Tự do tôn giáo và Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống Nhất
Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-08-23
2015-08-23
Tự
do tôn giáo tại Việt Nam, đặc biệt đối với những giáo hội không được nhà cầm
quyền Hà Nội công nhận như Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, là vấn đề
được nhiều quốc gia tự do cũng như các tổ chức nhân quyền quốc tế quan tâm và
gây áp lực.
Hòa
thượng Thích Quảng Ba, phó Hội chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất Hải
ngoại tại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan, đồng thời là phó chủ tịch Tổng liên hội
Phật giáo Thế giới dành cho biên tập viên Gia Minh cuộc nói chuyện về vấn đề
đó.
Hòa thượng Thích Quảng Ba, phó Hội chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất Hải ngoại tại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan, đồng thời là phó chủ tịch Tổng liên hội Phật giáo Thế giới
Trước
hết ông nhận định:
Hòa
thượng Thích Quảng Ba: Đứng về
mặt thực hiện tín ngưỡng thì không ai phủ nhận là có nhiều chùa, nhiều nhà thờ
và tín hữu đi sinh hoạt, đi xin lễ, đi tu niệm tương đối khá tự do. Vấn đề
không phải tín đồ có được thờ Phật ở nhà hay bị lật đổ bàn thờ như thời 46-54 ở
liên khu 2, liên khu 3, liên khu 4, liên khu 5 tới Khánh Hòa là hết, vào phía
trong do Pháp cai trị rồi. Vấn đề cũng không phải giới hạn số lượng linh mục
được đào tạo hay không mặc dù Vatican đang thương lượng rất nhiệt tình để làm
sao cho vui lòng Hà Nội cho họ gia tăng thêm số lượng linh mục được đào tạo mỗi
khóa của mỗi giáo phận. Ai cũng biết họ cấm lúc đầu và họ mở từng bước, từng
bước và mỗi người, mỗi tôn giáo, mỗi chức sắc tôn giáo được nhận thêm chút xíu
quyền lợi như vậy thì cảm thấy thoải mái và cảm thấy hài lòng, dĩ nhiên không
hài lòng trọn vẹn.
Thế
giới có thể hỏi và người chức sắc tôn giáo có thể trả lời thành thật là có,
chúng tôi có được một số tự do vì trước kia ví dụ 5 năm mới đào tạo được 20
linh mục, bây giờ 5 năm đào tạo được 100 linh mục.
Nhưng
tất cả những điều đó hoàn toàn không có giá trị trước tiêu chuẩn quốc tế. Theo
tiêu chuẩn quốc tế thì không có chính phủ nào khống chế con số linh mục được
đào tạo mà lại gọi là có tự do tôn giáo!?
Tôi
đưa ra một ví dụ như thế thôi; cho nên tất cả những văn bản qui định về tôn
giáo từ thời ông Hồ 1946 cho đến mãi sau này ông Phạm Văn Đồng… và cái cuối
cùng sau này mà tôi muốn nhấn mạnh; mặc dù sau đó còn mấy cái nữa đó là Pháp
Lệnh Tín ngưỡng Tôn giáo do Quốc hội ra năm 2004.
Văn
bản đó họ ra để ‘chạy thuốc’ thôi vì lúc đó Quốc hội Mỹ đang áp lực rất nặng
trên chính quyền Việt Nam về vấn đề tự do tôn giáo để có thể trao đổi một số
quyền lợi về vấn đề kinh tế và những vấn đề khác. Họ ra văn bản đó để làm vui
lòng Mỹ đồng thời cũng ‘nghiêm khắc hóa’ tất cả những hoạt động tôn giáo. Khi
tôi dùng chữ nghiêm khắc hóa nhằm muốn nói họ đã nghiêm khắc rồi và bây giờ còn
nghiêm khắc hơn nữa. Vì trước đó có những điều chưa qui định, mặc tình cho các
cấp chính quyền theo ý riêng của họ, khi có văn bản qui định thì làm cho những
người muốn thực hiện tôn giáo bị nhiều cơ cấu quyền lực áp đặt lên hơn nữa.
Ai
cũng biết họ cấm lúc đầu và họ mở từng bước, từng bước và mỗi người, mỗi tôn
giáo, mỗi chức sắc tôn giáo được nhận thêm chút xíu quyền lợi như vậy thì cảm
thấy thoải mái và cảm thấy hài lòng, dĩ nhiên không hài lòng trọn vẹn
Hòa
thượng Thích Quảng Ba
Gia
Minh: Chính quyền thì như thế, còn
các giáo hội như giáo hội của hòa thượng đã làm gì để có thể hành đạo, giữ niềm
tin trong mức độ cần thiết; có thể nói mạnh hơn là việc đấu tranh cho quyền tự
do tôn giáo ra sao và đạt được đến đâu?
Hòa
thượng Thích Quảng Ba: Xin cho
tôi được xác nhận khi nói về giáo hội của tôi thì đây là Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống Nhất. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được chính thức
thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1964 sau hội nghị 5 ngày tại Chùa Xá Lợi. Giai
đoạn trước đó chỉ là các hội lẻ tẻ ở các vùng thôi. Cái căn bản của đạo Phật là
sinh hoạt từng chùa chứ chúng tôi không dựa theo giáo hội nhiều. Giáo hội chỉ
là cơ quan hành chánh, lâu lâu tổ chức việc này, việc khác thôi chứ giáo hội
không nhằm đặt ra để mà kiểm soát tất cả các chùa và không có huy động trực
tiếp, chỉ huy các thầy làm gì. Các thầy chủ động đặt ra chương trình để làm
thôi.
