6320. Tổng bí thư đảng cộng sản Việt
Nam phải là người miền Bắc?
Posted
by adminbasam on
30/12/2015
30-12-2015
BLA: Mấy ngày qua
trên mạng xuất hiện rất nhiều bài viết liên quan đến Đại hội lần thứ 12 của
Đảng cộng sản Việt Nam sẽ được tổ chức vào đầu năm 2016 tới đây. Đây là một sự
kiện chính trị trọng đại của đất nước, sẽ bầu ra hoặc đưa ra những người sẽ giữ
những chức vụ chủ chốt, quan trọng bậc nhất trong hệ thống chính trị. Như Tổng
bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc Hội, cho nên việc người dân quan
tâm bàn luận, thậm chí “đoán mò” cũng là điều tất yếu, dễ hiểu.
Quang cảnh một kỳ họp của Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (nguồn ảnh: báo Người Lao Động)
Lại có tin nói rằng đương kim tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng gần đây đưa ra tiêu chí “tổng bí thư phải là người miền Bắc”. Thực hư thế nào thì không biết, nhưng trộm nghĩ nếu việc ấy là có thật, thì liệu có phải là một quan điểm theo kiểu địa phương cục bộ, gây chia rẽ vùng miền? (Đất nước đã thống nhất 40 năm, chả lẽ vẫn còn tư tưởng phân biệt Bắc – Nam). Và giả sử nếu là sự thật, thì có hợp lý không? Dựa trên cơ sở nào? … Tui bèn lên mạng tìm hiểu, thì mới vỡ nhẽ ra một điều khá bất ngờ: đúng là tất cả các đời Tổng bí thư từ trước đến nay đều là người miền Bắc bà con ạ. Và nếu quý vị để ý, thì sẽ thấy 2 đời tổng bí thư gần nhất, là ông Nông Đức Mạnh và ông Nguyễn Phú Trọng, trước đó đều là Chủ tịch Quốc Hội – tức là vị trí của ông Nguyễn Sinh Hùng hiện nay. Liệu kết quả Đại hội lần thứ 12 sắp tới có thay đổi được “truyền thống” này?
.
Bài dưới đây đăng
trên Trang thông tin điện tử Ban tuyên giáo tỉnh ủy Hưng Yên:
_____
CÁC TỔNG BÍ THƯ CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
85 năm kể từ ngày
thành lập đến nay (3/21930 – 3/2/2015), Đảng ta đã trải qua 11 lần đại hội đại
biểu toàn quốc với 11 đồng chí Tổng Bí thư. Mỗi kỳ đại hội Đảng là một mốc son
lịch sử ghi nhận, những thắng lợi, những thành tựu và những bài học kinh nghiệm
của cách mạng Việt Nam.
85 năm kể từ ngày thành lập đến nay (3/21930 – 3/2/2015), Đảng ta đã trải qua 11 lần đại hội đại biểu toàn quốc với 11 đồng chí Tổng Bí thư. Mỗi kỳ đại hội Đảng là một mốc son lịch sử ghi nhận, những thắng lợi, những thành tựu và những bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam. Những thắng lợi, thành tựu và bài học kinh nghiệm ấy đều bắt nguồn sâu xa từ việc Đảng ta vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và được thể hiện ở đường lối chính trị do các đại hội vạch ra trong mỗi giai đoạn cách mạng.
85 năm kể từ ngày thành lập đến nay (3/21930 – 3/2/2015), Đảng ta đã trải qua 11 lần đại hội đại biểu toàn quốc với 11 đồng chí Tổng Bí thư. Mỗi kỳ đại hội Đảng là một mốc son lịch sử ghi nhận, những thắng lợi, những thành tựu và những bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam. Những thắng lợi, thành tựu và bài học kinh nghiệm ấy đều bắt nguồn sâu xa từ việc Đảng ta vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và được thể hiện ở đường lối chính trị do các đại hội vạch ra trong mỗi giai đoạn cách mạng.
1. Trần Phú
Đồng chí Trần Phú
sinh ngày 01-05-1904. Quê ở xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Năm 1922, Trần Phú đỗ đầu kỳ thi tốt nghiệp Cao đẳng tiểu học ở Huế, được bổ về
dạy trường Cao Xuân Dục ở Vinh. Thời gian này Trần Phú cùng với các giáo viên
tiến bộ mở lớp dạy quốc ngữ ban đêm cho thanh niên và công nhân nghèo.
Năm 1925, đồng chí
tham gia thành lập Hội Phục Việt (sau đổi thành Hưng Nam rồi Tân Việt cách mạng
Đảng). Tháng 07 năm 1926, đồng chí Trần Phú được cử sang Quảng Châu để gặp các
đồng chí lãnh đạo Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, để bàn việc hợp
nhất Hội thanh niên với Tân Việt. Tại đây, đồng chí Trần Phú được gặp đồng chí
Nguyễn Ái Quốc và được huấn luyện về chủ nghĩa Mác – Lênin và về kinh nghiệm
cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga.
Đầu năm 1927, đồng
chí được cử sang học tại trường Đại học Phương Đông, Liên Xô. Tháng 04-1930,
đồng chí Trần Phú về nước được bổ sung vào Ban chấp hành Trung ương Đảng và
được giao trách nhiệm khởi thảo bản Luận cương chính trị của Đảng. Bản luận
cương này được Hội nghị trung ương lần thứ nhất họp ở Hương Cảng (Trung Quốc)
tháng 10-1930 thông qua. Cũng tại Hội nghị này đồng chí Trần Phú được cử làm
Tổng Bí thư của Đảng cộng sản Đông Dương.
Sau Hội nghị đồng chí
trở về nước tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng trong cả nước. Tháng 03-1931,
chủ trì Hội nghị trung ương lần thứ hai nhằm đấu tranh với những tư tưởng lệch
lạc trong Đảng và chủ trương tập hợp lực lượng các đoàn thể quần chúng: công
hội, nông hội, phụ nữ, thanh niên để đưa phong trào cách mạng tiến lên.
Ngày 19-04-1931, do
lời khai của một tên phản bội, đồng chí Trần Phú bị địch bắt tại Sài Gòn. Biết
đây là Tổng Bí thư của Đảng, bọn địch đã dùng đủ mọi cực hình để tra tấn nhưng
chúng đã không thể nào khuất phục được người cộng sản trẻ tuổi kiên cường này.
Tháng 08-1931, đồng
chí lâm bệnh nặng. Ngày 06-09-1931, đồng chí Trần Phú qua đời. Trước khi mất,
đồng chí Trần Phú dặn lại các đồng chí của mình: ” Hãy giữ vững chí khí chiến
đấu”. Câu nói đó của người Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng mới 27 tuổi đời đã trở
thành một vũ khí mà mỗi người Việt Nam yêu nước mang theo để xông vào quân thù,
vượt qua những khó khăn trên con đường cách mạng.
2. Lê Hồng Phong
Đồng chí Lê Hồng
Phong sinh năm 1902 (có tài liệu ghi 1900). Quê ở xã Hưng Thông, huyện
Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Sau khi đỗ bằng sơ học, đồng chí Lê Hồng
Phong làm thư ký cho một hiệu buôn của người Hoa kiều tại Vinh. Ít lâu sau,
đồng chí Lê Hồng Phong được đồng chí Phạm Hồng Thái, công nhân nhà máy Xi pha,
giới thiệu vào học nghề thợ máy. Hai đồng chí đã vận động, giác ngộ công nhân
đấu tranh đòi quyền lợi.
Tháng 01-1924, đồng
chí Lê Hồng Phong và Phạm Hồng Thái sang Thái Lan rồi sang Quảng Châu (Trung
Quốc) cùng với đồng chí Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn thành lập Tâm Tâm xã. Cuối
năm1924, đồng chí được Nguyễn Ái Quốc huấn luyện về chủ nghĩa Mác- Lênin và các
kinh nghiệm hoạt động quốc tế.. Sau khi tốt nghiệp trường Quân sự Hoàng Phố,
năm 1926 đồng chí được cử sang Liên Xô học trường không quân. Lê Hồng Phong
tham gia Hồng quân Liên Xô và được phong quân hàm trung tá. Tiếp đó, đồng chí
được vào học trường Đại học Phương Đông. Năm 1932, tốt nghiệp được trở về Trung
Quốc, bắt mối liên lạc với trong nước và thành lập Ban hải ngoại của Đảng.
Tháng 03-1935, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng diễn ra tại Ma Cao (Trung Quốc), đồng chí
Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Tháng 07 – 1935, đồng chí đi
dự Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ VII và được cử làm uỷ viên dự khuyết Ban
chấp hành Quốc tế cộng sản. Tại đây, đồng chí Lê Hồng Phong đã gặp nữ đồng chí
Nguyễn Thị Minh Khai và hai người yêu nhau rồi cưới nhau ở Trung Quốc.
Năm 1936, đồng chí Lê
Hồng Phong được cử về Việt Nam hoạt động với danh nghĩa là đại diện của Quốc tế
cộng sản bên cạnh Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương. Trong thời kỳ mặt trận
dân chủ, đồng chí đã viết một số sách giới thiệu Liên Xô và phổ biến đường lối
chủ trương của Đảng chống chủ nghĩa phát xít.
Năm 1938, đồng chí bị
đế quốc Pháp bắt ở Sài Gòn và kết án 10 tháng tù. Mùa thu năm 1939, hết hạn tù,
bọn đế quốc đưa đồng chí về làng quản thúc. Đồng chí chưa kịp liên lạc với Đảng
để thoát ly thì bị bọn thực dân Pháp bắt giam lại ở Khám Lớn Sài Gòn rồi đày ra
Côn Đảo. Đồng chí bị bọn cai ngục đánh đập tra khảo rất dã man nhưng vẫn không
chịu khai báo, một lòng trung thành với Đảng.
Ngày 06-09-1942, đồng
chí Lê Hồng Phong đã hy sinh tại nhà tù Côn Đảo. Trước khi trút hơi thở cuối
cùng, đồng chí đã gắng nói to lên nhắn với đồng chí nằm ở buồng bên cạnh: ” Xin
chào tất cả các đồng chí. Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng tới giờ phút cuối
cùng Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin tưởng ở thắng lợi vẻ vang của cách mạng”.
Cuộc đời hoạt động của Lê Hồng Phong là biểu tượng cho lòng trung thành, ý chí
kiên cường, bất khuất của người cộng sản.
3. Hà Huy Tập
Đồng chí Hà Huy Tập
sinh năm 1902. Quê ở làng Kim Nặc, xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên, Hà
Tĩnh. Năm 1923, tốt nghiệp Cao đẳng tiểu học ở Huế, đồng chí Hà Huy
Tập được bổ nhiệm về dạy ở thị xã Nha Trang, rồi lại về dạy tại trường tiểu học
Cao Xuân Dục ở Vinh. Tại đây, đồng chí dượ giác ngộ cách mạng.
Năm 1926, đồng chí Hà
Huy Tập tham gia Hội Phục Việt. Đồng chí hoạt động tích cực trong phong trào
đòi ân xá cho cụ Phan Bội Châu, để tang cụ Phan Châu Trinh, tổ chức học quốc
ngữ ban đêm cho công nhân các nhà máy ở Vinh – Bến Thuỷ. Vì thế, đồng chí Hà
Huy Tập bị đổi đi dạy ở Quỳ Châu. Đồng chí chống lại quyết định nên đã bị cách
chức.
Năm 1927, đồng chí Hà
Huy Tập vào hoạt động ở Nam Kỳ. Tháng 07-1928, đồng chí được cử sang Quảng Châu
(Trung Quốc) bàn việc thống nhất Đảng. Sau đó, đồng chí được giới thiệu sang
học trường Đại học Phương Đông của Quốc tế cộng sản. Năm 1932, học xong, đồng
chí tìm cách về nước. Qua Pari, Hà Huy Tập bị chính phủ Pháp trục xuất. Đồng
chí sang Bỉ rồi trở lại Liên Xô. Đầu năm 1934, Hà Huy Tập về tới Ma Cao (Trung
Quốc), đã cùng với Lê Hồng Phong lập ra ban lãnh đạo Đảng ở hải ngoại. Hà Huy
Tập là người chủ trì ban lãnh đạo này và chuẩn bị cho việc triệu tập Đại hội
đại biểu lần thứ nhất của Đảng vào tháng 03-1935.
Tháng 07-1936, đồng
chí Hà Huy Tập cùng với đồng chí Lê Hồng Phong triệu tập Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương Đảng ở Thượng Hải (Trung Quốc) để bổ sung nghị quyết của trung ương
trước tình hình mới. Tại hội nghị này, đồng chí Hà Huy Tập được bầu làm Tổng Bí
thư thay đồng chí Lê Hồng Phong. Sau đó, đồng chí trở về Sài Gòn cùng cơ quan
Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng trong cả nước. Thời gian
này, đồng chí Hà Huy Tập viết sách báo giải thích chính sách mới của Đảng, vạch
mặt bọn Tơrôtxkít phản cách mạng.
Ngày 14-07-1938, do
một tên phản bội chỉ điểm, đồng chí Hà Huy Tập bị địch bắt và kết án tù. Hết
hạn tù, bọn thực dân trục xuất đồng chí về nguyên quán. Ngày 30-03-1940, đồng
chí lại bị bắt, đưa vào giam ở Khám Lớn Sài Gòn. Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ,
ngày 25-08-1941, bọn chúng buộc đồng chí vào tội “chịu trách nhiệm tinh thần về
cuộc khởi nghĩa này” và tuyên bố xử tử hình. Trước toà, đồng chí Hà Huy Tập đã
trả lời: “Tôi chẳng có gì phải hối tiếc, nếu còn sống tôi vẫn tiếp tục hoạt
động!”
Ngày 26-08-1941, đồng
chí bị xử bắn tại Hóc Môn (Gia Định) cùng với các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Võ
Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Phan Đăng Lưu. Là một nhà nho yêu nước theo cách
mạng, đồng chí Hà Huy Tập đã thể hiện nhân cách cao cả của một người luôn trung
thành với lý tưởng cách mạng, chiến đấu hy sinh vì cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, giải phóng đất nước. Đồng chí là một trong những nhà hoạt động nổi
tiếng góp phần không nhỏ vào thành công của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945.
4. Nguyễn Văn Cừ
Đồng chí Nguyễn Văn
Cừ sinh 09-07-1912 ở làng Phù Khê, xã Phù Khê, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc
Ninh. Tham gia cách mạng từ khi còn là học sinh trường Bưởi. Tháng 06-1929,
đồng chí được kết nạp vào Đông Dương cộng sản Đảng. Sau ngày Đảng cộng sản Việt
Nam thành lập, Nguyễn Văn Cừ được phân công làm Bí thư đặc khu Hòn Gia – Uông
Bí. Năm 1932, đồng chí bị địch bắt và đày ra Côn Đảo.
Năm 1936, phong trào
đấu tranh của nhân dân ta phát triển mạnh mẽ cùng với thắng lợi của Mặt trận
bình dân ở Pháp đã buộc thực dân Pháp ở Đông Dương phải trả lại tự do cho
Nguyễn Văn Cừ. Ra tù, về Hà Nội, đồng chí tiếp tục hoạt động cách mạng. Nguyễn
Văn Cừ được bầu vào Ban thường vụ trung ương trong Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương tháng 09-1937.
