Di ngôn Đức Hộ Pháp...
6379. Trần Trung Đạo: Mao và chiến dịch tiến chiếm Hoàng Sa 1974
Posted by adminbasam on 04/01/2016
Trần Trung Đạo 3-1-2016
Luồng gió ngoại giao đã đổi chiều khi Tổng
Thống Mỹ Richard Nixon bắt tay với Mao ngày 21 tháng Hai 1972. Chuyến viếng
thăm Trung Cộng của Nixon nhắm vào 3 mục đích:
(1) hướng tới một giải pháp hòa
bình tại Đài Loan, (2) tìm một giải pháp hòa bình cho chiến tranh Việt Nam qua
đàm phán và (3) giảm ảnh hưởng của Liên Xô. Như lịch sử đã chứng minh, ít nhất
hai trong số ba mục đích của TT Richard Nixon đều không đạt được. Chỉ riêng vấn
đề Việt Nam, chiến tranh không chấm dứt bằng giải pháp hòa bình mà bằng máu cho
đến ngày 30-4-1975.
Sự gần gũi giữa Mỹ và Trung Cộng đã đẩy
Viêt Nam nghiêng xa hơn về phía Liên Xô. Bắc Việt cho rằng Trung Cộng đã phản
bội đảng CSVN khi đặt mối quan hệ giữa Trung Cộng và Mỹ lên trên quyền lợi của
Bắc Việt. Xuân Thủy, trưởng phái đoàn đàm phán của Bắc Việt, tố cáo Mỹ “âm mưu
chia rẽ khối xã hội chủ nghĩa”. Khoảng cách giữa Bắc Việt và Trung Cộng xa cách
dần mặc dù Trung Cộng tuyên bố vẫn tiếp tục “ủng hộ cuộc chiến chống Mỹ đến mục
đích cuối cùng”.
Chủ trương chiếm Hoàng Sa trước khi chiến
tranh chấm dứt
Sau khi hiệp định Paris được ký kết, quan
hệ giữa CS Bắc Việt và Trung Cộng trở nên tệ hại hơn. Học bài học tranh chấp
biên giới với Liên Xô phía Bắc và phát xuất từ mối lo sợ bị bao vây ở phía Nam,
Mao nghĩ đến việc phải tiến chiếm các đảo ngoài Biển Đông trước khi CS Bắc Việt
chiếm toàn bộ Việt Nam và rơi hoàn toàn vào quỹ đạo của Liên Xô, lúc đó là kẻ
thù số một của Trung Cộng. Mao càng lo lắng hơn khi thấy chính sách của Mỹ ngày
càng trở lại với chủ trương tự cô lập (American Isolationism) trước đây trong
lúc Liên Xô ngày càng mở rộng và có khả năng lấn chiếm sang Châu Á.
Ngoài lý do lãnh thổ, việc tiến chiếm Hoàng
Sa là một bước thay đổi quan trọng trong chính sách đối ngoại của Mao, chuyển
từ giai đoạn đấu tranh cách mạng dựa trên quan điểm Marx-Lenin-Mao sang thực tế
quốc tế. Để thực thi các chính sách này, Mao cần một lãnh đạo có đầu óc thực
dụng, và người đó không ai khác hơn là Đặng Tiểu Bình. Ngày 22 tháng 12, 1973,
Mao phục hồi họ Đặng.
Mặc dù già nua, bệnh hoạn, chủ trương “phục
hồi các lãnh thổ Trung Quốc bị mất” là chủ trương của Mao.
Đặng Tiểu Bình đóng vai trò tích cực nhưng
y chỉ mới được phục hồi chưa đầy một tháng sau sáu năm bị hạ bệ. Chu Ân Lai chủ
tọa nhiều phiên họp của Bộ Chính Trị nhưng trong thời gian đó họ Chu đang bị
kết án hữu khuynh. Diệp Kiếm Anh được giao trách nhiệm chủ tịch của ủy ban
nhưng họ Diệp đã 77 tuổi và thuộc thành phần tướng lãnh thời Vạn Lý Trường
Chinh.
Tháng Giêng 1974, Mao quyết định tiến chiếm
Hoàng Sa trước. Kế hoạch chiếm Hoàng Sa được nghiên cứu rất kỹ lưỡng và chi
tiết, không chỉ về mặt quân sự mà cả chuẩn bị dư luận quốc tế để biện hộ cho
hành động xâm lược Việt Nam.
