Như đã trình bày rằng ngũ nguyện là phần
người đạo tự hứa và thực hành. Lời nguyện thứ năm là: Thánh thất an ninh. Đạo
Cao Đài chỉ có một Tòa Thánh tại Tỉnh Tây Ninh; có vô số Thánh Thất tại các địa
phương. Tòa Thánh là cội nguồn của Đạo còn các Thánh Thất phải dưới quyền Tòa
Thánh.
Vậy tại sao không nguyện cho Tòa Thánh
an ninh mà lại nguyện cho Thánh Thất an ninh?
1/- Từ
sự phân cấp giữa trung ương và địa phương.
Đức Chí Tôn cho biết nhiệm vụ của Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ hay Đạo Cao Đài là thất ức niên (bảy trăm ngàn năm). Trong suốt
chu kỳ đó bộ máy Hội Thánh Anh được bố trí tại Tòa Thánh Tây Ninh. Nếu có một
nơi nào đó lập ra Hội Thánh Anh của Đạo Cao Đài là sai. (1).
Theo Đạo Nghị Định thứ ba (Ngày mồng 3 tháng
10 năm Canh Ngọ) qui định về sự phân cấp giữa trung ương và địa phương rất minh
bạch:
Phối Sư phải ở tại Tòa Thánh. (2)
Giáo
Sư làm đầu một Tỉnh. (3).
Theo Pháp Chánh Truyền có 36 vị Phối Sư
(trong đó có 03 vị Chánh Phối Sư). Chữ
Phối có nghĩa là kết hợp. Chữ Sư có nghĩa là Thầy.
Phối sư có nghĩa là ông Thầy kết hợp,
hóa giải được những hiểu biết, tri thức của chính mình nhất quán với nhau. Trong
lập ngôn không có cảnh viết câu sau đá câu trước; không có việc viết bài nầy đá
bài kia của chính mình. Xét về luật tam thể là bậc điều khiển được hành động “của
con vật trong mình” phù hợp với tư tưởng thanh cao của chơn linh. (Chơn linh phối
nhứt thân vi thánh hình).
Trong
bình diện đối ngoại thì phối hợp được công việc của mình với tập thể và tập thể
với tập thể. Với ba bình diện phối hợp như vậy thì địa bàn nào cũng vận dụng được
những điều sẳn có để hoạt động có hiệu quả. Phối Sư là nhân tố từ đơn năng đã
tiến đến đa năng; từ điều hành tiến đến điều hợp; từ cục bộ tiến đến toàn bộ. Nếu
có trở ngại, va chạm là do chính các nhân sự đó chưa đạt yêu cầu theo Pháp
Chánh Truyền qui định. Điều nầy đồng nghĩa với việc 03 Hội lập quyền vạn linh
đã tín nhiệm nhân tố chưa đạt yêu cầu (nhầm lẫn).
Chúng ta đã biết mổi vị chức sắc Cửu
Trùng Đài khi cầu phong hay cầu thăng phải qua sự chọn lựa của 03 Hội lập quyền
vạn lịnh và sau đó đệ trình ra cung đạo cho thiêng liêng định phận.
Với tiêu chuẩn nhân sự như vậy thì Tòa
Thánh (Cửu Viện/do phẩm Phối Sư lãnh đạo) lúc nào cũng có những phương án, công
thức, kế hoạch hoàn chỉnh đưa ra cho các địa phương thực thi. Sự chỉ đạo từ Tòa
Thánh phải nhất quán với những giá trị căn bản của Đạo và không trái với bất cứ
một giá trị nào trong tôn giáo, không có biệt lệ cho địa phương nầy hay địa
phương khác. (4)
Sở hành của các vị Phối sư đã bước vào địa
bàn của chơn linh (từ bài kinh Đệ Thất Cửu trở lên). Ta lưu ý rằng Cửu thứ 5 đã
đạt yêu cầu:
Đắc
văn sách thông thiên định địa.
(Tâm đắc được ý nghĩa của văn bút, kinh
điển trong bộ ba: thiên, địa, nhân).
