Hai nhóm lợi ích: cộng sản và dân có bằng cấp hiệp nhau đánh phá Đạo Cao Đài.
1/- Nhóm cộng sản.
Năm 1965, Cộng sản sai điệp viên Nguyễn Quang Sanh (Trần Chí Thành) lập Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý 171B Cống Quỳnh Sai Gon để hoạt động thành. Năm 1967 có Đinh Văn Đệ là dân biểu Việt Nam Cộng Hòa, phụ trách quốc phòng Hạ Nghị Viện cũng là điệp viên cao cấp cộng sản bí danh U4 chỉ huy. Nhiệm vụ của CQPTGL là đánh phá VNCH và đánh phá Hội Thánh Cao Đài.
Về mặt đánh phá Hội Thánh Cao Đài Đinh Văn Đệ cho ra hàng loạt cơ bút của ơn trên dạy lập ra nhiều chi phái Cao Đài. Đinh Văn Đệ còn cả gan tạo đàn cơ sửa Lễ Khai Đạo ngày 14-10-Bính Dần (18-11-1926) tai Từ Lâm Tự thành Lễ Khai Minh Đại Đạo.
2/- Nhóm có bằng cấp.
Đó là Huệ Khải, Đạt Tường, Thiện Chí ... cùng các máy in tiền khác làm Giáo Sĩ. Đạo Trưởng ... không thể phế đời hành đạo nhưng cũng muốn có Thánh Danh, muốn được gọi Giáo Sĩ, Đạo Trưởng nên hợp tác với Đinh Văn Đệ làm nhơ bẩn bản sắc trong lành của đạo. BBT đưa họ ra ánh sáng cho rộng đường dư luận.
HUỆ KHẢI. Thế danh Lê Anh Dũng. Chào đời tại
Chợ Mới, An Giang. Thánh danh Huệ Khải 慧 啟. Dạy
học, viết văn, nghiên cứu tôn giáo, thuyết minh giáo lý Cao Đài từ 1977. Bút
danh: Dũ Lan LÊ ANH DŨNG, NGHÊ DŨ LAN, LÊ KHANG THÌN... Hiện đang giảng dạy
tại trường Đại Học Kinh Tế Tp.HCM.
Từ Khai tịch đến Khai minh
Huệ Khải
I. Ban sơ chỉ nói Khai Đạo, chưa nói Khai tịch Đạo và
Khai minh Đại đạo
Ngày nay phần đông tín đồ Cao Đài đều quen gọi ngày 23 tháng
8 âm lịch hàng năm là ngày Khai tịch Đạo. Cũng thế, hầu hết đều gọi ngày Rằm tháng
10 âm lịch là ngày Khai minh Đại đạo.
https://thienlybuutoa.org/Giaoly/TuKhaiTichDenKhaiMinh.htm
Tuy nhiên, trong suốt thời gian dài 44 năm từ 1926 đến tháng
9-1970, chưa từng có hai tên gọi ngày Khai tịch Đạo và ngày Khai minh Đại đạo.
Phải đợi đến ngày thứ Ba 22-9-1970, trong một đàn cơ tại thánh thất Nam Thành
(quận 1, Sài Gòn) hai vị tiền bối khai Đạo là Đoàn Văn Bản (1876-1941) và Phạm
Công Tắc (1890-1959) mới chính thức dùng hai tên gọi này.
Thật vậy, trước đàn cơ ấy, trong thánh giáo và sách sử Cao
Đài chỉ nói là ngày Khai Đạo. Vài dẫn chứng như sau:
1. Thánh ngôn hiệp tuyển, Bổn thứ Nhứt (Sài Gòn:
nhà in Tam Thanh, năm Đinh Mão, 1928), trang 39, cho biết ngày thứ Tư 22-9-1926
(15-8 Bính Dần)1 ,
Đức Chí tôn giáng đàn dạy hai vị tiền bối Thượng đầu sư Lê Văn Trung (Thượng
Trung Nhựt, 1876-1934) và Ngọc đầu sư Lê Văn Lịch (Ngọc Lịch Nguyệt, 1890-1947)
như sau:
“Trung, Lịch! Hai con phải hội chư thánh2 mà
xin khai Đạo.”
