26.5.16. Việt Nam Thời Báo.
Lê Anh Hùng dịch
(VNTB) - Điều khiến bất kỳ thuỷ thủ Hoa Kỳ
nào cũng quan tâm nhất lại là thông tin Hà Nội có thể mở cửa trở lại cảng nước
sâu Cam Ranh cho tàu chiến Mỹ như một phần của món quà để đổi lấy việc dỡ bỏ
lệnh cấm vận vũ khí.
“Đồng bệnh tương lân”, gã hề Trinculo đã tuyên bố như vậy trong
vở bi hài kịch nổi tiếng của William Shakespeare mang tên Bão tố.
Bị dạt vào một hòn đảo huyền bí trong tình cảnh thời tiết xấu bủa vây, Trinculo
đã náu mình bên dưới tấm áo choàng của gã nô lệ nửa người nửa thú Caliban “cho
đến khi những đợt gió cuối cùng của cơn bão biến mất”. Trinculo làm vậy bất
chấp người Caliban tanh như cá – và thậm chí anh ta có thể là nửa người nửa cá:
“Người hay cá? Còn sống hay đã chết? Một con cá; anh ta tanh như cá; một thứ
mùi rất xa xưa và giống cá.” Tóm lại, đó là một người đồng hành rất khó chịu để
cùng chống chọi với cơn bão.
Sân chơi chính trị của các cường quốc cũng chẳng khác những gì
diễn ra trong một tuyệt tác văn chương là mấy. Xin chuyển thể bài học về tấm áo
choàng của Caliban sang nền chính trị thế giới: những đối thủ mà bình thường
nhìn thấy nhau là chối đến tận cổ lại có thể gạt qua một bên sự khác biệt rõ
ràng để cùng ngăn chặn mối đe doạ chung. Việc hai quốc gia dân chủ Mỹ, Anh từng
bắt tay với một Liên Xô toàn trị để đánh bại phe trục trong Thế chiến II là một
ví dụ. Tuy nhiên, những liên minh như thế lại rất mong manh – chúng hiếm khi
còn tồn tại sau khi bão tố qua đi. Trinculo đã quẳng tấm áo choàng của Caliban
ngay khi cơn bão vừa lắng xuống. Liên minh giữa ba cường quốc kể trên cũng hầu
như chấm dứt ngay khi Thế chiến II kết thúc.
Nền chính trị Châu Á mới được chứng kiến ít ỏi trường hợp mang
nhiều tính chất “đồng sàng dị mộng” hơn cặp đôi Việt Nam và Hoa Kỳ. Trở lại với
câu chuyện của Trinculo, sự hung hăng của Trung Quốc trên các vùng biển tranh
chấp ở Biển Đông đã gây ra cho các cựu thù đủ cảm giác khổ sở khi phải bắt tay
nhau để bảo vệ vùng biển và vùng trời của Việt Nam. Trong chuyến công du Việt
Nam nhằm thắt chặt quan hệ kinh tế và quốc phòng vừa qua, Tổng thống Mỹ Barack
Obama đã dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí vốn tồn tại từ lâu với Việt Nam. Tuy cả hai
bên đều hy vọng là đối tác sẽ đáp ứng những đòi hỏi về thương mại hay nhân
quyền, song chi tiết của thoả thuận vẫn chưa được loan báo. Mặc dù Tổng thống
Obama phủ nhận quyết định đó liên quan đến Trung Quốc, nhưng ít ai tin rằng ông
ta lại có thể không đếm xỉa gì đến nhân tố Trung Quốc trong mối quan hệ Mỹ -
Việt. Người ta còn phải chờ xem là liệu Hà Nội và Washington có thể đi ngược
lại logic Shakespeare – xây dựng mối quan hệ đối tác bền vững ngay cả khi hiểm
hoạ đã qua đi – hay không.
Dù vậy, điều khiến bất kỳ thuỷ thủ Hoa Kỳ nào cũng quan tâm nhất
lại là thông tin Hà Nội có thể mở cửa trở lại cảng nước sâu Cam Ranh cho tàu
chiến Mỹ như một phần của món quà để đổi lấy việc dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí.
Nếu thế thì ban lãnh đạo Việt Nam (trong vai Trinculo) đã mời Hoa Kỳ (trong vai
Caliban) mở rộng tấm áo choàng – để giúp chống lại cơn bão mang tên Trung Quốc.
Quả là những đồng minh lạ lùng.
Tuỳ vào các điều khoản của thoả thuận, điều đó có thể cho phép
hải quân Mỹ thiết lập sự hiện diện thường trực ở phía tây Biển Đông. Đây là một
động thái bắt buộc nếu Hoa Kỳ muốn khẳng định tự do hàng hải trên vùng biển
rộng tới 1,4 triệu dặm vuông này. Trung Quốc đã thách thức cả thông lệ lẫn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển –
cả hai đều khẳng định biển không thuộc về ai – khi tuyên bố “chủ quyền không thể tranh cãi”
trên một vùng biển và vùng trời rộng
lớn ở Đông Nam Á, kể cả những vùng được phân cho Việt Nam theo luật biển.
Washington đáp lại thách thức của Bắc Kinh bằng cách phớt lờ.
Việc điều tàu thuyền Mỹ qua các vùng biển tranh chấp và cho phi
cơ bay qua vùng trời bên trên – tốt hơn hết là cùng với các nước đồng minh và
bạn bè – đồng nghĩa với lời tuyên bố: cộng đồng quốc tế không chấp nhận việc
Bắc Kinh nỗ lực xâm phạm vùng biển và vùng trời của các quốc gia láng giềng
hoặc vượt quá đặc quyền mà luật biển quy định. Đó là tuyên bố mà các quốc gia
hàng hải phải đưa ra, lặp đi lặp lại, để bảo vệ quyền tự do hàng hải vốn đạt
được một cách khó khăn trong quá khứ. Có một nguyên tắc bất thành văn theo kiểu
không-dùng-thì-mất trong luật quốc tế: Các công ước quốc tế chẳng giá trị
hơn những tấm da lừa bao
nhiêu. Chúng có thể mất hiệu lực theo thời gian nếu các chính phủ phớt lờ một
phần hay toàn bộ công ước. Nếu các thành viên trong một trật tự pháp lý sao
nhãng việc phản đối một tuyên bố phi pháp thì cùng với thời gian, tuyên bố đó
sẽ tìm thấy đường để trở thành thông lệ quốc tế.
Vì vậy, việc tiếp tục tiến hành các cuộc khảo sát đại dương, các
chuyến bay giám sát, các hoạt động hàng không và những hoạt động khác mà Công
ước LHQ về Luật Biển cho phép trên khắp vùng biển ngoài khơi và
các khu vực đặc quyền kinh tế ở
Đông Nam Á là rất cần thiết. Không sử dụng thì mất. Tuy nhiên, để duy trì sự
hiện diện ngoài khơi đều đặn vốn cần thiết như thế thì tàu thuyền hải quân và
tuần tra lại cần sự hỗ trợ hậu cần gần đó. Tàu thuyền không thể ở lâu ngoài
khơi mà không nạp thêm nhiên liệu, tái trang bị vũ khí, hay nhập hàng mới.
Hãy ghé vào vịnh Cam Ranh. Cam Ranh trở thành một căn cứ hải
quân quan trọng kể từ khi Pháp xâm lược Đông Dương cuối thế kỷ 19. Và nó đã
đóng vai trò nổi bật trong những sự kiện quan trọng của lịch sử thế giới. Chẳng
hạn, đô đốc Zinovy Rozhestvensky của Nga từng đưa hạm đội Baltic yểu mệnh của
mình vào đây năm 1905. Tại đó, nó nhập than và hàng hoá trước khi tiếp tục tiến
về phía bắc để nhận lấy kết cục nghiệt ngã mà hạm đội của đô đốc Nhật Bản
Heihachiro Togo dành cho trong trận hải chiến mang tên “Eo biển Tsushima”.
