Bài từ fb Bản tin HTE.
TÌM
HIỂU KINH ĐẠI TƯỜNG
Bài 2.
Hội Thánh chưa kiểm duyệt.
Câu
2: Di-Lặc đương thâu thủ phổ duyên.
Lễ
Khai Đạo tại chùa Gò Kén (18-11-1926) Đức Chí Tôn dạy đôi liễn:
Di-Lặc thất bá thiên niên quảng khai Ðại Ðạo.
Thích Ca nhị thập ngũ thế chung lập Thiền môn.
Tạm hiểu: Đức Di-Lặc mở rộng
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ hay Đạo Cao Đài trong 700.000 năm. Đức Thích Ca nhập Niết
Bàn, 25 thế kỷ sau chung sức lập Đạo Cao Đài.
Nhưng
trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển và Pháp Chánh Truyền không dạy về Đức Di-Lặc, mãi đến
năm 1935, mới dạy qua Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, khi xây dựng Tòa Thánh Tây
Ninh bố trí tượng Đức Di-Lặc trên nóc Hiệp Thiên Đài (Phi Tưởng Đài).
Bài 1: https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2024/08/5118-vi-bang-1-tim-hieu-kinh-ai-tuong.html#more
Thể pháp qua kiến trúc.
(Ảnh chụp tượng Đức Di Lặc - Đền Thánh Tây Ninh)
https://www.facebook.com/share/vcxGe4E6W9sPp2X6/?mibextid=CTbP7E
Trong
thể pháp qua kiến trúc, Đức Di-Lặc mặc trang phục triều nghi, ngồi trên lưng cọp
là chỉ dấu Đức Di-Lặc liên quan mật thiết với ý nghĩa Khai Đạo năm Bính Dần (1926)
và Đạo Luật Mậu Dần (1938). Đức Di-Lặc ngồi theo thế tĩnh tọa, công phu, lưng
hướng Đông, mặt hướng Tây, ngồi trên tòa sen, tòa sen đặt trên thảm vuông, thảm
vuông đặt trên lưng cọp, cọp không chạy như Long Mã trên Nghinh Phong Đài mà nằm
theo hướng Bắc-Nam, đầu ngó về phương Tây.
Thầy
dạy ngày 7-8-1926, TNHT Q1: “Thầy đã nói thầy thả một lũ hổ-lang ở lộn cùng
các con; nó hằng thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho con mặc một
bộ thiết-giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo-đức của các con.
Trong
thế ngồi của Đức Di-Lặc và thế nằm của cọp thể hiện Đức Di-Lặc đã thuần hóa được
lũ hổ-lang, điều khiển hổ lang theo ý muốn, cả hai nhìn về phương Tây. Tây
Phương về xã hội là khoa học kỹ thuật, về đạo học là cảnh an nhàn, giải thoát
là Niết Bàn.
Kinh
Giải Oan, câu 23-24:
Đóng Địa ngục, mở tầng Thiên,
Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây Phương.
Kinh
Khi Đã Chết Rồi câu 13-16:
Cửa Tây Phương khá bay đến chốn,
Diệt trần tình vui hưởng tiêu diêu,
Tiên phong Phật cốt mỹ miều,
Vào Kinh Bạch Ngọc lễ triều Chí Linh.
Kinh
Cầu Tổ Phụ Đã Qui Liễu, câu 21-24:
Chốn Tây phương đường đi thong thả,
Cõi Diêm cung tha quả vong căn.
Tiêu diêu định tánh nắm phan,
Do theo Cực lạc đon đàng siêu thăng.
Kinh
Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Đã Qui Liễu, câu 9-16:
Ơn Tạo hóa tha tiền khiên trước,
Đưa linh phan tiếp rước nguyên nhân.
Tiên phong phủi ngọn phất trần,
Liên đài đỡ gót đến gần Tây Phương.
Cửa Cực Lạc đon đường thẳng tới,
Tầm không môn đặng đợi Như Lai.
Hào quang chiếu diệu CAO ĐÀI,
May duyên nay đã gặp ngày siêu sanh.
Kinh
dạy: Ánh Thái Dương giọi trước phương Đông hàm ý Đạo khởi ở phương Đông
nên đối diện, đối thoại hay tiếp rước phương Tây cũng lấy Đạo làm gốc. Thể pháp
bày lộ thiên nghĩa là nơi thập mục sở thị, thập thủ sở chi, (mười mắt
nhìn vào, mười tay chỉ vào); nghĩa là xã hội nhìn vào và kiểm chứng.