2. Kết thúc Phổ cáo chúng sanh (Sài Gòn:
imp. De l’Union, 15-10-1926), trang 14 có đoạn: “Ngày 7 Septembre [lẽ
ra Octobre] 1926, nhằm mồng một tháng Chín năm Bính Dần, có môn đệ
Thiên phong của Đức Cao Đài là cựu Hội đồng Thượng nghị viện Lê Văn Trung tự
Thiên ân là Thượng Trung Nhựt vưng lịnh thánh ngôn đến khai Đạo nơi
Chánh phủ. Trong tờ khai Đạo ấy có ký tên 247 chư môn đệ, phần
nhiều đều là chức sắc viên quan, và có nữ phái nhiều người danh dự.”
2. Tại thánh thất Nam Thành, ngày thứ Hai 25-9-1967 (22-8
Đinh Mùi), trong một đàn do bộ phận Hiệp thiên đài Cơ quan Phổ thông Giáo lý phụ
trách, Đức tiền bối Trương Tiếp pháp dạy như sau:
“Tiên huynh Tiếp pháp Trương Văn Tràng xin chào mừng đoàn
hướng đạo, chào mừng chư hiền huynh tỷ đệ muội. Tiên huynh xin mời toàn thể đàn
trung đồng an tọa.
Nhân dịp lễ kỷ niệm ngày Khai Đạo nơi
Nam Thành thánh thất, chúng Tiên huynh trần tấu3 xin
Giáo tông Đại đạo được phép lâm đàn giáng cơ để cùng nhau ôn lại những nỗi vui
buồn cùng những kinh nghiệm quý giá trong đời hành đạo.”
Cuối đàn hôm ấy, Đức Kim Quang Đồng tử cũng nhắc tới ba chữ
ngày Khai Đạo như sau:
“Tiểu thánh chuyển lời Giáo tông Đại đạo ban ơn lành cho
toàn thể đạo tâm đại diện các nơi hội ngộ dự lễ kỷ niệm ngày Khai Đạo năm
thứ 43.”
4. Khoảng năm 1968, Tòa thánh Tây Ninh xuất bản Đạo
sử, quyển II (ronéo, không ghi năm, đánh số trang không chặt chẽ) của bậc
tiền khai đại công là bà Chánh phối sư Hương Hiếu. Ngay đầu sách, tiếp theo “Lời
tựa” là bài “Khai Đạo nơi Chánh phủ”, bà Chánh phối sư Hương Hiếu viết: “Ngày
23 tháng 8 năm Bính Dần (29-9-1926) ông cựu Thượng nghị viện Lê Văn Trung vâng
thánh ý hiệp với chư đạo hữu hết thảy là 247 người tại nhà ông Nguyễn Văn Tường4,
đứng tên vào tịch Đạo để khai Đạo với Chánh phủ.”
Như vậy, kể từ buổi đầu của đạo Cao Đài, các vị tiền bối đã
noi theo lời dạy của Đức Chí Tôn mà gọi ngày 23 tháng 8 là ngày Khai Đạo.
Cách gọi này có trong thánh giáo, và xuất hiện cho đến tháng 9-1970.
Khai Đạo là gì?
Khai 開 nghĩa là mở ra, khởi đầu, tức là
thành lập (to establish, to found). Khai đạo 開道 là
thành lập một tôn giáo (to found a religion). Trong ngữ cảnh Cao
Đài thì khai Đạo là thành lập tôn giáo Cao Đài (to found Caodaism),
và ngày Khai Đạo là ngày thành lập Cao Đài giáo (Caodai Foundation Day).
II. Xác định thời điểm lịch sử hai tên gọi: ngày Khai tịch
Đạo và ngày Khai minh Đại đạo
Cuối quyển Kinh Thiên đạo và thế đạo do Tòa
thánh Tây Ninh xuất bản, trước phần Mục lục có in “Ngày lễ và vía các Đấng”, liệt
kê 31 ngày tiểu lễ và đại lễ. Trong đó không có ngày 23 tháng 8 âm lịch.
Tuy nhiên, ngày Rằm tháng 10 được Hội thánh tổ chức đại lễ
và gọi là “lễ hạ nguơn và kỷ niệm ngày Khai Đạo Đại đạo
Tam kỳ Phổ độ”.5
Điều này cho thấy có sự “trùng lắp”, vì 23 tháng 8 và Rằm
tháng 10 đều gọi là “ngày Khai Đạo”. Nó dễ dàng khiến cho người ta ngộ nhận rằng
Cao Đài giáo có hai ngày Khai Đạo khác nhau!