Đệ Lục Cửu: Bạch y quan mở đường rước khách.... hàm nghĩa bước vào phạm trù tổng
hợp (màu trắng) không còn phân chia thiên kiến... là đã nắm được vạn pháp... tất
cả đều phát xuất từ bộ não con người. Mà bộ não là do tạo hóa ban cho nên tất cả
thiện ác, nhân nghĩa và bất nhân bất nghĩa đều nằm trong lẽ đạo (vạn pháp)...
Thể xác và chơn thần còn phân biệt nhưng bước sang chơn linh thì hiểu được vạn
pháp nên điều hợp nhau được.
Đệ Thất Cửu:
Cung Chưởng-Pháp xây quyền Tạo-hóa,
Kiến Chuẩn-Đề thạch-xá giải thi.
Kiến Chuẩn-Đề thạch-xá giải thi.
Động Phổ-Hiền Thần
Tiên hội hiệp,
Dở Kim-Cô đưa tiếp linh-quang.
Dở Kim-Cô đưa tiếp linh-quang.
Cửu sáu là đã đến
cung Vạn pháp (xem qua), để bổ túc những khiếm khuyết (Cung lập khuyết: biết được
những khiếm khuyết và đưa ra giải pháp hay lập trình giải quyết).
Bước sang cửu 7
là đã vận dụng được vạn pháp; đó là chủ động vận dụng các pháp (chưởng pháp) để
chuẩn bị đề cương giáo án làm bài thi cho từng vấn đề đồng gặp gỡ, trao đổi, phối
hợp với những vị đồng cấp để xem có gì chưa ổn. Có sự phối hợp nhau để cân nhắc
mọi vấn đề trong cục bộ (chơn thần)và toàn bộ (chơn linh/linh quang). (Hạo
nhiên thiên: xem xét, cân nhắc lại, đo lường lại...tất cả mọi quan điểm theo lẽ
tất nhiên của tạo hóa....)
Đệ Bát Cửu:
...Cung Tận-Thức thần-thông biến hóa,
Phổ-Đà-Sơn giải quả Từ-Hàng.
Phổ-Đà-Sơn giải quả Từ-Hàng.
Cỡi Kim-Hẩu đến
Tịch-San,
Đẩu-vân nương
phép Niết-Bàn đến xem...
Cung tận thức là
đã qua quá trình, biết, hiểu và đạt đến mức biết tường tận mọi lẽ hay mọi góc cạnh
của vấn đề mà chính mình đối diện (về tình, về lý, về cá nhân và xã ước, về
khoa học kỷ thuật...).
Nếu ở Cửu 7 là sự
hội hiệp để tìm kiếm giải pháp thì sang Cửu 8 đã bước đến Tịch san: Cảnh cô tịch
mình đối thoại với chính mình để giải quyết vấn đề cặn kẻ đúng với phép từ bi của
Phật đạo (Niếc bàn/Phép mầu hai chữ từ bi).
Đệ Cửu Cửu:
Vùng thoại-khí
bát hồn vận-chuyển,
Tạo-Hóa-Thiên sanh biến vô cùng.
Tạo-Hóa-Thiên sanh biến vô cùng.
Hội Bàn-Đào
Diêu-Trì-Cung,
Phục sinh đào hạnh
rượu hồng thưởng ban.
Vùng thoại khí là bầu khí đối thoại, hội
thoại, thảo luận trao đổi giữa người và người hay cá nhân với đoàn thể và đoàn
thể với đoàn thể để hóa giải những điều sai biệt và phát triễn những điều đạt
được... Muốn sự đối thoại được hiểu quả phải hiểu và vận dụng qui luật vận chuyển của bát hồn... Từ đó mới có giáo án, sử chương đào tạo LINH ĐÀI (Kỳ khai tạo nhứt linh đài...), tạo ra nhân tố xây dựng nền văn minh mới: văn minh Cao Đài giáo hay văn minh nhơn đạo (văn minh lưỡng nghi).