Đức
Thích Ca giáng cơ dạy bài KINH ĐẠI TƯỜNG, Lòng sớ dạy: Tam-Tông Chơn-Giáo:
Tây-Phương Giáo-Chủ Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn. Nối kết như vậy để hiểu thêm ý
nghĩa việc Đức Di-Lặc và cọp đều ngó về hướng Tây.
Thời
Nhị Kỳ có tranh Thập Mục Ngưu Đồ (mười bức tranh chăn trâu), người chăn trâu thuần
hóa được trâu không cần tới sợi dây nữa, cả hai tự tại. Thời Tam Kỳ Thầy thả một
lũ hổ-lang ở xung quanh ta và hằng xúi nó cắn xé chúng ta nhưng Thầy đã ban cho
bộ thiết giáp là đạo đức. Đạo đức một xã hội thể hiện qua pháp luật của xã hội,
đạo đức một tôn giáo là pháp luật của tôn giáo đó. Pháp luật đạo là binh khí
diệt tà quyền trong mỗi người và trong tổ chức tôn giáo thì mới ngồi trên
tòa sen được. Hổ lang không yên vị là tòa sen bị ảnh hưởng.
Thể
pháp Đức Di-Lặc ngồi trên lưng cọp, cùng ngó về phương Tây là đạo lý và nhơn
tâm là một, nhơn sanh phải thuận tùng đạo lý, đạo lý phải thu phục được nhân
tâm trên và dưới phải thông hiểu nhau để tạo sự thuận hòa, như quẻ Thái vậy.
Nhơn tâm bên dưới đóng vai trò hạ tầng, nên là sức mạnh, Đức Di-Lặc ngồi trên
lưng cọp là thượng tầng là bộ não. Hạ Tầng trong Đạo Cao Đài là Thánh Thất, Thượng
Tầng là Tòa Thánh Tây Ninh khi cúng đọc Ngũ nguyện: Thánh Thất an ninh. Đức
Di-Lặc tĩnh tọa là để trị hổ lang, có trị được hổ lang Ngài mới thi hành sứ mạng
trong ĐĐTKPĐ.
Pháp Chánh Truyền
Chú Giải: Thầy là chúa sự vô vi, nghĩa là chúa các việc vô hình, Thầy lại
ban cho người đủ khôn ngoan trí thức Thiêng Liêng, đặng làm chúa của sự hữu
hình, nghĩa là chúa cả của vạn vật, nếu muốn cho sự vô vi và sự hữu hình được
tương đắc, thì cả hai ông chúa phải liên hiệp nhau mới đặng, người có sức sửa
cơ Tạo Hóa, song Tạo Hóa cũng tùy người mà làm cho vạn loại trở nên tận thiên,
tận mỹ.
Liên
tưởng đến hình ảnh Đức Di-Lặc trong xã hội với áo cà sa, cười thoải mái bên cạnh
lục tặc có nghĩa là đã thuần hóa được lục tặc nên ai nấy đều tự tại, tươi vui.
Đức
Di-Lặc mặc triều phục, ngồi tĩnh tọa quay mặt về phương Tây nghĩa là khi chầu lễ
Đức Chí Tôn xong rồi đã đọc Ngũ nguyện rồi, giờ thực hiện ngũ nguyện như thế
nào? Trước mặt Đức Di-Lặc là Đại lộ Phạm Hộ Pháp, đến cột phướng, cây bồ đề, Cửu
Trùng Thiên, Đức Sa-Nặc, Đức Thích Ca tầm đạo, đại lộ Cao Thượng Phẩm, Tháp Hộ
Pháp và lộ Chánh môn… Vậy làm thế nào để thâu thủ phổ duyên?
Khởi
đầu là Đại Lộ Phạm Hộ Pháp nằm theo chiều Bắc-Nam (trục hoành), và bước vào Đền
Thánh vô vi (từ Cột Phưởng trở đi) cho đến Tháp Đức Hộ Pháp (trục tung) để làm
nhiệm vụ quảng khai Đại Đạo. Tượng Đức Di-Lặc ngồi trên lưng cọp có cả trục
hoành và trục tung.
Về cá nhân: Mỗi người đến thế
gian trong vô lượng kiếp để tạo sự nghiệp cho mình nơi cõi thiêng liêng, ngôi vị
cõi thiêng liêng chính là tòa sen của mình. Kinh Đưa Linh Cửu câu 15-16: Tòa
sen báu vật xin đưa, Chơn linh an ngự cho vừa quả duyên. Tòa sen là ngôi vị
của mỗi người tạo được trong vô lượng kiếp.