Đức Vô cực Từ tôn Diêu Trì Kim mẫu dạy: “Đạo không
hình không tướng. Thế nên đừng ai lấy thúng mà úp cái Đạo, đừng ai lấy khuôn mà
đổ cái Đạo. Phải hiểu Đạo là uyển chuyển, thiên biến vạn hóa, tùy cơ duyên mà
phổ độ, tùy hoàn cảnh thực tại mà linh động, uyển chuyển tác dụng cho hợp thời
đúng lúc, tùy trình độ căn trí mà biện minh phân giải, thuyết lý độ đời. Điều
nào hay thì giữ gìn mà phát triển, điều nào dở không thích hợp thì phải trả về
cho quá khứ, điều nào thiếu thì sẽ thêm vô cho đủ, điều nào dư thì hãy cắt xén
bớt cho tròn vẹn.” 6
Chính vì thế đã có sự điều chỉnh vào ngày thứ Ba 22-9-1970.
Xác lập tên gọi ngày Khai tịch Đạo
Trong một đàn cơ do bộ phận Hiệp thiên đài Cơ quan Phổ thông
Giáo lý phụ trách tại thánh thất Nam Thành, ngày thứ Ba 22-9-1970 (23-8 Canh Tuất),
Đức tiền bối Đoàn Văn Bản dạy:
“Đoàn Văn Bản. Tệ huynh chào chư hiền hữu. Chào chư hiền
đệ, hiền muội.
Vâng lịnh Đức Chí tôn, Tệ huynh cùng Hộ pháp đến hôm nay
để chứng lễ Khai tịch Đạo 23 tháng 8 này.”
Tiếp theo đó, Đức Hộ pháp Phạm Công Tắc, Quyền Thượng tôn Quản
thế Đại đạo Tam kỳ Phổ độ, đã giáng đàn dạy:
“Chào chư hiền hữu. Chào chư đệ muội đàn tiền.
Vì muốn sáng tỏ Thiên cơ trên đường hành đạo, hôm nay Bần
đạo vâng lịnh Đức Chí tôn và cũng thay mặt các Tiền bối quá vãng đến để nói rõ
ngày 23 tháng 8 và ngày Rằm tháng 10.”
Trong thánh giáo ngày ấy, Đức Hộ pháp đã sáu lần nhắc đi nhắc
lại tên gọi ngày Khai tịch Đạo, cụ thể như sau:
1. “Ngày 23 tháng 8 là ngày Khai tịch Đạo trên
bình diện pháp lý thế đạo.”
2. “Ngày Khai tịch Đạo là ngày gióng tiếng
chuông cảnh giác để kêu gọi nhân sinh hãy chuẩn bị tâm linh trong mùa Thu, sẵn
sàng trước mùa Đông tiến tới.”
3. “Ngày Khai tịch Đạo 23 tháng 8 là
ngày Thiên cơ hé mở để hòa hợp với tác động của thế nhân.”
4. “Cái giá trị vĩ đại nhất của ngày Khai tịch Đạo không
phải là uy quyền cai trị của đạo pháp, mà trái lại, chính là sự giải thoát cường
quyền, khai phóng mọi ràng buộc chèn ép của khuôn khổ ngăn cách, để khơi nguồn
mạch sống tràn lan huyền diệu trên tâm linh của con người cũng như thế sự.”
5. “Điều mà Bần đạo muốn nói với toàn đạo hôm nay là sự
sáng tỏ của ngày Khai tịch Đạo.”
6. “Đây Bần Đạo trở lại vấn đề ngày 23 tháng 8. Ngày này
là ngày Khai tịch Đạo . . .”
Xác lập tên gọi ngày Khai minh Đại đạo và phân biệt Khai
tịch với Khai minh
Cũng trong thánh giáo dạy tại thánh thất Nam Thành, ngày thứ
Ba 22-9-1970 dẫn trên, Đức Phạm Hộ pháp gọi ngày Rằm tháng 10 là ngày Khai minh
Đại đạo. Đức Hộ Pháp dạy:
“Đây Bần Đạo trở lại vấn đề ngày 23 tháng 8. Ngày này là
ngày Khai tịch Đạo để mọi người, trong tâm thành chí thiện, ý
thức kết hợp thành một khối, để chuẩn bị đủ dữ kiện cho ngày Rằm tháng 10 Khai
minh Đại đạo trước nhân loài, trước quốc tế.”
Đoạn văn trên vừa phân biệt ngày Khai tịch với ngày Khai
minh, vừa cho thấy mối tương quan giữa hai ngày này: Khai tịch là bước chuẩn bị
cho Khai minh.