Trong
đạo học nó còn một ẩn ý sâu xa là người đối thoại với thiêng liêng để được hướng
dẫn, rèn luyện bằng sự cảm nhận qua âm thanh, huyền ảnh hay cơ bút... (Hiệp Thiên
Đài của mổi người)
Sở học, sở hành như vậy Đạo Đức Kinh viết:
đó là đắc nhất. Đắc nhất thì vạn sự tất nên từ bậc Phối Sư trở lên hành đạo tại
Tòa Thánh thì lo cho Tòa Thánh an ninh là thừa. Bởi vì tự thân từng người đã an
ninh, khi cộng hưởng lại thì kết quả càng cao.
Lưu ý rằng chữ cộng hưởng trong công thức
xây dựng thế giới đại đồng của Cửu Trùng Đài đã hàm ý có tổ chức trong đó. Cộng
hưởng không phải là cộng lại (tổng số), không phải 2+3=5. Cộng hưởng là
2+3>5. Lớn hơn bao nhiêu lần tùy vào
sự hiệu quả của bộ máy tổ chức.
Với người thích thể thao thì giá trị cộng
hưởng cũng như một đội bóng đá có 11 cầu thủ phải có sự phân công ai công, ai
thủ, ai tiếp ứng (lên công về thủ....) để đem đến hiệu quả cao nhất.
Đức Cao Thượng Phẩm, Đức Hộ Pháp thường
hay dùng chữ mấy kép, hay tuồng hát... chính là nói lên sự tổ chức để đi đến mục
đích chung. Trong tuồng hát phải có thầy tuồng (viết kịch bản); có thầy đờn (nhạc
trưởng); kép chánh; kép phụ; kép độc; có đào chánh; đào phụ; đào lẳng; có hề
chính, hề phụ... thậm chí phải có người dựng rạp, kéo màn...
Thầy dạy lập nhiều đạo ví như một cái
nhà phải có cột, kèo... chính là dạy Đạo phải có tổ chức để cộng hưởng những
giá trị đang có thành giá trị cao hơn rất nhiều lần.
Đức Chơn Cực Lão Sư dạy Đạo không phải hội
chôn thây.... chính là Ngài dạy phải biết cho tường tận cách Thầy và các Đấng bố
trí cho tang lễ trong tổ chức tôn giáo để môn đệ vận dụng và đem đến những giá
trị cộng hưởng. Còn như chỉ biết đến đó đọc kinh, làm các nghi lễ và đem chôn
cho là xong thì có sự cộng hưởng nào chăng? Có hiểu gì về giá trị của cộng hưởng
hay chăng?
Ta biết rằng tang tế sự là nơi người đạo
có quyền đến hội hiệp mà không một chế độ nào dám ngăn cản, không một cường quyền
nào dám đàn áp. Người đạo đến lo cho bạn đồng sanh trong lúc ly trần đó chính
là người hiền. Người hiền hội hiệp lại đó chính là Động Phổ Hiền thần tiên hội
hiệp.
Hội hiệp lại thì phải bàn thảo, phân
tích xem việc thi hành các nghi lễ có đúng với chơn truyền chăng (là có đúng với
các văn bản của Hội Thánh ban hành chăng)?
Nền đạo đang như thế nào? Có bị áp chế gì chăng? Để tìm cách gở bỏ nó, sửa
đổi cái tệ hóa ra hay. Công lý có được tôn trọng chăng? Sưu thuế như đang chịu
có phù hợp với đồng lương, với thu nhập của chúng ta chăng? Nghĩa là mọi vấn đề
về: gia cư, mưu sinh, giáo huấn, kiến thiết và tôn giáo cũng như dân đức, dân
trí, dân sinh phải được soi sáng khi hội hiệp nhau mới thấy giá trị cộng hưởng
của tang lễ... Còn như đạo quyền đang bị
cường quyền chiếm dụng, cơ đạo chinh nghiêng mà môn đệ Chí Tôn khi có môi trường
hội hiệp nhau chỉ biết lặng thinh. Thậm chí tuyên bố Tôi tu hành thuần túy chỉ
biết đến đọc kinh rồi về thì đó là những người đã làm cho ý nghĩa cao thượng
trong tang tế sự thành hội chôn thây.
