Trang

Chủ Nhật, 1 tháng 9, 2024

5336. Vi bằng 3. Tìm hiểu KINH ĐẠI TƯỜNG. Bài 3.

TÌM HIỂU KINH ĐẠI TƯỜNG

Bài 3.
Hội Thánh chưa kiểm duyệt
.

Câu 3: Tái sanh sửa đổi chơn-truyền,

Tái sanh: sanh ra từ bụng mẹ theo luật tạo hóa. Đức Di-Lặc phải thọ tinh cha, huyết mẹ hưởng âm dương chi khí theo luật Nhứt Thân Tam Thể khi đến thế gian để thi hành phận sự.

Sửa đổi chơn truyền là gì? Thánh Thư hải ngoại số 12 ngày 08-4-1958 ĐHP dạy: Mấy em biết cơ tận độ của Đức Chí Tôn nơi mặt thế nầy, Đại Từ Phụ đến lập giáo không giống triết lý đạo giáo nào tất cả. Theo đó để hiểu thì chơn truyền của ĐĐTKPĐ có thay đổi hay mới so với tam giáo trước đây. Thí dụ như Đức Chí Tôn dùng cơ bút để lập đạo, lập thể pháp và bí pháp, lập Thánh thể, lập QUỐC ĐẠO nên lập tôn giáo pháp quyền (có tam quyền phân lập), lập Phước Thiện, lập Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh … Trong giới hạn tìm hiểu bài KINH ĐẠI TƯỜNG chúng tiểu đệ muội xin trình bày sửa đổi chơn truyền qua 2 phần: Nguyên lý lập ĐĐTKPĐ năm 1926 và Khai Cơ Tận Độ năm 1935.


Bài 1: https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2024/08/5118-vi-bang-1-tim-hieu-kinh-ai-tuong.html#more

Bài 2: https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2024/08/5123-tim-hieu-kinh-ai-tuong-bai-2.html#more

Về căn bản Thầy là vô vi nên phải nhờ tay hữu hình thi hành, theo trình bày tại bài 2 thì Đức Hộ Pháp là thể pháp và Đức Di-Lặc là bí pháp nên phần thi hành cả hai là một, một mà hai và đều theo lịnh Đức Chí Tôn. Thể pháp và bí pháp là những khái niệm nên là phương tiện để hiểu được vấn đề, hiểu được vấn đề là nhờ không chấp ở thể pháp hay bí pháp đó là Trung dung Đại Đạo.

Câu kinh Tái sanh sửa đổi chơn truyền hiểu theo hệ thống là Đức Di-Lặc (hay Đức Hộ Pháp) tái sanh để sửa đổi chơn truyền theo lịnh của Đức Chí Tôn. Đức Chí Tôn vi chủ ĐĐTKPĐ nên mọi việc đều phải theo lịnh của Đức Chí Tôn.

Xác định ba diện chơn truyền.

Diện một: chơn truyền của Thầy dùng để lập ra ba nhánh Phật, Tiên, Nho vào thời Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ.

Diện hai: Chơn truyền của các bậc Giáo chủ Phật, Tiên, Nho dùng để lập từng nhánh, rồi mỗi nhánh lại chia ra nhiều chi phái.

Diện ba: là chơn truyền của ĐĐTKPĐ.

Vậy sửa đổi chơn truyền của diện nào?

Chúng tiểu đệ muội chọn diện một, không chọn diện hai và diện ba.

Tại sao không chọn diện hai? Bởi vì khi Thầy giao chánh giáo cho các bậc Giáo chủ là Thầy đã giao trọn quyền (cả về phần hồn) và Thầy đến không phải để lấy lại theo lời dạy trong PCT CG: … Nay Thầy đến chẳng phải lấy nó lại, mà Thầy chỉ đến làm cho tiêu diệt cái hại của nó … cho nên Thầy lập ĐĐTKPĐ theo cách khác. Thầy không lấy lại nghĩa là Thầy để chơn truyền của các Giáo chủ ba nhánh Phật, Tiên, Nho diễn tiến theo luật Luân Chuyển Hóa Sanh.

