41 Năm
nhìn lại: 30-4-1975 Chiến tranh Việt Nam kết thúc mang ý nghĩa gì?
bên
Bắc và Nam Việt Nam đã bị ngoại bang sử dụng như những công cụ một thời, thực
hiện chiến lược quốc tế trong vùng của các cường quốc đế quốc cộng sản và tư
bản. Nghĩa là một cuộc chiến tranh ý thức hệ do các cường quốc đế quốc
chủ mưu và thủ lợi, đã xử dụng hai công cụ bản xứ để thực hiện cuộc chiến tranh
cốt nhục tương tàn, biến đất nước ta thành bãi chiến trường, nhân dân ta là đối
tượng tiêu thụ vũ khí tồn đọng sau Thế Chiến II và thử nghiệm thêm các phương
tiện giết người hiện đại.
Lực lượng lính biên phòng trong
một buổi diễn tập chuẩn bị cho lễ diễu hành kỷ niệm ngày 30 tháng 4 tại Việt
Nam. Hình minh họa.
Ai cũng biết là cuộc nội chiến
Quốc-Cộng tại Việt Nam kéo dài trên 20 năm (1954-1975) và đã kết thúc tính đến
30 tháng tư năm nay là đúng 41 năm (1975-2016). Như vậy là thấm thoắt thời gian
hòa bình trên đất nước ta đã dài gấp đôi cuộc chiến.
Dân tộc Việt Nam đã được gì, mất
gì trong những thời gian chiến tranh và hòa bình ấy, hẳn ai cũng có thể nhẩm
tính được. Ðã có biết bao biến đổi thăng trầm trên đất nước và dân tộc Việt Nam
trong hòa bình. Chiều hướng biến đổi chung là các bên thù địch tham chiến hôm
qua, hôm nay đều như có nỗ lực đẩy lùi quá khứ, muốn mau chóng quên đi chiến
tranh, hận thù để cùng hướng đến một tương lai tươi sáng và tốt đẹp cho dân
tộc.
Các bên cựu thù là người Việt Nam,
từng được ngọai bang sử dụng như những công cụ chiến lược một thời, nay đa số
như đồng ý là cần “hòa giải và hòa hợp dân tộc” theo đúng ý nghĩa của cụm từ
này. Vấn đề bất đồng chỉ còn là phương thức thực hiện “hòa giải và hòa hợp dân
tộc” thế nào cho hợp tình hợp lý, để các bên có thể chấp nhận được, hầu sớm đi
đến thống nhất được tòan lực quốc gia để cùng kiến tạo một tương lai tươi sáng
cho dân tộc, tạo thế lực vững chắc bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải
trước tham vọng xâm lăng của ngoại bang Phương Bắc.
Các bên cựu thù ngọai bang, thì
nay dường như tỏ ra có thực tâm muốn tạo điều kiện thuận lợi cho các bên cựu
thù bản xứ xích lại gần nhau và sẵn sàng giúp Việt Nam xây dựng dân chủ, phát
triển đất nứơc, theo yêu cầu của một thế chiến lược quốc tế mới và vì quyền lợi
thiết thân của chính họ.
Thành ra, càng ngày người ta có vẻ
dễ dàng đồng ý được với nhau về ý nghĩa lịch sử của chiến tranh Việt Nam và sự
kết thúc của cuộc chiến này. mang một ý nghĩa trung thực phù hợp với tính khách
quan của lịch sử.
Thật vậy, sau khi chiến tranh kết
thúc, chế độ công cụ cộng sản quốc tế Hà Nội được đóng vai trò thắng trận đã
đưa ra ba “ý nghĩa lịch sử” của cuộc chiến tranh Việt Nam và sự kết thúc của
nó. Chúng ta hãy nhận định về ba “ý nghĩa lịch sử” này, để thấy được sự chuyển
biến nhận thức của các bên tham chiến theo thời gian, những người Việt Nam cộng
sản cũng như những người Việt Nam không cộng sản.
I/- Có phải đó là “Cuộc Chiến
Tranh Yêu Nước, Chiến Tranh Giải Phóng Dân Tộc và Bảo Vệ Tổ Quốc Tiêu Biểu và
Vĩ Ðại Nhất Ở NứơcTa” không?
Cần phân định rạch ròi cuộc chiến
đánh đuổi thực dân Pháp cho đến năm 1954, hòan tòan khác với cuộc chiến tranh
Quốc - Cộng do chế độ công cụ của cộng sản quốc tế ở Miền Bắc phát động, tiến
hành tại Miền Nam từ năm 1954 đến 1975 về mục tiêu và ý nghĩa.