Do lẽ công bình Chí Tôn không thể tự
Ngài đứng ra chuyển họa vi phước. Cho nên Ngài tạo môi trường và tài nguyên cho
môn đệ chuyển họa vi phước hầu tự mình lập vị cho mình. Môn đệ không thực hiện là
vì không tìm hiểu, không lắng nghe, không tỉnh thức trước lời dạy của Ngài.
Thầy dạy: ...Các
con vì Đạo là việc công-lý mà công lý đánh đổ cường quyền, thì Đạo mới phải Đạo.
Các con hiểu à!... Những người không hiểu ý nghĩa của tang tế sự trong đạo
có giá trị như thế nào về mặt tôn giáo, về xã hội và vận dụng nó để thực thi tam
lập; khi cộng lại là con số âm chứ chưa chắc đã là con số 0.
Tại sao dám nói là con số âm?
Bởi vì nếu không cực kỳ quan trọng thì
Thầy chẳng để chữ CÁC CON HIỂU À... Thầy dặn phải hiểu là để chú ý mà thực thi.
Môn đệ Thầy không thực thi là con số 0. Nhiều con số 0 cộng lại là con số âm. Bằng
cớ là lên vi tính bạn gõ các file theo số 0 và số 00, số 000, số 0000. Nó sẽ sắp
file nào có nhiều số 0 lên trước. Số 0 là số trung hòa (không âm, không dương).
Sau con số 0 thì đó đích thị là kém số 0 (là âm); càng nhiều con số 0 càng ở về
phía trục âm... Cái lý của nhiều con số 0 hiệp lại thành số âm đã ràng ràng ra
đó.
Cửu viện của Tòa Thánh còn có sự trợ
giúp của Hàn Lâm Viện. Mà Hàn Lâm Viện là nơi của các vị Bảo Quân hành đạo. Các
vị Bảo quân thuộc quyền riêng của Thượng Hội (do quyền sử dụng của Giáo Tông và
Hộ Pháp). Mổi vị Bảo quân hẳn nhiên sở đắc kiến thức đỉnh cao của bộ môn liên
quan thì làm sao có thể sơ thất.
Công thức của Đức Chí Tôn ban xuống: Bảo,
Hiến, Khai, Tiếp. Thầy còn dạy rõ: Bảo
là giữ gìn, Hiến là dâng, Khai là mở, bày ra, Tiếp là rước. Đó là công
thức từ Bát Quái Đài. Lời truyền dạy hay công thức từ Bát Quái Đài là tuyệt đối.
Nên phải giử gìn (không được sửa đổi), để dâng hiến cho nhân loại, môn đệ phải
khai triển ra để hiểu và giúp nhân loại hiểu giá trị (công thức hay lời dạy đó)
và sẽ đón nhận để xây dựng cuộc sống thanh bình, an lạc cho chính họ và quê
hương họ đang sống...
Khi chú giải Pháp Chánh Truyền HTĐ Đức Hộ
Pháp đã biến công thức trên thành: Tiếp, Khai, Hiến, Bảo (thay đổi thứ tự) để tạo
công thức cho Hiệp Thiên Đài. (5).
Vậy 04 công thức trên đây áp dụng cho Cửu
Trùng Đài thế nào? Thiễn nghĩ đó là: Tiếp, Khai, Bảo, Hiến.
Tiếp: đón nhận đề tài, Khai: triển khai dưới
nhiều góc cạnh, Bảo: bảo vệ thành công trước những phản biện rồi mới đem ra Hiến:
dâng để xây dựng con người và xã hội.
Luật pháp (Hiệp Thiên: Tiếp, Khai, Hiến,
Bảo) khác với giáo hóa (Cửu Trùng: Tiếp, Khai, Bảo, Hiến) ở khoản Bảo
và Hiến đổi vị trí cho nhau.
Tại sao phải đổi như vậy?
