Thành thật cảm ơn quí hiền VNTB
đã để tâm biên tập bài viết theo văn phong báo chí...
Kính.
Sách
Đạo Cao Đài & Victor Hugo:
cẩu thả, tùy tiện
trong nhận định sự kiện,
nhân vật, giáo lý
Việt Nam Thời Báo.
Trần Văn Tân.
(VNTB) Năm 2011 nhà xuất
bản Thời Đại Trung Tâm Văn Hóa Ngôn Ngữ Đông Tây cho xuất bản đầu sách: Đạo Cao
Đài & Victor Hugo do nhà văn, nhà nghiên cứu Trần Thu Dung viết.
Cuốn sách
tham khảo 49 đầu sách tiếng Anh, Pháp và 24 đầu sách tiếng Việt. Những tưởng
với sự đầu tư tham khảo như vậy, sách sẽ có chất lượng về mặt nghiên cứu, học
thuật, theo như lời tựa mà ban biên tập đề ra: Cuốn sách nầy ra đời nhằm giúp
bạn đọc hiểu được nguyên nhân phong thánh của nhà văn thiên tài nầy và một phần
sự phát sinh Đạo Cao Đài ở Việt Nam.
Tuy nhiên, cuốn sách này phạm
những lỗi không đáng có, từ thực chứng cho đến những nhận định về con người, sự
kiện lịch sử liên quan đến đạo Cao Đài.
Những sai sót cơ bản
Ví dụ, tác giả viết “Tòa Thánh
Tây Ninh chính là Vatican hay là Thánh địa của đạo Cao Đài. Trong Tòa Thánh
trung ương này, ngay lối vào treo một bức tranh to rộng vẽ chân dung của ba vị
thánh Victor Hugo, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Tôn Dật Tiên” (trang 66 dòng 9) nhưng
thật chất, tranh ba vị thánh không phải được “treo” mà được vẽ thẳng vào vách
tường, bao quanh là hoa văn trang trí và bóng đèn để chiếu sáng.
Tác giả cho rằng, “Theo Cao Đài
bức tranh tam thánh miêu tả ba vị trên đang cùng nhau với Đấng Cao Đài xin
Thượng Đế cho phép ân xá lần thứ ba để cứu độ nhân chúng. Hiệp ước thỏa thuận
xin lập đạo Tam kỳ Phổ độ. Ba ông ký chịu trách nhiệm trước Thượng Đế trách
nhiệm dìu đắt con người đi theo con đường của Đấng Cao Đài dạy bảo” (trang 66).
Nhưng Giáo lý ĐĐTKPĐ dạy rõ: Ngọc
Hoàng Thượng Đế (Trời) tá danh Cao Đài khai mở ĐĐTKPĐ. Như vậy, Thượng Đế chính
là Đấng Cao Đài. Vậy thì làm sao có việc Đấng Cao Đài xin Thượng Đế cho phép ân
xá lần thứ ba?
Nữa là, Đấng Cao Đài mở ĐĐTKPĐ
năm 1926 thì sau đó mới có việc Tam Thánh đại diện cho nhân loại ký hòa ước với
Đức Chí Tôn (góc phải bên dưới bức tranh có ghi Tòa Thánh 1947 - Họa Sĩ Lê Minh
Tòng). Nghĩa là có ĐĐTKPĐ rồi nhiều năm sau mới có bức tranh Tam Thánh ký hòa
ước, hoàn toàn không có việc Tam Thánh xin lập đạo Tam kỳ Phổ độ.
Sai thứ ba là, Thượng Đế tá danh
Cao Đài để hoằng khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (06 chữ) hay Đạo Cao Đài (03 chữ).
Hiến Chương năm 1965 Hội Thánh Cao Đài ghi rõ tại điều thứ nhất: Danh hiệu là:
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, gọi tắt là (Đạo Cao Đài).
Danh hiệu 06 chữ ĐĐTKPĐ là danh
hiệu một tôn giáo do Đấng Cao Đài lập ra. Đấng Cao Đài (là Trời) có trước rồi
mãi về sau mới có ĐĐTKPĐ.