PCT CG phẩm Giáo Tông: Đây là lời Thánh giáo của Thầy đã dạy Hộ Pháp khi Người hỏi Thầy về quyền của Giáo Tông.

Hộ Pháp hỏi: "Thưa Thầy theo như luật lệ Thánh Giáo Gia Tô Thầy truyền tại thế, thì Thầy cho Giáo Tông trọn quyền về phần hồn và phần xác; Người nhờ nương quyền hành cao trọng đó, Đạo Thánh mới có thế lực hữu hình như vậy. Đến ngày nay, Thầy giảm quyền Giáo Tông của mấy con về phần hồn đi, thì con sợ e cho Người không đủ quyền lực mà độ rỗi chúng sanh chăng?"

Thầy đáp: "Cười! Ấy là một điều lầm lạc của Thầy, vì nặng mang phàm thể mà ra. Thầy cho một người phàm đồng quyền cùng Thầy về phần hồn thì nó lên ngai Thầy mà ngồi, lại nắm quyền hành CHÍ TÔN ấy, đặng buộc nhơn sanh phải chịu lòn cúi trong vòng tôi tớ của xác thịt hơn nữa. Cái quyền hành quí hóa ấy, Thầy tưởng vì thương mà cho các con, nào dè nó là một cây gươm hai lưỡi để giục loạn cho các con.

Nay Thầy đến chẳng phải lấy nó lại, mà Thầy chỉ đến làm cho tiêu diệt cái hại của nó; nếu muốn trừ cái hại ấy thì chẳng chi hay hơn là chia đôi nó ra, không cho một người nhứt thống.

Kẻ nào đã nắm trọn phần hữu hình và phần Thiêng Liêng, thì là độc chiếm quyền chánh trị và luật lệ, mà hễ độc chiếm quyền chánh trị và luật lệ vào tay, thì nhơn sanh chẳng phương nào thoát khỏi vòng áp chế.

Như Thầy để cho Giáo Tông trọn quyền về phần xác và phần hồn (nghĩa là Đạo và Đời) thì "HIỆP THIÊN ĐÀI" lập ra chẳng là vô ích lắm sao con? "CỬU TRÙNG ĐÀI" là Đời "HIỆP THIÊN ĐÀI" là Đạo, Đạo không Đời không sức, Đời không Đạo không quyền: Sức quyền tương đắc mới mong tạo thời cải thế, ấy là phương hay cho các con liên hiệp cùng nhau, chăm nom săn sóc lẫn nhau, mà giữ vẹn Thánh Giáo của Thầy cho khỏi trở nên phàm giáo". (Hết trích)

Đoạn: Nay Thầy đến chẳng phải lấy nó lại, mà Thầy chỉ đến làm cho tiêu diệt cái hại của nó có nghĩa là Thầy không lấy quyền đã giao cho các bậc Giáo chủ, Thầy cũng không sửa chơn truyền của các bậc Giáo chủ, mà Thầy chỉ đến làm cho tiêu diệt cái hại của nó bằng cách lập ĐĐTKPĐ theo cách khác, đó là Thầy sửa chơn truyền.

Tại sao không chọn diện ba? Nếu hiểu Đức Di-Lặc sửa đổi chơn truyền của ĐĐTKPĐ thì không phù hợp với Lời Minh Thệ: … hiệp đồng chư môn đệ gìn luật lệ Cao Đài …, Thầy lập chánh giáo chơn truyền cho ĐĐTKPĐ, giao cho nhơn sanh gìn giữ. Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh cho phép nhơn sanh được quyền đệ trình những điều cần chỉnh sửa đó là chánh pháp của Đạo. Vậy tại sao lại không thực hành quyền được ban cho mà trông chờ vào Đức Di-Lặc?

