VNTB – Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý: Căn cước & Nhiệm vụ
Dương Xuân Lương
(VNTB) – CQPTGL do cộng sản lập ra dĩ nhiên phải ở chiếu trên so với các chi phái bị cộng sản lợi dụng. Vậy có phải cộng sản lập ra CQPTGL để chỉ huy các chi phái đó qua 2 công cụ: tiền và cơ bút?
https://vietnamthoibao.org/vntb-co-quan-pho-thong-giao-ly-can-cuoc-nhiem-vu/
Nhiều chi phái Cao Đài và Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý (CQPTGL) 171B Cống Quỳnh, Sài Gòn họp tại Tòa Thánh Ngọc Sắc, Minh Chơn Đạo ngày 21, 22 tháng 11 năm 2004 để dâng công lên đảng. CQPTGL tự khai: đảng cộng sản cho cán bộ và điệp viên dùng cơ bút lập ra để hoạt động thành.
Năm 2021 Vụ Cao Đài liệt kê 09 Hội Thánh và 02 tổ chức Cao Đài không có CQPTGL, nhưng họ hoạt động từ trong nước đến hải ngoại, tạo nhiều đầu sách, công khai truyền bá cơ bút phong tiên thánh, chứng tỏ họ là siêu tổ chức, siêu quyền lực.
1/- Căn cước.
1.1/- Năm thành lập, danh hiệu, mục đích: Năm 1965 đảng cộng sản Việt Nam dùng cơ bút lập ra CQPTGL, đôi khi ghi năm 1966. Có 4 danh hiệu là CQPTGL, sau đó thêm 3 chữ Cao Đài Giáo rồi thêm 2 chữ Việt Nam và sau 1975 thành CQPTGL Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Cộng sản cho cán bộ, điệp viên dùng cơ bút lập ra CQPTGL để hoạt động thành nên phải đưa họ vào hệ thống, mục đích của cộng sản để nhận xét và phân tích.
1.2/- Bốn nhân vật đầu tiên và đồng tử.
Ông Nguyễn Quang Sanh (pháp danh Chí Thành), là thành viên Ban chấp hành trung ương Cao Đài cứu quốc, phụ trách miền Đông Nam Bộ (1953). Sau hiệp-định Geneve năm 1954, trở về Thánh-tịnh Ngọc-Minh-Đài, phái Tiên-Thiên, ở quận Tư Saigon, năm 1965 lập ra CQPTGL.
Ông Võ-Nghĩa-Hạo (Thánh-danh Đạt-Chơn), công-tác tại Cơ-quan điệp-báo khu Tây Nam Bộ, phụ trách tình báo vùng Sài-Gòn, Chợ-Lớn, Gia-Định, huân-chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất.
Ông Trần Văn Quế (1902-1980) theo Đạo Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, đắc phong Lễ Sanh phái Ngọc (Ngọc Quế Thanh), sau qua chi phái Tiên Thiên và chi phái khác rồi lập ra Trung Hưng Bửu Tòa (1956). Năm 1965 gia nhập CQPTGL làm Tổng Lý Minh Đạo đầu tiên.
Ông Đinh-Văn-Đệ (1924-2020), dân biểu Việt Nam Cộng Hòa, Phó Chủ tịch Hạ viện, Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Hạ viện cũng là điệp viên cao cấp của cộng sản, điệp báo của Đoàn 22, ngành tình-báo chiến-lược trực thuộc bộ Tham mưu Miền Nam, bí-danh Nguyễn-văn Hải, bí-số: U4, cụm VD2, Đinh Văn Đệ thánh danh Thiên Vương Tinh gia nhập và chỉ huy toàn bộ từ 1967.
Đồng tử của CQPTGL có cả nam và nữ đặc biệt là không cần ăn chay. Năm 2016 có trên 10 chức sắc, 50 chức việc, gần 200 tín đồ, 01 cơ sở đạo. Số nhân sự đắc Thánh, Tiên cả nam lẫn nữ từ năm 1965 đến nay hằng hà sa số.
1.3/- Tại sao CQPTGL ra đời năm 1965?
Cần liệt kê yếu tố từ xã hội, từ Đạo Cao Đài tại năm 1965, lời tự khai của CQPTGL và các chi phái Cao Đài phục vụ cho cộng sản để hiểu đúng.