Về tôn giáo: Đức Chí Tôn lập
QUỐC ĐẠO để giải quyết khổ nạn của nhân loại. Cửu Trùng Đài giáo hóa để nhơn
sanh đủ trí lự khôn ngoan, không để ai thao túng tâm lý, lừa gạt đức tin. Phước
Thiện để giải quyết vấn nạn cơm áo gạo tiền cho Thánh thể và Tín Đồ. Ba Hội Lập
Quyền Vạn Linh để nhơn sanh mạnh mẽ, tự chủ trong cuộc sống. Chánh pháp của đạo
là hun đúc để DÂN MẠNH mới có hòa bình: Cầu xin trăm họ bình an, Nước giàu
dân mạnh thanh nhàn muôn năm (bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối). Pháp luật đạo là binh khí diệt tà quyền, trong
đó Đạo Luật Mậu Dần (1938) là một công cụ rất hữu ích để trị hổ lang trong mỗi
người và trong nền đạo.
Đạo
có thể và dụng, tòa sen tròn thể hiện cái dụng của Trời, thảm vuông thể hiện
cái dụng của Đất. Trong Tam tài: Thiên-Địa-Nhân thì Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư
Sửu, Nhơn sanh ư Dần. Tạm hiểu: Trời khai ở hội Tý, Đất khai ở hội Sửu, Người
khai ở hội Dần. Đức Di-Lặc ngồi lưng cọp thể hiện sự hài hòa của Thiên-Địa-Nhân
trong kỷ nguyên của Đức Di-Lặc.
Thể
pháp Đức Di-Lặc qua kiến trúc thể hiện được nguyên lý của Tam Kỳ Phổ Độ: từ
hữu hình đến vô vi. Pháp luật đạo là binh khí diệt tà quyền, là thần
thông, là khuôn thước để thuần hóa hổ lang của chính mình và tôn giáo. Thông điệp
hòa bình chung sống lan tỏa qua thể pháp.
Thể pháp qua kinh văn.
Thâu:
nhận vào. Thủ: giữ lại. Phổ duyên: bày ra tùy theo căn duyên của mỗi người, tùy
vào tài nguyên và môi trường trong xã hội. Chữ đương có nghĩa là đang làm việc
gì đó, đang lái xe đi làm, đang ngồi trong lớp học, đang học môn gì, đang cúng
thời Tý hay thời Mẹo, đang đọc bài kinh gì … nghĩa là khi bài Kinh Đại Tường được
dạy là Đức Di-Lặc đã làm việc thâu thủ phổ duyên ngay từ năm 1935 cho đến
suốt chu kỳ của ĐĐTKPĐ. Xác định được chữ đương thì loại ra những nghĩa không
phù hợp, thí dụ như Đức Di-Lặc sẽ tái sanh để làm công việc thâu thủ phổ
duyên hay tái sanh để sửa đổi chơn truyền.
Đạo
Pháp Vô Biên nhưng phải hiện hữu, cũng như việc học là không cùng tận, nhưng mỗi
người, mỗi thời đại phải ở trong một vị trí của con đường không cùng tận ấy.
Cho nên Đạo Pháp hiện hữu là thể pháp để xây dựng con người, xã hội và tôn
giáo. Thể pháp luân chuyển hóa sanh để phụng sự chúng sanh theo luật cung cầu,
chúng sanh là đối tượng phụng sự của thể pháp, tính phụng sự chúng sanh quyết định
giá trị thể pháp.
Đạo là vô tự,
tôn giáo là văn tự. Đức Di-Lặc không có trong PCT CG (Hành Chánh Đạo, 1931),
không có trong BHLQVL (Chánh Trị Đạo, 1934) nghĩa là không thuộc về cả hai cơ
quan nầy. Đến năm 1935 Đức Di-Lặc mới hành đạo trong ĐĐTKPĐ vậy Đức Di-Lặc
không thể điều động nhân sự của Hành Chánh Đạo và Chánh Trị Đạo.
Vậy
Đức Di-Lặc đương hành đạo ở đâu? Ai là nhân sự của Đức Di-Lặc?
Quan
sát chánh giáo của Đức Chí Tôn chúng tiểu đệ, muội nhận thấy:
Phước Thiện
cũng không có trong PCT CG, không có trong Chánh Trị Đạo. Phước Thiện hành đạo
dưới quyền của Thánh thể (Hành Chánh Đạo) và theo đường lối của Chánh Trị Đạo. Phước
Thiện không có quyền điều động nhân sự Hành Chánh Đạo và Chánh Trị Đạo. Hội
Thánh Phước Thiện là của Hộ Pháp, theo Đạo Luật Mậu Dần (1938), nhân sự Phước
Thiện do quyền thưởng phạt riêng của Đức Hộ Pháp, nghĩa là Hộ Pháp có toàn quyền
thâu thủ phổ duyên nhân sự Phước Thiện và hành đạo dưới quyền Thánh Thể
(quyền Chí Tôn tại thế).