Mọi người có thể đồng ý với những
người Việt Nam cộng sản về ý nghĩa của cuộc chiến tranh trước, đúng thực là “Cuộc
Chiến Tranh Yêu Nước, Chiến Tranh Giải Phóng Dân Tộc và Bảo Vệ Tổ Quốc Tiêu
Biểu và Vĩ Ðại Nhất Ở NứơcTa”. Vì cuộc chiến này đã kết thúc gần
một trăm năm nô lệ thực dân Pháp, sau một quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ
của nhiều thế hệ nhân dân Việt Nam. Còn cuộc chiến tranh sau, đến lúc này thì
ai cũng phải hiểu đó là “Cuộc chiến tranh lợi dụng lòng yêu nước, khát vọng độc
lập, tự do, dân chủ của nhân dân Việt Nam, xô đẩy dân tộc vào vòng cương tỏa
của chủ nghĩa thực dân mới”.
Nói cách khác, một cuộc chiến mà
các bên Bắc và Nam Việt Nam đã bị ngoại bang sử dụng như những công cụ một
thời, thực hiện chiến lược quốc tế trong vùng của các cường quốc đế quốc cộng
sản và tư bản. Nghĩa là một cuộc chiến tranh ý thức hệ do các cường quốc đế quốc
chủ mưu và thủ lợi, đã xử dụng hai công cụ bản xứ để thực hiện cuộc chiến tranh
cốt nhục tương tàn, biến đất nước ta thành bãi chiến trường, nhân dân ta là đối
tượng tiêu thụ vũ khí tồn đọng sau Thế Chiến II và thử nghiệm thêm các phương
tiện giết người hiện đại.
II/- Có phải đó là “Bản Anh Hùng
Ca Vĩ Ðại Nhất Trong Lịch Sử Hàng Ngàn Năm Dựng Nước Và Giữ Nước của Dân Tộc”
không?
Phải khẳng định là không. Vì đây
là hệ quả tất nhiên của ý nghĩa thứ nhất. Bởi một khi người ta đã đồng ý được
với nhau rằng cuộc chiến tranh vừa qua không phải là “Cuộc Chiến Tranh Yêu
Nước, Chiến Tranh Giải Phóng Dân Tộc. . .” thì tất nhiên việc tiến hành và kết
thúc cuộc chiến tranh ấy không thể là “Bản
Anh Hùng Ca Vĩ Ðại Nhất Trong Lịch Sử Hàng Ngàn Năm Dựng Nước Và Giữ Nước của
Dân Tộc”. Vả chăng chỉ có thể coi cuộc chiến tranh này, do công cụ
cộng sản Hà Nội khởi động, tiến hành và kết thúc “thắng lợi” như thế, là “Bản
anh hùng ca vĩ đại nhất của các cá nhân và tập đòan làm tay sai cho ngọai bang
trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta”.
Vì rằng quả thực cá nhân Ông Hồ và
tập đòan cộng sản Việt Nam đã thực hiện xuất sắc các ý đồ chiến lược của cộng
sản quốc tế, vì lợi ích cho lịch sử bành trướng của các tân Ðế Quốc Ðỏ Liên-Xô,
Trung Quốc, hòan tòan xa lạ và đi ngược lại với lịch sử đấu tranh dựng nước và
giữ nước của dân tộc Việt Nam. Vĩ đại nhất vì trong lịch sử làm công cụ thực
hiện ý đồ cho ngọai bang, không có cá nhân và tập đòan nào thực hiện “Nghĩa vụ
quốc tế cao cả” (!) xuất sắc hơn Ông Hồ và các lãnh tụ kế tục đảng Cộng sản
Việt Nam.
III/- Cuộc chiến tranh Việt Nam
kết thúc như thế có phải là “Thắng Lợi Của Phe Xã Hội Chủ Nghĩa”đối với “Phe Tư
Bản Chủ Nghĩa” hay không?
Lại vẫn phải khẳng định là không.
Trước đây có thể là hầu hết những người Việt Nam cộng sản không đồng ý với sự
khẳng định này. Nhưng chẳng bao lâu sau ngày 30-4-1975 và cho đến lúc này, dù
muốn dù không, đa số người Việt Nam cộng sản cũng như không cộng sản đã phải
thừa nhận sự thật này: Vì nhu cầu thay đổi thế chiến lược quốc tế,các cường quốc
đế quốc mới chủ động đưa cuộc hiến tranh Việt Nam đi đến kết thúc vào ngày
30-4-1975; và do đó, chiến tranh Việt Nam kết thúc như thế không thể coi là
thắng lợi của phe này (phe XHCH:Việt cộng) đối với phe kia (Phe TBCN:Việt
quốc).