Bởi nhiệm vụ của hai Đài khác nhau.
Luật pháp đạo khi đã ban hành (Hiến
dâng) thì phải đúng, vô tư nên luôn luôn được giử gìn (Bảo) để làm khuôn mẫu. Luật
pháp đạo mà nay thay mai đổi là loạn đạo. Luật sau phủ nhận luật trước là thiếu
tầm nhìn. Cho nên Đạo Luật Mậu Dần (1938) qui định chỉ cho phép thêm vào mà
không cho bớt ra; đó là đã thể hiện tầm nhìn của thế hệ làm ra luật đó. (6).
Tóm lại: Muốn phá đạo không có gì hay
hơn là phá pháp luật đạo. Cho nên luật của đạo đã đưa ra thì tuyệt đối không được
sai chạy về nguyên tắc (hệ thống). Còn giáo hóa thì phải có nghị trường biện luận
cho mình bạch rồi mới đem ra dâng hiến cho đời, cho đạo.
Còn tiếp:
2/- Nguyên tắc lập pháp hay triết lý Cao
Đài.
CHÚ THÍCH.
(1)/- Chính vì điều nầy nên Hội Thánh của
chi phái lập ngày 09/05/1997 hiện do ông Nguyễn Thành Tám làm đầu luôn miệng
xưng rằng họ kế thừa Hội Thánh Anh. Điều nầy phải hiểu như thế nào?
Xin thưa rằng Hội Thánh Anh của Đạo Cao
Đài phải làm việc tại Tòa Thánh Tây Ninh nhưng không phải Hội Thánh nào ở Tòa
Thánh Tây Ninh cũng là Hội Thánh Anh của Đạo Cao Đài.
Nếu chấp nhận Hội Thánh nào được thành lập
trong Tòa Thánh Tây Ninh cũng đều là Hội Thánh Anh của Đạo Cao Đài là không hiểu
qui định về việc thăng thưởng trong Pháp Chánh Truyền: Sự thăng thưởng phải qua
cơ bút.
Tóm lại Hội Thánh Anh phải hội đủ điều
kiện:
./- Nhân sự được thăng thưởng theo đúng
với qui định trong Pháp Chánh Truyền. Nghĩa là thăng thưởng bằng cơ bút tại
cung đạo chớ không phải bằng cách bắt banh nơi cung Đạo.
./- Trụ sở làm việc của Hội Thánh Anh ở
trong Nội Ô Tòa Thánh Tây Ninh.
Chú thích trong chú thích (1).
Một cái sai điển hình nữa là một số
Chánh Trị Sự (Nam Nữ) như ông Hứa Phi, ông Nguyễn Kim Lân, bà Nguyễn Bạch Phụng
hiệp lại xưng danh Giáo Hội Cao Đài Chơn Truyền. Lại càng cho thấy sự tùy tiện
của số người nầy.
Vậy mà một số chức sắc Hiệp Thiên (như
Sĩ Tải Phùng Văn Phan), Cửu Trùng (Lễ Sanh Thái Hai Thanh), Phước Thiện (Giáo
Thiện Nguyễn Văn Hiệp) gặp họ nhiều lần (ra tận tư gia ông Phi) mà không thấy
có một văn bản nào điều chỉnh họ hay giải thích sự hợp với luật đạo ở khoản
nào? Trong khi các thỉnh giáo của người đạo về việc xưng danh Hội Thánh như vậy
đúng hay sai thì các chức sắc kể trên làm thinh.
Đặc biệt là Hiền huynh Sĩ Tải Phùng Văn
Phan luôn luôn kêu gọi đoàn kết với đám người phản loạn chơn truyền nầy. Hiền
huynh Sĩ Tải kêu gọi đoàn kết với đám người phản loạn chơn truyền phải chăng hiền
huynh Sĩ Tải nhìn nhận họ là Hội Thánh Anh? Mấy người phản loạn chơn truyền nầy
dây mơ rễ má gì hay nắm được cái gì đủ mạnh để hiền huynh không dám lên tiếng về
lẽ đúng sai theo luật pháp đạo?