Tên gọi ngày Rằm tháng 10 là ngày Khai minh Đại đạo được
dùng kể từ ngày 22-9-1970. Tuy nhiên, trước thời điểm ấy, riêng bốn chữ Khai
minh Đại đạo đã sớm xuất hiện trong kinh sách Cao Đài. Chẳng hạn:
1. Từ năm 1929, Hội thánh Tây Ninh đọc kinh dâng trà như
sau:
Mai xuân nguyệt cúc vị trà hương,
Kỉnh lễ thành tâm hiến bửu tương.
Ngưỡng vọng Từ bi gia tế phước,
Khai minh Đại đạo hộ thanh bường.
2. Ngày thứ Sáu 25-9-1959 (23-8 Kỷ Hợi), tại thánh thất Tân
Định, Đức Quan Thánh Đế quân dạy:
Đấng cao cả là Thầy chủ tể,
Thấy đời tàn khó thể ngồi yên,
Thế nên giáng hạ trần miền,
Khai minh Đại đạo gieo truyền lòng
thương.
3. Ngày thứ Sáu 24-9-1965 (29-8 Ất Tỵ), tại Hườn Cung Đàn, Đức
Vô cực Từ tôn Diêu Trì Kim mẫu dạy: “Ngày mới Khai minh Đại đạo,
những tiên tri đã có, cơ tiền định đã được hé mở đôi phần, nhưng chúng sanh
không lưu ý, vì đương hưởng cảnh an cư, mấy ai nghĩ đến cơ cuộc sẽ diễn biến và
diễn biến như ngày nay.”
4. Ngày thứ Ba 22-3-1966 (01-3 Bính Ngọ), tại thánh tịnh Ngọc
Minh Đài, Đức Ngô Minh Chiêu dạy:
Mở toang các cửa nơi trần,
Khai minh Đại đạo độ lần chúng sinh.
Lễ kỷ niệm ngày Khai minh Đại đạo đầu tiên (1973)
Như vậy, bốn chữ Khai minh Đại đạo đã có từ cuối thập niên
1920, được nhắc lại trong nhiều năm sau. Đến ngày 22-9-1970 Đức Phạm Hộ pháp
dùng bốn chữ này để gọi tên ngày Rằm tháng 10. Rồi phải đợi đến tháng 11-1973 mới
có Cơ quan Phổ thông Giáo lý là thánh sở đầu tiên kỷ niệm Rằm tháng 10 với tên
gọi chính thức là ngày Khai minh Đại đạo.
Ngày thứ Sáu 09-11-1973 (15-10 Quý Sửu), tại Cơ quan Phổ
thông Giáo lý, Đức Giáo tông Đại đạo Thái Bạch Kim Tinh dạy:
“Hôm nay là ngày Khai minh Đại đạo. Điều mà chư đệ muội
vui mừng hơn hết là kỷ niệm ngày Thượng đế khai Đạo tại Việt Nam, và cũng vui mừng
ngày Cơ quan Phổ thông Giáo lý thiết lễ Khai minh Đại đạo đầu tiên. Đức Thượng
đế sẽ giá lâm ban ơn cho chư hiền đệ hiền muội trong đàn này.”
III. Khai tịch và Khai minh nghĩa là gì?
1. Giải nghĩa ba chữ Khai tịch Đạo
Trên đây có nhắc bài “Khai Đạo nơi Chánh phủ” của bà Chánh
phối sư Hương Hiếu in trong Đạo sử, quyển II. Tiền bối viết: “. . . ông
cựu Thượng nghị viện Lê Văn Trung vâng thánh ý hiệp với chư đạo hữu hết thảy là
247 người tại nhà ông Nguyễn Văn Tường, đứng tên vào tịch Đạo
. . .”
Tịch Đạo trong câu văn trên nghĩa là Đạo
tịch 道籍
(sổ sách ghi tên tuổi đạo hữu). Chữ tịch 籍 này
nghĩa là sổ sách ghi tên tuổi, lý lịch (record; register), nó cùng
nghĩa chữ tịch trong hộ tịch 戶籍 (sổ sách của chánh phủ ghi chép lý
lịch người dân). Chữ Hán viết tịch với bộ trúc vì người xưa thường ghi chép
trên các thẻ tre (trúc giản 竹簡).
Chữ tịch Đạo trong câu văn trên của bà
Hương Hiếu không phải là chữ tịch Đạo trong tên gọi ngày Khai
tịch Đạo.
Khi nói Khai tịch Đạo, hai chữ Khai tịch này gợi nhớ tới bốn
chữ khai thiên tịch địa 開天闢地 nghĩa là tạo lập vũ trụ (the
creation). Ở đây, khai 開 và tịch 闢 (cũng
viết 辟)
đồng nghĩa là mở ra, tạo lập (to open up, to found, to establish, to
create).
Từ điển Từ bá 词霸
(của Đại học Bắc Kinh, chữ Hán giản thể) giảng khai tịch 开辟 là
“khai phát kiến thiết 开发建设”, nghĩa là mở mang, xây dựng.
Vậy, ngày Khai tịch Đạo tức là ngày thành lập tôn giáo Cao
Đài (Caodai Foundation Day) bằng cách đăng ký với chánh quyền
theo đúng thủ tục pháp lý quy định để có tư cách pháp nhân (legal
entity) cho nền tôn giáo.
Thế nên sự kiện Khai tịch Đạo được Đức Phạm Hộ pháp diễn tả
là: “Quyền pháp lần đầu tiên đã khai sanh vi diệu dưới ngọn đèn pháp
nhân của cuộc đời…” 7
2. Giải nghĩa bốn chữ Khai minh Đại đạo
Khai minh 開明 (to enlighten) là
làm cho sáng tỏ, giúp mọi người hiểu biết, không còn u tối, dốt nát (vô minh).
Khai minh Đại đạo 開明大道 là làm cho mọi người đều biết tới
tôn giáo Cao Đài, tức là Đại đạo Tam kỳ Phổ độ (nói tắt là Đại đạo).
3. Tương quan giữa ngày Khai tịch Đạo và ngày Khai minh Đại
đạo
Để tránh ngộ nhận đạo Cao Đài có hai ngày Khai Đạo nên ngày
22-9-1970 Ơn Trên đã chính thức gọi ngày 23 tháng 8 Bính Dần mà Đầu sư Thượng
Trung Nhựt nộp hồ sơ đăng ký tư cách pháp nhân cho tôn giáo Cao Đài tại Sài Gòn
là ngày Khai tịch Đạo.
Ngày Khai tịch là bước chuẩn bị cho ngày Khai minh Đại đạo để
tất cả các chức sắc và tín đồ đầu tiên của đạo Cao Đài chính thức nhận nhiệm vụ
hay sứ mạng và long trọng ra mắt trước quốc dân đồng bào. Báo chí Việt, Pháp thời
ấy khi đưa tin về cuộc lễ Khai minh đã góp phần mang danh xưng Cao Đài vượt ra
ngoài phạm vi quốc nội và truyền sang quốc tế. Do đó, Đức Hộ pháp dạy:
“Đây Bần đạo trở lại vấn đề ngày 23 tháng 8. Ngày này là
ngày Khai tịch Đạo để mọi người, trong tâm thành chí thiện, ý thức kết hợp
thành một khối, để chuẩn bị đủ dữ kiện cho ngày Rằm tháng 10 Khai minh
Đại đạo trước nhân loài, trước quốc tế.” 8
Ngày Khai minh Đại đạo tại chùa Thiền Lâm (Gò Kén, làng Long
Thành, tỉnh Tây Ninh) đã trở thành một đại lễ kéo dài ba tháng để trương cao cờ
Tam thanh và thánh bảng Cao Đài.
Về phương diện thế sự, mỗi một tổ chức bất kỳ sau khi thành
lập (foundation) đều có một nghi thức ra mắt để giới thiệu những
vị chức trách (inauguration). Tôn giáo Cao Đài cũng vậy. Đó cũng là
tương quan, ý nghĩa rạch ròi của ngày Khai tịch Đạo (Caodai Foundation
Day) và ngày Khai minh Đại đạo (Caodai Inauguration Day).
HUỆ KHẢI
10-11-2007
________________________
Chú thích:
1 Theo Nha Khí tượng Việt Nam,
Lịch thế kỷ XX (Hà Nội: NXB Phổ Thông, 1976) ngày 15-8 Bính Dần là thứ Ba
21-9-1926.
2 Chư thánh 諸聖: Các
môn đồ buổi đầu tiên của đạo Cao Đài.
3 Trần tấu 陳奏: Bày
tỏ cùng bề trên.
4 Nguyễn Văn Tường (1887-1939)
cũng gọi Võ Văn Tường (theo họ Võ của mẹ), quả vị Ngộ Giác Kim tiên.
5 Bản in 1990, trang 110.
6 Thánh thất Nam Thành,
05-8-1971 (15-6 Tân Hợi).
7 Thánh thất Nam Thành,
22-9-1970 (23-8 Canh Tuất).
8 Thánh thất Nam Thành,
22-9-1970 (23-8 Canh Tuất).
GHI CHÚ.
https://huekhai.blogspot.com/2016/10/cac-sach-cua-hue-khai-cho-toi-thang-10.html