Nhớ lại, sau ngày 30-4-1975, những
người Việt Nam cộng sản đã tỏ ra kiêu hãnh và tự hào rằng cuộc chiến tranh Việt
Nam kết thúc đã là một “đại thắng mùa xuân” cho họ, vì đã làm được công việc “đẩy
lùi trận địa của chủ nghĩa đế quốc, mở rộng trận địa cho chủ nghĩa xã hội, đảo
lộn được chiến lược tòan cầu của đế quốc Mỹ…”.Thế nhưng đến nay, dù
không nói ra, thực tế và các tài liệu giải mật sau này của các phe tham chiến,
đã “giác ngộ và phản tỉnh” những người Việt Nam Cộng sản, giúp họ hiểu rằng,
chính “đế quốc Mỹ và các thế lực phản động quốc tế” đã tiêu diệt được trận địa
chủ nghĩa xã hội, chủ động dập tắt cuộc chiến tranh Việt Nam nói riêng, chiến
tranh Ðông Dương và các cuộc chiến tranh cục bộ khác trên thế giới nói
chung, là do yêu cầu thay đổi thế chiến lược quốc tế mới, là nỗ lực chung của
các cường quốc cực nhằm thiết lập “một nền trật tự kinh tế quốc tế mới” hay là
“Một hệ thống kinh tế thế giới mới”.
Vì sao những người Việt Nam Cộng
sản “Giác ngộ và phản tỉnh” được như vậy?- Chính là do các sự kiện thực tế diễn
ra sau ngày cuộc chiến chấm dứt.
Thật vậy, khởi đầu quá trình thời
gian, ngay khi cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc, đã có một số người Việt nam
cộng sản có trình độ nhận thức và viễn kiến, lưu ý đến sự kết thúc chiến tranh
không bình thường. Trong thâm tâm những người Việt Nam Cộng sản này đã có những
suy nghĩ cùng chiều với một số đông người Việt Nam không cộng sản có tâm hồn
lạc quan và tầm nhìn chiến lược. Suy nghĩ rằng: Nếu việc kết thúc chiến tranh
Việt Nam quả là một thắng lợi của “phe xã hội chủ nghĩa” thì tình hình Việt Nam
phải biến chuyển theo chiều hướng khác với thực tế kể từ sau ngày 30-4-1975.
Thực tế hợp luận lý (logic) phải
là phe xã hội chủ nghĩa, cụ thể là các cường quốc cộng sản hàng đầu như Liên
Xô, Trung Quốc, phải tìm mọi cách và dồn mọi nỗ lực chi viện tối đa cho chế độ
cộng sản Việt Nam vượt qua những khó khăn hậu chiến, tạo điều kiện cho Việt Nam
phát triển đến cường thịnh. Ðể làm gì? – Ðể phát huy thắng lợi Việt Nam nhằm
lôi kéo, mời chào các nước nghèo đói, chậm tiến trong vùng hãy noi gương Việt
Nam, lao vào “một cuộc chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng dân tộc. .
.” để đạt mục tiêu lật đổ các chính quyền tư sản, xóa bỏ “các chế độ người bóc
lột người” để thay thế bằng các chế độ “Xã hội chủ nghĩa”; hãy theo gương Việt
Nam, để trong “Chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng” sẽ được trợ
giúp tối đa về vũ khí, lương thực để đánh thắng các chính quyền “phản động”; và
sau chiến tranh cũng sẽ được Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa
anh em khác viện trợ ồ ạt, vô điều kiện trong “tinh thần quốc tế vô sản”,
để cùng nhau thực hiện cuộc cách mạng vô sản trên tòan thế giới, xây dựng “một
xã hội xã hội chủ nghĩa” tại mỗi nước, tiến tới xã hội viên mãn tòan cầu: “Xã
hội cộng sản” như một “Thiên đường Cộng sản” trong viễn tưởng!
Thế nhưng thực tế trên đã không
xẩy ra mà chỉ thấy các hiện tượng trái chiều. Người ta thấy Liên Xô, Trung Quốc
và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, dường như chờ đợi một cái gì đó khác
hơn. Tất cả như chỉ đứng nhìn và để mặc cho Cộng sản Việt Nam loay hoay tự giải
quyết các khó khăn mọi mặt, khó khăn cũ cũng như khó khăn hậu chiến mới phát
sinh.
