Đồng bằng
Nam Bộ đang lâm nguy?
Ngăn xâm nhập mặn
ĐBSCL, gìn giữ an toàn lương thực của một khu vực hàng năm đã đóng góp 27% GDP,
90% số lượng gạo xuất khẩu và gần 60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
và ổn định cuộc sống và an sinh cho trên 17 triệu người là việc làm bắt buộc
vào lúc này mặc dù đã quá trễ.
Mặn đã đến chân
Không còn là kịch bản
dự đoán nữa, biến đổi khí hậu đã hiện diện thực tế. ĐBSCL đang bị nước mặn xâm
nhập, đất đai bị mặn hóa. Thảm họa này ngày càng gia tăng bởi tác động kép của
biến đổi khí hậu do nước biển dâng cao và do việc tích nước hàng loạt tại các
đập thủy lợi, thủy điện của các quốc gia lân cận ở thượng nguồn, làm giảm cao
độ mực nước hệ thống sông Cửu Long vào mùa khô.
Hệ thống kênh vùng tứ
giác Long Xuyên được xây dựng thời vua Nguyễn với mục đích thoát lũ, ngọt hóa,
lưu thông, chinh phục được những vùng đất nhiễm phèn, nhiễm mặn biến thành
những miệt vườn trù phú. Hệ thống kênh Phụng Hiệp, kênh xáng Cà No được xây
dựng từ thời Pháp thuộc với chức năng ngọt hóa, khẩn hoang vùng đất nhiễm mặn
của Bán đảo Cà Mau thành vùng đất màu mỡ cả trăm năm qua. Giờ đây thì ngược
lại, hệ thống kênh rạch này bị nước biển xâm nhập đang lan tỏa xâm nhập mặn hầu
hết khắp khu vực, đang biến đất đai tại đây thành đất bị thấm mặn.
Các dòng sông Long
An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long đang bị xâm nhập mặn vào nội địa
trên 70 km, và có chiều hướng tăng nhanh. Hiện một số địa phuơng trong vùng
ĐBSCL đã xuất hiện tình trạng thiếu nước ngọt trầm trọng.
Những tháng gần đây
tại ĐBSCL, việc nước mặn tấn công “Chưa từng thấy” làm “Đảo lộn cuộc sống”,
không phải là bất ngờ mà là tất yếu theo dự đoán. Người dân các tỉnh Cần Thơ,
Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang đang phải “Chạy mặn” từng ngày.
Các tiểu vùng nước
ngọt quanh năm bị đảo lộn, bị mặn xâm nhập, đã đe dọa cả trăm ngàn hecta đất
nông nghiệp, nhiều vườn cây ăn trái nằm trên nguy cơ xóa sổ, thủy sản nước ngọt
bị tổn thất lớn. Tất cả nguy hại đang đổ trên đầu người dân nơi đây.
Một bất ngờ khác là
sự vô cảm bao trùm. Cộng đồng mạng không sục sôi như với những sự kiện khác bị
kết luận một cách mơ hồ, võ đoán là có nguy cơ ảnh hưởng môi trường. Trong khi
đó, một sự thật hiển nhiên đang đe dọa cư dân ĐBSCL là vấn đề nhiễm mặn đang
hủy diệt môi trường sống, lại chỉ nhận được sự thờ ơ của nhiều tầng lớp xã hội,
của truyền thông báo chí, không thấy sự lên tiếng đòi hỏi chính phủ về trách
nhiệm, kế hoạch và phương pháp hữu hiệu để giải quyết “thảm họa”, về giá trị
đầu tư phù hợp và hiệu quả cho giải pháp chống xâm nhập mặn - đang là mối đe
dọa hiện hữu đến kinh tế, đến an toàn lương thực và dân sinh khu vực, thậm chí
đe dọa đến số mệnh của cả quốc gia.
Đầu tư và hiệu quả
của việc ứng phó
Nỗ lực của Chính phủ
cùng với sự hỗ trợ quốc tế trong ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam trong
những năm qua, bằng nhiều nguồn vốn viện trợ không hoàn lại từ nhiều quốc gia
trên thế giới, cũng đã đạt được một ít thành công. Ước tính trong 5 năm trở lại
đây Việt Nam đã nhận được khoảng trên 1,3 tỷ USD cho ứng phó với biến đổi khí
hậu.