Thêm vào đó là Liên Hiệp Bàn Trị Sự hãi
ngoại cũng cộng tác với Hội Thánh chơn truyền của Ông Phi, ông Lân, Bà Phụng vậy
thì họ đã hiểu luật đạo như thế nào??? Hiểu Pháp Chánh Truyền như thế nào?
Hay đó chỉ là số người trong nước và hãi
ngoại dùng chiêu trò mượn danh chơn truyền để làm cho nền đạo thêm phần rối
ren...
Mà làm cho nền đạo rối ren trong buổi
không có Hội Thánh là đang tiếp tay cho kẻ diệt đạo; tiếp tay cho Bản án Cao
Đài.
(2)/- Theo qui định trên đây thì các vị
Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh, Ngọc Trang Thanh không ở Tòa Thánh hành đạo
(mà về Bến Tre) là đã phạm vào đạo Nghị Định thứ ba.
Đạo nghị Định do Giáo Tông (Đức Lý) và Hộ
Pháp lập thì nó thuộc về pháp. Phạm vào Đạo nghị định thứ ba là phạm pháp pháp
chớ đâu đợi đến đạo Nghị Định Thứ Tám (1934) như lời hậu tấn ngụy biện.
(3)/- Một Tỉnh của Đạo bao gồm nhiều Tỉnh
của đời. Sau Hội Thánh đổi lại là Trấn trong hệ thống hành chánh 05 cấp: Trung
ương, Trấn, Châu, Tộc và Hương. Tương tự như vậy các qui định: Giáo Hữu làm đầu
một họ. Lễ Sanh làm đầu một quận. Chánh Trị Sự làm đầu một làng. Phó Trị Sự làm
đầu một xóm cùng Thông Sự.
Cũng điều chỉnh cho phù hợp với đà tiến
của xã hội.
Nhân đây cũng xin nêu vấn đề là khi ban
hành Đạo nghị định thứ ba thì chưa có Thị Trấn, chưa có Phường như hành chánh
xã hội hiện nay.
Vậy khi cơ đạo phục hồi thì Thị Trấn (nằm
trong Huyện) hay Phường (nằm trong Quận) sẽ giải quyết như thế nào trong hệ thống
hành chánh tôn giáo 05 cấp?
(4)/- Trong lời minh thệ có buộc người
môn đệ Cao Đài phải gìn luật lệ Cao Đài. Luật thì chúng ta đã biết rằng có văn
bản rõ ràng. Còn lệ của Cao Đài không có nghĩa là lệ của địa phương. Lệ của Cao
Đài phải phát xuất từ Hội Thánh Anh.
Nhiều người tự ý vận dụng cái lệ của địa
phương (do mình tự ý nghĩ ra) và hiểu nó như cái lệ của Đạo Cao Đài là rất sai.
Thử hình dung nếu cái lệ của địa phương nầy trái với cái lệ của địa phương kia,
rồi hai bên đều nói mình làm theo lệ thì nền đạo sẽ loạn lạc như thế nào???
Trong các thông tin chúng ta nhận được
có phân ra: biết, hiểu và biết tường tận. Biết thì rất mau mất giá trị: thí dụ
như biết kết quả trận đá bóng giữa đội A và B. Biết rồi thôi càng lập lại càng
mất ý nghĩa. Hiểu có ý nghĩa hơn biết nhưng biết cho tường tận (cung tận thức) thì
khi vận dụng mới khỏi sai lầm.
Thí dụ trong Đạo có trường hợp vị Giáo Hữu
hay Lễ Sanh cầm quyền Khâm Trấn thì có nghĩa như thế nào?
Nghĩa là phẩm Giáo Hữu hay Lễ Sanh là
chánh vị.
Không lẽ Giáo Hữu B là quyền Giáo Hữu.... Quyền đây là quyền phần
trách nhiệm (Khâm trấn) mà thôi. Hiểu chữ quyền như vậy thì khi phục hồi cơ đạo
do thiếu chức sắc nên có vị Đạo Hữu Y, hay Z lãnh trách nhiệm Quyền Khâm Trấn, Khâm Châu là điều đúng.
