Posted
by adminbasam on 27/05/2016
Dịch giả: Trần
Văn Minh. 26-05-2016
Vài giờ trước cuộc họp dự kiến được tổ chức mang tính biểu tượng
để thể hiện tình liên đới của Mỹ với các nhà dân chủ, công an đã bắt giữ từ
trước 3 người được mời, trong đó có một blogger, nhà báo và chính trị gia đối
lập nổi tiếng.
Chính
quyền đã tưởng thưởng một trong những chế độ thiếu dân chủ nhất trong khu vực,
không có tiến bộ mấy về nhân quyền.
Khi
Tổng thống Mỹ Barack Obama gặp các thành viên xã hội dân sự Việt Nam trong
chuyến thăm chính thức vừa qua, tới một đất nước do Đảng Cộng sản cầm quyền,
một nửa số ghế tại địa điểm được chỉ định đã bị trống. Vài
giờ trước cuộc họp dự kiến được tổ chức mang tính biểu tượng để thể hiện tình
liên đới của Mỹ với các nhà dân chủ, công an đã bắt giữ từ trước 3 người được
mời, trong đó có một blogger, nhà báo và chính trị gia đối lập nổi tiếng.
Ngày
hôm trước, Obama tuyên bố Washington sẽ bãi bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương
đã áp đặt hàng thập niên lên Việt Nam, một sự nhượng bộ mà giới lãnh đạo độc
tài của nước này tìm kiếm từ lâu. Lệnh cấm vận bao phủ rộng hơn nữa khi Trung
Quốc củng cố vị trí chiến lược của họ để đối phó với Việt Nam trong khu vực
tranh chấp ở Biển Đông.
Trong
khi Obama tuyên bố hai cựu thù chiến tranh đã chôn vùi “sự khác biệt ý thức hệ”
bằng cách chấm dứt lệnh cấm vận vũ khí sát thương, thực tế là chính quyền của
ông đã chọn cách tưởng thưởng cho một chế độ kém dân chủ nhất châu Á, với hồ sơ
nhân quyền tồi tệ nhất trong khu vực, không có tiến bộ đáng kể nào về các quyền
tự do. Obama đã đưa ra thông báo bên cạnh Chủ Tịch nước mới được bổ nhiệm Trần
Đại Quang, người mà cho đến gần đây đã trông coi Bộ Công an đáng sợ của Việt
Nam, cơ quan đầu não chịu trách nhiệm trong việc đàn áp bất đồng chính kiến và
bỏ tù các nhà hoạt động dân chủ.
Vậy
tại sao ông Obama nhượng bộ về nhân quyền sau nhiều năm đối thoại thất bại về
vấn đề này? Mặc dù Obama chối bỏ việc bãi bỏ lệnh cấm vận nhằm chống lại sự
quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông, tình hình an ninh chuyển
động nhanh chóng thách thức sự thống trị của Mỹ trong khu vực, không nghi ngờ
gì nữa, đã được nằm trong quyết định của ông. Trong khi Việt Nam phần lớn dựa
vào Nga về vấn đề vũ khí, bao gồm cả chuyến đặt hàng 3.2 tỷ USD gần đây cho 6
tàu ngầm lớp Kilo, công nghệ giám sát của Hoa Kỳ và các thiết bị sẽ cải thiện
đáng kể khả năng răn đe đối với Trung Quốc.
Nhưng
rõ ràng là quyết định bãi bỏ lệnh cấm vận của ông Obama có nhiều lý do khác hơn
là việc mua bán hệ thống ra-đa ven biển, máy bay tuần tra và tàu phản ứng nhanh
trong tương lai. Một số người có cảm giác rằng ông Obama, một lãnh đạo thiếu
hiệu quả trong năm bầu cử, tìm kiếm một câu chuyện thành công ở Châu Á để củng
cố di sản chính sách đối ngoại của mình giữa vũng lầy của những cuộc xung đột
chưa được giải quyết ở Iraq, Afghanistan và Syria. Chính sách được gọi là “xoay
trục” của ông Obama, cũng được gọi là “tái cân bằng”, nhằm đặt châu Á vào vị
trí trung tâm của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ và thiết lập nhà lãnh đạo sinh ở
Hawaii, đi học ở Indonesia như là vị “Tổng thống Thái Bình Dương” đầu tiên của
Hoa Kỳ.
Các
cố vấn hàng đầu của ông Obama đã xem quá trình chuyển đổi chính trị đang diễn
ra ở Myanmar, nơi mà một chế độ quân phiệt đã nhượng bộ quyền lực cho một chính
phủ dân cử (dù vẫn còn dấu ấn quân đội), là một trong những thành tích đáng tự
hào nhất của chính sách xoay trục. Obama đã kiên nhẫn giữ lại những trái chín
của sự bang giao với Myanmar cho đến khi chế độ quân phiệt trước đây chứng minh
sự tiến bộ dân chủ, cuối cùng chứng kiến việc phóng thích hàng trăm ngưởi tù
chính trị, chấm dứt kiểm duyệt báo chí và cho phép đối lập chính trị bị bách
hại được gia nhập chính trị dòng chính.
