Trang

Thứ Sáu, 14 tháng 8, 2015

601. KHÔNG PHẢI GÕ MỎ TỤNG KINH MỚI LÀ TU...


LUẬN – ĐẠO CHƠN NGÔN
CỦA NGÀI THƯỢNG ĐẦU SƯ THƯỢNG-TRUNG-NHỰT (1932).
Từ 03 đến 09
BNS THÔNG TIN 16.
Thành viên KNS đánh vi tính..
Từ cổ chí kim, nước nào, sắc dân nào cũng vậy, đều có lòng tin-tưởng Trời Phật. Mổi nơi tùng theo phong-hóa thổ-nghi của nước nhà mình mà tỏ sự tín-ngưỡng, với thờ-phượng.
Chổ theo Đạo Trời thì thờ Trời, người thờ Phật thì kỉnh trọng Phật cho Phật là lớn, người thờ Thánh Thần thì tin-tưởng Thánh-Thần, chớ kỳ trung có một Đấng Tạo-Hóa chủ-tể càn-khôn thế-giái, điều đình Tứ-Đại Bộ-Châu, Tam-Thập Lục-Thiên, Tam-Thiên Thế-Giái, cùng Thất-Thập Nhị Địa. Ấy là quyền hành vô-biên của Đấng Chí-Tôn, người Nam mình gọi là Ngọc-Hoàng-Thượng-Đế hay là Ông Trời.
Trời Phật cững là Thầy là Đấng Chí-Tôn. Từ thuở âm-dương tương-hiệp càn-khôn phát-khởi, Đấng Chí-Tôn hóa-sanh loài người và muôn vật, người ta mới tu thành Phật, Tiên, Thánh, Thần mới thành ra Ngũ-Chi Đại-Đạo:
1.          NHƠN-ĐẠO.
2.          THẦN-ĐẠO
3.          THÁNH-ĐẠO
4.          TIÊN-ĐẠO
5.          PHẬT-ĐẠO
Ấy là tôi chỉ sơ Đạo cho chư Hiền-Hửu, chư Hiền-Muội rõ biết chớ còn nói việc huyền-bí cao thượng thì phần nhiều Đạo-Hửu chúng ta không thấu đáo làm cho rối-loạn tinh-thần chư Đạo-Hửu, chư Đạo-Muội. Vì có lời Đức Khổng-Phu-Tử nói rằng: những việc vô-vi khó thấy, khó hiểu, nếu không cẩn-thận mà đem những việc ấy ra nói với người thường thì người ta hay hiểu lầm mà tin bậy.
Bởi vậy có nhiều người sai lầm mà tuyệt-cốc, luyện-đạo, phi bùa, tập chú, vân…vân…Ấy là mưu tà quái, dụ dỗ mấy người mê-tín vô hang sâu, vực thẩm. Vậy nên những điều huyền-bí mà có thể làm cho người ta mê-tín, loạn-tưởng không có ích gì cho sự sanh-hoạt của Đời, không có dạy hạnh-nết lễ-nghĩa khiêm-cung cho sanh-chúng, không phải việc thật-hành đặng thì tôi không chịu giảng-dạy, vì là xa chuyện chơn-thật (La vérité) Đức Vân-Trung-Tử cũng có dạy tôi rằng:
Trần là cõi khổ để đọa bực Tiên Thánh có lầm lỗi ấy là cảnh sầu để trả xong quả-báo oan-khiên rồi hoặc về ngôi cũ hoặc phải khổ não chơn-linh mà luân-hồi lại nữa, nên kẻ bị đọa-trần gọi là khách-trần.
Còn Đạo là gì ? Đạo sao gọi Đạo ?
Thượng-Trung-Nhựt bạch:
Đạo kể từ Khí Hư-Vô sanh Thái-Cực  vân…vân..
Vân-Trung-Tử: Đạo-Hữu nói cao xa quá, phần nhiều chưa hiểu đặng….
Đạo tức là con đường để cho các Thánh, Tiên, Phật đọa trần do theo mà hồi cựu-vị, Đạo là đường của bậc nhơn-phẩm do theo, lánh khỏi luân-hồi, chuyển-kiếp, nếu chẳng do theo Đạo thì các bậc ấy đều lạc bước mà hết ngôi-phẩm.
Đạo nghĩa-lý rất sâu xa nhưng phải hiểu trước bao nhiêu đó rồi mới học các nghĩa huyền-vi bí-mật khác cho đích xác đặng.
Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ đã khai được bảy (7) năm mà phần nhiều chư đạo-hữu, chư đạo-muội chưa rõ thấu, tại sao Đạo khai trong thế-kỷ hai mươi đây và tại sao Đạo khai trong nước Nam ta?
Tuần nghe: Thiên-địa tuần-hườn, châu-nhi phục-thỉ, từ tạo thiên-lập địa, càn-khôn phát-khởi tới ngày nay biết mấy muôn mấy vạn lần, Xuân qua Hè lại Đông mãn Thu tàn, thỏ lặn ác tà. Nay tới đời Hạ-Ngươn mạt kiếp nên gọi là cuối cùng.
Phàm muôn việc đều có thỉ có chung, có khởi có cùng, như một ngày một đêm mười hai giờ, khởi ư Tý, tới Hợi cùng, rồi thì cũng khởi lại ư Tý, mỗi tháng khởi mồng một tới ba mươi, rồi cũng khởi mồng một lại nữa, năm khởi tháng Giêng rồi tới tháng Chạp, cuối năm rồi cũng khởi mồng một lại tháng Giêng. Mỗi tháng chia ba tuần, mỗi tuần mười ngày, mỗi năm chia ra tam-ngươn, Thượng-Ngươn, Trung-Ngươn, Hạ-Ngươn…
Ấy là luật tuần-hoàn của Trời Phật định. Việc thế thì cũng phải có tuần-hườn vậy. Trời đất cũng chia ra Tam-Ngươn:
1./ Thượng-Ngươn là ngươn tạo-hóa ấy là ngươn Thánh-Đức tức là Ngươn vô-tội (tiếng Pháp Cycle de création c’est a`drive Cycle de l’innocence)
2./ Trung-Ngươn là Ngươn tấn-hóa, ấy là ngươn tranh-đấu tức là ngươn tự-diệt (tiếng Pháp Cycle de progrère ou Cycle de lutte et destruction)
3./ Hạ-Ngươn là Ngươn bảo-tồn, ấy là ngươn tái-tạo tức là ngươn qui-cổ (tiếng Pháp Cycle de conservation ou Cycle de reproduction et rénovation……..)
Thiên-địa tuần-hườn châu-nhi phục-thỉ……
Nay Hạ-ngươn hầu-mãn kế thượng-ngươn khởi lại nên nhơn-vật đổi dời
Rung-rinh Trời đất.
Chuyển động càn-khôn.
Khuẩn-bách cả hoàn-cầu nhơn-sanh nên đồ-khổ.
Đạo là tối trọng, tối quí trong đời. Đạo Đời đi cận nhau, Đạo như cái lưới bao trùm càn-khôn thế-giái, không việc chi từ lớn chí nhỏ mà ra khỏi Đạo. Nay vì cuộc tuần-hườn và vì bổn-nguyên háo-sanh, nên Đấng Chí-Tôn chuyển đạo lại.
Vãn hồi tạo-thiên lập-địa, Đạo phát ư Đông (là các nước nơi miền Á-Đông như Trung-Huê, Nhựt-Bổn, Ấn-Độ, Xiêm, Đông Pháp…vân vân..) thì nội vùng Á-Đông đây có Đức Nhiên-Đăng Cổ-Phật và Đức Thích-Ca khai Phật-Đạo, Đạo Tiên thì có Đức Thái-Thượng là Lão-Tử, Đạo Thánh thì có Văn-Tuyên Khổng-Thánh là Khổng-Phu-Tử.
Sau lần lần Đạo trải khắp phương tây nên Đức Chúa Giê-Jiu khai đạo nơi miền Âu-Châu (551 năm sau Khổng-Phu-Tử), kế Đạo mới roi truyền trải khắp năm châu. Ngày nay là châu-nhi phục-nhỉ nên Đấng Chí-Tôn chuyển Đạo tại Á-Đông đây là nguồn Đạo phát ra, bởi cớ ấy nên trong bài Khai-Kinh của Đức Lạo-Tổ có hai câu đầu như vầy:
“Biển trần khổ vơi vơi trời nước,
Ánh Thái-dương dọi trước phương Đông”
Và trong một bài Thánh-Ngôn chữ Langsa của Đức Lý-Thái-Bạch cho N.J Ross có câu
“De l’orient l’occident voit poindve l’aurore”
Người nước Nam từ cổ chí kim thì không có Đạo trong nước nhà; nên nước phải hèn, dân phải yếu, dầu vậy người Nam ta vẫn có tin Đạo. Người Nam trổi danh khắp hoàn cầu về lòng tín ngưởng. Đạo Phật, Đạo Tiên, Đạo Nho tuy khai bên Ấn Độ và bên Trung Huê, sau người Nam biết đặng thì cũng hết lòng sùng bái. Đạo Gia Tô có mấy vị linh mục bên Thái Tây đem gieo truyền bên nước ta thì người Nam cũng kính trọng. Phần nhiều người Nam thì hay đi Chùa, đi Miễu, đi Nhà Thờ vọng tưởng hết lòng, ngưởng mộ Trời Phật, người không đi Chùa, đi Miểu, không đi Nhà Thờ thì trong nhà cũng thờ Ông Bà Cha Mẹ quá vãng, ấy là Đạo Nho. Lấy mấy bằng cớ trên đây chỉ rỏ rằng người Nam Việt rất tin tưởng Trời, Phật, Thánh, Thần; tin tưởng rằng chết thì cái xác phàm này chết, tiêu diệt chớ linh hồn bất tiêu bất diệt.
Thiệt là một Dân Tộc :
Kỉnh Thiên háo Thiện, bất hỉ sanh sát;
Quân nhơn, Thần trung, Phụ từ , Tử hiếu
     Vì đạo Tâm ấy mà trong thời kỳ chuyển Đạo này. Đức Chí Tôn thương lòng thành thực của nhơn sanh mà khai Tam Kỳ Phổ Độ (Ân Xá kỳ ba ) nơi đây.
     Tuy khai đạo tại nước Nam vì nước Nam cũng trong vùng Á Đông mà cũng khởi ư Đông. Bàn Cổ sơ khai ,Thiên sinh ư Tý, Địa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần, từ năm Bính Dần Đạo phát khai tại Tây Ninh là cực Đông của Nam Kỳ từ từ truyền ra Gia Định, Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Chợ Lớn là mấy hạt về hướng Đông, qua năm thứ nhì thứ ba thì Đạo mới truyền ra mấy hạt hướng Tây.
     Luôn dịp tôi cũng lục rút ra đây mấy lời tiên tri của Thầy ngày mới khai Đạo :
                      Mardi, Sept, 1926 (mồng 1 tháng 8, Bính Dần).
                                   Thầy, các con.
          Trung, nghe con: Con biết rằng Tòa Thánh Thầy phải lập tại Tây Ninh, Thầy đã cho con hiểu là Thánh Địa nửa. Nguồn Đạo Thầy do nơi đó mà xuất thấu thế gian.
Trong thời Hạ Ngươn đây, nhân loại ở thế gian phần đông vì ham văn minh vật chất, ham ăn mặc sung sướng nên phải giành giựt cấu xé vì mồi phú quý, bả vinh hoa, vẻ đai cân, mùi chung đỉnh nên biến sanh ra cảnh mạnh còn yếu mất, đua chen lẩn lộn, tràn nhảy khắp nơi.
            Than ôi! Nhơn sanh như thế đó, làm sao không động lòng Trời.
       Đấng Chí Tôn vì háo sanh, Đại Từ Đại Bi, thấy nhơn loại đang mờ mệt trong vòng hắc ám, tranh tranh đấu đấu kết cuộc oan gia không tìm chơn lý nên Đấng Chí Tôn khai Đạo cứu Đời ngỏ hầu dìu dắt nhơn sanh về đường qui cổ, đặng hết lòng thành thật đối đải cùng nhau, phải biết tương thân tương ái, đừng cố kết oan gia gây nghiệt chướng.
Trời thấy người Nam là một sắc dân đê hèn mà biết tin tưởng Trời Phật nên cuối cùng dạy khai đạo nơi nước Nam, có bài tứ tuyệt như sau:
Từ thử nước Nam chẳng Đạo nhà
Nay Ta gầy dựng lập nên ra
Ví dầu ai hỏi sao bao nả?
Rằng trẻ noi sau biến hóa già
 Nước mà không Đạo cũng như người mà không hồn. Nhà mà không đạo đức thì tự nhiên cang thường luân lý phải suy bại.
Khoản trên đây tôi đã nói trong thế sự vạn vật vạn linh đều có đôi bên. Một bên hửu hình và một bên vô hình. Hửu hình thì hửu hoại, vô hình thì bất tiêu bất hoại.
Hửu hình là những vật chi mình rờ nắn được như cái bàn, cái ghế, cục đá, khúc cây. Cái xác phàm ta đây là hữu hình vì ta rờ nắn được; ấy vậy xác phàm ta phải tiêu phải diệt.
        Còn vô hình như gió như mây, muôn năm ngàn kiếp, gió mây có tận tuyệt bao giờ, mà có ai bắt gió đón mây cho được. Linh hồn ta cũng như gió như mây vậy, thì bất tiêu bất diệt nên phải luân hồi chuyển kiếp tùy theo việc hành vi và công quả của ta cấu kết nơi trần thế đây. Hể hiền thì thăng, dử thì đọa, vay vay, trả trả y theo thiên điều phân định, lổ kim không lọt, một mãy chẳng sai. Nên Thánh Nhơn có câu: “Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu”.
Than ôi! Ít người nghĩ cho kỷ trong cuộc trần thế này nhiều bẩy rập lôi kéo chúng sanh đem thân trần cấu gieo miền trầm luân. Ai ai cũng tranh giành nhau trên đường danh bể hoạn lo ăn ngon mặc đẹp, ở lầu cao các rộng nhà dọc dãy ngang, thềm gấm sân hoa, tiêu xài huy hoát.
