Trang

Thứ Bảy, 15 tháng 8, 2015

604. NGƯỜI LÀ CON NỢ CỦA XÃ HỘI...

Làm sao trả món nợ đó???
Xin xem bài dưới đây.
BBT Blog.

CON NGƯỜI CÓ THỂ TRẢ HẾT NỢ
TRONG MỘT KIẾP SỐNG HAY KHÔNG ?
Bảo-Đạo Hồ-Tấn-Khoa

Chúng ta đã có dịp nói qua rồi về con đường tiến-hóa của Vạn-Linh hay là con đường Thiêng-Liêng-Hằng-Sống tức là con đường tiến-hóa từ vật-chất đến thảo-mộc, thú cầm mới lên phẩm người. Giai đoạn đó phải đòi hỏi cả muôn năm, muôn kiếp trong mỗi phẩm.

Vì vậy, từ buổi mới được kết tạo nơi chốn bào thai thì mọi đơn-vị nhơn-loại đã phải chịu ảnh-hưởng của nợ tiền-khiên là công chuộc quả của các bậc tiến-hóa trước từ kim-thạch đổ lên đã phải chịu trong vòng vận-chuyển của Bát-Hồn.
Hiểu vậy thì mỗi chúng ta khi mới tượng-hình trong bào-thai đã có nợ rất nhiều rồi trong tiền-kiếp trên bước đường tiến-hóa từ khi còn là kim-thạch đổ lên. Như vậy thì mỗi kiếp sanh đã sẵn nặng nợ của Tạo-vật dẫy-đầy, mặc dầu là chưa làm chi nên tội.
Rồi một khi lọt lòng mẹ bước ra chào đời thì lại còn thêm nặng nợ xã-hội nhơn-quần, bắt đầu là nợ sanh thành dưỡng-dục, mớm cơm vú sữa, rồi đến nợ áo cơm ăn học, nợ tình-cảm trong gia-đình, cha mẹ, anh em, thân tộc rồi đến bạn tác. Một khi đến lúc trưởng-thành thì lại thêm quả-nghiệp tạo dựng gia-đình nên chồng nên vợ, nên nhà nên cửa, nhứt nhứt mỗi nhu-cầu trong sự sanh sống hằng ngày đều là cơ hội để vay thêm nợ của xã-hội. Đó là định-nghiệp của một kiếp. Lấy lý mà suy-nghiệm, thì cả một kiếp sanh, mỗi đơn-vị con người đã phải chịu ơn tấn-hóa của hóa-nhơn, rồi lại chịu ơn cấp-dưỡng của đồng loại. Hai cái ơn ấy muốn cả đơn-vị chơn-hồn con người phải đi theo đà sanh-hóa, luân-chuyển mãi thôi! Trong cơ vay trả biết bao giờ mới hết?
Đó là nói về nguyên-quả, còn nói về nghiệp-quả, thì ngoài các món nợ mà ta tự gây nên thì còn phải chịu nợ của những kẻ đã hy-sinh cho kiếp sống của chúng ta ấy là sự nhờ vã lẫn nhau trên đường sanh-nghiệp.
Bát cơm của chúng ta ăn hằng ngày để nuôi sống thân phàm nầy là do ơn của bao nhiêu người đã phải khổ cực, dầm sương dãi nắng để tạo ra, từ người nông phu luôn cả con súc vật đã cực khổ cày bừa, dọn dẹp thửa đất cho sạch-sẽ để rồi gieo lúa lên mạ. Khi cây mạ đúng sức rồi, phải nhờ bao nhiêu công để cấy. Khi cấy xong rồi còn phải chăm nom, săn-sóc, giữ cỏ, giữ nước, giữ sâu bọ, chim chóc, đến lúc chín còn phải cắt, gặt, đập, giê xay, giã .v.v...Ra hột gạo rồi còn phải vo nấu cho ra hột cơm mình ăn. Cái áo chúng ta mặc, cũng do bao nhiêu công nợ mà chúng ta phải chịu, từ kéo ra sợi chỉ, dệt lại thành bức cắt ra rồi may ráp lại cho ra kiểu vỡ một cái áo để ta mặc. Đó là chưa kể những nợ mà ta phải chịu về những người tạo ra máy móc, hoặc tạo ra cái kéo, cây kim .v.v...
Đấy là kể sơ hai thí-dụ cụ thể để nhận-thức những món nợ vô cùng lớn lao và đầy-dẫy mà ta phải lo trả.