1.3.1/- Về xã hội: Năm 1963 chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ, bộ máy chính quyền rất phức tạp, bài viết liệt kê một vài sự kiện liên quan đến tình hình tôn giáo.
Cụ Phan Khắc Sửu bị chính quyền Ngô Đình Diệm đày ra Côn Đảo trở về, đến tháng 10-1964 được bầu làm Quốc Trưởng. Trong thời gian làm Quốc Trưởng ông có quan tâm đến các tổ chức tôn giáo, tạo điều kiện cho các tôn giáo có pháp nhân.
Ngày 21-01-1965 Hội Thánh Cao Đài lập Hiến Chương gửi đến chính phủ xin cấp pháp nhân.
Ngày 20-2-1965, Hội Thánh Cao Đài Bến Tre đến thăm viếng, Quốc Trưởng tỏ ý rằng: Ngài đang soạn thảo Sắc luật thừa nhận Tư Cách Pháp Nhân cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Nhưng chưa kịp hoàn thành thì ông rời khỏi nhiệm vụ Quốc Trưởng ngày 14-6-1965.
Ngày 12-7-1965 Chủ Tịch Uỷ Ban Hành Pháp Quốc Gia, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu duyệt y Hiến chương của Hội Thánh Cao Đài tại Sắc luật số 003/65.
1.3.2/- Về Đạo Cao Đài: Có bốn sự kiện lớn.
Thứ nhất: Đạo Cao Đài thoát khỏi sự áp bức của chính quyền Ngô Đình Diệm. Hội Thánh căn cứ vào lời dạy Đức Lý Giáo Tông năm 1957 và Đức Hộ Pháp chuyển thông điệp qui nhứt đến các chi phái.
Thứ hai: Một số chi phái cử cụ Trần Văn Quế làm Trưởng phái đoàn gửi Thỉnh Cầu về họp với Hội Thánh ngày 09-5-1964 để bàn việc qui nhứt. Do vậy Hội Thánh họp ngày 07-05-1964, tại văn phòng Hiệp Thiên Đài bàn việc đón tiếp. Phiên họp ngày 09-5-1964 đã diễn ra tốt đẹp mở đường cho Hội Thánh gởi HIỆU TRIỆU ĐOÀN KẾT (09-4-1965). Kết quả là phiên họp ngày 24-02-1969 ký kết 09 Điều Kiện Qui Nhứt tại Tòa Thánh Tây Ninh.
Thứ ba: Ngày 30-3-1965 Đức Thượng Sanh ký Thánh Lịnh 01/TL thành lập Ban Thế Đạo (BTĐ) để cầu hiền giúp đạo. BTĐ cốt yếu mở rộng trường công quả tiếp đón những bậc nhân tài văn võ có khả năng phụng sự cho Đạo mà không thể phế Đời hành Đạo. BTĐ tức là cơ quan thuộc về phần Đời bắt nguồn từ cửa Đạo phát xuất, làm dây nối liền cho Đạo Đời tương đắc tương liên, ngõ hầu tạo lập một đời sống thanh bình cho nhơn loại trong thời chuyển thế.
Cộng sản ra bản án ngày 20-7-1978 lên án BTĐ: Năm 1965, có đạo diễn của CIA, tập đoàn lãnh đạo Cao Đài Tây Ninh lúc bấy giờ cho ra đời Ban Thế Đạo… để tạo ra một cửa mở hợp pháp cho bọn tình báo, cảnh sát, nguỵ quân, nguỵ quyền, tư sản, trí thức phản động qua con đường này chui vào Đạo… có nghĩa các vị công tư chức, sĩ quan quân đội, trí thức, khoa bảng, nghiệp chủ… vào BTĐ thì cộng sản không còn cơ hội để lợi dụng nên lên án.
Lưu ý: BTĐ trực thuộc Hội Thánh Hiệp Thiên Đài “Chi Thế” có nghĩa là BTĐ không can dự vào Hành Chánh Đạo (HCĐ), mà để giúp sức cho HCĐ nên phải dưới quyền HCĐ. Nhân sự HCĐ cầm lái con thuyền đạo để thực thi NHƠN NGHĨA, cho dù một phẩm chức việc cũng phải trả hết quyền đời, không được tham gia bất cứ đảng phái chính trị nào để trọn tâm lo cho đạo, nghĩa là ngăn chặn xung đột lợi ích ngay từ đầu.