Hơn nữa câu trên dạy: Đức Di-Lặc đương thâu thủ phổ duyên từ năm 1935 chứ đâu phải chờ đến bảy trăm ngàn năm sau mới hành đạo. Cách hiểu nầy vừa sai về thời gian, sai về chánh lý, trốn tránh nghĩa vụ khi Minh Thệ.

Trên thực tế sau khi Hội Thánh bị cốt (1983), chi phái 1997 ra đời tại Tòa Thánh Tây Ninh, mạo danh Hội Thánh làm cho nhơn sanh lầm lẫn; một số văn bút ra đời biện luận rằng chờ Đức Di-Lặc tái sanh sửa đổi những điều sai trái trong Đạo … là thiếu trách nhiệm của một Tín đồ, ru ngủ người đạo phế vong phận sự; dù vô tình hay cố ý cũng dẫn đến hậu quả ngăn chận con đường công quả của nhơn sanh và dĩ nhiên là có lợi cho tà quyền.

Sửa đổi chơn truyền theo diện một.

Xin liệt kê một vài trích đoạn để hiểu: Sửa cái gì, sửa như thế nào?

Sửa thứ nhứt: Ba nhánh thành một nhánh (Qui Tam giáo). Bài Khai Kinh dạy: Một cội sanh ba nhánh in nhau, là ba nhánh Phật, Tiên, Nho thời Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ được tạo ra theo cùng một nguyên lý và giao cho các Đấng làm Giáo chủ.

Đến Tam Kỳ Phổ Độ (TKPĐ) Thầy qui ba nhánh làm một và chính mình Thầy làm chủ. TNHT Q1 trang 7, bản in 1972. Thầy dạy ngày 20-2-1926. … Cái nhánh các con là nhánh chính mình THẦY làm chủ, sau các con sẽ hiểu. …

Nhận xét: Từ ba nhánh Phật, Tiên, Nho Thầy sửa thành một nhánh là ĐĐTKPĐ. Xưa Thầy giao các nhánh cho các bậc Giáo chủ làm chủ (mà các bậc Giáo chủ ấy là phàm), nay Thầy không giao cho tay phàm mà do chính mình Thầy làm chủ. Trong cái nhánh ĐĐTKPĐ Thầy đã qui tam giáo (3 nhánh) vào pháp luật đạo.

Sửa thứ hai: Tam giáo qui nhứt và phản tiền vi hậu. Thứ tự Thầy lập ba nhánh: Phước Linh Tự: Ngày 15/9 Bính Dần (24-10-1926).

… Thầy nói cho các con rõ: Vì cớ nào trước từ Nhứt Tổ chí Lục Tổ thì thờ Thầy ngồi trước, vì trước là lớn phải vậy. …

… Thầy lập Phật giáo từ khi khai thiên lập địa nên Phật giáo là trước, kế Tiên giáo rồi mới đến Nho giáo. Nay là Hạ ngươn hầu mãn, phải phục lại như buổi đầu nên phải phản tiền vi hậu. Tỉ như lập Tam giáo qui nhất thì:

Nho là trước.

Lão là giữa.

Thích là chót.

Nên Thầy phải ngồi sau Phật, Tiên, Thánh, Thần mà đưa chúng nó lại Vô vi chi khí, chính là Niết Bàn đó vậy. (TNHT Q1 trang 43, bản in 1972.)

Nhận xét: Bài Thánh ngôn trên Thầy dạy khi xưa lập ba nhánh thì đi từ Phật, Tiên, Nho nay qui Tam giáo thì đi theo thứ tự Nho, Tiên, Phật, cho nên Đạo dụng Nho Tông chuyển thế rồi lần lên Tiên, Phật, ấy là Tam giáo qui nhứt và thay đổi thứ tự.