Phước Thiện là
một trong ba con đường về với Đức Chí Tôn, hai đường còn lại là hành chánh và
tu chơn (Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống).
Đến đây ta thấy
Phước Thiện do quyền thâu thủ phổ duyên của Đức Hộ Pháp và Đức Di-Lặc, vậy
hai Đấng ấy là một hay hai? Xin vui lòng xem phần tiếp theo.
Phước Thiện
không có trong Pháp Chánh Truyền. Xin
trích đoạn Đức Hộ Pháp dạy năm 1951, BNS Thông Tin số 77: Phước Thiện không
có trong Pháp Chánh Truyền, họ trích điểm là phải. Mà chính Thầy cũng nhìn nhận
là không khi nào Phước Thiện có trong Pháp Chánh Truyền, dầu rằng mấy con cầu
xin xỏ đem danh từ Phước Thiện vào Pháp Chánh Truyền lại còn sai hơn nữa. Thầy
vẫn lấy quyền Chí Tôn tại thế, không bao giờ làm trái ngược vậy được. …
… Thầy cho các con biết cái chủ nghĩa Phước Thiện của Đạo
Cao Đài lập ra đây nếu nó ra sớm thì sẽ bị chết trong trứng. Vì nó là chướng
ngại của thế gian. Bởi vì đời cứ bôn xu trên đường duy vật, danh vị, quyền lợi
càng tranh đấu mãi.
Còn Đạo dục tiến tinh thần, đem bác ái công bằng trãi trên
mặt thế, cộng hòa nhơn loại, làm cho xã hội bình đẳng, nâng đỡ kẻ nghèo đến tột
bực, không giàu mà sang, tuy nghèo mà tự toại. Chủ nghĩa ấy nó đương đầu với
các sắc dân vương vị, đế quyền, bảo sao mà không phản trắc, cũng vì quyền với
lợi. Đừng nói chi ngoài đời trong Đạo mà cũng còn làm tánh đức đó. Qua nói là
bậc Chức Sắc lớn, không phải hàng Đạo Hữu mà thôi.
Cơ cứu thế, Đức Chí Tôn dạy lập hồi mới khai Đạo, cũng vì
cái khó khăn mà duy trì đến ngày 15 tháng 8 Quí Dậu (1933) Qua mới thuyết trình
trong bài diễn văn đã giãi rõ. Bắt đầu từ Phước Thiện mới nảy nở đến tháng
giêng năm Ất Hợi (1935) mới được bành trướng, thì Đức Lý Giáo Tông cho phẩm
Giáo Thiện mượn áo mão của Lễ Sanh 03 năm để bổ đi các Tỉnh, lo mở Phước Thiện.
Ngài dạy đợi đến ngày Hội Thánh lập nên Hội Quyền Vạn Linh để đưa ra hội quyết
định. …
… Hội Thánh Cửu
Trùng Đài là của Giáo Tông. Hội Thánh Phước Thiện là của Hộ Pháp. Trong nền Đạo
luôn luôn phải có Giáo Tông và Hộ Pháp dầu có sự biến thiên xoay chuyển thế
nào, sớm hoặc muộn đều phải có Giáo Tông và Hộ Pháp.
Dầu thể xác của Qua là con kỵ vật của Hộ Pháp có thay đổi
thế nào, Hộ Pháp vẫn là Hộ Pháp.
Ngày kia chủ quyền Đạo hữu hình nầy là Gíao Tông làm chủ,
không lẽ Ngài vô tình chiết bớt cánh tay, tức là giải tán Phước Thiện. … (hết
trích).
Theo Đạo Luật Mậu
Dần (1938). Nhân sự Phước Thiện độc lập với Hành chánh. Điều 10, Chương Phước
Thiện.
Điều thứ mười: Gầy Dựng Cơ Thể Phước Thiện Các Nơi, Và Những Phương
Hay Đặng Châu Cấp Cho Những Kẻ Tật Nguyền Cô Độc.
LUẬT: Kỷ luật
Thập nhị đẳng cấp Thiêng liêng của Chức Sắc Phước Thiện định y như dưới đây:
1-
Minh Đức
2- Tân Dân
3- Thính Thiện
4- Hành Thiện
5- Giáo Thiện
6- Chí Thiện
7- Đạo Nhơn
8- Chơn Nhơn
9- Hiền Nhơn
10- Thánh Nhơn
11- Tiên Tử
12- Phật Tử
I/- LUẬT
TUYỂN CHỌN.