Thứ tư: Ngày 12-7-1965 Chủ Tịch Uỷ Ban Hành Pháp Quốc Gia, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu ký Sắc luật số 003/65, công nhận Hiến chương của Hội Thánh. Sắc luật pháp nhân đã góp phần quan trọng để đạt được 09 Điều Kiện Qui Nhứt (1969).
Các liệt kê trên soi sáng lý do cộng sản bố trí cho cán bộ và điệp viên dùng cơ bút lập ra CQPTGL 171B Cống Quỳnh vào năm 1965.
1.3.3/- CQPTGL và các đồng sự tự khai: Chi phái Ban Chỉnh Đạo (Bến Tre) tự khai: Ngày 16-12-1972 Giáo Hội Bến Tre – Hội Thánh Đô Thành ký kết thỏa ước liên giao hành đạo giữa các Hội Thánh tại thánh thất Tây Thành (Cần Thơ) quy tụ 18/20 chi phái đạo Cao Đài, bên trong có sự ngầm giúp của Mặt Trận Giải Phóng Khu Tây Nam Bộ để thành lập tổ chức liên giao 18 Hội Thánh Cao Đài. …
…. Những năm 1983-1984, Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo – Giáo Hội Bến Tre ở Đô Thành thực hiện việc công khai hóa huân chương kháng chiến hạng nhì do Nhà Nước thưởng cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo vào năm 1954.
CQPTGL do cộng sản lập ra dĩ nhiên phải ở chiếu trên so với các chi phái bị cộng sản lợi dụng. Vậy có phải cộng sản lập ra CQPTGL để chỉ huy các chi phái đó qua 2 công cụ: tiền và cơ bút?
Đối chiếu thời gian và liệt kê sự kiện trên đủ để kết luận: Hội Thánh Cao Đài hành đạo theo Tân Luật, Pháp Chánh Truyền. Đạo Luật Mậu Dần (1938), điều III, mục số 7: Nếu như một ai còn đương quyền Đời mà muốn vào hàng phẩm Chức Việc, thì phải từ bỏ quyền Đời đặng để trọn tâm lo tròn trách nhiệm Đạo. Hội Thánh thực hiện Cơ qui nhứt thì cộng sản không còn cơ hội lợi dụng đạo, nên lập ra CQPTGL phục vụ cho lợi ích cộng sản: phá hoại Cơ qui nhứt và triệt hạ Hội Thánh.
2/- Nhiệm vụ:
Ngày 13-12-1926 Đức Cao Đài dạy: … Vậy Thầy khuyên các con ráng thành tâm hành Đạo, mà Đạo không phải giữ bằng lỗ miệng không đâu. Thầy thấy nhiều đứa trong các con có ý theo đạo đặng toan kế làm nhiều việc chẳng lành… (TNHT Q1). Người Đạo Cao Đài hiểu rằng: Đạo đức thể hiện qua hành động, đó là nguyên tắc rất quan trọng để xét người, xét việc, để không bị ru ngủ, không bị lường gạt.
CQPTGL tuyên bố: … một nhịp cầu nối liền tình huynh đệ, một điện đài thâu và phát những động năng thúc đẩy cho sự thống nhất giáo lý, tức là tinh thần vậy; để các con sẽ gặp nhau, quy nguyên ở vị trí duy nhứt, tri và hành theo chánh pháp của Đại Đạo (1965). Người Đạo Cao Đài cần nhìn vào căn cước, vào hành động để hiểu.
Những hành vi phá Đạo Cao Đài.
2.1/– Phá Cơ qui nhứt. Năm 1956 cụ Trần Văn Quế thành lập Hội thánh Truyền giáo miền Trung (Trung Hưng Bửu Tòa), được công cử làm Chủ Trưởng (Phối Sư Ngọc Quế Thanh). Năm 1964 Cụ được cử làm đại diện cho nhiều chi phái Cao Đài về Tòa Thánh Tây Ninh bàn luận việc qui nhứt. Nhiều phiên họp sau đó cụ Trần Văn Quế vẫn ký tên là Trưởng phái đoàn.