Một khi ta nhận-thức tận-tường về lý rồi, thì ta nên kiếm ra lẽ đặng trả cho xong các mối nợ thì ta sẽ nhận thấy mãnh thân phàm nầy chẳng phải đến mặt thế nầy cho một cá-nhân mà sự liên đới của nhơn-loại.
Bởi cớ, chẳng có một cá-nhân nào được quyền sống cho đơn-vị, tức là sống ích-kỷ hay vị-kỷ, cho riêng mình mà trái lại, phải đem hết kiếp sống của mình ra để phụng-sự cho toàn-thể, hoặc bằng lời nầy, hay phương khác theo thường gọi là phải sống vị tha.
Chúng ta cũng nên nhớ là nghiệp-quả ở trong sự cấp-dưỡng của đồng loại về cái ăn, đồ mặc, chỗ ở, thì chẳng phải lấy của mà trừ công cho đặng, mà là phải lấy thiện-ý của chơn-chánh để phục-sự, hầu cứu an nhơn khổ, tức là ta phải lấy công mà trả công chớ không phải thế ỷ có tiền rồi lấy tiền làm trọng và xem công quả của đồng-loại là rẻ. Đó là Đạo vậy.
Trong cửa Đạo, cũng như nơi mặt xã-hội, người đời thường xãy ra lắm nỗi éo-le biến động. Ấy cũng bởi chưa hiểu thấy lý, và cũng không tìm ra lẽ, mà khiến xảy ra bao nhiêu cuộc xáo trộn khổ cho nhơn-sanh, và cũng làm cho cơ cứu-khổ cửa Đạo chẳng được thành hình, và nền Chánh-giáo phải còn mờ tướng.
Lấy lý mà suy, đem lẽ đặng nghiệm, thì chúng ta thấy mỗi người chúng ta muốn sống trong xã-hội phải sống liên-đới với tất cả tầng lớp nhân-dân, chớ không thể sống riêng biệt mình, mà trái lại, phải sống bằng cách nhờ vã lẫn nhau.
Nếu lấy theo lý đó mà suy ra, thì mối nợ xã-hội này chúng ta trả biết bao giờ mới hết, và như thế thì phải chịu luân-chuyển cùng đà sanh-hóa mãi hay sao?
Không đâu! Nếu chúng ta biết luật tiến-hóa của vạn-linh đã định là hy-sinh về kiếp sống của mọi xác-thân nơi mặt thế này. Mọi xác-thân nơi mặt thế nầy phải là vật hy-sinh trên đường thế sự.
Thêm nữa trong cửa Đạo, chúng ta vẫn biết rằng Đức Chí-Tôn và các Đấng Thiêng-Liêng chú-trọng nơi tâm thành, và chỉ lấy Tâm là quí. Vì thế, nếu chúng ta biết, thì cả món nợ hay nói cách khác, cả công ơn của xã-hội chúng ta có thể trả trong một kiếp mà quyền Thiêng-Liêng Vô-Hình vẫn chấp-nhận cho ta, nếu ta đem hết tâm thành hy-sinh trọn vẹn mãnh thân phàm đẻ phục-vụ cho nhơn-loại, hay cho những kẻ chung quanh mình mà không có một điểm gì nhỏ mọn để nghĩ đến mình, tức là phải sống một đời hoàn-toàn vị tha không còn một điểm gì nhỏ nhít vị-kỷ, mặc dầu kết quả về mặt hữu-hình không xứng đáng là bao, nhưng tấm lòng chơn-thành quyết chí trọn vẹn hy-sinh đã bao trum hết, và nếu quả quyết làm đúng theo vậy, thì quyền Thiêng-Liêng sẽ cho TRỪ HẾT NỢ TRONG MỘT KIẾP !
Mới nghe qua tưởng là dễ, chớ thực-hành cho đúng chưa phải là chuyện chơi và từ trưóc chưa có mấy ai dám hy-sinh trọn vẹn mãnh thân hình mà không có một ý-nghĩ cỏn con về tư lợi cho mình, dầu là tư lợi về tinh-thần hăy là hữu-danh.