Cũng như phẩm Chánh Trị Sự làm Đầu Hương
Đạo nhưng do khuyết phẩm Chánh Trị Sự thì vị Phó Trị Sự hay Thông Sự cầm Quyền
Đầu Hương Đạo. Chớ không thể đặt ra phẩm Quyền Chánh Trị Sự.
Nếu tự bày ra Quyền Giáo Hữu hay Quyền
Chánh Trị Sự (là sai với Pháp Chánh Truyền). Đã sai với Pháp Chánh Truyền thì
có biện luận thế nào đi nữa cũng không được chấp nhận trong hành chánh tôn giáo.
Pháp Chánh Truyền là luật đạo. Còn việc
giao quyền cho các phẩm cấp dưới thi hành trách nhiệm của phẩm cấp trên là lệ đạo
(Do nơi Hội Thánh đã áp dụng). Chú ý rằng quyền đây là nói về trách nhiệm mà
thôi.
(5)/- Trên mới vừa nói không được sửa đổi
thì liền đó có việc Đức Hộ Pháp thay đổi công thức của Bát Quái Đài... như vậy
có mâu thuẩn chăng?
Xin thưa rằng không mâu thuẩn. Bởi lẽ Đức
Chí Tôn có dự liệu khoản đó nên cho phép 15 phẩm có quyền thay đổi những điều
truyền dạy từ Bát Quái Đài. Đó là 15 phẩm ở Hiệp Thiên Đài có dây sắc lịnh: Hộ
pháp, Thượng phẩm, Thượng sanh và Thập nhị thời quân. 15 phẩm nầy chỉnh sửa điều
chi thì chỉ có Hội Thánh mới có quyền nhìn nhận hay không nhìn nhận (mà không
nhìn nhận là phải định tội). (5.a).
Cho nên Hộ pháp mới tạo công thức Tiếp,
Khai, Hiến, Bảo cho Hiệp Thiên Đài. Còn Cửu Trùng Đài không ai có dây sắc lịnh
nên không có quyền biến cải thành luật mà chỉ có thể nương vào cách làm của Đức
Hộ Pháp để hiểu về cách áp dụng mà thôi. Nó không thành luật như ở Hiệp Thiên
Đài được.
(5.a)/
Chú thích trong chú thích.
Quyền năng dây sắc lịnh là tuyệt đối.
Pháp chánh truyền dạy rõ duy để cho Hội Thánh quyết định. Khi Hội Thánh đã quyết
định chấp nhận; bất cứ cá nhân nào tự quyền tung ra ngôn luận trái với sự việc
Hội Thánh đã chấp nhận là phạm vào Pháp Chánh Truyền.
Khi Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa phối hợp với
nhị vị Đầu Sư: Thượng Đầu Sư (Thượng Sáng Thanh), Ngọc Đầu Sư (Ngọc Nhượn
Thanh) lập ra Đạo Lịnh 01/1979 để cứu vãn nền đạo và bảo toàn môn đệ Đức Chí
Tôn. Hội Thánh đã nhìn nhận Đạo Lịnh 01/1979 nên đã ký tên ban hành và thi
hành.
Hội Thánh hiểu rằng Đạo lịnh 01/1979 ra
đời là do áp lực từ Bản án Cao Đài ngày 20/07/1978 và Quyết nghị ngày
13/12/1978 giải thể toàn bộ hành chánh tôn giáo 05 cấp (không cho tái phép tái
lập). Đạo lịnh đã tái lập hành chánh tôn giáo 02 cấp trước mặt cộng sản mà họ
phải chịu phép.
Vậy mà một số người thiếu hiểu lại hổn ẩu
(không nhìn vào Bản án Cao Đài và quyết nghị ngày 13/12/1978) đã vội vàng lên
án Đạo lịnh 01/1979 gây ra cảnh người đạo chống người đạo và người đạo chống Hội
Thánh. Họ đã tạo cảnh nồi da xáo thịt
trong cửa đạo.
