Sách Lịch sử đạo Cao Đài:
Tiếp tay cho bản án Cao Đài 1978
Việt Nam Thời Báo.
Trần Văn Tân.
(VNTB) Vào năm 2005, 2008
Nxb Tôn Giáo ấn hành “Lịch Sử Đạo Cao Đài (LSĐCĐ)” do Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý
Đại Đạo (CQPTGLĐĐ) biên soạn.
Dù quan điểm của cơ quan biên soạn là cẩn trọng,
khách quan, trung thực khi ghi nhận diễn biến của lịch sử, và khẳng định “mỗi
trang sử đạo đều được Hội Đồng Nghiên Cứu Giáo Lý Cơ Quan xét nét để giữ lập
trường thuần chơn vô ngã...”
Tuy nhiên ấn phẩm LSĐCĐ đã vấp phải lỗi pháp
lý cơ bản nhất từ cách dùng đại tự Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (ĐĐTKPĐ) để trên bìa
sách, cho đến phủ nhận ĐĐTKPĐ là gốc.
Vi phạm cách dùng đại tự ĐĐTKPĐ
Hai năm sau khi Đạo Cao Đài tổ chức Lễ Khai
Đạo tại Chùa Gò Kén (Từ Lâm Tự), Long Thành, Tây Ninh (1926), vào ngày
28/08/1928 Hội thánh ĐĐTKPĐ ban hành Chương trình Hiến Pháp.
Theo đó, tại chương V, Điều 22 quy
định: “Nghiêm cấm trong Ðạo không ai đặng lấy danh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ
Ðộ và dùng THIÊN ÂN, THIÊN NHÃN mà đề vào bìa Kinh sách, Bố cáo,... hay là in
Thánh Tượng, Kinh sách (bán hoặc phát không) nếu Kinh sách và Thánh Tượng ấy
không có trình ban kiểm duyệt xem xét trước và đóng con dấu kiểm duyệt.”
Tại Điều 23 tiếp tục cho biết, “Thảng
như người ngoại Ðạo mà phạm nhằm điều lệ thứ 22 thì Quản Lý Nội Viện chạy tờ
Châu Tri cho Chư Ðạo Hữu các nơi biết, mà không dùng đến Kinh sách, Tượng in
sái phép ấy.”
Như vậy, từ khi ban hành “Chương trình Hiến
Pháp”, thì có có duy nhất Hội thánh “Cửu trùng đài” được quyền in Kinh sách,
Tượng để hiệu “Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ” trên bìa sách, căn
cứ theo Điều 24.
Lịch sử Đạo Cao Đài
do Cơ quan Phổ thông giáo lý Đại Đạo biên soạn nhưng lại phạm những sai lầm
cơ bản. Ảnh: Trần Văn Tân
|
Đến năm 1965, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa
đã công nhận pháp nhân của ĐĐTKPĐ qua Sắc Luật số 003/65. Trải qua các biến cố
chính trị, Hội Thánh Cao Đài không có bất kỳ văn bản nào hủy bỏ Chương Trình
Hiến Pháp ngày 28/08/1928, cũng như về mặt nhà nước, không có bất kỳ văn bản
nào hủy bỏ Hiến chương 1965.
Như vậy qui định trong CTHP ngày 28/08/1928
vẫn còn giá trị pháp lý về mặt đạo và đời.
CQPTGLĐĐ là một tập thể ở ngoài Hội Thánh
ĐĐTKPĐ nên đương nhiên không phải là Hội Thánh Cửu Trùng Đài.
Và vì cả hai đầu sách không có con dấu kiểm
duyệt của Ban kiểm duyệt Hội Thánh Cao Đài, nên việc cố ý sử dụng đại tự “Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ độ” trên bìa sách là một lỗi sai về quy định trước đó của Đạo Cao
Đài, đi ngược lại tinh thần và qui định của Chương trình Hiến Pháp.
Sai với tiền đề căn bản (Lời Minh Thệ)
Một sai phạm mang tính căn bản của sách “Lịch
Sử Đạo Cao Đài” là phân ra nhánh một (Cơ Tuyển Độ Vô Vi) và nhánh hai (Phổ Độ
Công Truyền).
Tại quyển một trang 97 (quyển 1), ghi rằng:
“Đức Thượng Đế khai mở nguồn đạo mạch thứ nhì (ngoại giáo công truyền).” Và
phân rành nhánh một, nhánh hai (trang 207).
Quyển 2 tiếp tục làm rõ hai nhánh này, cụ thể
tại trang 8 ghi rằng, “Đức Chí Tôn ban lệnh cho chư vị Nhánh Hai đến tiếp xúc
với Ngài Ngô Văn Chiêu (Nhánh Một).”
Theo luật đạo người nhập môn cầu đạo đều thề
trước thiên bàn (Lời minh thệ), nguyên văn: “Tên
gì? Họ gì? Thề rằng: Từ đây biết một Đạo Cao - Đài Ngọc - Đế, chẳng đổi dạ
đổi lòng, hiệp đồng chư Môn - Đệ, gìn luật lệ Cao - Đài, như sau có lòng
hai thì Thiên - tru, Địa - lục.”
Như vậy Đạo Cao Đài do Ngọc Đế lập ra là duy
nhất và được trình chánh trước xã hội vào năm 1926 tại chùa Gò Kén, đến năm
1927 thì dời về Tòa Thánh Tây Ninh.
Một trang sách có
quan điểm sai khi phân ra nhánh (Cơ tuyển Độ Vô Vi) và Phổ độ công truyền.
Ảnh: Trần Văn Tân
|
Nhân sinh quan Cao Đài Giáo dạy rõ: “Trời
là chủ tể càn khôn thế giới. Mà thế giới bao gồm cả đạo và đời.” Nghĩa
là Trời làm chủ nhánh đạo (nhánh ĐĐTKPĐ thời Tam kỳ phổ độ) và cả nhánh đời.
Nhánh đạo có một, nhánh đời như thế nào, chia ra làm bao nhiêu nhánh chưa đề
cập đến.
Và chữ nhánh trên đây là ĐĐTKPĐ, không phải
một nhánh nào khác. Chính mình Thầy làm chủ nhánh ĐĐTKPĐ. Bởi vào ngày
20/02/1926 Đức Cao Đài dạy đã dạy: Cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm chủ, sau
các con sẽ hiểu.
Phối hợp với tiền đề thì có nghĩa là thời Tam
Kỳ Phổ Độ Thầy chỉ mở có một mối đạo là ĐĐTKPĐ; không có mối đạo thứ hai. Nếu hiểu còn nhánh đạo nào khác là sai với tiền đề.
Đó là xét về mặt đạo.
Cần phải nhắc lại một lần nữa, là Lời minh thệ
quan trọng đến nỗi, mọi cái sau đó đều phải căn cứ vào tiền đề cơ bản để hiểu,
trái với tiền đề đều sai từ trong căn bản.
Thứ hai, trên thực tế Thượng Đế dạy cho Ngài
Ngô Văn Chiêu là dạy một pháp môn. Pháp môn là một phần của tôn giáo nhưng chưa
đủ để gọi là tôn giáo; cho nên họ không lập Hội Thánh như các tổ chức tôn giáo
Cao Đài khác.
Năm 2010 hậu duệ của Ngài Ngô Văn Chiêu vẫn
nhận họ chỉ là pháp môn. Đến ngày 10/7/2015 tại Toà thánh Bến Tre (Bến Tre),
các Hội thánh và tổ chức Cao Đài trong khối giao lưu hành đạo đã tổ chức hội
nghị tổng kết liên giao lần thứ VIII, Pháp môn Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô
Vi có đến dự cũng thể hiện họ không lập thành Hội Thánh.
Việc CQPTGLĐĐ biên soạn LSĐCĐ đã gán ghép cho
Pháp môn Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi là nhánh một (cơ Tuyển độ vô vi) để
làm đối trọng với nhánh hai (cơ tận độ) là một tổ chức tôn giáo là khập khễnh,
là khiên cưỡng.
Tôn chỉ tận độ do Thượng Đế dạy: Phổ
là bày ra. Độ là gì? Là cứu chúng sanh... Chúng sanh là gì? Chúng sanh là toàn cả nhân loại chớ không phải là lựa
chọn một phần người như ý phàm các con tính rối.
Lời dạy trên đã loại bỏ Cơ Tuyển Độ Vô Vi của
CQPTGLĐĐ gán cho pháp môn.
Và như đề cập trên, nhánh ĐĐTKPĐ do chính
mình Thầy làm chủ; việc ban biên soạn cuốn sách "Lịch Sử Đạo Cao Đài"
hô biến thành nhánh hai, rồi tìm cách gán ghép, đưa pháp môn lên thành nhánh
một (là điều Thầy chưa từng gọi) là sự sai trái, không chỉ về mặt xã hội (đánh
đồng pháp môn thành tôn giáo) mà còn làm nhẹ thể
Đức Chí Tôn. Nói cách khác, việc đội ngũ biên soạn LSĐCĐ tự đặt ra
nhánh một, nhánh hai là vi phạm tiền đề là xa lìa thực tế nên làm mất đi sự
thật.
Ngoài ra, việc xa lìa thực tế còn thể hiện
tiếp tại trang 228 (quyển 1), trong đó cho rằng, “bài thi nầy về sau trở nên
bài kinh dùng trong lễ “hành pháp hôn phối” của Đạo Cao Đài”. Thực tế, trong
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo do Hội Thánh Cao Đài ban hành phần Kinh Thế Đạo có
bài Kinh Hôn Phối do Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn (Victor Hugo) ban cho. Khi hành
pháp hôn phối đọc bài Kinh Hôn Phối (không phải đọc bài thi trên).
Phủ nhận ĐĐTKPĐ là gốc, sau đó mới có
chi phái
Vào ngày 20/07/1978, chính quyền nước CHXHCN
Việt Nam đã ban hành Bản án Cao Đài trong đó nhấn mạnh: Đạo Cao Đài bị phân
hoá chia ra nhiều Chi phái. Trong đó, phái Cao Đài Tây Ninh do Lê Văn Trung,
Phạm Công Tắc cầm đầu là phái có ảnh hưởng và tín đồ nhiều nhất.
Với dòng chữ "phái Cao Đài Tây
Ninh" - đã thể hiện Đạo Cao Đài chỉ có các chi phái mà không có
cái gốc đã phát sinh ra chi phái. Bản án Cao Đài đã phủ nhận sự thật hiển nhiên
rằng có ĐĐTKPĐ (06 chữ) hay Đạo Cao Đài (03 chữ) lập năm 1926 (là gốc) rồi mới
có các chi phái nẩy sinh vào sau này.
Đối chiếu Bản Án Cao Đài và
LSĐCĐ ta thấy quan điểm rất giống nhau: ĐĐTKPĐ hay Đạo Cao Đài chỉ có
các chi phái mà không có cái gốc.
Bởi tại trong lời giới thiệu của nhà xuất bản
Tôn giáo cho rằng, “Có thể có những nhận thức khác nhau trên cùng một
sự kiện đối với người không có đạo hoặc đối với tín hữu các chi phái trong toàn
đạo.” Tiếp đó, lời tựa do ông Chí Hùng TM Ban Thường Vụ CQPTGLĐĐ Hiệp
Lý Minh Đạo khẳng định, “công tác biên soạn một pho sử đạo thỏa ứng mọi
chi phái rất quan trọng.” Ông Thiên Vương Tinh TM Hội Đồng Nghiên Cứu
Giáo Lý CQPTGLĐĐ tiếp nối tinh thần “chi phái” khi nhấn mạnh, “sứ mạng
làm nhịp cầu nối liền các chi phái và phổ thông phổ truyền giáo lý Đại Đạo”.
Cả ba trích dẫn nêu trên cho thấy sự thống
nhất trong nhận định rằng, ĐĐTKPĐ hay Đạo Cao Đài chỉ có các chi phái mà không
hề có cái gốc, tất cả đều hiện sinh cùng một lúc không có cái trước, cái sau.
Như vậy, từ Bản án Cao Đài năm 1978, 27 năm sau (2005) CQPTGLĐĐ đã biên soạn
pho sử đồ sộ (do nhà xuất bản Tôn Giáo phát hành) với quan điểm trùng hợp 100%.
Kết
Những điểm sai được chỉ ra nêu trên đã cho
thấy nội dung trình bày mâu thuẫn với lời tựa của ấn phẩm: “Người viết
sử cần phải cẩn trọng, đứng trên lập trường khách quan, thuần chơn vô ngã mới
ghi nhận trung thực diễn biến của lịch sử […] công tác biên soạn một pho sử đạo
thỏa ứng mọi chi phái rất quan trọng.”
Bởi nếu đã tự cho rằng, “khách quan, thuần
chơn vô ngã” thì nó phải đảm bảo sự vô tư, không thiên vị trong nhận định, mà
chỉ biết có sự thật và thể hiện đúng sự thật. Tuy nhiên, rất tiếc, cơ quan biên
soạn đã tự “thỏa ứng mọi chi phái”, dẫn đến sai lệch hoàn toàn bản chất của Đạo
từ trong gốc, nên đã không còn tính khách quan, thuần chơn vô ngã nữa!