Quyết định số
1397/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch thủy lợi đồng bằng sông Cửu
Long giai đoạn 2012 - 2050 trong điều kiện biến đổi khí hậu, với tổng kinh phí
dự kiến thực hiện khoảng 171.700 tỷ đồng, chỉ gần bằng 1/3 tổng mức xây dựng
Sân bay Long Thành - Đồng Nai.
Chính phủ đã có thể
có quan điểm, mục tiêu rõ ràng, nhưng giải pháp qui hoạch tổng thể không đồng
bộ, cụ thể, không có chiến lược rõ ràng, thực tế, triển khai hành động manh
mún, nhiều bất cập. Kinh phí dành cho sứ mệnh thì không đủ đáp ứng, chủ yếu
trông chờ vào nguồn vốn ODA và các nguồn vốn viện trợ của nước ngoài, không thể
đem lại kết quả chống xâm nhập mặn triệt để cho ĐBSCL.
Thực tế “mặn nạn”
nhãn tiền đó là do các nguyên nhân trên. Nhìn lại vài dự án được đầu tư, sứ
mệnh ngăn mặn của các công trình thủy lợi bỗng dưng biến thành “thủy hại”: như
cống đập Ba Lai và Âu thuyền Tắc Thủ Cà Mau đem lại kết quả “ngoài mặn và sâu
bên trong cũng mặn”. Bởi hai con đập đâu ngăn được các khúc sông rồng thông với
nhau và đã nhiễm mặn cả trăm cây số vào nội địa.
Thực trạng thảm họa
tràn mặn, thấm mặn trên diện rộng đang diễn ra ở ĐBSCL cho thấy hiệu quả của
giải pháp chống xâm nhập mặn của những năm gần đây hầu như thất bại, giống như
sự bế tắc của công cuộc chống ngập ở Thành phố Hồ Chí Minh.
'Thức tỉnh'
Việc nâng cao độ mực
nước an toàn tối thiểu để ngăn xâm nhập mặn cả về nước mặt và thấm mặn toàn
vùng, trữ được lượng nước ngọt lớn, sử dụng được phần lớn lượng nước ngọt do
thượng nguồn đổ về, tạo dòng chảy một chiều của các cửa sông hệ thống sông Cửu
Long đồng loạt, biến ĐBSCL thành đồng bằng vùng nước ngọt ở phía trên và vùng
mặn ở phía dưới gần biển. Đó là biện pháp giải quyết phù hợp và triệt để vấn đề
xâm nhập mặn đồng thời cải thiện rất tốt việc thoát lũ cho mùa lũ.
Các chuyên gia trong
và ngoài nước có nhiều tâm huyết đã đề cập đến giải pháp kiểu đập ngầm
(underwater sill) như trên sông Mississippi của Hoa Kỳ. Đó là một công trình
ngăn mặn hữu hiệu và có tính địa lý tương đồng với hệ thống sông Cửu Long. Phải
chăng chính phủ cần lắng nghe để tìm một hướng đi, một giải pháp đúng, có hiệu
quả triệt để, phù hợp và đã muộn trước thảm họa gần kề?
Phải tỉnh táo, sáng
suốt, dành nhiều trí lực, nguồn tài chính cho công cuộc chống biến đổi khí hậu.
Đừng trông chờ sự cứu rỗi tình trạng xâm nhập mặn khu vực ĐBSCL vào lượng mưa
thượng nguồn sông Mê Kông. Đừng để bức tranh sự sống trù phú của ĐBSCL đã bị
hủy diệt một ngày nào đó sẽ được trưng bày giữa Bảo tàng Lịch sử Quốc gia có
giá đầu tư lên đến 11.277 tỷ VND, như là mặc niệm cho chính sự thờ ơ và chủ
quan của chúng ta!
Hãy dành nguồn vốn
đang hạn hẹp bởi nợ công chồng chất để chống chọi nguy cơ hủy diệt đất nước hơn
là đầu tư những dự án có những hiệu quả mơ mộng hay ý tưởng viển vông. Làm được
sứ mệnh cứu Đồng bằng Nam Bộ không những không hổ thẹn với tiền nhân mà tránh được
lỗi lớn với con cháu ngày sau.
Bài viết thể hiện văn phong và
quan điểm của tác giả.