Về mặt đối ngoại. Để có lý do tấn công
Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa, bộ máy tuyên truyền Trung Cộng tố cáo Việt Nam
Cộng Hòa vào tháng 11, 1973 đã bắt giữ tàu đánh cá Trung Cộng và hành động đó
được xem như vi phạm chủ quyền Trung Cộng, buộc Trung Cộng phải “phản công tự
vệ”. Ngày 11 tháng Giêng 1974, Bộ Ngoại Giao Trung Cộng ra thông báo xác định
chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và vùng biển chung quanh quần đảo này: “Các
quần đảo Nam Sa, Tây Sa, Trung Sa đều là một phần của lãnh thổ Trung Quốc. Nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có chủ quyền không thể tranh cãi đối với những hòn
đảo này”.
Về mặt tổ chức. Một ủy ban đặc nhiệm của
các lãnh đạo cao cấp nhất trong đảng và nhà nước Trung Cộng được thành lập để
phát thảo kế hoạch tiến chiếm Hoàng Sa được thành lập trong phiên họp của Bộ
Chính Trị do Chu Ân Lai chủ tọa. Năm Ủy viên Bộ Chính Trị trong ủy ban gồm
Thống Chế Diệp Kiếm Anh (Ye Jianying), Phó Chủ Tịch Trung Ương Đảng Vương Hồng
Văn (Wang Hongwen), Ủy Viên Thường Trực Bộ Chính Trị phụ trách tuyên truyền
Trương Xuân Kiều (Zhang Chunqiao), Phó Thủ Tướng Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping)
và Đại Tướng Tư Lệnh Quân Khu Bắc Kinh Trần Tích Liên (Chen Xilian). Chu Ân Lai
giao cho Diệp Kiếm Anh trách nhiệm điều hành ủy ban.
Mao phê chuẩn thành phần ủy ban.
Một phiên họp mở rộng sau đó, ngoài Chu Ân
Lai và năm thành viên còn có sự tham dự của Đô Đốc Tô Chấn Hoa (Su Zhenhua),
Chính Ủy Thứ Nhất của Hải Quân Trung Cộng. Tô Chấn Hoa là một trong những tướng
hải quân có quan hệ mật thiết với Đặng Tiểu Bình và cũng là người chủ trương
bành trướng Biển Đông.
Với một thành phần lãnh đạo chiến dịch cao
cấp và đầy đủ ban bộ như vậy chứng tỏ việc tiến chiếm Hoàng Sa không chỉ là một
tranh chấp biển đảo bình thường mà còn mang một ý nghĩa chiến lược hàng đầu và
phải chiếm Hoàng Sa bằng mọi giá.
Về mặt quân sự. Đây là lần đầu tiên hải
quân Trung Cộng thực hiện một cuộc viễn chinh hải quân chống lại nước ngoài và
lực lượng tham chiến được chọn lựa kết sức cẩn thận. Bốn ngày sau khi Trung
Cộng tuyên bố chủ quyền, 11 chiến hạm của hải quân Trung Cộng và 600 lính được
lệnh tiến vào vị trí. Các phi đoàn chiến đấu cơ đặt trên đảo Hải Nam được lệnh
sẵn sàng tham chiến. Đặng Tiểu Bình trong thời gian này vừa được giao phó chức
vụ Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và thay mặt ủy ban
điều hợp các họat động của Quân Ủy Trung Ương cũng như các vấn đề quân sự khẩn
cấp. Bộ Tư lệnh Hạm Đội Nam Hải dưới quyền Tư lệnh Zhang Yuanpei trực tiếp chịu
trách nhiệm tiến chiếm Hoàng Sa.
Kế hoạch được đệ trình lên Mao và Mao chấp
thuận.
Ngày 19 tháng Giêng 1974, Hải Quân Trung
Cộng tiến chiếm Hoàng Sa. Sau trận hải chiến khoảng một giờ, Trung Cộng chiếm
Hoàng Sa. Phía Trung Cộng công bố họ chỉ có 18 binh sĩ thiệt mạng và không có
tàu nào chìm mặc dù báo chí Tây Phương cho rằng ít nhất một chiến hạm của hải
quân Trung Cộng đã bị bắn chìm. Người viết không trình bày chi tiết ở đây vì
diễn biến của hải chiến Hoàng Sa đã được rất nhiều tài liệu và nghiên cứu Việt
Nam cũng như quốc tế công bố. Rất nhiều thông tin quý giá đang được lưu trữ tại
website hqvnch.org.
