qua vĩnh tức giáp mã hưu chinh (U Minh Chung) thì
chưa thể thực hiện được Cơ chuyển thế.
3.2.10/- Vậy tiền ở đâu để trả cho những nhà phát minh?
Xin
thưa rằng Cơ quan Phước Thiện sẽ là nơi cung cấp tài chánh cho Hội Thánh sử
dụng trong công cuộc an bang tế thế. Cho nên khi lập thành cơ quan Phước Thiện
Đức Hộ Pháp dạy rằng QUỐC ĐẠO đã nên hình. Cơ quan Phước Thiện chính là bộ máy
kinh thương, là nguồn máu luân lưu để nuôi sống Hành Chánh.
Trên
thực tế những người có sáng kiến phụng sự nhân loại qua cánh cửa hòa bình, dân
chủ, tự do là họ đã không xem nặng vấn đề vật chất,
mà cần môi trường làm việc và hiệu quả công việc với xã hội. Cái vui của họ là
sống đời có hữu ích, thấy nhiều người được thăng tiến cả
về vật chất lẫn tinh thần.
Cho nên lo cho môi trường làm việc và cuộc sống của các
nhà phát minh
không phải là điều gì quá tầm tay của Hội Thánh.
Kết luận:
Đạo
Cao Đài lấy Gươm trí huệ từ Nghinh Phong Đài để lập ra Lộ Trung Tim là một thể
pháp. Đạo bố trí Gươm trí huệ qua Báo Quốc Từ rồi đến Long Hoa Thị thể hiện
rằng: vấn đề trung tâm của người Đạo Cao Đài là phải học tập và rèn luyện cho
có trí tuệ để thực thi tam lập. Thực thi phải có trọng tâm: xây dựng cho quê
hương mình có hòa bình, dân chủ, tự do (Báo Quốc Từ). Qua đó đóng góp những
sáng kiến, phát minh, công thức qua hai phương hướng: tu thân và xây dựng xã
hội theo thể pháp tại Bao Lơn Đài.
Những
giáo án, sử chương, công thức khi đã hoàn chỉnh sẽ đem trưng bày tại Long Hoa
Thị. Cá nhân hay tập thể đều có thể dùng đó để nâng cao cuộc sống vật chất và
tinh thần cho bản thân, gia đình, cộng đồng rộng lớn hơn. Làm cho cuộc sống
thay đổi tốt hơn, có ý nghĩa hơn; làm cho người nghèo khó có cuộc sống ấm no,
người ít học có thêm hiểu biết, làm cho con người biết sống trong lẽ đạo và
biết quí trọng nhau qua đạo đức; đó là chuyển thế.
Long
Hoa Thị là nơi trưng bày các công thức để xã hội thị chứng, cho nên đó là chợ
chuyển thế. Trí huệ phải được kiểm chứng, cầu chứng qua việc xây dựng con người,
quê hương và chuyển thế. Điều nầy phù hợp với nội dung chấn hưng mối đạo là kế bảo tồn quốc hồn quốc túy cũng lại là phương
châm thoát tục.
Ngày 06. 12. 1938 Đức Hộ Pháp dạy
rằng: Dầu ta có cúng lạy cho
đến dập đầu bể trán mà không phụng sự cho Vạn Linh thì cũng không ích lợi gì
cho Trời Phật (hết trích).
Kết
hợp thể pháp với lời dạy Đức Hộ Pháp sẽ đi đến nhận định:
Phương pháp tu hành của Tam
Kỳ Phổ Độ là phải sửa mình cho có hạnh đức, có trí huệ và làm cho đời tệ hóa ra
hay. Muốn đạt được mục đích ấy, muốn làm bài thi cho chính bản thân mình phải
ngược xuôi trong giang trường hỗn độn, xông pha nơi khổ hải, binh vực người bị
cường quyền áp bức, đem công lý đánh đổ cường quyền. Hậu tấn không hiểu được
điều đó, không làm được điều đó thì nền triết lý của Đức Chí Tôn, công trình
của các tiền bối khai đạo trở thành việc cấy lúa trên đá./.
I/- Về con người.
1/.
Sinh ý yếu cần khẩn:
Kinh
doanh cần phải cần cù siêng năng, công việc phải luôn luôn khẩn trương thực
hiện mới đạt hiệu quả cao.
2/.
Dụng độ yếu tiết kiệm:
Chi
dụng hàng ngày và mọi phí tổn phải chú ý tiết kiệm và có lợi nhất. Người
làm thương mại dịch vụ chủ yếu lấy công làm lời nên việc tích tiểu thành đại,
góp gió thành bão bao giờ cũng ưu tiên.
3/.
Tiếp nạp yếu khiêm hoà:
Khi
giao tiếp, thương lượng cần phải khiêm tốn, cung kính, hoà nhà, thể diện và uy
tín của mình hết sức quan trọng. Tránh lệ thuộc đua đòi
hoặc mang tiếng là phô trương thái quá, thiếu khiêm tốn và hách dịch, quan
liêu, thất lễ...
II/. Về phương thức kinh doanh.
4/. Mãi
mại yếu tuỳ thời:
Kinh
doanh, mua
bán phải tùy theo thời điểm, nắm bắt, dự đoán nhu cầu, thị
trường không mua hoặc bán theo đuôi
thiên hạ. Sai
một ly đi một dặm...
5/.