Nhưng
từ khi có giáo hội chúng tôi gặp nhiều điêu linh, thống khổ từ bàn tay của
nhiều phía xem vào để phá.
Như
câu hỏi của anh ‘chúng tôi đã làm gì’ thì chúng tôi cũng tu hành bình thường
thôi nhưng cơ quan hành chánh của chúng tôi không được tôn trọng. Họ chưa có
văn bản nào phủ nhận; nhưng đồng thời họ cũng chưa bao giờ công nhận có một
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ở tại Việt Nam.
Gia
Minh: Gần đây có những chùa theo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất trước đây công khai ra lại và bị sách
nhiễu; nhưng sau này có sự giao lưu giữa bên trong và bên ngoài thì hòa thượng
ở bên ngoài hỗ trợ, giúp đỡ cho những chùa ở trong Việt Nam nói riêng, và người
Phật tử nói chung để họ nhận biết sự việc ra sao; điều đó có khả quan hay
không?
Hòa
thượng Thích Quảng Ba: Riêng cá
nhân tôi từ khi đặt chân đến Úc vào ngày 2 tháng 11 năm 1983 đến nay, gần 32
năm rồi, những điều chúng tôi làm cho quê hương, đất nước nói chung cũng hơi
nhiều và nói riêng cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cũng khá nhiều.
Bây
giờ điểm chính mà mình muốn tranh đấu hay đòi hỏi là phục hồi tư cách pháp nhân
của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ngoài chính quyền cộng sản. Chúng
tôi chưa bao giờ chấp nhận mình đứng bên trong hay đứng bên dưới cái cơ chế
chính trị của chính quyền cộng sản
Hòa
thượng Thích Quảng Ba
Bây
giờ điểm chính mà mình muốn tranh đấu hay đòi hỏi là phục hồi tư cách pháp nhân
của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ngoài chính quyền cộng sản. Chúng
tôi chưa bao giờ chấp nhận mình đứng bên trong hay đứng bên dưới cái cơ chế
chính trị của chính quyền cộng sản. Chúng tôi chấp nhận mình là công dân của
đất nước Việt Nam, và nước Việt Nam hiện nay chế độ cộng sản cai trị, điều đó
không ai phủ nhận được. Người Phật tử nào cũng phải đi bầu, dù rằng đó là ‘đảng
cử, dân bầu’; nhưng đó là chuyện khác.
Sau
khi tôi ra tù, đi vượt biên ra nước ngoài rồi tôi làm mọi cách để giữ sống các
bạn đạo của tôi đang ở tù. Tôi giúp cho các thầy mà chùa của họ quá đói khổ,
điêu linh, thiếu cơm gạo thì tôi trợ giúp một phần kinh tế.
Gần
đây có một số trường Phật học mặc dù do Nhà nước Việt Nam lập ra; giáo hội (
Phật giáo Việt Nam) đó điều hành nhưng họ cũng dạy Phật Pháp, cũng dạy kinh
điển cho các tăng ni. Có mấy chục trường như vậy trên toàn quốc. Thực ra từ sau
1990 họ mới cho lập trường ( Phật học), chứ trước đó không có. Tất cả những
trường mà giáo hội chúng tôi lập ra trước năm 1975 đều bị đóng cửa, giải thể
hết.
Thế
thì những trường đó, nhất là những trường nơi quê hương Bình Định của tôi, tôi
ủng hộ. Hòa thượng Huyền Quang có dạy tôi cố gắng giúp đỡ cho quí chư tôn đức ở
quê nhà, mở trường để dạy cho con em những lớp đi sau mình. Bây giờ lớp đàn em
là lớp cháu của tôi họ được đi tu, được học đạo thì chúng tôi giúp đỡ cho họ có
cơm nước, rau đậu, muối, điện nước… cho họ học. Sau khi họ học 4-5 năm lên đến
cao cấp đủ khả năng làm việc đạo thì cũng giúp cho đồng bào Phật tử trong nước
thôi, mặc dù dưới cái dù Giáo hội Phật giáo Việt Nam của Nhà nước nhưng họ cũng
là tu sĩ. Dĩ nhiên có một số rất ít 1,2 phần ngàn nào đó có vẻ tích cực làm
theo lệnh của Nhà nước, hại đồng đạo của mình và một cách ‘hùng hổ’ muốn ‘mua
danh, bán chức’, cậy thời, xu thế vươn lên để chèn ép đồng đạo thì chúng ta có
thể điểm mặt ra để chỉ trích họ; nhưng đại đa số chư tăng ni là những người
bình thường như trước đến nay. Ở trong nước Việt Nam thì họ phải dinh chế độ đó
chứ ai mà khỏi được. Ví dụ chúng ta không thể nói 95 triệu dân Việt Nam là cộng
sản hết đâu.
Cho
nên Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất có một tiêu chí rõ rệt là phục vụ
cho dân tộc và đạo pháp; chứ không xã hội chủ nghĩa.
Gia
Minh: Chân thành cám ơn Hòa thượng.