Than ôi! đường thế bày trò hư hoại, chốn hí trường qua lại ngựa xe.
Ít ai ngó thấy những điều vinh huê sung sướng ấy là sóng bủa chụp người, gài người trong biển thảm.
Than ôi! nhơn loại chỉ biết Đời, bao giờ nghĩ đến Đạo. Người một họ mà nhiều khi nhìn như kẻ Tần người Việt, trong một làng một xóm cùng nhau mà coi như cách biển Sở sông Ngô, chỉ bo bo lo cho mình, một mình mình ấm, một mình mình no, một mình mình yên vui, một mình mình sung sướng. Từ sớm mai đến sáng, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, thỏn mỏn lần lựa tháng ngày, cứ lo giành giựt giựt giành, lao thân tiêu tứ
Ít ai nghĩ khi hồn lìa khỏi xác thì chỉ đem theo có hai chử tội, phước.
Người hiền tu tâm dưỡng tánh, biết thương đồng loại, biết giử đạo nhân luân thì hồn được siêu thăng tịnh độ.
Người ít nhơn đức hơn nửa, nếu cũng có làm lành lo âm chất trong khi ở thế thì đầu thai được làm người mà hưởng phước. Còn kẻ vô đạo đức, không kể nhân luân, chẳng biết thờ Trời kỉnh Phật, Tiên, Thánh ngăn cản đường tu của người thì phải bị đọa A Tỳ, chịu ngục hình khảo phạt, trừng trị những tội ác đã gây nên trên thế sự.
Ấy là những chuyện nhiệm mầu trong Đạo. Người muốn cho linh hồn tránh những điều khổ nhọc ấy thì phải biết Đạo đặng trau giồi hạnh đức phải lo tu tâm dưởng tánh. Tu có nghỉa là trau giồi tánh hạnh, đi từ bước, lần từ bậc, học hỏi mới biết mầu nhiệm cao sâu.
Tu không phải từ mơi đến chiều tụng kinh gỏ mỏ mới gọi rằng tu.
Tu có nhiều bậc: Bậc thượng thừa phải ép mình hành xác, phải nâu sòng khổ hạnh, lo làm âm chất, lo công quả cho Trời Phật, chừng quả mãn mới tìm chổ u nhàn mà tịnh dưởng tinh thần xa đường tục lụy, ấy là bậc thượng thừa.
Nếu trên thế gian nầy, mọi người đều phế công việc mà tìm chổ u nhàn như vậy, thì thế sự này phải ấm lạnh thì có ai đâu mà lo nhơn đạo.
Nên Đạo nào, bậc tu nào cũng phải lo nhơn đạo trước.
Con người ở thế, mỗi cá nhân đều có phận sự, có trách nhiệm nhiệm mầu, nếu bỏ nhơn sự thì thất nhơn đạo.
Ấy vậy, trước hết phải biết Đạo là biết Trời Phật, Tiên Thánh, phải biết có luân hồi chuyển kiếp, có luật thiên điều hành phạt, thưởng răn một mảy chẳng sai.
Theo Nhơn Đạo, trai thì lo Tam cang Ngũ thường. Gái thì lo tam Tùng tứ Đức. Trước hết lo tu tại gia, tại thiền, tại thị. Lo làm lành lánh dữ, trau giồi tâm tánh ấy là tu.
Đạo làm người nhơn, nghỉa, lể, trí, tín phải giử hẳn hòi, Tam cang tua nắm chặc.
Ở thế phải tùng theo luật thế. Đối với viên quan, chức sắc phải giử phận làm dân, phải nhớ câu sám hối:
Chớ làm con giặc tôi loàn,
Thuế sưu đóng đủ đừng toan kế tà.
Nếu mình sanh rối loạn ở trong xã tắc. Nếu mình không tuân pháp luật thì mình là người loạn chớ đạo đức chi.
Đối với cha mẹ, vợ chồng, anh em, chị em con cái thì phải biết công ơn sanh thành dưỡng dục là ơn trọng không kể xiết, phải giử câu hiếu để mà bồi đắp ơn sâu.
Vợ Chồng tào khang nghĩa trọng, giàu khó có nhau, phải nâng đở nhau trên đường hoạn lộ, đối đáp với nhau như cân thăng bằng, giử được như vậy mới là trọn nghĩa.
Anh em cốt nhục đồng bào phải giử chử thuận hòa làm trọng.
Đạo làm cha là thay mặt cho tạo hóa mà dìu dắt linh hồn ấu nhi trọn bề đạo đức. Ai giử mấy giềng ấy cho hoàn toàn thì lo gì không gần Thiên đạo.
Tòa Thánh Tây Ninh ngày 01/07/1932. (Nhâm Thân).
THƯỢNG ĐẦU SƯ.
THƯỢNG TRUNG NHỰT.