1/- Bất luận Nam hay Nữ, ai ai cũng đặng dưới quyền tuyển
chọn vào Phước Thiện của Đạo, hoặc người có Đạo, hoặc người chưa có Đạo, muốn
vào Phước Thiện thì phải lập tờ hiến thân trọn đời, xin làm công quả cho cơ sở
Phước Thiện.
2/- Những Chức
Sắc hay Chức Việc đương quyền hành chánh mà muốn hiến thân làm công quả vào cơ
sở Phước Thiện, thì phải có giấy chứng nhận do đẳng cấp trật tự mình mới đặng.
Còn Tín Đồ thì phải có giấy chứng tánh hạnh tốt của Bàn Trị Sự cho thì bên Phước
Thiện mới thâu nhận.
3/- Người
nào mới nhập vào Phước Thiện cũng phải khởi đầu làm công quả theo hạng Minh Đức.
Theo khoản
2: các phẩm bên hành chánh đạo muốn
vào cửa Phước Thiện cũng bắt đầu từ phẩm Minh Đức, việc đối phẩm Phước Thiện và
Cửu Trùng Đài chỉ dùng trong nghi lễ mà thôi. Phước Thiện là một con đường, một
khung trời riêng biệt với Cửu Trùng Đài mà vẫn phục vụ cho hành chánh đạo. Hai
bầu trời nầy hòa quyện vào nhau mà vẫn dưới quyền của Thánh thể theo ý nghĩa
câu kinh: Hỗn ngươn Thiên dưới quyền Giáo-chủ, sự an bày của Đại Từ Phụ (trở
pháp) ảo diệu đến nước Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều ngạc nhiên vì sự lạ và Đức
Thích Ca đắc đạo đã mấy ngàn năm khi thuyết Di-Lặc Chơn Kinh cũng dạy: Ngã
kim thính văn đắc thọ trì … đến nay chúng đệ tử mới chạm đến sự bí mật
trong Đạo Luật Mậu Dần (1938) thật là vui mừng khôn xiết, xin đê cầu cảm tạ Thầy,
Mẹ, các Đấng thiêng Liêng đã ban bố ơn lành.
Ý nghĩa câu Hộ
Pháp đến lập vị cho Đức Di-Lặc nằm ở việc Đức Hộ Pháp lập ra Phước Thiện và
theo các điều lệ Phước Thiện độc lập với hành chánh đạo (cho nên có cả người
ngoại đạo) mà vẫn phụng sự cho ĐĐTKPĐ. Đức Hộ Pháp cầm quyền Giáo chủ để lập Đạo
Luật Mậu Dần (1938) là tạo nhân sự giúp cho Đức Di-Lặc hành đạo.
II/- CẦU
PHONG.
4/- Chức Sắc
Phước Thiện Nam Nữ phải chịu dưới quyền công nhận của toàn Hội Phước Thiện, mới
đặng thăng chức hay là buộc tội mà bị sa thải.
5/- Bậc Minh
Đức muốn lên bậc Tân Dân phải có 3 năm công nghiệp đầy đủ với chức trách, phải
có tờ kiết chứng công nghiệp, tờ khai tánh đức tốt, trường trai và tư cách xứng
đáng mới đặng dự vào sổ cầu phong.
….
V/- QUYỀN
PHONG THƯỞNG.
14/- Quyền
phong thưởng Chức Sắc Phước Thiện hay là buộc tội Chức Sắc ấy thì về quyền đặc
biệt của Đức Hộ Pháp mà thôi.
Đức Di Lặc
không có trong Pháp Chánh Truyền và Chánh Trị Đạo, Phước Thiện không có trong
Pháp Chánh Truyền và Chánh Trị Đạo. Phước Thiện và Đức Di-Lặc hành đạo dưới quyền
Thánh thể của Đức Chí Tôn. Phước Thiện có Đại Hội Phước Thiện (hữu hình), Đức
Di-Lặc là chủ Đại Hội Long Hoa kỳ ba (vô vi). Đối chiếu Di-Lặc đương thâu thủ
phổ duyên với Phước Thiện có nhiều điểm tương đồng, là cơ sở để kết luận Đức
Di-Lặc hành đạo trong cửa Phước Thiện. Về Hội Long Hoa sẽ bàn luận khi tìm hiểu
câu 5.
Phước Thiện:
Hộ Pháp là thể pháp, Di-Lặc là bí pháp. …
Đức Hộ Pháp vâng lịnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu, thọ mạng cùng Đức Chí Tôn tạo Thuyền
Bát Nhã nơi mặt thế nầy là tượng trưng Thể pháp. Phước Thiện là chủ Thuyền Bát
Nhã hữu hình là thể pháp, Đức Di-Lặc làm chủ Thuyền bát nhã vô vi là bí pháp.