Năm 1965 Cụ gia nhập CQPTGL. Năm 1966 được phong chức vụ cao nhất là Tổng Lý Minh Đạo. Năm 1967 ông Đinh Văn Đệ, dân biểu Việt Nam Cộng Hòa, điệp viên U4 gia nhập CQPTGL và là người chỉ huy thực sự.
Ngày 24-02-1969, Đức Thượng Sanh Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài mở phiên họp khoáng đại với 14 chi phái (gồm có 72 vị: 50 Nam, 22 Nữ) tại Tòa Thánh Tây Ninh. Phiên họp ký kết 09 Điều Kiện Qui Nhứt, cụ Trần Văn Quế không dự họp. Trưởng Phái Đoàn là Cựu Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu, Phó Trưởng Đoàn là Bác sĩ Phạm Thành Nam.
Cụ Trần Văn Quế đại diện các chi phái (1964), nhưng khi gia nhập CQPTGL thì rút khỏi Cơ Qui Nhứt. Đó có phải là do nhiệm vụ CQPTGL: … thúc đẩy cho sự thống nhất giáo lý, tức là tinh thần vậy; để các con sẽ gặp nhau, quy nguyên ở vị trí duy nhứt, tri và hành theo chánh pháp của Đại Đạo? Nghĩa là CQPTGL thống nhất bằng cái lỗ miệng?
Đạo Cao Đài tự thân là một khối thống nhất; Lời minh thệ: Thề rằng: Từ đây biết một Đạo Cao-Đài Ngọc-Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng Chư Môn-Đệ, gìn luật lệ Cao-Đài, như sau có lòng hai thì Thiên-tru, Địa-lục.
Theo đó Đức Cao Đài lập ra một Đạo Cao Đài tại Chùa Gò Kén, Tây Ninh vào năm 1926. Căn cước Đạo Cao Đài đã rõ ràng, bất cứ Đạo Cao Đài nào có căn cước khác đều không phải của Ngọc Đế lập. Đâu cần tới CQPTGL thúc đẩy cho sự thống nhất giáo lý.
2.2/- Điệp viên và cán bộ cộng sản làm thư ký. Năm 1969 đạt được 09 Điều Kiện Qui Nhứt. Phái đạo Từ Vân, 100 Thích Quảng Đức, Phú Nhuận, Saigon, qui nhứt về Tòa Thánh Tây Ninh, ngày 20/6/1972 Hội Thánh Cao Đài tổ chức Lễ đón nhận.
Bán Nguyệt San Thông Tin 65, phát hành ngày 30-11-1972 đưa tin: ngày 22-11-1972 Hội Thánh và các chi họp tại Hội trường Ban Thế Đạo, Nội Ô Tòa Thánh Tây Ninh để thành lập Hội Đồng Vận Động Thống Nhất. CQPTGL có điệp viên U4 Đinh Văn Đệ và cán bộ cộng sản Trần Chí Thành tham dự và làm thư ký. Nhiệm vụ của CQPTGL là phá Cơ qui nhứt vậy điệp viên và cán bộ cộng sản làm thư ký để làm gì?
2.3/- Triệt hạ Hội Thánh Cao Đài: hô biến Hội Thánh Cao Đài thành một chi phái, so hàng với các chi phái khác để CQPTGL ra tay thống nhất.
2.3.1/- Trước ngày 30-4-1975 CQPTGL tung ra những đàn cơ đánh phá Hội Thánh, điển hình là đàn cơ ở Nam Thành Thánh Thất đã tạo ra đống củi mục, nhà văn Lê Anh Dũng thánh danh Huệ Khải đã bưng ra trình chánh. Sau 1975 CQPTGL đánh phá hệ tư tưởng Cao Đài rất bài bản.
2.3.2/- Ngày 20-7-1978, cộng sản Việt Nam ban hành Bản án “Cao Đài” trong đó viết: Đạo Cao Đài bị phân hoá chia ra nhiều Chi phái. Trong đó, phái Cao Đài Tây Ninh do Lê Văn Trung, Phạm Công Tắc cầm đầu là phái có ảnh hưởng và tín đồ nhiều nhất. CQPTGL tiếp tay bản án.