Trong
bài phát biểu ngày 17 tháng 5 tại Trung tâm An ninh Mỹ, một cơ quan nghiên cứu
chiến lược có trụ sở ở Washington D.C., Cố vấn Trợ lý An ninh Quốc gia về Truyền
thông Ben Rhodes mô tả bằng cách nào ông Obama thành công trong việc sử dụng
phương thức “hành động đáp hành động” để thúc đẩy sự thay đổi dân chủ tại
Myanmar. “[Myanmar] là một ví dụ điển hình về việc làm thế nào một quốc gia có
thể chuyển đổi từ độc tài sang dân chủ, trong khi vẫn theo đuổi sự phát triển
hiệu quả”, ông Rhodes cho biết vài ngày trước khi ông Obama khởi hành đi Việt
Nam. “Chúng tôi phải chứng minh rằng, những quốc gia đi theo con đường này thì
có lợi”.
Ngược
lại, ông Obama đã chọn chế đứng biểu tượng đối với Thái Lan, nơi mà chế độ độc
tài quân sự đã hạn chế nhân quyền kể từ lúc đình chỉ dân chủ trong một cuộc đảo
chính vào tháng 5 năm 2014. Để đáp lại, Hoa Kỳ đã hạ thấp quan hệ chiến lược
bền chặt truyền thống, được chứng kiến qua các cuộc tập trận quân sự chung liên
tục thu nhỏ được gọi là Hổ Mang Vàng được tổ chức hàng năm ở Thái Lan. Hai bên
đặc biệt tranh cãi về sự đàn áp của chế độ đối với tự do ngôn luận, bao gồm một
loạt các án tù khắc nghiệt đặt lên những người chỉ trích chế độ quân chủ do
quân đội hỗ trợ. Kể từ cuộc đảo chính, Hoa Kỳ cũng đã chỉ ra vai trò nổi bật
của Thái Lan trong đường dây buôn người trong khu vực.
Cái
ôm tương đối nồng thắm của Obama đối với Việt Nam, đang giam giữ hơn 100 người
tù chính trị, ngăn cấm truyền thông độc lập và thường xuyên nghiền nát tất cả
đối lập chính trị, đặt ra câu hỏi về sự liên kết chính sách và tính nhất quán.
Trong khi Thái Lan đi ngược con đường dân chủ, chính quyền quân sự cầm quyền
gần như không áp bức như chế độ cộng sản Việt Nam và chủ trương sẽ khôi phục
lại dân chủ sau một thời gian cải cách. So với Myanmar, nơi tướng lãnh cầm
quyền nhượng bước trước nhiều đòi hỏi dân chủ của Hoa Kỳ, giới lãnh đạo cộng
sản Việt Nam ít sẵn sàng nhượng bộ trước các đề nghị “hành động đáp hành động”
của Hoa Kỳ để cho phép cởi mở chính trị hơn.
Trong
việc bãi bỏ lệnh cấm vận, Obama đã chỉ ra “tiến bộ” về nhân quyền, tổ chức Theo
dõi Nhân quyền (HRW) mạnh mẽ chống đối. “Trong một bước vấp ngã đột ngột, Tổng
thống Obama đã vứt bỏ những gì còn lại làm đòn bẩy cho Hoa Kỳ để cải thiện nhân
quyền tại Việt Nam – và về cơ bản không nhận được gì trở lại”, ông Phil
Robertson, phó giám đốc khu vực châu Á của HRW nói, “Tổng thống Obama đã thưởng
cho Việt Nam mặc dù họ không làm được gì đáng chú ý: chính quyền đã không bỏ đi
bất kỳ luật đàn áp nào, cũng không phóng thích bất kỳ số lượng đáng kể tù nhân
chính trị nào và cũng không đưa ra bất kỳ cam kết quan trọng nào”. (Việt Nam
gần đây đã phóng thích một số tù chính trị với điều kiện họ phải sống lưu
vong.)
Một
quan điểm khác là Obama cảm thấy bắt buộc phải thực hiện một sự nhượng bộ quan
trọng để duy trì tiềm lực chiến lược với giới lãnh đạo mới được bổ nhiệm của
Việt Nam. Hoa Kỳ đã phát triển mối quan hệ gần gũi với Nguyễn Tấn Dũng, thủ
tướng hai nhiệm kỳ, người được dự đoán trở thành tổng bí thư kế tiếp của Đảng
Cộng sản nhưng cuối cùng đã từ chối chức vụ trong trò chơi quyền lực nội bộ
đảng, đã đưa lên những thành viên lãnh đạo bảo thủ hơn. Trong khi Hoa Kỳ, năm
ngoái, tiếp đón ông Quang và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cả hai được biết có
khuynh hướng ngả về Trung Quốc hơn Hoa Kỳ. Chính quyền mới đã đàn áp khốc liệt
các cuộc biểu tình ôn hòa và kết án tù các nhà hoạt động, tội chống nhà nước.
Vì
lịch sử chiến tranh không may của Hoa Kỳ ở Việt Nam, nhiều người ở Washington
sẵn sàng bỏ qua sự lợi dụng cố hữu của nước này trong việc theo đuổi mối quan
hệ bình thường, giao thương và quan hệ chiến lược. Trong khi nhiều người hoan
nghênh chuyến thăm của ông Obama và sự kết thúc lệnh cấm vận như một bước lịch
sử tiếp theo hướng tới hòa giải quá khứ, một thế hệ các nhà hoạt động dân chủ
trẻ – nhiều người hy vọng ông Obama sẽ đòi hỏi giới lãnh đạo của họ với cùng
các tiêu chuẩn dân chủ mà ông đòi hỏi Myanmar – đã đưa lên phương tiện truyền
thông xã hội những cảm nghĩ về sự thất vọng và bị bỏ rơi, một cảm giác cũ,
không phải mới, về sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam.