Ba bài nầy giải nghĩa những điển tích mà BBT không thấy ở sách nào có. Ấy là sự đóng góp của văn chương cơ bút vào văn học Việt Nam. BBT.
13/- Ngày 13-11-1925 (âl. 27-09-Ất Sửu): Quí Cao xướng thi & Bát Nương thi & A.Ă. giải nghĩa: "Niếp Tử Xe Châu"
Ngày 13
tháng 11 năm 1925
QUÍ
CAO (xướng)
Thương
nhau nhớ lúc xướng thơ hòa,
Sinh tịch đôi đàng phải cách xa.
Chén rượu đồng tâm nghiêng ngửa đổ,
Biệt ly nầy trách bấy Trời già.
THUẦN
ÐỨC (họa) Quí Cao
Ðêm
khuya tịch mịch gió thu hòa,
Chạnh nghĩa kim bằng dạ xót xa.
Ðạo lý những mong vầy một cửa,
Ngừa đâu rời rã buổi chưa già.
CAO
QUỲNH CƯ (họa) Quí Cao
Mừng
bạn hôm nay đặng hiệp hòa,
Âm dương đường gẫm chẳng bao xa.
Nhìn văn mà chẳng trông hình dạng,
Gặp mặt còn mong đợi tuổi già.
BÁT NƯƠNG
Ðộng
đình chạnh lúc tạm chia đường,
Bốn giọt nhìn nhau lối rẽ cương.
Trời thảm mây giăng muôn cụm ủ,
Biển sầu nước nhuộm một màu thương.
Cờ Thần nhớ buổi vầy đôi bạn,
Tiệc Ngọc nào khi hội nhứt trường.
Mượn vận lương nhân xin nhắn nhủ,
Vườn xưa tiếng nhạn luống kêu sương.
A.Ă.Â
Giải nghĩa:
"Niếp Tử Xe Châu"
- Niếp Tử:
Niếp là rương đựng sách. Tử là thầy Ðức Khổng Tử.
Niếp Tử: Là rương đựng sách của Ðức Khổng Tử, sau Tần
Thỉ Hoàng đốt sách chôn học trò, nghĩa là chôn rương sách của Ðức Khổng Tử, tức
chôn Ðạo Nho.
Niếp Tử dùng mà chỉ cài hòm để chôn người đạo đức, văn
chương tài tình.
- Xe Châu:
Nghĩa là nhà vàng, tỷ như xe Châu Võ Vương Cơ Phát dùng mà đi phạt Trụ đặng
thâu thiên hạ, nghĩa là sự giàu sang phú quí chi cũng đựng trong xe ấy mà thôi.
Xe Châu là xe đựng sự giàu sang phú quí của kiếp con
người.
14/-Ngày 27-11-1925 (12-10-Ất Sửu): Quí Cao, Thất Nương
thi văn.
Ngày 27 tháng 11
năm 1925
QUÍ
CAO
Tử
sanh dĩ định tự Thiên kỳ,
Tái ngộ đồng hoan hội nhất chi.
Bắc Ngụy quan vân tâm mộ hữu,
Giang Ðông khán thụ lụy triêm y.
Ngày
28 tháng 11 năm1925
THẤT NƯƠNG (giải nghĩa hai
câu chót)
Bắc
Ngụy quan vân tâm mộ hữu,
Giang Ðông khán thụ lụy triêm y.
Khi Như Hoành ở Bắc Ngụy đi thuyết chiến bên Giang
Ðông gặp Bạch Hàm thì tâm đầu ý hiệp, kết làm anh em.
Khi Như Hoành về Ngụy thì anh em khó phân tay.
Như Hoành than rằng: "Bắc Ngụy văn thiên
thụ".
Bạch Hàm than rằng: "Giang Ðông nhất mộ
vân".
Nghĩa là: Ngó Bắc Ngụy nghe ngàn cây đưa tiếng bạn.
Nhìn Giang Ðông thấy khóm mây vẽ hình anh
@@@
15/- Ngày 24-11-1925 (âl. 09-10-Ất Sửu): Thất Nương giải
nghĩa: "Phụng hàm đơn chiếu đề dương bạn" & Thất Nương giải
nghĩa: "Trải bao thỏ lặn ác tà" & Lục Nương thi & A.Ă. thi.
THẤT NƯƠNG
Giải nghĩa:
"Phụng hàm đơn chiếu đề dương bạn"
Là phụng ngậm chiếc chiếu về bờ dương. Dương là đại
thọ. Ðạo Ðức Chơn Kinh có câu: Dương vô trần nhiểm, đạo giả như dương.
Kinh Phật có câu: Dương thủy năng hủy tam đồ khổ hải chi tội.
Dương bạn:
là bờ dương, là nền đạo đức.
Chim phụng ngậm chiếc chiếu về bờ dương, nghĩa là
Phụng liễn của Tây Vương Mẫu đòi về nền đạo đức.
24-11-1925
THẤT NƯƠNG
Giải nghĩa:
"Trải bao thỏ lặn ác tà"
Ngôn Ðường Thi có câu: Nha phi Ðông Hải chí Tây Sơn
nhứt nhựt trường.
Con chim ác bay về biển Ðông tới núi Tây thì giáp một
ngày. Mượn điển văn ấy mà chỉ rằng: Mặt Trời sớm mai mọc tại hướng Ðông, chiều
lặn về hướng Tây. Khuất bóng ác tức khuất bóng mặt Trời, thì qua một ngày.
"Vừng ô" không có điển văn.
Thi văn có câu: "Ô Thước qui sơn".
Quạ bay về núi.
Ðã biết rằng, hễ chiều thì biết bao nhiêu loài chim bay
về núi, song đem quạ mà chỉ rằng chiều tối thì phải hơn, vì quạ đen lông đen
cánh.
LỤC
NƯƠNG
Chanh
ranh vạn thế ở trong vòng,
Giành giựt lẫn nhau miếng đỉnh chung.
Khanh Tể sao bằng tên Ðạo Sĩ,
Hết đời ai giữ chức làm ông.
A.Ă.Â
Người
hứng trăng thanh kẻ bụi vùi,
Âm dương cách trở chẳng cùng vui.
Hạc mây đã khỏi lâm trần cấu,
Cõi tục thương người xúc dạ tôi.
@@@