Vai trò của vịnh Cam Ranh trong lịch sử cũng không phải “một
phút huy hoàng rồi chợt tắt”. Nhật Bản chiếm Cam Ranh trong cuộc tập kích vào “Vùng tài nguyên phương Nam”
– tức Đông Nam Á – từ năm 1941 đến 1942, và vị trí chiến lược này trở thành một
căn cứ lý tưởng để tấn công Malaysia và Singapore. Từ giữa thập niên 1960, hải
quân và lục quân Hoa Kỳ đã phát triển hạ tầng cảng biển trong khu vực vịnh để
giúp tiến hành cuộc chiến tranh Việt Nam. Liên Xô mở rộng cảng sau khi Việt Nam
Cộng Hoà sụp đổ năm 1975; các kỹ sư Nga lại khôi phục nó trong mấy năm gần đây.
Hạ tầng để đón tiếp tàu thuyền Mỹ và các nước khác hiện đã sẵn sàng. Những gì
còn thiếu là một quyết định của Hà Nội cho phép hải quân Hoa Kỳ trở lại nơi
từng một thời là căn cứ của nó.
Hy vọng cả Hà Nội và Washington đều nín nhịn để hoàn tất thoả
thuận đem đến cơ hội tiếp cận đó. Hạm trưởng Alfred Thayer Mahan, người có lẽ
là nhân vật ủng hộ quyền lực biển nổi bật nhất trong lịch sử, đã giải thích vì sao
những địa điểm như vịnh Cam Ranh lại quan trọng đến thế. Theo Mahan, giá trị
chiến lược của bất kỳ hải cảng nào cũng dựa trên ba đặc điểm: (i) vị trí địa
lý; (ii) sức mạnh, tức là khả năng đề kháng tự nhiên hoặc khả năng bố phòng
trước các cuộc tấn công; và (iii) nguồn lực, tức là khả năng của cảng trong
việc thoả mãn nhu cầu của nó cũng như của các hạm đội ghé thăm.
Hãy áp tiêu chuẩn Mahan cho vịnh Cam Ranh. Nó dư sức thoả mãn cả
ba đặc điểm nêu trên. Cam Ranh nằm cạnh các tuyến đường biển phía đông dẫn tới
eo biển Malacca, cho phép các tàu thuyền trong vịnh gây ảnh hưởng đến hoạt động
vận chuyển hàng hải qua tuyến đường biển tối quan trọng này. Nó gần Hoàng Sa
hơn so với căn cứ hải quân gần
nhất của Trung Quốc tại thành phố Tam Á trên đảo Hải Nam về phía bắc. Và ngoài
ưu thế hơn Trung Quốc, Cam Ranh còn sẵn lối ra vùng biển nước sâu: đáy
biển tụt thẳng xuống bên
ngoài cảng – cho phép tàu ngầm chìm, rồi biến mất, chỉ một thoáng sau khi rời
khỏi cảng. Không có gì phải ngạc nhiên khi hơn 8 năm qua, Hà
Nội đã đầu tư một hạm đội tàu ngầm
diesel - điện do Nga sản xuất để chống lại Trung Quốc.
Hải cảng này mạnh thế nào? Không một căn cứ quân sự nào, kể cả Cam Ranh, thoát
khỏi các cuộc tấn công bằng tên lửa trong kỷ nguyên của vũ khí chính xác tầm xa
hiện nay. Tuy nhiên, Cam Ranh lại tốt hơn nhiều mục tiêu tiềm tàng khác. Diện tích cùng hình dạng trải rộng của
cảng cho phép các hạm đội đóng tại đây thoải mái phân tán đội hình khắp các cầu
cảng và những chỗ neo đậu xung quanh khu vực ngoại vi. Điều này sẽ góp phần làm
nản nỗ lực của các chuyên gia tên lửa Trung Quốc khi nhắm vào tàu thuyền Mỹ và
Việt Nam. Và các biện pháp “cứng hoá” kiểu cũ – nhà cửa và cơ sở hạ tầng được
xây dựng một cách chắc chắn trên cảng dưới sự bảo vệ của những tên lửa chống hạm
và tên lửa đất đối không – sẽ đem đến cho cảng khả năng hoạt động dẻo dai. Bất
kỳ thoả thuận Mỹ - Việt nào liên quan cũng cần bao hàm việc nâng cấp như thế.