Sửa thứ ba: Hiệp Nhứt Ngũ Chi (Ngũ chi Phục Nhứt). Ngày 24-4-1926 Thầy dạy: Vốn từ trước Thầy lập ra Ngũ chi Đại-Đạo là:

Nhơn-đạo,
Thần-đạo,
Thánh-đạo,
Tiên-đạo,
Phật-đạo.

Tuỳ theo phong hoá cuả nhân loại mà gầy Chánh giáo, là vì khi trước Càn-vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn-loại duy có hành đạo nội tư phương mình mà thôi.

Còn nay thì nhơn-loại đã hiệp đồng. Càn-Khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều đạo ấy mà nhơn-loại nghịch lẫn nhau: nênThầy mới nhứt định quy nguyên phục nhứt. Lại nữa, trước Thầy lại giao Chánh- Giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh-Giáo mà làm ra cuộc Phàm-Giáo. Thầy lấy làm đau đớn, hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhân-loại phải sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A-Tỳ.

Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh Giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập Chánh Thể, có lớn nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi Bồng Đảo.

Nhận xét: Chữ vốn từ trước có nghĩa là Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ, hai thời kỳ nầy nhân loại từ ăn lông ở lỗ tiến đến văn minh nông nghiệp, con người di chuyển bằng cơ bắp hay sức kéo của gia súc nên còn ngăn cách bởi địa lý (Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt) nên Thầy phân ra làm ba nhánh (Phật, Tiên, Nho) để khai sáng. Thầy lại cho quyền mỗi nhánh lập ra nhiều chi phái cho phù hợp với tài nguyên và môi trường của vùng miền mà sống đạo và hành đạo (Ngũ Chi). Nhân loại đi từ văn minh nông nghiệp, tiến lên văn minh công nghiệp, văn minh điện và điện tử. Nhân loại bước vào thời kỳ năm châu chung chợ, bốn biển chung nhà Càn Khôn dĩ tận thức, các nền văn hóa giao lưu nhau nên xảy ra xung đột. TKPĐ Thầy đến Quy Nguyên Tam Giáo, Hiệp Nhứt Ngũ Chi lại làm một và dạy thêm những điều mới để xây dựng nền văn minh mới. ĐHP ngày 14-2-Mậu Thìn (5-3-1928): Thầy hiệp nhứt Ngũ chi thành một cái thang có năm nấc cho nhơn sanh theo đó mà công quả.

Sửa thứ tư: Hai thời kỳ trước Thầy giao chánh giáo cho tay phàm nghĩa là giao luôn phần hồn. TKPĐ Thầy không giao chánh giáo cho tay phàm nghĩa là không giao hồn của đạo cho tay phàm như hai thời kỳ trước. Thầy cầm phần hồn của đạo nhưng lập chánh thể là phần hữu hình của Hiệp Thiên và Cửu Trùng để làm Thánh thể (nắm phần xác).

Sửa thứ năm: Đến TKPĐ chính Thầy lập ra chánh thể, đó là sự khác biệt so với hai thời kỳ trước: … Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh Giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập Chánh Thể, có lớn nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi Bồng Đảo

Tóm lại: Có 3 thời kỳ mở Đạo nhưng có 2 nguyên lý. Nguyên lý của Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ là Đạo từ vô vi xuống lần đến hữu hình; Nhứt bản tán vạn thù (từ một gốc phân ra nhiều hình thức). Nguyên lý của TKPĐ Đạo từ hữu hình tiến lần đến vô vi; Vạn thù quy nhứt bản (từ nhiều hình thức trở về cái gốc là đạo).

Xin mời xem bảng liệt kê.




Những cách hiểu khác (đối chiếu theo quyền tự do trong đạo đức).

Cách 1: Chi phái 1997 ăn cắp căn cước của Đạo, ăn cướp Tòa Thánh Tây Ninh của Đạo, làm cho sai lạc chơn truyền, (bắt banh thay cho cơ bút) nên Đức Di-Lặc sẽ tái sanh để sửa đổi lại cho đúng với chơn truyền ĐĐTKPĐ.