Thái độ bàng quan của Mỹ
Chính phủ Mỹ ra lệnh Đệ Thất Hạm Đội không
được can thiệp vì đã đồng ý ngầm với Trung Cộng sẽ giữ thái độ bàng quan trong
tranh chấp Hoàng Sa, và các chiến hạm và phi cơ của Mỹ sẽ không xâm phạm giới
hạn 12 hải lý của quần đảo Hoàng Sa. Cam kết này của Mỹ đã được Ngoại Trưởng
Trung Cộng Hoàng Hoa nhắc lại trong diễn văn đọc trước Liên Hiệp Quốc ngày 12
tháng Tư 1972 với sự hiện diện của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger.
Bản tin của báo Time ngày 4 tháng Hai 1974
cũng xác định chính sách của Mỹ trong hải chiến Hoàng Sa là “tuyệt đối khoanh
tay”.
Ngoài ra, trước đó vào mùa xuân 1972, Trung
Cộng đã thử ý định Mỹ bằng cách gởi công hàm phản đối khi một tàu chiến Mỹ vi
phạm khu vực 12 hải lý của quần đảo Hoàng Sa. Mỹ đáp ứng bằng việc chỉ thị hải
quân Mỹ sẽ không hải hành trong khu vực 12 hải lý do Trung Cộng quy định. Thái
độ đó của Mỹ là dấu hiệu cho Trung Cộng biết Mỹ sẽ không can dự vào tranh chấp
Hoàng Sa.
Tại sao Trung Cộng chọn ngày 19 tháng Giêng
1974?
Ngày 19 tháng Giêng 1974 là ngày kỷ niệm 24
năm Trung Cộng công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Đây không phải là sự
kiện trùng hợp ngẫu nhiên mà là một cái tát chính trị vào mặt đảng CSVN.
Tối ngày 20 tháng Giêng, Chu Ân Lai triệu
tập phiên họp để tổng kết thành quả chiến dịch, và ngay sau phiên họp y đã
trình chiến thắng lên Mao. Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị sáp nhập vào địa
phận tỉnh Quảng Đông. Các báo đảng và nhà nước Trung Cộng sau đó đã tung hô
“chiến thắng vĩ đại của Mao Chủ tịch trên biển”.
Về phía CSVN, ngoài tuyên bố ba điểm chung
chung giống như người ngoài cuộc của cái gọi là “Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa
Miền Nam Việt Nam” ngày 26 tháng Tư 1974, các lãnh đạo CS Bắc Việt không có một
lời phản đối nào trước hành động xâm lăng của Trung Cộng. Khi đất nước bị xâm
lăng, những kẻ chọn thái độ im lặng cũng chẳng khác gì chọn đứng về phía xâm
lăng.
Bài học lịch sử từ hải chiến Hoàng Sa
– Đừng trông
cậy vào ngoại viện: Trong tổng kết mới
nhất The U.S. China Military Scorecard 1996-2017 của RAND Corporation, tuy
Trung Cộng đạt nhiều tiến bộ trong hơn 30 năm hiện đại hóa, kỹ thuật chiến
tranh của Mỹ vẫn còn dẫn trước rất xa. Ngay cả trong vũ khí nguyên tử, tỉ lệ
giữa Mỹ so với Trung Cộng là 13 trên 1. Nghĩa là, dù bắn trước, Trung Cộng vẫn
sẽ phải bị Mỹ đánh trả bằng bom nguyên tử nhiều lần.
Tuy nhiên, sự
vượt trội kỹ thuật chiến tranh không có nghĩa Mỹ sẽ can thiệp vào xung đột Biển
Đông nếu Việt Nam bị Trung Cộng tấn công lần nữa. Vì các lý do kinh tế, Mỹ có
thể làm ngơ như họ đã từng làm ngơ vì lý do chính trị trong hải chiến Hoàng Sa
1974. Bài học của hai cuộc thế chiến cho thấy Mỹ chỉ tham chiến khi
quyền lợi của họ bị va chạm trực tiếp và phải có lợi về đường dài. Không nên trách ai cả. Một con người hay một quốc gia
cũng thế, phải tự đứng lên bằng đôi chân của chính mình trước khi trông cậy vào
sự giúp đỡ của người khác.