Và cuối cùng, cảng Cam Ranh được thiên nhiên hào phóng ban tặng
rất nhiều nguồn lực. Nó vừa toạ lạc kế bên các tuyến hàng hải huyết mạch, vừa
nằm ở khu vực miền nam với bạt ngàn cây cối của Việt Nam, cách không xa thủ phủ
quan trọng Sài Gòn. Nguồn thực phẩm cung cấp cho cảng và tàu thuyền rất sẵn.
Nhiên liệu cũng không đặt ra vấn đề gì đáng kể: dự trữ dầu thô của Việt
Nam chỉ đứng sau Trung
Quốc trong khu vực. Trong khi đó, nếu Hà Nội nhất trí với sự hiện diện lâu dài
của hải quân Mỹ, các nguồn dự trữ và phụ tùng thay thế ở Cam Ranh sẽ không gặp
phải khó khăn nào: Hải quân Hoa Kỳ đã bố trí tàu thuyền tại các hải cảng ngoại
quốc như Yokosuka, Bahrain và Naples trong nhiều thập niên. Họ có thể lặp lại
những dàn xếp tương tự ở vùng biển Việt Nam.
Một số điều cần dõi theo khi cuộc phiêu lưu tuyệt vời của Tổng
thống Obama được tiết lộ: Thứ nhất, vấn đề hệ trọng là ban lãnh đạo cộng sản
Việt Nam có quyết định cho phép hải quân Mỹ quay lại hay không? Thứ hai, việc
cho phép đó kèm theo những điều kiện nào? Hà Nội sẽ chỉ chấp nhận một sự “hiện diện luân phiên”,
theo đó tàu thuyền trú tại Cam Ranh trong những quãng thời gian dài nhưng sau
đó phải quay về nước? Hay họ sẵn sàng đồng ý với những điều khoản thoáng hơn,
chẳng hạn như việc thiết lập một hải cảng lâu dài cho một đội tàu? Thứ ba, Hà
Nội sẽ cho phép quy mô hiện diện như thế nào? Bao nhiêu tàu được phép cập cảng,
và những loại tàu nào?
Đối với Washington, một hạm đội với các chiến hạm lớn như khu trục hạm hay tuần dương hạm– tàu được
trang bị thiết bị cảm biến cùng vũ khí đủ loại – là một công cụ chính sách hoàn
toàn khác so với một đội tàu bao gồm những tàu chiến trang bị nhẹ quanh quẩn ven bờ.
Đồng thời nó cũng chuyển tải một thông điệp hoàn toàn khác tới Bắc Kinh về năng
lực và quyết tâm của Hoa Kỳ và Việt Nam.
Và cuối cùng, Hà Nội sẽ cho phép tàu thuyền Hoa Kỳ được làm gì
khi chúng đồn trú tại Cam Ranh? Chào đón một cựu thù quay lại lãnh thổ Việt Nam
không phải là một động thái nhỏ nhặt, ngay cả khi điều đó xẩy ra sau cuộc chiến
tranh Việt Nam bốn thập niên. Liệu hai lực lượng hải quân có tiến hành hoạt
động tuần tra chung trên vùng biển tranh chấp hay không? Hay Hà Nội sẽ cho phép
các tư lệnh Hoa Kỳ tự do thực hiện các yêu cầu của Washington?
Hãy thử hình dung, vì Trinculo núp dưới tấm áo choàng của
Caliban xuất phát từ sự thuận tiện thiết thân, nên các nhà lãnh đạo Việt Nam sẽ
thể hiện quan điểm chặt chẽ đối với các hoạt động hàng hải của Mỹ. Điều đó sẽ
cho phép Hà Nội cởi bỏ tấm áo choàng bảo vệ khi (và nếu) cơn bão qua đi. Họ sẽ
trao cho hải quân Hoa Kỳ quyền tiếp cận vịnh Cam Ranh trong khi vẫn bảo lưu
quyền từ chối quyền tiếp cận đó vì bất kỳ lý do gì – hoặc không vì lý do nào
cả. Và đối với hai cựu thù đang hợp tác với nhau vì lợi ích chung, điều đó là
phù hợp.