Cách hiểu nầy sai với chữ đương: Di-Lặc đương thâu thủ phổ duyên… Chữ đương là sự việc đang xảy ra, đâu phải dạy sắp xảy ra. Câu kinh có nghĩa là Đức Di-Lặc đang hành đạo, đang có mặt tại thế, để thực hiện nhiệm vụ từ năm 1935, đâu phải đợi chi phái 1997 ra đời mới hành đạo. Cũng sai về đối tượng sửa đổi chơn truyền. Thiên Thơ dạy Pháp luật đạo là binh khí diệt tà quyền, môn đệ Cao Đài căn cứ vào pháp luật đạo để lập công quả, mới đáng phận; và đúng với Lời Minh Thệ: … Hiệp đồng chư môn đệ gìn luật lệ Cao Đài

Cách 2: Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý 171/B Cống Quỳnh Sài Gòn biên soạn sách Lịch Sử Đạo Cao Đài. Trong đó chia Đại Đạo làm 2 nhánh, nhánh 1 của Ngài Ngô Minh Chiêu là Nội Giáo Tâm Truyền, và gọi ĐĐTKPĐ là nhánh 2 Ngoại Giáo Công Truyền. Không nhìn nhận đêm 14 rạng 15-10-Bính Dần (18/19-11-1926) là Ngày Khai Đạo mà gọi là Khai Minh Đại Đạo vì Đức Chí Tôn đã khai đạo trước đó. Đức Chí Tôn của CQPTGL khác và trái ngược với Đức Chí Tôn trong TNHT Q2 trang 127 dạy ngày 14-10-Bính Dần (18-11-1926) là Ngày Khai Đạo.




CQPTGL gọi ĐĐTKPĐ là nhánh 2 cũng trái ngược với lời Đức Chí Tôn dạy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q 1 trang 7, bản in 1972. Thầy dạy ngày 20-2-1926. … Cái nhánh các con là nhánh chính mình THẦY làm chủ, sau các con sẽ hiểu. … (ảnh chụp).





CQPTGL tuyên bố Đức Chí Tôn về cơ (1965) giao cho họ nhiệm vụ thống nhất cơ đạo. Các Đấng dạy họ lập ra các phẩm tước trong CQPTGL như Giáo Sĩ, Hiệp Lý Minh Đạo … không có trong PCT. Họ cũng không có hành chánh đạo vậy thì họ lấy tư cách gì để sai khiến những Chức sắc của Hội Thánh làm theo kế hoạch của họ?

Kinh dạy: Lành dữ hai đường vừa ý chọn … CQPTGL chọn cách phá hoại chánh giáo của Đức Chí Tôn và người đạo có đủ quyền chỉ ra: ông Trời của CQPTGL 171/B Cống Quỳnh, Sài Gòn không phải là ông Trời trong ĐĐTKPĐ bởi vì ông Trời của Đạo Cao Đài dạy ngày 24-4-1926: … Nhưng mà buộc phải lập Chánh Thể, có lớn nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi Bồng Đảo.

Chánh thể của Thầy lập có thể pháp và bí pháp. Chánh thể của Thầy có Bát Quái Đài, Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài. Phần hữu hình của chánh thể có Hội Thánh là hình thể Chí Tôn tại thế, có Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh, có Phước Thiện. Muốn cầm quyền hành chánh đạo dầu cho một phẩm Chức việc cũng phải từ bỏ quyền đời để trọn tâm lo cho đạo. Còn vào hàng Chức sắc phải phế đời hành đạo, ly gia cắt ái thực hành Thiên đạo mà dìu dắt môn đệ Cao Đài Ngọc Đế giữ câu Minh Thệ; nhứt phải theo pháp luật đạo chẳng được chuyên quyền là lập thành tả đạo …