Từ xưa đến nay ta chỉ thấy có một tấm gương để ấn chứng lẽ này trong cửa Phật Giáo mà ít người đuợc hiểu rõ ý nghĩa. Đó là vị Phật thường gọi là Ông Dám, được các chùa Phật để thờ nơi Hậu-Đường.
Sự tích sơ lược như sau: Ông là một người dốt nát thật-thà, xin ở chùa làm công quả, lãnh phận sự nấu nước cúng Phật, và cho mọi người dùng. Mặc dầu hết sức tận tụy với nhiệm vụ, nhưng những người ở trong chùa, nhất là mấy chú Tiểu ngỗ nghịch rầy la, mắng nhiếc hiếp đáp đủ điều mà ông vẫn vui vẽ âm thầm quên mình tận tụy với nhiệm vụ, không một lời oán trách hay than-thở.
Thường bữa đến tối là Ông lo vùi một cục than lửa, để khuya Ông thổi lên nhen-nhúm có lửa nấu nước cho Ông Sư công-phu cúng Phật, vì thuở ấy không có diêm quẹt.
Một hôm có kẻ ác tâm lén tưới nước tắt mấy cục than lửa. Đến khuya Ông thức dậy dụm lửa, thì khổ nguy không biết lấy lửa đâu mà nhen nhúm. Buổi ấy là nhà ở thưa thớt. Muốn đến xóm trên xin lửa phải qua một khu rừng có đầy ác thú, nhưng vì nhiệm vụ Ông không kể thân sống, quyết đi xin cho có lửa đem về nấu nước cúng Phật cho kịp giờ, nên một mình trong đêm tối Ông băng mình đi đại.
Khi đến giữa rừng, gặp một con cọp đòi ăn thịt Ông, thì Ông van lạy để Ông đi xin đặng lửa về nấu nước cúng Phật cho kịp giờ, rồi Ông sẽ trở ra nạp thịt. Cọp bằng lòng, nên Ông đi xin đặng chút lửa than về nhen nhúm lên nấu nước cho kịp giờ cho Ông Sư cúng Phật.
Khi ấy, Ông quyết giữ lời hứa, nên lén một mình trở ra rừng nạp thịt cho cọp. Hại thay, Ông lại gặp cọp già nói với Ông là răng cọp không còn cứng bén, mà xương Ông lại cứng, ăn không nổi, nên yêu cầu Ông leo lên cây cao buông tay rớt xuống cho dập xương thịt, cọp mới ăn đặng. Ông cũng bằng lòng hy-sinh trọn vẹn leo lên ngọn cây thiệt cao buông tay cho rơi xuống đất.
Theo tích kể lại, lúc Ông buông tay rớt xuống, thì Ông được Phật vớt luôn và cọp già kia cũng là do Phật hóa hình để thử lòng Ông. Chuyện kể nghe có vẽ thần thoại, nhưng ý nghĩa là nêu lên một gương hy sinh trọn vẹn với một tinh thần vị tha bất vụ lợi, thì được quyền thiêng liêng chứng cho quả Phật-vị, tức là ông đã trả hết nợ trong một kiếp. Người ta đặt tên ông là Ông Dám, vì ông dám làm một việc mà chưa có ai dám làm.
Trong sự hy sinh thì quyền Thiêng-Liêng chỉ chứng cho TÂM THÀNH CHƠN CHÁNH không vụ danh, mà cũng không vụ-lợi. Nếu sự hy-sinh đó càng ầm thầm kín đáo chừng nào thì giá-trị tinh thần lại càng cao chừng ấy, chớ quyền thiêng liêng không kể sự hy-sinh ấy kết quả to lớn hay nhỏ mọn.
Nếu sự hy-sinh có tính cách rầm rộ, quảng cáo, kích động quần chúng với mục đích vì hữu danh thì sự hy-sinh ấy chẳng có giá trị gì hết với quyền Thiêng-Liêng.
Vậy ai muốn hết nợ, hay đắc quả trong một kiếp thì chỉ có phải dám hy sinh trọn vẹn quên mình âm thầm phục vụ cho mọi người là đặng.

Nhưng thử hỏi có mấy ai dám làm.