Vì ai gầy dựng cho nên nỗi nầy...
Chinh Phụ Ngâm.
Nước sông Hậu bỗng... xanh như nước biển: Cứu ĐBSCL
bằng cách nào?
Thanh niên
Đê bao góp phần làm mất phù sa, gây ngập úng
Người dân mưu sinh khó khăn hơn trên sông Hậu do lượng thủy sản
giảmẢNH: Đ.T
Phù sa từ sông Mê Kông đổ về giảm mạnh đe dọa đến sự sống còn của
ĐBSCL và rất khó để cứu vãn vùng đất trù phú này nếu các công trình thủy điện vẫn dựng lên phía
đầu nguồn.
Sau khi Báo Thanh Niên đăng bài Nước sông Hậu xanh như... nước
biển, PGS-TS Lê Anh Tuấn, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu biến đổi
khí hậu Trường đại học Cần Thơ, đích thân ra quan sát sông Hậu. Ông Tuấn nhìn
nhận: “Đúng là hiện tượng màu nước sông Hậu năm nay thay đổi, trong và xanh lạ
hơn mọi năm, khác những gì tôi từng ghi nhận”.
Theo phân tích của ông Tuấn, trước hết vào thời điểm đầu mùa mưa
như hiện nay, các đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mê Kông sẽ trữ nước lại bù
cho thời gian thiếu hụt trước đó. Điều này càng khiến phù sa vốn đã hạn chế vào
mùa khô nay càng ít hơn. Ngoài ra, năm nay, ảnh hưởng của El Nino kéo dài, nhiều
nơi đất đai nứt nẻ sâu. Lớp phèn tiềm tàng trong vùng đất từ Campuchia về ĐBSCL
nhiều khả năng bị “đánh thức” bởi ô xy và nước mưa chảy ra sông. Nước phèn sẽ
làm cho lượng phù sa lơ lửng vốn đã ít kết tủa chìm xuống khiến cho nước sông
Hậu càng trở nên trong xanh.
“Nhưng mất phù sa do các đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mê Kông
ngăn mới là mối nguy lớn nhất mà ĐBSCL phải đối diện”, ông Tuấn nhấn mạnh và
phân tích: “Trong 3 nhóm vật liệu phù sa gồm cát sỏi, sạn; chất lơ lửng; chất
hòa tan thì nhóm cát, sỏi, sạn chính là loại có vai trò chính trong kiến tạo
đất, giúp ĐBSCL bồi đắp bù lại tình trạng sụt lún. Đáng ngại đây cũng là nhóm
vật liệu bị giữ lại hầu hết bởi các đập thủy điện. Khi mùa mưa lũ đến, nước vẫn
đục ngầu nhưng sẽ chỉ còn lại chất lơ lửng và chất hòa tan, nó không thể bồi
đắp thành đất”.
TIN LIÊN
QUAN
Sông Hậu bỗng trong xanh như nước biển là một thực tế đang diễn ra
bởi lượng phù sa từ thượng nguồn Mê Kông về ĐBSCL ngày càng ít. Song, phía sau
thực trạng đó là hiểm hoạ tan rã Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Về vấn đề này, TS Dương Văn Ni, Khoa Môi trường và tài nguyên
thiên nhiên Trường đại học Cần Thơ, nêu dẫn chứng: “Trước đây, những mỏ cát như
Năng Gù (An Giang), thậm chí ở Cần Thơ đều được bồi đắp nhiều, cho cát sạch và
đẹp. Nhưng bây giờ, cát bổ sung hằng năm đâu còn, các mỏ đều phải khai thác tận
thu từ nguồn cát bồi đắp trước”.
Không để xây thêm thủy điện
Theo PGS-TS Lê Anh Tuấn, trong hai khó khăn hàng đầu ĐBSCL đang
đối diện là biến đổi khí hậu và việc xây các đập thủy điện ở thượng nguồn Mê
Kông, thì biến đổi khí hậu là một tiến trình diễn ra lâu dài, bằng cách này
cách khác vẫn có thời gian để thích nghi, ứng phó, trong khi đập thủy điện lại
là vấn đề gây đau đầu và “bế tắc” nhất.
“Cứ hình dung dòng sông Mê Kông giờ giống như một ống nước, có 6
ông, mỗi ông cầm một cái van thích thì mở, không thì khóa lại, chỉ thiệt nhất
cho ông ở cuối nguồn là ĐBSCL”, ông Tuấn nói. Chưa kể, việc trữ nước ở các đập
thủy điện cũng gây sự bất ổn, xáo trộn đến đời sống, sinh hoạt, sản xuất bởi
đặc thù mùa khô hạn thì đập trữ nước, đến mùa mưa lũ thì xả nước tránh vỡ đập.
“Đập trên xả, buộc đập dưới cũng phải xả, giống như hiệu ứng
domino sẽ gây ra tình trạng lũ chồng lũ cực kỳ nguy hiểm. Vì thế, chẳng còn
cách nào khác là chúng ta bằng mọi cách phải lên tiếng, yêu cầu các nước phía
thượng nguồn giữ lại hiện trạng cho sông Mê Kông, không thể can thiệp thêm bằng
đập thủy điện nữa”, ông Tuấn nhấn mạnh.
Ở một giải pháp khác, theo Th.s Kỷ Quang Vinh, Chánh văn phòng
Biến đổi khí hậu Cần Thơ, trước tình hình mất dần phù sa bồi đắp cho ĐBSCL như
hiện nay thì giải pháp “sạc” nước ngầm xuống đất sẽ góp phần giữ ổn định mặt
đất, hạn chế tối đa tình trạng sụt lún. Để “sạc” nước ngầm, ông Vinh cho rằng
cần phải có chương trình cấp nhà nước, tốn kém cũng phải làm nếu không muốn
ĐBSCL “chìm” dần.
Còn theo Th.s Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập nghiên cứu về
sinh thái Mê Kông, ĐBSCL xưa kia vốn có 2 “túi nước” là vùng Tứ Giác Long
Xuyên, Đồng Tháp Mười. Đã đến lúc phải trả lại hiện trạng một phần cho hai “túi
nước” trên bằng cách phá bỏ những đê bao không hiệu quả. Việc này không chỉ
giúp giữ lại được lượng phù sa ít ỏi còn lại khi nước lũ tràn đồng mà còn trữ,
bổ sung tự nhiên cho nước ngầm, điều tiết nước vào mùa khô hạn.
Đê bao góp phần làm mất phù sa, gây ngập úng
Theo các chuyên gia về biến đổi khí hậu, đê bao để sản xuất 3 vụ
lúa ở ĐBSCL đang mang đến nhiều hệ lụy, trong đó nan giải nhất là lãng phí
phù sa. Cụ thể, mùa lũ về phù sa theo con nước bị ngăn bởi đê bao không thể
tràn lên đồng sẽ chảy thẳng ra biển. Lượng phù sa này hầu hết lại là vật liệu
lơ lửng nên khi ra biển vẫn không đủ kết dính để kiến tạo đất. Ngoài ra, khi
các đê bao hình thành, nước từ thượng lưu sông Hậu, sông Tiền sẽ dồn nhiều và
nhanh về hạ lưu gây ngập úng. Đơn cử như ở TP.Cần Thơ mấy năm nay thường
xuyên ngập nặng, hầu hết tuyến đường, rất nhiều nhà cửa của người dân phải
nâng nền ứng phó ngập.
|
Đình Tuyển