Trang

Thứ Ba, 21 tháng 6, 2016

1477. VẬN NƯỚC VN ĐÂY CHĂNG??

Ngày 14-11-1925 (âl. 28-09-Ất Sửu): Nhàn Âm Ðạo Trưởng thi.
 Le 14-11-1925

NHÀN ÂM ÐẠO TRƯỞNG



Thi họa vừa khi bước hứng nhàn,
Vòng trần luân chuyển luống lo toan.
Cày mây cuốc nguyệt chờ Thang Võ,
Rằng biết cho dân chịu buộc ràng.


1.
Buộc ràng túng tiếu cõi Nam Châu,
Trị loạn vần xây cuộc bể dâu.
Phép nước đòi cơn mây gió thảm,
Nghiệp nhà lắm lúc nước non sầu.
Thương người để dấu noi người trước,
Hiệp chủng làm gương dắt lũ sau.
Cá chậu chim lồng chi dễ chịu,
Rừng xưa bến cũ thảnh thơi đâu?

2.
Thảnh thơi đâu buổi nước non nhà,
Nam đảnh hầu xem trận gió qua.
Ứa mặt ướm nâng nền thổ võ,
Bền lòng chờ đợi bến sơn hà.
Dập dồi bể hoạn thương bầy trẻ,
Lắc lỡ thuyền du hổ phận già.
Cũng muốn lẫy lừng xây thế cuộc,
Vòng trần ngặt đã bước chân ra.

3.
Bước chân ra nghĩ ngậm ngùi thay,
Nỗi ước nhiều phen khó cạn bày.
Rừng trước tuy vui chung rượu thắm,
Ơn xưa đâu lợt tấm lòng ngay.
Rèn tâm khá nắm dây thân ái,
Giữ dạ đừng quên mối cảm hoài.
Biển khổ mang bầu chờ tế độ,
Giựt giành chi khỏi trả rồi vay.

4.
Trả rồi vay tua vẹn lòng son,
Bia cũ gương trung dấu vẫn còn.
Ðội mão khỉ ngồi non hớn hở,
Lìa rừng cọp ngóng biển thon von.
Nào khi đất Việt trời ngang dọc,
Chừ lúc vùng Nam phận cúi lòn.
Xương thịt cũng đồng nhân loại thế,
Dày bừa há chẳng hổ sông non?

5.
Non sầu cỏ nhuộm đã phơi sương,
Thành cũ đường xưa cảnh để buồn.
Vạc ngả người đày trâu ngựa kéo,
Gia tàn yến rủ gió mưa tuông.
Vật còn biết mến ngày thong thả,
Mình há đâu quên chỗ cội nguồn.
Vầy hiệp đồng tâm liên ái kết,
Cường quyền sức mọn dễ chi sờn.

6.
Chi sờn máu thịt mảnh thân phàm,
Danh lợi mồi câu nhử tánh tham.
Ví biết trọng mình nhà nước trọng,
Ðừng quên tham nhục giống nòi Nam.
Non sông chẳng đổi theo lời nói,
Cơ nghiệp dầu thay bởi sức làm.
Un đúc lòng thành chờ máy Tạo,
Có ngày khuấy nước chọc trời Nam.

7.
Trời Nam vừa thọ ánh dương quang,
Cương tỏa tiêu tan thấy cảnh nhàn.
Vần vũ suối bờ Thần tiếp Thánh,
Ồ ào Bến Nghé quỉ xô quân.
Hồn trung vì nước hơi vừa tỉnh,
Mắt trí xem dân đã quá làn.
Hồng Lạc giống nòi dầu thoát ách,
Là hai mươi triệu kẻ đồng gan.

8.
Ðồng gan mới biết đặng đồng tình,
Biết máu thịt mình mới biết binh.
Lợi lộc của nhà thì cứ lấy,
Thế quyền trong nước há ngồi xin.
Trống gông nô lệ sao ham muốn?
Hình bóng quan viên xúm giựt giành.
Lịch sử chép biên bao vẻ đẹp,
Ai từng đem nhục đổi làm vinh.
9.
Làm vinh nghĩ chẳng thẹn non sông,
Chín suối ông cha nhẫng tủi thầm.
Buồn thấy giống Hồng thây chúng xẻ,
Thảm xem giòng Lạc thịt người bầm.
Biên cương buổi nọ Tàu lui gót,
Chín bệ ngày nay quỉ nhảy đầm.
Rút vỏ gươm linh ta quyết một,
Chẳng bao kẻ nghịch đặng ăn nằm.

10.
Ăn nằm nín nẳm đợi Chơn Quân,
Ta quyết sẽ cho kẻ hạ trần.
Nắm mối xa thơ ra sức gánh,
Thâu giềng xã tắc sửa đầu cân.
Thái bình trăm họ nhìn chơn Chúa,
Thạnh trị ba châu trổ trí Thần.
Ðộc lập gần ngày vui sắp đến,
Bỏ cơn đất Việt chịu tam phân.