2.3.3/- Năm 1996 CQPTGL xuất bản quyển Tìm Hiểu Đạo Cao Đài trang 40, dòng 17 viết: Với Đền Thánh Trung Ương, kiến trúc cơ sở và hệ thống tổ chức hành chính từ trung ương đến các tỉnh, quận và xã đạo, ban đầu Hội Thánh Tây Ninh là Hội Thánh thống nhất, duy nhất của toàn đạo cai quản Tòa Thánh chớ không phải là một chi phái. Nhưng từ khi nội bộ phân hóa, một phần do các phái đạo ly khai bành trướng thanh thế, một phần chịu nhiều ảnh hưởng của các biến cố thời cuộc. Tòa Thánh mặc nhiên trở thành một phái đạo so hàng với các phái khác…. Lưu ý: năm 1996 Hội Thánh bị cốt, nhưng chi phái 1997 chưa ra đời.
2.3.4/- Năm 2005, 2008 CQPTGL làm sách Lịch Sử Đạo Cao Đài. Ông Chí Hùng TM Ban Thường Vụ CQPTGL Hiệp Lý Minh Đạo giới thiệu: “công tác biên soạn một pho sử đạo thỏa ứng mọi chi phái rất quan trọng.”. Ông Đinh Văn Đệ, U4 TM Hội Đồng Nghiên Cứu Giáo Lý: “sứ mạng làm nhịp cầu nối liền các chi phái và phổ thông phổ truyền giáo lý Đại Đạo”. Sách lịch sử đạo gọi ĐĐTKPĐ là nhánh hai. Như vậy CQPTGL đã phủ nhận 4 vấn đề:
Phủ nhận tiền đề cơ bản của ĐĐTKPĐ là Lời minh thệ: Từ đây biết một Đạo Cao-Đài Ngọc-Đế, … chữ một là số ít, tức là Đức Cao Đài lập một Đạo Cao Đài vào năm 1926 tại Chùa Gò Kén, Thượng Đế không lập Đạo Cao Đài thứ hai (số nhiều).
Phủ nhận lời Thượng Đế dạy ngày 20-2-1926: Cái nhánh các con là nhánh chính mình THẦY làm chủ, sau các con sẽ hiểu (TNHT Q 1, trang 7, bản in 1972) (1). Chữ Cái nhánh là số ít, nên không có vấn đề nhánh 1, nhánh 2.
Phủ nhận Hiến chương 1965: TÒA THÁNH Trung Ương (Tây Ninh) là nguồn gốc khai sáng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (Điều 19).
Phủ nhận 09 Điều Kiện Qui Nhất năm 1969 mà Đinh Văn Văn Đệ và Trần Chí Thành đã hợp tác và làm Thư ký vào năm 1972.
3/- Hành đạo bằng lỗ miệng.
Đạo Cao Đài là tôn giáo pháp quyền, từ triết lý đến cơ cấu thể hiện tổ chức, tổ chức và tổ chức. Nhân sự trong Hành Chánh Đạo dù cho một phẩm Chức việc cũng phải trả hết quyền đời. Chức sắc buộc phải phế đời hành đạo, phải ly gia cắt ái mới được cầm quyền hành chính tôn giáo. Đạo lập quyền cho hạ tầng nên ai có Đạo chúng sanh nâng lên, ai thất Đạo chúng sanh xô xuống. Đạo thực thi NHƠN NGHĨA để hữu sản hóa người đạo, người dân: về vật chất có Phước Thiện, về tinh thần có Hành Chánh, Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh thể hiện tự do trong đạo đức, dân chủ có nhân quyền. Điều đó trái ngược với chủ nghĩa cộng sản từ trong căn bản. Do vậy cộng sản dùng cơ bút lập ra CQPTGL, hành đạo bằng lỗ miệng, tung ra hàng loạt cơ bút để đánh phá Đạo Cao Đài.
Có phải CQPTGL dùng cơ bút để thực hiện chính sách ngu dân?
Còn tiếp: Cơ bút của CQPTGL.
(1)/- Thượng Đế dạy ngày 20-2-1926.