Trong những năm đầu, vào thời điểm
mà mâu thuẫn Nga-Hoa đã đến thời kỳ quyết liệt, Việt Nam bị đẩy vào thế phải
chọn lựa dứt khóat: Theo Liên Xô hay theo Trung cộng. Trong khi chờ đợi sự lựa
chọn dứt khóat này, cả Liên Xô lẫn Trung Quốc đều không có hành động chi
viện tích cực nào như đã từng hào hiệp đưa vũ khí, lương thực và các phương
tiện giết người hiện đại cho cộng sản Bắc Việt làm “Chiến tranh cách mạng,
chiến tranh Giải phóng Miền Nam”. Ðến khi chẳng đặng đừng cộng sản Việt Nam bó
buộc phải chọn lựa “Matxcơva là tổ quốc xã hội chủ nghĩa” duy nhất của mình,
lập tức Trung Quốc gây khó khăn thêm nữa cho Cộng sản Việt Nam.
Hành động cụ thể đầu tiên là Trung
cộng đòi nợ khẩn cấp, rút hết chuyên gia về nước, bỏ dở các công trình đang xây
dựng. . . Ðể trả món nợ trong chiến tranh này, cộng sản Việt Nam đã vơ vét luá
gạo, vàng bạc quý kim, tài nguyên đất nước, cùng với “chiến lợi phẩm” lấy được
ở Miền Nam của “Mỹ-Ngụy”, đem trả nợ cho Trung Cộng.
Hậu quả thấy được là nhân dân cả
nước trong thời gian này đã phải ăn bo bo, bột mì, độn ngô khoai sắn. . . Ðã
vậy, như chưa hả giận và như để trừng phạt kẻ phản bội “tham phú phụ bần”,
Trung cộng đã sử dụng công cụ mới của mình ở Campuchia (chế độ Pol Pot)
tiến hành các họat động quấy phá quân sự (như đánh chiếm vài đảo nhỏ
gần bờ biển phía cực Nam của Việt Nam, tấn công Tây Ninh và một số tỉnh biên
giới phía Nam của Việt Nam). Các họat động quân sự này của Pol Pot, sau đó
người ta hiểu được ý đồ thực sự của Trung Cộng chỉ là gài thế cho cộng sản Việt
Nam ngã sấp mặt và sa lầy lâu dài tại Campuchia, là muốn gián tiếp kéo Liên Xô
vào cuộc và gây thêm gánh nặng khó khăn cho Liên Xô… Bằng sự quấy phá, khiêu
khích quân sự của Pot Pot, rõ ràng là Trung Quốc đã đẩy cộng sản Việt Nam vào
thế phải kéo quân vào đất Chùa Tháp tháng 1 năm 1979, và cuối cùng bị sa
lầy ở đó. Ðã vậy, Trung Quốc còn bồi thêm những đòn trừng phạt quân sự, tiến
quân vào các tỉnh phía Bắc, tàn phá nặng nề những cơ sở quân sự, kinh tế
(1979)… gọi là để “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Nay thì thực tế ngày càng cho thêm
dữ kiện đầy đủ để mọi người Việt Nam có thể đi đến thống nhất nhận định, rằng
cuộc chiến tranh Việt Nam thực chất chỉ là cuộc nội chiến ý thức hệ do các
cường quốc phát động và tiến hành trên đất nước Việt Nam, thông qua các cá nhân,
tập đòan bản xứ làm công cụ, xô đẩy nhân dân Việt nam vào một cuộc chiến tranh
cốt nhục tương tàn. Hậu quả bi thảm của cuộc chiến tranh này đất nước và dân
tộc Việt Nam phải gánh chịu, sau khi ý đồ chiến lược trong vùng của các cường
quốc đã đạt được thông qua cuộc chiến.
Và vì vậy, cuộc chiến tranh Việt
nam kết thúc như thế, không phải là thắng lợi của phe này (Việt Cộng) đối với
phe kia (Việt Quốc), mà chỉ là vì nhu cầu thay đổi thế chiến lược quốc tế mới
của các cường quốc mà thôi. Thiết tưởng đã 41 năm qua rồi, thời gian đã quá đủ
cho cả Việt Quốc và Việt Cộng chẳng nên tiếp tục tự hào về cuộc chiến ấy nữa,
khi trong cuộc nội chiên “Nồi da xáo thịt” này, các bên đều bị ngoại bang sử
dụng như những công cụ chiến lược một thời. Thực tế bây giờ là cả Việt Quốc và
Việt Cộng cần cố gắng đẩy lùi quá khứ, hướng đến tương lai, để biết phải làm gì
và cần làm gì hữu ích, có lợi nhất cho nhân dân và đất nước.
* Các bài viết được đăng
tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của
Chính phủ Hoa Kỳ.