Phẩm Đầu Sư lập thệ: " Tôi là Lê Văn Trung tự Thiên Ân là Thượng Trung Nhựt và Lê Văn Lịch tự Thiên Ân là Ngọc Lịch Nguyệt, thề Hoàng Thiên, Hậu Thổ, trước Bửu Pháp Ngũ Lôi rằng làm trọn Thiên Đạo dìu dắt cả mấy em chúng tôi đều là môn đệ của Cao Đài Ngọc Đế; nhứt nhứt do lịnh Thầy phân định chẳng dám chuyên quyền mà lập thành tả đạo; như ngày sau hữu tội thì thề có Ngũ Lôi tru diệt." (TNHT Q 1, trang 15, bản in 1927)

CQPTGL biên soạn sách Lịch Sử Đạo Cao Đài sửa chữ mà thành chữ và làm sai lạc ý nghĩa lời thề.



Đức Chí Tôn dạy: chi chi cũng tại Tây Ninh mà thôi … nghĩa là cả thể pháp và bí pháp Thầy trao truyền cho Hội Thánh tại Tòa Thánh Tây Ninh mà CQPTGL tạo ra một ông Trời khác rồi tuyên bố ông Trời của CQPTGL dạy họ thống nhứt nền đạo thì đó là quyền tự do của họ, ai tin họ cũng là quyền tự do chọn mặt gởi vàng.

Về cơ bút: ĐHP dạy cơ bút có 4 cửa: Cửa 1: ma quỉ nó nhập mà ma quỉ đâu bao giờ xưng danh ma quỉ nó phải mượn danh các Đấng cao trọng để gạt người. Cửa 2: chính hai đồng tử ăn ý nhau rồi viết ra chứ chẳng có ai nhập. Cửa 3: những người hầu đàn dùng điển lực của họ điều khiển đồng tử viết. Cửa 4: mới tới các Đấng thiêng liêng cao trọng.

Đức Thượng Đế tuyên bố chỉ có một đàn cơ dạy về ĐĐTKPĐ và giao nhiệm vụ cầu cơ cho 15 người. Phổ Cáo Chúng Sanh ĐĐTKPĐ (13-10-1926), trang 06 dạy: "Vậy các con khi nghe nói Cao Đài nơi nầy, Cao Đài nơi kia đừng vội tin mà lầm mưu Tà-Mị"


Theo lời dạy trên thì cơ bút của CQPTGL không phải của Thầy.

ĐHP dạy: Cơ bút tạo đạo được thì cơ bút có thể diệt đạo được, cơ bút có thể phong cho người ăn mày nơi đầu đường xó chợ lên địa vị Giáo Tông, Hộ Pháp, rất đổi ngày Lễ Khai Đạo tại Chùa Gò Kén mà quỉ nó còn nhập đàn cho nên Ngài rất lấy làm kinh sợ cơ bút. Cho nên ĐHP có bút phê:

các Đấng muốn dạy việc chi thì phải giáng cơ tại Cung Đạo trước Thánh Thể Đức Chí Tôn thì chúng ta mới nhìn nhận.

CQPTGL có quyền tự do cầu cơ rồi tuyên bố là ông Trời của họ dạy họ làm những điều trái nghịch với ông Trời trong TNHT. Tin hay không là quyền tự do mỗi người. Nhưng vấn đề là CQPTGL mạo nhận danh hiệu ĐĐTKPĐ để trên bìa sách, đó là gian ý nên chúng tôi làm rõ trước công luận. Khi nào họ viết sách mà không mạo nhận danh hiệu ĐĐTKPĐ trên bìa sách nữa thì chúng tôi chẳng bàn luận đến họ. 