Đấng Cao Đài lập ra ĐĐTKPĐ chớ
chẳng phải ĐĐTKPĐ lập ra Đấng Cao Đài. Cho nên người có hiểu biết tường tận
viết ĐĐTKPĐ hay Đạo Cao Đài chứ không bài giờ viết ngược lại là Đạo Cao Đài hay
ĐĐTKPĐ. Nói rõ như vậy để thấy rằng không có tôn giáo nào có danh hiệu đạo Tam
kỳ Phổ độ như tác giả viết.
Chưa kể, tác giả tìm cách xuyên
tạc Tân Luật khi tại trang 45, tự tiện thêm vào câu “cấm quan hệ tình dục”, dù
rằng, Tân luật Phần Đạo pháp không có câu đó, giáo lý đạo Cao Đài không có
khoản nào kêu gọi người đạo phải tuyệt dục hay diệt dục.
“Thượng thừa cao hơn hạ thừa, bao
gồm tất cả những ai cống hiến cuộc đời cho đạo như các chức sắc và các tín đồ,
họ bắt buộc ăn chay trường, mặc quần áo theo sắc phục qui định của đạo và cấm
quan hệ tình dục.” (trang 45)
Tại trang 48: “Hộ Pháp Phạm Công
Tắc không thừa nhận cơ bút chỉ định Nguyễn Ngọc Tương thay Lê Văn Trung làm
Giáo tông. Nguyễn Ngọc Tương bỏ về Bến Tre lập Ban Chỉnh Đạo.”
Rồi trang 79, 80 lại nhấn mạnh:
“Phủ nhận phong sắc Giáo tông cho Nguyễn Ngọc Tương. Vì thế ông đã từ bỏ Tây
Ninh về Bến Tre lập đạo.”
Sự thật là ông Tương tách khỏi
Tây Ninh rồi sau đó mới cầu cơ ở Bến Tre tự thăng lên Giáo Tông của Ban Chỉnh
Đạo. Cả hai đều sai với sự thật.
Trang 102 ghi rằng: “Nguyễn Văn
Tương (tín đồ đầu tiên và được tấn phong Thượng Đầu Sư sau bỏ ra làm Giáo Tông
Ban Chỉnh Đạo Cao Đài Bến Tre)... đã hé một phần sự thật: sau bỏ ra làm Giáo
Tông Ban Chỉnh Đạo Cao Đài Bến Tre.”
Nhưng lại sai ở hai điểm khác,
một là chữ lót của ông Tương là chữ Ngọc (còn chữ Văn là Ngài Thượng Chưởng Pháp:
Nguyễn Văn Tương. Cả hai ông cùng có thánh danh là Thượng Tương Thanh). Thứ hai
Ông Nguyễn Ngọc Tương được tấn phong Chánh Phối Sư phái Thượng. Khi Ngài Thượng
Đầu Sư Thượng Trung Nhựt lên Giáo Tông Ngài Tương mới được phong Thượng Đầu
Sư).
Trang 177 dòng 10: Được bầu thay
thế Giáo tông Lê Văn Trung, nhưng bị lật đổ và cấm vào Tòa Thánh Tây Ninh. (Phụ
lục về Nguyễn Ngọc Tương).
Sự thật là ông Tương lật đổ Đức
Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt không được rồi mới lui về Bến Tre hiệp với
ông Lê Bá Trang (Chánh Ngọc Phối Sư lên Chưởng Pháp phái Bến Tre) lập ra chi
phái Bến Tre (Ban Chỉnh Đạo). Sau đó ông Tương mới tập hợp số người ủng hộ ông
bầu ông làm Giáo Tông của chi phái Bến Tre.
Sau đó Ông Lê Bá Trang mất ông
Trang đưa về Tòa Thánh Tây Ninh. Ông mặc thiên phục theo phẩm Giáo Tông của chi
phái Bến Tre vào Đền Thánh để hợp thức hóa phẩm mới của ông. Ban nghi lễ và
trật tự phát hiện yêu cầu ông phải mặc thiên phục đúng hàng phẩm; ông từ chối
không vào chớ chẳng có ai cấm ông vào Tòa Thánh được hết.
Về nguyên tắc phẩm trật chức sắc
là do thiêng liêng ban thì chỉ có thiêng liêng mới có quyền rút phẩm. Thiêng
liêng chưa xuống lịnh rút phẩm lại thì không một quyền nào có thể cấm họ mặc
thiên phục vào đảnh lễ Đức Chí Tôn cả.