– Dân chủ hóa hay mất nước: Tham vọng bành
trướng trên Biển Đông của Trung Cộng quá rõ ràng và lộ liễu. Mặc dù có các áp
lực quốc tế, không có dấu hiệu gì cho thấy Trung Cộng sẽ từ bỏ tham vọng chiếm
đoạt Biển Đông. Chủ trương gặm nhấm Biển Đông của Trung Cộng đang được tiến
hành từng bước và chúng hy vọng đến mức độ nào đó sẽ đặt Mỹ và cả thế giới vào
thế đã rồi. Trung Cộng đã nuốt vô thì chỉ có cách mổ bụng chúng mới lấy ra
được.
Để tránh đại họa mất nước,
chọn lựa duy nhất của Việt Nam hiện nay là dân chủ hóa và phải dân chủ hóa gấp.
Dân chủ là điều kiện tiền đề trong chính sách đối ngoại nhằm tạo sự tin cậy nơi
các nước dân chủ Tây Phương, nhưng quan trọng nhất là nền tảng của đoàn kết dân
tộc và thăng tiến đất nước. Một dân tộc chia rẽ không thắng được Trung Cộng. Dân
chủ là đôi cánh giúp đất nước có thể cất cao lên cùng thời đại. Đó không phải
là lý thuyết mà là thực tế chính trị đang được hầu hết các quốc gia áp dụng.
Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất trong tiến trình dân chủ hóa là tháo gở
cho được cơ chế chính trị xã hội độc tài CS hiện nay.
– Chủ động chiến lược hóa vị trí quốc gia
để khỏi bị “Phần Lan Hóa” (Finlandization): Trong
thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Liên Xô cho phép Phần Lan được duy trì cơ chế dân chủ
trong khi khống chế mọi chính sách đối nội và đối ngoại đi ngược với quyền lợi
của Liên Xô.
Phần Lan không có chọn lựa nào khác vì không nằm trong vị trí chiến lược.
Khác với trường hợp Phần Lan, một Việt Nam
dân chủ có khả năng thoát ra khỏi khả năng bị “Phần Lan Hóa”, đưa đất nước vào
vị trí chiến lược quốc tế và chủ động làm cho quốc tế quan tâm.
Chủ trương hiện nay của lãnh đạo CSVN
“không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ
nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa
vào nước này để chống nước kia” là chủ trương tự sát, không đúng về lý thuyết
lẫn thực tế chính trị. Chủ trương này là bản sao chính sách đối ngoại của Trung
Cộng nhưng khác ở điểm Trung Cộng chỉ tuyên bố để tuyên truyền chứ không bao
giờ áp dụng.
Kết luận
Robert D. Kaplan, nhà nghiên cứu chính trị
quốc tế nổi tiếng và đã được tạp chí The Policy hai lần xếp vào danh sách 100
nhà tư duy hàng đầu của thế giới (“Top 100 Global Thinkers”), cho rằng Trung
Cộng có khả năng cao sẽ “Phần Lan Hóa” Việt Nam.
“Phần Lan Hóa” là một loại
chủ nghĩa thực dân trong thời đại toàn cầu. Chủ trương này ít tốn kém vì các
quốc gia bị “Phần Lan Hóa” được phép duy trì độc lập trên danh nghĩa nhưng
chính sách đối ngoại sẽ được soạn thảo tại Bắc Kinh. Trung Quốc làm như
vậy để vừa thúc đẩy nền kinh tế đang tiến rất chậm và đồng thời cũng để giảm áp
lực chống đối từ trong nước qua việc đề cao chủ nghĩa dân tộc. Công thức mà
Trung Cộng đang sử dụng không có gì mới và mô hình phát triển hiện nay của
Trung Cộng cũng không phải là một loại mô hình ngoại lệ (Chinese exceptionism)
như một số lý thuyết gia của đảng CSTQ đang dùng để kết luận Trung Cộng sẽ
không sụp đổ.