Phật Mẫu Chơn Kinh câu 39-40: Kỳ khai tạo nhứt Linh-Đài, Diệt hình tà pháp cường khai Đại-Đồng cho nên người đạo phải căn cứ vào Thiên Thơ, căn cứ vào lời nguyện thứ năm: Ngũ nguyện Thánh Thất an ninh để lập công quả cho mình chứ sao phải chờ Đức Di-Lặc Vương? Nếu cái gì cũng chờ thì Đức Chí Tôn mở trường thi công quả cho ai?

Cách hiểu liên quan đến CQPTGL cũng không phù hợp với chữ ĐƯƠNG trong câu kinh: Di-Lặc đương thâu thủ phổ duyên … như đã trình bày ở cách 1.

Cách 3: Khi tìm hiểu bài Kinh Đại Tường, một vị Hiền tài viết:


 

Viết Đức Di-Lặc sẽ giáng linh là trái nghĩa với Di-Lặc đương thâu thủ phổ duyên và tái sanh khác với giáng linh. Xin làm rõ ở phần sau.

Một vị Hiền Tài khác tìm hiểu về Bài Kinh Đại Tường đã viết thành sách (trang 447): Đức Di-Lặc Vương Phật sẽ giáng sanh xuống cõi trần nầy một lần nữa để sửa đổi cho đúng chơn truyền tất cả những giáo lý của các nền tôn giáo xưa, bởi vì giáo lý của các nền tôn giáo nầy qua hơn hai ngàn năm truyền bá đã bị người đời canh cải làm sai lạc rất nhiều … (hết trích).

/- Về xã hội: nhân loại bước vào thời toàn cầu hóa, các niềm tin tôn giáo xung đột nhau là một trong những nguyên nhân dẫn đến Đệ nhứt và Đệ nhị thế chiến. Nhân loại ngồi lại với nhau lập ra Liên Hiệp Quốc, từ Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc lập ra Công Ước về quyền Dân sự và Chính trị; Điều 18:

(1) Tất cả mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo. Quyền này phải bao gồm quyền tự do có hoặc thay đổi tôn giáo hay thế giới quan theo ý mình, và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay thế giới quan thông qua việc giảng dạy, thực hành, thờ phụng và cử hành các nghi lễ cho riêng cá nhân mình hay cùng với tập thể, ở chốn công cộng hay chỗ riêng tư.

(2) Không ai có thể bị bắt buộc phải giới hạn quyền tự do có hoặc đi theo một tôn giáo hoặc một thế giới quan tự chọn.

(3) Quyền tự do biểu thị tôn giáo hay thế giới quan chỉ có thể bị giới hạn theo luật vì nhu cầu bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công cộng, sức khoẻ công cộng, đạo lý hay những quyền tự do căn bản của người khác.

(4) Các quốc gia thành viên cam kết bảo đảm cho cha mẹ, hoặc người có quyền bảo dưỡng quyền được tự do giáo dục con cái mình về mặt tôn giáo và đạo lý theo cách thích hợp với niềm tin của mình.

Theo đó quyền tự do tôn giáo và niềm tin là quyền của tạo hóa ban cho nên là quyền phổ quát, nhân loại được hưởng thụ mà không phải kèm theo điều kiện nào hay nghĩa vụ nào. Tự do tôn giáo là quyền chứ không phải xin cho.

Vị Hiền tài viết: Đức Di-Lặc Vương Phật sẽ giáng sanh xuống cõi trần nầy một lần nữa để sửa đổi cho đúng chơn truyền tất cả những giáo lý của các nền tôn giáo xưa … trên thực tế mỗi tôn giáo có hệ thống tổ chức riêng, trong khi Đức Di-Lặc là nhân sự ĐĐTKPĐ vậy lấy tư cách chi để xen vào mà sửa? Có phải là đụng chạm với niềm tin tôn giáo và đi ngược với trào lưu nhân quyền của nhân loại?

Thầy dạy: Lành dữ hai đường vừa ý chọn … là đã ban quyền tự do cho mỗi người tự chọn, thì làm sao vi phạm quyền tự do của Thầy ban cho mỗi người được?