Tóm lại, do ông Tương không chịu
mặc thiên phục đúng hàng phẩm để kỉnh lể Đức Chí Tôn nên không được vào chớ
chẳng có ai cấm ông Tương hết. Tác giả không hiểu nên viết cấm ông Tương vào
Tòa Thánh là oan cho đạo.
Bịa ra nhân vật để bôi xấu
hộ pháp Phạm Công Tắc
Nhà nghiên cứu Trần Thu Dung tác
giả cuốn sách Đạo Cao Đài & Victor Hugo viết:
....Vidal càng trở nên
thân tín và chỉ đạo Hộ Pháp Phạm Công Tắc, khi kết hôn Phạm Thị Tốt – con gái
của Phạm Công Tắc. Phạm Thị Tốt vừa là thành viên của FB3 vừa là Đầu Sư của Đạo
Cao Đài. Chức Đầu Sư là chức sắc lớn nhất của phái Nữ trong Đạo Cao Đài. Bà đã
biến Phạm Môn thành nơi tập hợp kín của các thành viên FB3. Hộ Pháp Phạm Công
Tắc chẳng nhẽ không có mặt ở Phạm Môn hàng ngày làm việc, không biết gì về hoạt
động của tổ chức bí mật này (trang 151).
Tiếp đó, trang 152 còn cho
rằng: Nguyễn Phan Long phụ trách liên hòa Tổng Hội – một chi nhánh của
Đạo Cao Đài là nhân chứng cho đám cưới của Vidal và Phạm Thị Tốt. Cha đở đầu
của Pierre Vidal (con trai của Vidal và P.T.Tốt)
Vậy sự thật như thế nào? Ông Vidal
là ai? Theo tác giả Trần Thu Dung viết tại trang 151 thì câu chuyện diễn ra từ
năm 1928 đến 1946. Louis Vidal là nhân vật cao cấp của Hội Tam Điểm. Ông Vidal
có thật hay không, chức vụ của ông thế nào thì chúng tôi không rõ nên không
luận tới. Nên sẽ làm rõ bằng những gì chúng tôi biết chắc thật 100%.
Đó là ông Phạm Công Tắc
(1890-1959) có người con gái nào tên Phạm Thị Tốt hay không?
Ông Phạm Công Tắc có 02 người con
gái. Người chị tên Phạm Hồ Cầm (thường gọi là cô Ba Cầm), có lập gia đình riêng
là Hiền Tài Ban Thế Đạo (ít tham gia đạo sự). Người em tên Phạm Tần Tranh
(thường gọi cô Tư Tranh), không có gia đình riêng (không kết hôn lần
nào).
Năm 1954 Quốc Trưởng Bảo Đại mời
Đức Hộ Pháp (là cố vấn Quốc Trưởng) đi Paris và sang Thụy Sĩ dự Hội nghị Geneve
về Việt Nam năm 1954. Âu Du Ký của Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa chép công việc ngày
11/07/1954 cho thông tin. Ngài có nhận một cô gái Pháp nghèo tên Magda Purro,
28 tuổi làm con nuôi. Cô là người làm công cho Hotel Régina và là một trong số
bốn người hay lên xuống bưng thức ăn cho phái đoàn. Cô mồ côi cha mẹ sớm, có ba
em, Cô phải nghỉ học để đi kiếm chuyện làm lấy tiền nuôi em. Cô Magda Purro năm
1954 được 28 tuổi thì không phải là cô Phạm Thị Tốt từ năm 1928 đến 1946 trên
đây. Đó là điều chắc chắn.
Tóm lại trong hai người con gái
của ông Phạm Công Tắc không có ai tên Phạm Thị Tốt cả. Rõ ràng là nhà nghiên
cứu Trần Thu Dung đã hô biến ra cô Phạm Thị Tốt.