Vượng khiếm yếu thức nhân:
Phải
biết rõ nhân viên và đối tác giàu hay nghèo, tránh tình trạng thâm lạm công
quỹ, dây dưa công nợ, gây ra nợ khó đòi hoặc thất thoát do hoàn cảnh túng bấn
họ làm liều.
6/.
Trương mục yếu kê tra:
Tài
khoản, sổ sách, hồ sơ khách hàng, hàng hoá trong kho, hoặc nguồn nguyên liệu,
vật liệu phải thường xuyên kê khai, công khai tài chính và số liệu, đảm bảo tra
xét chu đáo rõ ràng nhằm vừa quản lý tốt, vừa dự báo tình hình chính xác, vừa
chống thất thoát, vừa chuẩn bị kịp thời cho các kế hoạch làm việc sắp
tới...Tránh bê bối sổ sách, thâm hụt ngân quỹ, thất thoát tài sản, hư hao lãng
phí...
7/. Ưu
liệt yếu phân biệt:
Phàm
làm chủ, làm lãnh đạo phải có cặp mắt xét đoán, biết nhìn người và phân biệt
thị phi, trắng đen. Phân biệt và xét đoán kẻ tốt người xấu để tuyển dụng, tổ
chức công việc và phân công. Phải biết nhìn người để
lựa chọn đối tác đàng hoàng nghiêm chỉnh, tránh chọn nhầm đối tác xấu có thể
gây tác hại lớn khi giao dịch.
8/.
Dụng nhân yếu phương chính:
Dùng
người tâm phúc hoặc thuộc cấp trong tổ chức phải là những người phương cương
chính trực, có
tài đức, ngay thẳng để vừa giúp mình giữ gìn kỹ luật, giúp làm gương cho người
xung quanh tránh tiêu cực, bè lũ, phe phái gây mất đoàn kết, gây thiệt hại
trong quản lý điều hành.
9/.
Xuất nhập yếu cẩn thận:
Hàng
hoá, sổ sách, tiền bạc thu chi hàng ngày phải cẩn thận, ghi chép, lưu trữ phải
chính xác. Công việc xuất nhập phải được đối chiếu thường xuyên, chính xác tránh
gây sai lệch, thất thoát hoặc tạo điều kịện cho kẻ xấu lợi dụng.
10/. Hoá
sắc yếu diện nghiệm:
Hàng
hoá muốn mua, nhập kho phải được xem xét cụ thể. Phải đạt tiêu chuẩn tra xét,
kiểm soát, kiểm nghiệm nhằm tránh mua trâu vẽ bóng hoặc mua hàng kém chất lượng.
11/. Kỳ
hạn yếu ước định:
Làm
ăn phải coi trọng chữ tín, đúng kỳ hạn tránh tình trạng bị phạt hay bồi thường
vì trễ hẹn.
12/. Tồn
lưu yếu kiểm soát:
Hàng
hoá trong kho bãi phải đươc kiểm soát, bảo vệ che đậy, tránh thất thoát, mất
trộm, hư hỏng vì mưa nắng, thời tiết nóng ẩm, lũ lụt...
III/. Về xã hội:
13/. Nha
môn yếu thông giám:
Làm
ăn bất kỳ nơi đâu phải hiểu biết luật pháp, thuế suất, đặt quan hệ quen biết
với cơ quan công quyền nhằm tạo thuận lợi cho việc kê khai giấy tờ, hàng hoá.
Việc thông qua cơ quan công quyền để họ giám sát vịêc kinh doanh là một bước đi
khôn ngoan để có thể thăm dò tình hình, tin tức chính trị xã hội nhằm có đối
sách thích hợp. Mặt khác, mối quen biết có thể tạo tiền đề cho những lúc cần
giải cứu về rắc rối luật pháp trong kinh doanh hoặc tạo vỏ bọc bảo vệ an toàn
cho chính doanh nghiệp.
14/-
Thịnh vượng yếu tích đức:
Càng
phát đạt thì phải càng tích đức hành thiện, vừa làm quảng cáo cho sản phẩm vừa
tạo quan hệ tốt đẹp với cộng đồng, nhằm lôi kéo thiện cảm của cộng đồng để họ
ủng hộ thương hiệu và sản phẩm.
15/.
Dụng vốn yếu tương hỗ:
Buôn
có bạn, bán có phường, Đối với đối tác kinh doanh cùng ngành nghề nên có sự hợp
tác mật thiết, nên giúp đỡ lẫn nhau về vốn tài chính, để dễ mượn thị trường
hoặc bạn hàng. Hoặc những khi hàng hoá, thị trường bị thiếu hụt, có thể hỗ trợ
lẫn nhau. Mặt khách thương hội có thể tạo điều kiện xúc tiến thương mại ở những
nơi xa lạ.
16.
Xử thế yếu độ lượng:
Đối
xử thuộc hạ phải độ lượng, làm công tác tư tưởng và động viên thường xuyên để
họ trung thành và cống hiến sức lực và tài trí. Những khi thuộc cấp phạm lỗi
thường khen trước chê sau, xử sự nhẹ nhàng thấu tình đạt lý để họ tâm phục khẩu
phục. Giữ vững đội ngũ nhân sự ổn định dưới quyền chính là giữ vững sự phát
triển bền lâu cho chính cơ ngơi của mình.
(Còn tiếp)
(Còn tiếp)