Một thành phần có ảnh hưởng
trực tiếp vào sự thay đổi cơ chế chính trị nhưng Robert D. Kaplan không đưa vào
phân tích của ông, đó là nhân dân, tức là thành phần những người dân của một
quốc gia có ý thức cao về quyền hạn và trách nhiệm phải thực thi đối với đất
nước. Trong thực tế cách mạng dân chủ, đóng góp của
nhân dân là yếu tố âm thầm nhưng quyết định, tiềm tàng nhưng vô cùng mạnh mẽ
như đã chứng tỏ tại nhiều quốc gia Đông Âu, Phi Châu, và tại Liên Xô cũ. Tại
Việt Nam, yếu tố nhân dân còn giới hạn, chưa tập trung, thiếu tổ chức nhưng đã
có và đang trên đà phát triển. Những hạt giống đã được gieo xuống. Mỗi người
Việt, mỗi tổ chức, đoàn thể trong điều kiện và phương tiện sẵn có của mình nên
tập trung chăm bón.
Trần Trung Đạo
____
Tham khảo:
– Yang Kuisong (2002). Changes in Mao Zedong’s Attitude
toward the Indochina War, 1949-1973. Woodrow Wilson International
Center for Scholars.
– Bruce A. Elleman and S.C.M. Paine (2011). Naval Power and Expeditionary Warfare: Peripheral Campaigns and New Theatres of Navy Warfare. Taylor and Francis Group.
– Qiang Zhai (2002). China & The Vietnam Wars, 1950-1975. University of North Carolina Press.
– Dr. Stein Tonnesson (2001, July). The Paracels: The “other” South China Sea Dispute, Paper presented at the South China Sea Panel, International Studies Association, Hong Kong Convention.
– Eric Heginbotham (2015). The U.S. China Military Scorecard 1996-2017, RAND Corporation.
– Paracel (Xisha) Islands – 1974, globalsecurity.org.
– David Brown (2014, May 22). Vietnam Faces “Finlandization” from China. Asia Sentinel.
– Larry M. Wortzel, Robin D. S. Higham (1999). Dictionary of Contemporary Chinese Military History. Greenwood Press.
– The World: Storm in the China Sea. Time, Feb. 04, 1974.
– Robert D. Kaplan. The South China Sea is to China what the Greater Caribbean was to the United States, The Globe and Mail, June 19, 2015.
– John W. Garver. Chinas Quest: The History of the Foreign Relations of the Peoples Republic. pp. 324-325. Oxford University Press.
– Lai To Lee (1999). China and the South China Sea Dialogues, pp13-14. Praeger, London.
– Bill Hayton (2014). The South China Sea: The Struggle for Power in Asia, Yale University Press.
– hqvnch.org (Trang sưu tầm tài liệu lịch sử Hải Quân VNCH)
– Bruce A. Elleman and S.C.M. Paine (2011). Naval Power and Expeditionary Warfare: Peripheral Campaigns and New Theatres of Navy Warfare. Taylor and Francis Group.
– Qiang Zhai (2002). China & The Vietnam Wars, 1950-1975. University of North Carolina Press.
– Dr. Stein Tonnesson (2001, July). The Paracels: The “other” South China Sea Dispute, Paper presented at the South China Sea Panel, International Studies Association, Hong Kong Convention.
– Eric Heginbotham (2015). The U.S. China Military Scorecard 1996-2017, RAND Corporation.
– Paracel (Xisha) Islands – 1974, globalsecurity.org.
– David Brown (2014, May 22). Vietnam Faces “Finlandization” from China. Asia Sentinel.
– Larry M. Wortzel, Robin D. S. Higham (1999). Dictionary of Contemporary Chinese Military History. Greenwood Press.
– The World: Storm in the China Sea. Time, Feb. 04, 1974.
– Robert D. Kaplan. The South China Sea is to China what the Greater Caribbean was to the United States, The Globe and Mail, June 19, 2015.
– John W. Garver. Chinas Quest: The History of the Foreign Relations of the Peoples Republic. pp. 324-325. Oxford University Press.
– Lai To Lee (1999). China and the South China Sea Dialogues, pp13-14. Praeger, London.
– Bill Hayton (2014). The South China Sea: The Struggle for Power in Asia, Yale University Press.
– hqvnch.org (Trang sưu tầm tài liệu lịch sử Hải Quân VNCH)