Và nếu cô dâu Tốt không có thật
thì cuộc hôn nhân cũng là bịa đặt. Con gái ông Phạm Công Tắc lên đến phẩm Đầu
Sư cũng là bịa ra. Ông Nguyễn Phan Long là nhân chứng cho cuộc hôn nhân nầy là
bịa ra. Bé Pierre Vidal cũng là bịa ra. Nhà nghiên cứu đã vào vai người mẹ đẻ
của nhiều điều không có thật chỉ cần hô biến ra cô Phạm Thị Tốt là tạo được
những điều bịa trong chưa đầy một trang sách.
Nhà nghiên cứu bịa ra với dụng ý
xấu hay tốt cũng đều không đáng có trong một tác phẩm nghiên cứu. Trường hợp
nầy là bịa ra để nói xấu Hộ Pháp Phạm Công Tắc (chịu sự chỉ đạo của ông Louis
Vidal) là điều đã rõ ràng.
Mất phương hướng và cưỡi
ngựa xem hoa
Tại trang 141 tác giả viết: ...Sự
liên quan từ hội Tam Điểm còn thấy rõ, tại sao Hộ Pháp Phạm Công Tắc khi còn là
công chức toan bỏ trốn đi Nhật, tổ chức sinh viên đi du học Nhật, bị bại lộ
phải trốn về Tây Ninh, tuy ẩn trốn lại được nhận vào làm thư ký nhà đoan, rồi
công khai ra mở đạo được là điều bí ẩn khó giải thích.
Sự thật thế nào?
Tại trang 174 phần phụ lục cuốn
sách (về Phạm Công Tắc) viết: Năm 17 tuổi bị chính quyền thuộc địa lùng
bắt vì tham gia đưa sinh viên đi du học Nhật.
Phụ lục đã viết đúng sự thật
nhưng chưa đủ để soi rọi hai chữ bỏ trốn hay ẩn trốn dùng cho ông Tắc trong
trích đoạn trang 141 có công bằng hay không?
Tại trang 57 của cuốn sách viết
rõ, năm 17 tuổi ông bỏ học tham gia một tổ chức bí mật gởi sinh viên đi du học
bên Nhật. Ông cũng toan tính đi nhưng việc bị chính quyền thuộc địa phát giác,
ông trốn về sống ở Tây Ninh.
Đoạn nầy cũng không viết rõ tổ
chức bí mật đó tên gì? Ai lãnh đạo để tạo môi trường thích hợp cho chữ trốn. Do
đó, muốn sáng tỏ phải xác định được: việc làm đó là quyết định cá nhân hay chủ
trương tổ chức? Tổ chức đó tên gì? Đưa sinh viên du học do công nghĩa hay tư
lợi? Đi du học với mục đích gì?
Quay trở lại lịch sử, vào đầu năm
1905, chí sĩ Phan Bội Châu sang Nhật rồi quay về dấy lên một phong trào Đông Du
vào năm 1905-1908. Ông đã tổ chức Công hiếu hội, tập hợp 200 lưu học sinh Việt
Nam sang Nhật học tập chính trị, khoa học, quân sự. Như vậy năm 17 tuổi (1907)
ông Phạm Công Tắc đi Nhật trong phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu. Cụ Phan
là một nhà chí sĩ, một nhà ái quốc chân chính, danh thơm lừng lẫy như vậy đi
theo tiếng gọi của cụ phải là người cùng chí hướng với cụ.... Ông Tắc đi du học
hay vận động đưa sinh viên đi du học là vì công nghĩa. Động cơ là học sách lược
canh tân của người Nhật, học khoa học kỷ thuật của Nhật đem về truyền bá để
nâng cao dân trí cuối cùng là cởi ách độ hộ của thực dân Pháp.
Tác giả liệt kê 73 đầu sách tham
khảo trong đó rất nhiều đầu sách viết rõ ông Phạm Công Tắc tham gia phong trào
Đông Du. Vậy việc che dấu hai chữ Đông Du là vô tình hay cố ý? Nhà nghiên cứu
đứng trên lập trường của thực dân hay lập trường của dân tộc Việt Nam khi viết
như vậy? Bà dùng chữ trốn đối với ông Phạm Công Tắc trong trường hợp nầy có
công bằng hay không? Có ác ý chi không?
Ngoài ra, tác giả đã cưỡi ngựa
xem hoa trong nhận định lịch sử Đạo Cao Đài.