/- Ngài Khai
Pháp Trần Duy Nghĩa, chưởng quản Cơ Quan Phước Thiện, giải thích về Chèo Thuyền
Bát Nhã, tại Khách Đình, ngày 13-10-Ất Hợi (dl 8-11-1935).
Hôm nay là
ngày 13 tháng 10 Ất Hợi, nhằm lễ kỷ niệm Khai Đạo hằng năm, lại nữa là ngày
khai Thuyền Bát Nhã tại Khách Đình.
Bần tăng
vâng lịnh Đức Hộ Pháp dẫn giải cho nhơn viên hiện có trách nhiệm trọng yếu
trong Bát Nhã thuyền được rõ: Lấy theo Thể pháp, các em đây là nhơn viên của Đức
Phật Di-Lạc tượng trưng thể pháp nơi mặt thế nầy, nương lấy khuôn Thuyền Bát
Nhã trong thời kỳ hạ nguơn hầu mãn khởi đầu thượng nguơn Tứ Chuyển.
Về hữu vi,
tượng trưng đưa xác người vào nơi cực lạc giới, gọi là kiếp thoát trần; mặt
khác về nhiệm mầu vô vi là Cơ Tận độ cứu rỗi cửu nhị ức nguyên nhân qui hồi cựu
vị, cùng các chơn hồn tiền vãng hậu vãng và các chơn hồn vật loại đạt đến phẩm
nhơn khi thoát xác được siêu thăng Thượng giới.
….
* Tam Kỳ
Phổ Độ:
Đến thời kỳ
Hạ nguơn mạt kiếp, tức là thời kỳ qui cổ, chính mình Đức Chí Tôn giáng trần,
dùng huyền diệu cơ bút, để Tam Trấn Oai Nghiêm thay cho Tam giáo lập Đạo vô vi,
không hình thể như trước, gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
1/. Đức Phật
Quan Âm chưởng quản về Phật giáo.
2/. Đức Lý
Thái Bạch Tiên Trưởng chưởng quản Tiên giáo.
3/. Đức Quan
Thánh Đế Quân chưởng quản Thánh giáo, gọi là Nho Tông Chuyển Thế.
Nhơn thời Hạ
nguơn nầy, do cơ bút mà biết được nguyên nhân đắc đạo trong hai kỳ trước. Những
nguyên nhân đắc đạo đến tình nguyện nơi Ngọc Hư Cung giáng trần, chịu mạng lịnh
nơi Đức Di-Lạc Vương Phật, lo cứu rỗi 92 ức nguyên nhân còn say đắm nơi trần.
Bây giờ nhắc
lại Thể pháp cuộc Chèo Thuyền Bát Nhã, phận sự của nhân viên trong thuyền có:
·
Tổng Lái
· Tổng Mũi
· Tổng Thương
· Tổng Khậu và
· 12 Bá Trạo.
- Tổng Lái:
là chơn linh Hắc Sát Tinh ở Thượng giới theo Thể pháp, còn Bí pháp là chơn khí
của Hộ Pháp.
Tổng Lái tượng
trưng Bát Quái Đài.
- Tổng
Thương: là chơn linh Huỳnh Long Tinh ở Thượng giới theo Thể pháp, còn Bí pháp
là chơn khí của Thượng Sanh.
Tổng Thương
tượng trưng cho Cửu Trùng Đài.
- Tổng Mũi:
là chơn linh của Bạch Hổ Tinh ở Thượng giới theo Thể pháp, còn Bí pháp là chơn
khí của Thượng Phẩm.
Tổng Mũi tượng
trưng cho Hiệp Thiên Đài.
- Tổng Khậu:
tượng trưng nhơn sanh, tức là chơn hồn của chúng ta, thấy tánh tình của Tổng Khậu
vô chừng, vui buồn chẳng định, vả chăng trong thời biến chuyển loạn lạc, phải
chịu dưới phép sai khiến của lục dục thất tình, vì danh lợi tự đem mình đến chỗ
trụy lạc, vì vật chất xa hoa quyến rũ.
- Mười hai
Bá Trạo: Con số 12 là bí pháp, số riêng của Đức Chí Tôn. Ngài nắm Thập nhị Khai
Thiên nơi tay, tức là Thập nhị Thời Thần nơi Bạch Ngọc Kinh. Còn Thể pháp là Thập
nhị Thời Quân HTĐ mà chúng ta đã biết trong cửa Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Vậy 12 Bá Trạo
tượng trưng Thập nhị Địa Chi: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu,
Tuất, Hợi, mà biến tướng Càn Khôn thế giới, làm cho rộng lớn thêm lên vũ trụ
bao la.