Chính quyền cộng sản rất thích điều nầy
nên lớp thì mời nhiều vị chống Đạo lịnh 01/1979 đến Ban Tôn Giáo nhận quà xuân,
lớp thì đem quà xuân đến phát tận nhà. Hởi ơi kẻ đã kết án Thầy mình, Cha mình,
Anh mình; kết án hệ tư tưởng của Đạo Cao Đài là phản động, kết án Giáo chủ của
Đạo Cao Đài là phản quốc vậy mà lại đi nhận quà xuân của họ thì liêm sĩ có còn
không (mà xưng là bảo thủ chơn truyền, xưng là trung với đạo)???
Ngài Hồ Bảo Đạo khi sắp mãn phần nhà cầm
quyền cộng sản đến thăm... mới nói:... ông Sáu viết đơn xin phục hồi phẩm Bảo Đạo
đi đặng Mặt Trận xét và cho Hội Đồng Quản Lý làm đám theo hàng phẩm. Ngài trả lời
rằng Tôi cảm ơn chính quyền đã lo lắng cho Tôi, nhưng Tôi không muốn làm mất thời
giờ của chính quyền. Chính quyền định
cho Tôi sao cũng được; Tôi không kêu nài gì... Quí ngài nên để thời giờ
và tâm trí lo cho hạnh phúc của muôn dân trong xã hội là hơn... Ngài đã không
làm theo ý muốn của những người đã lên án Đạo Cao Đài. Vậy mà lắm kẻ đã hổn ẩu
với Ngài về việc đã lập ra Đạo Lịnh 01/1979.
Ngày nay có vài chức sắc tiểu cấp của Hiệp
Thiên Đài như nhị vị Sĩ Tải Hà Ngọc Voi, Phùng Văn Phan tung ra ngôn luận: Về
pháp lý phải cúi đầu trước mạng lịnh Hội Thánh nhưng không chấp nhận nội dung.
Cúi đầu trước mạng lịnh Hội Thánh nhưng
không chấp nhận nội dung là một ngôn luận mà chính nhị vị cũng không giải thích
được khi bị chất vấn. Nhưng nhị vị không chấp nhận làm rõ (làm cho môn đệ Đức
Chí Tôn tiếp tục chia rẽ. Tiếp tục gây ra cảnh nồi da xáo thịt). Hiện nay không
có Hội Thánh nên không ai có quyền chi với nhị vị (hay những người xưng danh Hội
Thánh chơn truyền lên án nhìn nhận Đạo Lịnh 01/1979 do Hội Thánh ban hành là
bàn môn tả đạo là chối chúa... Đạo lịnh 01 một là nhát dao... đang liên kết với
nhị vị). Nhưng chúng tôi tin rằng cơ đạo sẽ được phục hồi, khi đó ngôn luận của
nhị vị sẽ được trình ra để cho 03 Hội lập quyền vạn linh định đoạt và từ đó rút
ra bài học chung về cách lập ngôn nơi cửa đạo.
(6)/- Luật pháp của nhà nước Việt Nam tùy
tiện đến nổi Chánh Tòa án tối cao nhận xét: Luật
Việt Nam hiện nay muốn xử sao cũng đúng... Đó là vỗ ngực xưng tên rằng
họ đang xài luật rừng, luật giang hồ, luật của hối lộ và tham nhũng chớ đâu đã
đáng là luật pháp của một quốc gia. Đó là thứ luật để đưa dân tộc vào chổ mất đạo
đức, và đi vào địa ngục trần gian mà chỉ có kẻ cuồng tín, kẻ điên mới trâng
tráo cho rằng luật pháp như thế là tiến tiến so với thế giới. Não trạng những
người làm ra đủ thứ luật rừng đó chỉ có thể vứt bỏ, hủy diệt chớ không thể sửa
đổi. Những kẻ cướp chánh quyền thì không thể nào có đủ hiểu biết để xây dựng xã
hội nhân văn được.