Đầu tiên là công khai mở đạo,
chúng tôi nhận thấy có 02 cách lý giải: Cách của tôn giáo và cách của chính
quyền hiện nay qua Bản Án Cao Đài ngày 20/07/1978. Nay nhà nghiên cứu Trần Thu
Dung lại ban cho cách mới. Xin trình bày vắn tắc.
Cách của tôn giáo: Ngày
25/04/1926 ông Phạm Công Tắc được Đức Cao Đài phong phẩm Hộ Pháp.
Ngày 29/09/1926, ông Cựu Thượng
Nghị Viện Lê Văn Trung (thọ phẩm Đầu Sư phái Thượng) theo lịnh của Đức Chí Tôn
hiệp với chư Ðạo Hữu hết thảy là 247 người tại nhà ông Nguyễn Văn Tường đứng
tên vào Tịch Ðạo để khai Ðạo với Chánh Phủ. Đến ngày 07/10/1926, gởi Tờ Khai
Đạo lên Chánh Phủ cho quan Nguyên Soái Nam Kỳ là ông Le Fol. Trong tờ nầy có 28
người đứng tên thay mặt cho cả chư Ðạo Hữu có tên trong Tịch Ðạo.
Trong khi đó, tại trang 177 nhà
nghiên cứu viết "Đơn xin khai Đạo" là rất sai. Xin thì phải chờ chính
quyền cho phép. Còn "Tờ khai Đạo" thì báo cho chính quyền biết mà
không phải lệ thuộc vào sự cho phép của họ. Cách hô biến "Tờ khai
Đạo" thành "Đơn xin khai Đạo" là cách thức để hạ thấp giá trị
đối tượng, làm mất tính khách quan trong nghiên cứu.
Thứ hai, tại trang 141 cho biết: ...
từ năm 1926 đến năm 1940 chỉ trong vòng 14 năm đạo Cao Đài đã xây được Tòa
Thánh hoành tráng ở Tây Ninh, Phnôm Pênh và một số Tỉnh khác. Ai là
người đã trợ giúp ngân sách xây dựng? Việc công quả đóng góp của của các tín đồ
không thể nhiều được như vậy vì người châu á vốn nghèo, việc công quả, quyên
góp để xây chùa rất khó khăn. Mặc dù đại đa số người Việt Nam
theo đạo Phật.
Theo tác giả thì đây là tác phẩm
nghiên cứu và chỉ trình bày đúng sự thật (Lời Tựa ở trang 6). Đúng sự thật thì
phải chính xác. Vậy đoạn trên có chính xác hay không?.
Đền Thánh hiện nay trước kia là
Thánh Thất tạm (làm bằng gỗ). Đến năm 1936 mới khởi công xây bằng vật liệu kiên
cố như hiện nay. Số tiền ban đầu là 01 đồng 46 xu (01đ46). Giá lúa lúc đó là
0đ20 một giạ (40 lít). Thời điểm đó kinh tế bắt đầu suy thoái và lan rộng để đi
đến đệ nhị thế chiến (1939-1945).
Tòa Thánh được xây dựng từ đức
tin, trái tim và trí óc của người đạo mà ra. Người công quả chính thức xây Tòa
Thánh phải lập thệ: trường trai và thủ trinh trong thời gian công quả. Từ tinh
thần đó người công quả tạo ra vật chất không phải là nan giải. Tạo như thế
nào?
Phước Thiện và Phạm môn tổ chức
làm ruộng, trồng trĩa để có lúa gạo, thực phẩm... người đi làm thuê tranh thủ
kiếm mớ rau rừng đem về hiến cho công quả, sau cơm chiều Hội Thánh kêu gọi làm
công quả 02 giờ (120 phút) hay 03 giờ (180 phút) được ghi một ngày công quả.
Những người làm công quả cho biết
thiếu sắt thì lấy tre gai thật già, hay tầm vông thật già chen vào. Xi măng rất
ít nên lấy vỏ cây ô dước đập mềm, xay nhuyễn, mật rĩ, vôi... trộn vào... xây cả
tuần hay mười ngày sau mới cứng. Trí óc, bàn tay người công quả tạo nên từng
viên gạch, góp nhóp từng hòn đá... Tiền bạc chỉ là phần thứ yếu trong kiến trúc
Tòa Thánh (các nhà buôn cũng sẳn lòng bán thiếu cho Hội Thánh). Năm 1941 xây
dựng được phần thô thì Pháp bắt Đức Hộ Pháp đày đi Madagascar. Thời gian nầy
Pháp chiếm Tòa Thánh làm trại lính và nhốt ngựa ngay trong Đền Thánh. Năm 1946
tình thế thay đổi Pháp đưa Đức Hộ Pháp về và tiếp tục xây dựng Đền Thánh.