PCT CG: Chí Tôn đã định khai đạo đặng thị chứng cho các Tôn Giáo biết nhìn nhau trong đường hành thiện, trừ tuyệt hại tranh đấu thù hiềm, làm cho Thế Giới đặng hòa bình, thoát cơ tận diệt. Theo đó thì Đạo Cao Đài làm bạn với các tôn giáo chứ không xen vào nội bộ của tôn giáo.

Ngày 10-9-1958 ĐHP dạy: Hôm nay Bần Đạo giảng về Nhơn Sanh nhập vào trường thi. Học thì phải có thi, thi mới biết giá trị của thí sinh dày công học tập chẳng uổng công phu…

… Buổi Hạ Nguơn nầy mãnh liệt vô cùng khốc liệt, nên các cơ quan Đại Đồng Thế Giới phải nhập cuộc trường thi Phong Thánh. Bần Đạo quả quyết cho Nhơn Sanh tự thức giác, có nghĩa là cuối Hạ Nguơn Tam Chuyển, bắt đầu Nguơn Tứ Chuyển thì mở cửa cho cả thiên hạ nhập trường chung cuộc khảo thí.

Tín Đồ Cao Đài là thí sinh có trường lớp, có Thầy dạy hẳn hoi. Thế mà hôm nay Bần Đạo xem môn sinh quá tệ.

Bài vở Thánh Ngôn Thánh Giáo tiềm tàng nhưng không chịu nghiên cứu học thuật để làm Thánh làm Tiên; ngược lại theo học bóng chàng đồng cốt, sấm giảng bá vơ, cúi đầu lạy tà mị, đem tiền dưng cho kẻ lợi dụng mê tín ăn hưởng.

Hại thay cho mối Đạo của Thầy trong cơn khảo thí. Cuộc khảo thí nầy rất quan trọng…

Liên Hiệp Quốc là một trong những cơ quan Đại-Đồng thế-giới song hành với Đạo Cao Đài, Điều 18 trên đây phù hợp với lời dạy: … Lành dữ hai đường vừa ý chọn … là một ví dụ.

Về thiêng liêng: Tam giáo (ba nhánh) xuất phát từ Đức Chí Tôn, chơn truyền tam giáo do Chí Tôn ban, Đức Di-Lặc dưới quyền Đức Chí Tôn thì làm sao có đủ quyền năng để sửa chơn truyền của Chí Tôn?

Như vậy câu: Tái sanh sửa đổi chơn-truyền phải hiểu đối tượng để sửa là chơn truyền của Thầy dùng để lập ra Tam giáo thời Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ như đã trình bày chứ không phải là chơn truyền của từng tôn giáo.

Niềm tin của nhân loại: Ba nhánh trước đây là do Thầy dạy lập ra, khi nhân loại tấn hóa đến văn minh điện và điện tử thì Thầy lập Cái nhánh ĐĐTKPĐ là lập một nền văn minh mới. Đức Chí Tôn ban quyền cho nhân loại được tự do chọn lựa, cho nên nhân loại vẫn có quyền chọn theo các nhánh do Chí Tôn lập ra, không ai can thiệp được.

Các vị viết theo hướng Đức Di-Lặc can thiệp vào chơn truyền các tôn giáo trước đó chưa được Hội Thánh kiểm duyệt vẫn đề đại tự Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ trên bìa sách rồi đem quảng bá. Đó là việc làm sai với Chương Trình Hiến Pháp do Hội Thánh ban hành năm 1928 tại điều 22 và 24. Sự vi phạm ấy lại gây ra sự hiểu lầm trong xã hội và cũng không phù hợp với chữ ĐƯƠNG trong câu kinh Di-Lặc đương thâu thủ phổ duyên.

Câu 4: Khai cơ tận độ cửu tuyền diệt vong.


ảnh chụp