Những vị vừa
kể trên, vừa chèo vừa hát rập ràng, theo chơn truyền của đạo là Thể pháp. Thể
pháp có hành thì Bí pháp mới tựu. Ấy là "dĩ huyễn độ chơn".
Thể pháp và
Bí pháp lúc nào cũng phải đi đôi, cũng như người có xác và hồn phải tương liên,
bằng chẳng vậy, có xác không hồn là điên, có hồn không xác là vị đó vậy.
Đức Chí Tôn
là chúa tể Càn Khôn Vũ Trụ, hoá sanh vạn vật, cầm quyền thiêng liêng cũng như hữu
hình, với lòng Đại từ đại bi, chẳng nỡ ngồi nhìn con cái của Ngài phải chịu trầm
luân khổ hải, nên Ngài dùng Bí pháp định cho Tam vị Thần xuống thế tượng trưng
Thể pháp là: Tổng Lái, Tổng Mũi, Tổng Thương, lái vững khuôn thuyền Bát Nhã để
độ dẫn các chơn linh nguyên nhân, hóa nhân, quỉ nhân, và các chơn hồn tức là
trong chúng sanh, dầu xiêu lạc nơi nào cũng tìm rước về hội ngộ cùng Thầy.
Trong thời kỳ
Hạ nguơn Tam Chuyển bước qua Thượng nguơn Tứ Chuyển, là Đại Ân Xá Kỳ Ba, chính
mình Đức Chí Tôn là Ngọc Hoàng Thượng Đế dùng huyền diệu cơ bút mở Đạo Cao Đài
tại nước Việt Nam, qui Tam giáo hiệp Ngũ chi, tạo đời Thánh đức, dụng Nho Tông
Chuyển Thế với chủ nghĩa tận độ chúng sanh trên quả Địa cầu 68 nầy qui hồi cựu
vị, chẳng phân biệt giống nòi hay chủng tộc.
KẾT LUẬN:
Trong nền Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, dùng Thuyền Bát Nhã với Bí pháp huyền vi mầu nhiệm thiêng
liêng, vì Đức Di-Lạc Vương Phật Chưởng Giáo Thiên Tôn, Đức Ngài làm chủ Thuyền
Bát Nhã, rước các bậc nguyên nhân từ Thất thập nhị Địa trở về.
Đức Phật ngự
trên thuyền, kêu gọi toàn linh căn chơn tánh của cửu nhị ức nguyên nhân hãy mau
tỉnh ngộ về cửa nầy, nương nơi Thuyền Bát Nhã trở về Lôi Âm Tự và Bạch Ngọc
Kinh mà hội ngộ cùng Thầy.
Còn về Thể
pháp, Đức Hộ Pháp vâng lịnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu, thọ mạng cùng Đức Chí Tôn tạo
Thuyền Bát Nhã nơi mặt thế nầy là tượng trưng Thể pháp, độ dẫn Bát hồn: từ Vật
chất hồn, Thảo mọâc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn
và Phật hồn, do Kim Bàn Phật Mẫu vận chuyển hóa ra Bát đẳng cấp chơn hồn, đúng
như Kinh Phật Mẫu dạy:
Trung
khổ hải độ thuyền Bát Nhã,
Phước từ bi giải quả trừ căn.
Huờn hồn chuyển đọa vi thăng,
Cửu Tiên hồi phục Kim Bàn chưởng Âm.
Theo nghĩa bốn
câu kinh trên là: Thuyền Bát Nhã tượng trưng nơi mặt thế nầy để rước xác tục
đưa qua khỏi bến sông mê bể khổ trần ai, huờn hồn phục sanh, siêu thăng nơi miền
Thánh đức.
Tòa
Thánh, ngày 13 tháng 10 năm Ất Hợi.
(dl 8-11-1935)
KHAI PHÁP Trần Duy Nghĩa.
/- Đức Di-Lặc Vương là chủ Thuyền Bát Nhã vô vi. Tờ xin trả chức
của Lễ-Sanh Ngọc-Giác-Thanh.
Lời phê của Đức
Hộ Pháp.
Bần-Đạo buồn-cười
mà để dấu hỏi coi ai dạy Giác mà nó ngoan Đạo quá vậy. Đương chèo thuyền
Bát-Nhã là một tên bạn chèo mà coi mình trọng hơn phẩm Lễ-Sanh cũng là một điều
hi-hữu, ừ phải, nó chỉ biết nó theo khuôn thuyền tế-độ, ấy là vì biết chủ chiếc
thuyền là Đức Di-Lạc Vương-Phật. Nên nó nghĩ: "Thà làm tôi cho một vị PHẬT
đặng đưa bước Thiêng-Liêng cho các Chơn-Hồn, hơn là làm tôi-đòi cho Vạn-Linh
Sanh-Chúng." Sáng-suốt ấy chẳng phải xác-thịt phàm của Giác xúi-biểu nó,
mà là Chơn-Linh Phật-Tánh của nó đã nói nhỏ với nó. Bần-Đạo lại làm trái ý nó một
phen chơi, chúng-sanh đã muốn cho nó làm Lễ-Sanh nó chê, Bần-Đạo cho nó vào
hàng Giáo-Thiện, Hội-Thánh Phước-Thiện lập Thánh-Lịnh.
HỘ-PHÁP
(Ấn-Ký)
/-
Do đơn tố-cáo Chí-Thiện Hương-Nhâm cho mướn Thuyền-Bát-Nhã.
Lời phê của Đức
Hộ Pháp.
Quyền Ngọc
Chánh Phối-Sư viết thư nói cho các Bàn-Trị-Sự nơi Châu-Thành Kiêm-Biên biết rằng:
Thuyền Bát-Nhã là của Hội-Thánh Phước-Thiện cho Hội-Thánh Ngoại-Giáo mượn, do lịnh
Bần-Đạo dạy, khi Giáo-Sư Bẩy phản chiếm làm chủ, và khi Bần-Đạo về thấy thì dạy
lấy lại giao cho Phước-Thiện hay là Chức-Sắc Phước-Thiện làm chủ. Nghĩa là của
thiệt chủ nó trả lại cho chủ nó. Chí-Thiện Hương-Nhâm thay mặt Hội-Thánh Phước-Thiện
làm chủ nó thì chủ-quyền của Chí-Thiện Nhâm, không ai phản-đối đặng. Nhưng Bần-Đạo
sẽ nhắc Chí-Thiện Nhâm thuyền ấy chỉ để làm phước chớ không phải để làm mướn, nếu
cho mướn lấy tiền cốt-yếu để tiền ấy làm phước mà phước ấy cả con cái Thầy phải
hưởng trước hết.
HỘ-PHÁP (Ấn-Ký)
Ban Di-Lặc
hành đạo: Đạo Luật Mậu Dần (1938) Điều
10-11 thuộc về Phước Thiện.
Điều 11:
Phương Chỉnh Đốn Về Mặt Nghi Tiết Của Đạo Nơi Các Thánh Thất Và Về Phần Quan,
Hôn, Tang, Tế.
LUẬT: Hội Thánh
phải bổ đến mỗi Quận Đạo: Lễ Sĩ, Cai Nhạc và Giáo Nhi có cấp bằng của Hội
Thánh, đặng chỉnh đốn về mặt nghi tiết nơi các Thánh Thất và các cuộc quan hôn,
tang tế.
…. Cả thức lệ về mặt nghi tiết và phương pháp
thật hành về quan hôn, tang tế đều thuộc về quyền của Phước Thiện sắp đặt,
nhưng bên Hành Chánh, Phổ Tế và Tòa Đạo cũng phải chung lo cho đặng trang
hoàng.
Theo qui định
trên đây thì Nhạc, Lễ, Đồng Nhi thuộc quyền Phước Thiện, Hội Thánh Phước Thiện
là của Hộ Pháp, về thể pháp Hộ Pháp là chủ Thuyền Bát Nhã hữu hình nên thâu
thủ phổ duyên về hữu hình, về bí pháp Đức Di-Lặc là chủ Thuyền Bát Nhã vô
vi nên thâu thủ phổ duyên về vô vi. Đạo tỳ là nhân viên của Đức Di-Lặc vậy Lễ,
Nhạc, Đồng Nhi và Đạo Tỳ là Ban Di-Lặc hành đạo dưới 2 quyền hữu hình của Hộ
Pháp và vô vi là Đức Di-Lặc.
Đức Di-Lặc trong xã hội và Đức Di-Lặc trong ĐĐTKPĐ: Có một điều
thú vị là hình ảnh Đức Di-Lặc trong xã hội gắn liền với bộ áo cà sa rất bình dị
và lúc nào cũng tươi cười với lục tặc. Tòa Thánh Tây Ninh là triều nghi của Đức
Chí Tôn, Đức Di-Lặc về Tòa Thánh Tây Ninh mặc triều phục rất uy nghi, ngồi trên
lưng cọp, miệng như mỉm cười vì đã thuần hóa được hổ lang Thầy thả xung quanh
nhơn sanh.
Câu 3: Tái sanh sửa đổi
chơn-truyền,