Giai đoạn nầy Quân Đội Cao Đài đã
trích phần lương ít ỏi của họ để góp phần công quả tạo tác, đến năm 1955 mới
khánh thành. Đó là chấm phá vài nét việc xây dựng theo tôn giáo: Đức tin
một khối tạo nên hình chính là câu thơ tả cảnh xây dựng Đền Thánh.
Bản án Cao Đài ngày 20/07/1978
trang 13 có viết rõ ràng: Nguồn viện trợ của đế quốc rất quan trọng, nó
là cơ sở để có vốn mở rộng kinh doanh kinh tế, xây cất các dinh thự, đài phát
thanh, viện Đại học, bệnh viện, chợ búa. Hằng năm, thu nhập hàng trăm triệu
đồng tiền cũ. Dựa vào các nguồn thu thập, một số chức sắc cao cấp và trung cấp
tham ô, ăn cắp để xây dựng nhà cửa, tạo ra những cơ sở kinh doanh làm giàu
riêng cho mình.
Vì vậy, tài sản, dinh thự, các cơ
sở kinh doanh của Hội Thánh không phải là của riêng ai, mà là tài sản của đế
quốc đã rút chạy để lại, là của nhân dân lao động đóng góp. Nhân dân lao động
cần phải quản lý sử dụng đẩy mạnh sản xuất xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, dù theo cách tôn giáo
hay cách của chính quyền hiện nay cũng không có chi bí ẩn.
Việc nhà văn, nhà nghiên cứu Trần
Thu Dung đặt câu hỏi lập lờ kiểu, "Ai là người đã trợ giúp ngân sách xây
dựng?" đến những nghi vấn sau đó, rồi lấy sự việc của Thánh Thất Cao Đài ở
Cao Miên về gán cho Tòa Thánh Tây Ninh sau đó cột vào hội Tam Điểm... Cho thấy,
nó không xuất phát từ một nhà nghiên cứu nghiêm túc mà nó mang màu sắc hình sự,
định kiến thông qua gán ghép và áp đặt vấn đề.
Và trong 73 đầu sách tham khảo,
tác giả liệt kê không có Bản Án Cao Đài ngày 20/07/1978 nhưng cách đặc vấn đề
và giải quyết nó rất gần nhau đó là ngẫu nhiên hay không ngẫu nhiên?
Và dù, tác giả cho rằng,
"cuốn sách nầy ra đời nhằm giúp bạn đọc hiểu được nguyên nhân phong thánh
của nhà văn thiên tài nầy và một phần sự phát sinh Đạo Cao Đài ở Việt
Nam", cũng như tác giả "sẽ viết theo sự thật và dựa trên văn bản, đó
là tư cách một nhà nghiên cứu." Tuy nhiên, ở một số chi tiết giáo lý và sự
kiện, tác giả đã cố tình bẻ cong nó.
Vậy nội dung tác phẩm có thể hiện
đúng như tác giả xác định hay là tác giả đi vào lãnh vực khác
(không hề giới thiệu) là giáo lý và pháp luật hay một số sự kiện khác để bẻ
cong sự việc hay ám sát nó.
Sai sự kiện Đức Hộ Pháp
sang Campuchia năm 1956
Tác giả viết:
./ Trang 57: Năm 1956 ông ẩn trốn
sang Campuchia và mất tại đó (17-05-1959)
./ Trang 77: Vì lý do chính trị,
ông ẩn trốn sang Campuchia sống, nên các buổi thông linh với V. Hugo chấm dứt
hoàn toàn
./ Trang 156: Thừa Sử Lê Quang
Tấn người đã từng phò tá Phạm Công Tắc sang ẩn trốn ở Campuchia.
Sự thật là sau khi quốc gia hóa
quân đội Cao Đài (02/05/1955) ông Ngô Đình Diệm muốn thực thi chế độ độc tài
gia đình trị nên ra kế hoạch truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại. Đức Hộ Pháp là
người đề xướng việc rước cựu hoàng từ Hongkong về làm Quốc Trưởng (1947) nên họ
Ngô thấy rằng Ngài là trở ngại lớn trong chương trình gia đình trị. Cho nên họ
Ngô phải diệt trước khi mở cuộc trưng cầu dân ý.
Ngày 16-02-1956 Đức Hộ Pháp đi
Nam Vang để tránh nạn cốt nhục tương tàn làm suy yếu miền Nam.
Theo Âu Du Ký do Ngài Bảo Đạo Hồ
Tấn Khoa ghi lại sự việc ngày 05/07/1954 (lúc 19 giờ) tại Versoix (Génève) là
trụ sở của phái đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Trong khi họp Đức Ngài nói
thẳng với Thủ Tướng Phạm Văn Đồng rằng: "Cái công
kháng-chiến của Việt Minh, quốc-dân không quên, nhưng phải làm thế nào cho cuộc
giải-phóng dân-tộc cho trọn vẹn chớ đừng gở ách này rồi mang cái gông khác hay
là đuổi cậu Pháp rồi rước chú Tàu về thì không ăn thua gì và quốc-dân sẽ
phán-đoán việc đó)."
Khi sang Campuchia Ngài đã công
bố Cương Lĩnh Hòa Bình Chung Sống (HBCS) ngày (26/03/1956) đề xuất hai miền Nam
– Bắc Việt Nam phải thực thi quyền tự quyết dân tộc bằng cuộc Tổng Tuyển Cử có
sự giám sát của Liên Hiệp Quốc theo Hiệp Định Génève 1954 về Việt Nam, để tránh
nạn nồi da xáo thịt.
Sau đó Ngài gởi thư cho ông Ngô
Đình Diệm, Ông Hồ Chí Minh, các tôn giáo bạn, nguyên thủ một số quốc và Liên
Hiệp Quốc, để thông báo Cương Lĩnh HBCS với mong muốn việc Tổng tuyển cử được
thực hiện. Ngài cũng tổ chức cho phái đoàn ông Lê Văn Thoại dựng cờ HBCS tại
cầu sông Bến Hải ngày 18-5-1956.
Một số Đài phát thanh, nhựt báo,
Thông tấn xã cũng đã đến phỏng vấn Đức Ngài. Chính quyền Miền Bắc cũng gởi thư
mời Ngài ra thăm... Vậy tác giả dùng chữ ẩn trốn có đúng không? Có ác ý Đức Hộ
Pháp không?
Trang 77 nhận định, “nên các buổi
thông linh với V. Hugo chấm dứt hoàn toàn lại” là điều sai 100%. Văn Tịch Pháp
Nhơn Luân Chi Đạo trang 68 dòng 06 cho biết ngày 19-9-1956 Đức Nguyệt Tâm Chơn
Nhơn cho Đức Hộ Pháp biết chính Ngài báo tin Apothéose (nghĩa là 07 tháng sau
khi Đức Hộ Pháp di Nam Vang) và còn nhiều đàn cơ khác.
Tại trang 57 có viết: Nhưng
trước đó, từ năm 1940 không thấy tổ chức cầu cơ, có thể do đi đày ải, trở về
già nua bệnh tật tình hình chính trị không cho phép, nên việc cầu cơ như chấm
dứt cho đến nay.
Đoạn này, cái sai lớn nhất là Đức
Hộ Pháp bị thực dân bắt năm 1941 và đày đi Madagascar đến 1946 mới về (hơn 05
năm chớ không phải 04 năm như dòng 20 cùng trang viết), cũng như mâu thuẫn với
trang 77.
Rồi tác giả bắt đầu nêu ra quan
điểm đối với lịch sử và sự phát triển của Đạo Cao Đài rằng:
“Đạo Cao Đài ngày nay có
xu hướng sẽ bị suy đi, vì nhiều lý do. Luật của Đạo đề ra, mọi việc phong phẩm
vị hay phê chuẩn nhất nhất phải qua cầu cơ xin ý của Thầy.
Các tín đồ trẻ con cháu
các chức sắc Cao Đài, do hoàn cảnh chính trị không dám công khai phá vỡ luật lệ
của Đạo”. (trang 171)
“Tự hào về ông cha, các
tín đồ nên mạnh dạn duy trì, và đứng ra thay đổi luật đạo. Đạo nào cũng vậy,
trong quá trình tiến triễn của lịch sử, nhiều luật lệ phải bổ sung và thay đổi
để phù hợp với tình hình mới.” (trang 172)
“Tại sao các tín đồ trẻ
không theo gương bậc chức sắc tiền bối, cách tân luật lệ để đạo Cao Đài phát
triễn và lan rộng?” (trang 173)
Thực tế là ngày 09/05/1997 chính
phủ đã giúp cho chi phái 1997 ra đời. Chi phái nầy đem banh vàng xanh đỏ vào
cung Đạo thay cho cơ bút rồi nhà nghiên cứu không biết hay sao mà còn hô hào
đừng chờ Thầy hay các Đấng nữa.
Tiền bối của Đạo có 02 diện, một
là tuân theo Pháp luật đạo, chấp nhận chỉ có 03 Đấng có quyền phong thưởng là
Đức Chí Tôn, Đức Lý Giáo Tông và Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn. Diện thứ hai tách ra
để cầu cơ rồi tự phong. Đạo luật Mậu Dần (1938) gọi rõ là chi phái phản
đạo.
Nhà nghiên cứu về Đạo Cao Đài mà
không biết lời minh thệ khi nhập môn cầu đạo: "Tên gì? Họ gì? Thề rằng: Từ đây biết một Đạo Cao - Đài Ngọc -
Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư Môn - Đệ, gìn luật lệ Cao - Đài, như
sau có lòng hai thì Thiên - tru, Địa - lục".
Lời minh thệ (gìn luật lệ Cao –
Đài) như một tiền đề căn bản mà mọi cái sau đó không được trái hay mâu thuẩn
với nó. Lại kêu gọi phá tan pháp luật đạo thì đích thị là sự thiển cận trong
nghiên cứu.
Một nhà nghiên cứu tôn giáo mà không
biết tiền đề căn bản (là lời minh thệ khi nhập môn cầu đạo) thì khác nào người
học hình học phẳng mà không biết tiền đề Euclid.
So với Bản Án Cao Đài
thì tác phẩm nầy đánh phá rất tinh vi và đi vào lãnh vực mà Bản Án không tiện
đề cập tới.
Việc kêu gọi phá pháp luật đạo
được chuẩn bị rất kỷ khi tác giả phê bình Ngài Victor Hugo khi sống rất giàu
lòng nhân ái tha thứ hết, cớ sao khi là một vị Thánh của đạo Cao Đài lại buộc
người đạo phải tuân y pháp luật đạo?
Xin thưa bởi vì Ngài chấp nhận
tiền đề cơ bản, “gìn luật lệ Cao – Đài [...] nên buộc người đạo đừng vi
phạm.”
Lời kết
Trong tác phẩm Đạo Cao Đài và
Victor Hugo có nhiều viên thuốc độc dấu rãi rác trong những chỗ kín đáo mà
không phải bạn đọc nào cũng phát hiện ra. Trong trách nhiệm của một người đạo
chúng tôi may mắn nhận ra và đã chứng minh rất minh bạch.
Tác phẩm nghiên cứu mà vi phạm
những nguyên tắc rất cơ bản và bịa đặt để nói xấu tôn giáo thì chúng tôi có
trách nhiệm chứng minh trước công luận; tác giả nên ý thức mà chỉnh đốn.
Là người Đạo Cao Đài chúng tôi
hoan hỉ đón nhận tất cả văn bút của những hiền nhân quân tử liên quan đến tôn
giáo. Văn bút có đúng, có sai là chuyện thường tình; không có chi đáng trách.
Đó là một vinh dự cho đạo. Chúng tôi hoan nghinh sự phản biện của tác giả hay
đọc giả về các vấn đề đã nêu ra lẫn những vấn đề chưa được nêu.
* Ông Trần Văn Tân,
đại diện Ban thông tin Khối Nhơn Sanh.