Tháng 03-1938, Ban
chấp hành Trung ương Đảng họp quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân chủ.
Cũng tại Hội nghị này, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được bầu làm Tổng Bí thư
thay đồng chí Hà Huy Tập. Sau đó, đồng chí vào hoạt động tại Sài Gòn.
Phong trào cách mạng lên cao, địch theo dõi đồng chí rất sát, rồi chúng trục
xuất đồng chí ra khỏi Nam Bộ. Trở ra Hà Nội, đồng chí chú trọng việc thành lập
Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương, trực tiếp chỉ đạo báo chí công khai của
Đảng.
Mùa thu năm 1938,
đồng chí Nguyễn Văn Cừ vào Nam Kỳ cùng với thường vụ trung ương đấu tranh chống
bọn Tơrôtxkít giả danh mác xít phá hoại cách mạng. Ký tên Trí Cường, đồng chí
viết tác phẩm Tự chỉ trích – một tác phẩm có giá trị lớn về lý luận và thực
tiễn. Với tác phẩm này, đồng chí đã có đóng góp quan trọng vào việc củng cố sự
nhất trí trong Đảng và tăng cường ảnh hưởng, uy tín của Đảng trong quần chúng
nhân dân.
Giữa lúc phong trào
cách mạng đang phát triển mạnh mẽ thì ngày18-01-1940 Nguyễn Văn Cừ bị địch bắt
tại đường Nguyễn Tấn Nghiêm, Sài Gòn. Biết đây là Tổng bí thư của Đảng, bọn đế
quốc đã dùng mọi thủ đoạn tra tấn dã man nhất để moi tài liệu. Trước sau đồng
chí vẫn giữ vững khí tiết của người cộng sản.
Ngày 28-08-1941, đồng
chí Nguyễn Văn Cừ bị thực dân pháp xử bắn taị pháp trường Bà Điểmcùng một số
đồng chí khác.
5. Trường Chinh
Đồng chí Trường Chinh
(tên thật là Đặng Xuân Khu) sinh ngày 09-02-1907. Đồng chí quê ở xã
Xuân Hồng huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Năm 1927, đồng chí gia
nhập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Cuối năm 1936, đồng chí là đại biểu của
Đảng cộng sản Đông Dương trong Uỷ ban Mặt trận dân chủ Bắc Kỳ. Năm 1940, đồng
chí là chủ bút báo Giải Phóng.
Tại Hội nghị lần thứ
bảy, đồng chí được cử vào Ban chấp hành trung ương Đảng. Tại Hội nghị Trung
ương lần thứ tám tháng 05-1941, đồng chí Trường Chinh được cử làm Tổng bí thư
của Đảng. Đêm ngày 09-03-1945, đồng chí chủ trì Hội nghị Thường vụ Trung ương
mở rộng, ra chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta.
Vào tháng 02-1951,
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, đồng chí Trường Chinh được
bầu làm Tổng Bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng lao động Việt Nam. Đây là lần
đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương được bầu họp chính thức trong một Đại hội đại
biểu toàn quốc.
Năm 1958, đồng chí
Trường Chinh làm Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban khoa học Nhà
nước. Năm 1976, đồng chí được bầu làm chủ tịch Uỷ ban dự thảo hiến pháp của
Quốc hội. Ngày 17-07-1986, Ban chấp hành trung ương Đảng họp phiên đặc biệt,
đồng chí Trường Chinh được bầu giữ chức vụ Tổng Bí thư thay đồng chí Lê Duẩn từ
trần ngày 10-07-1986.
Tháng 12 -1986, tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đồng chí được suy tôn làm cố
vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Đồng chí Trường Chinh
qua đời ngày 30-09-1988. Đồng chí đã được Nhà nước tặng Huân chương Sao vàng và
nhiều huân chương cao quý khác.
6. Lê Duẩn
Đồng chí Lê Duẩn (tên
thật là Lê Văn Nhuận) sinh ngày 07-04-1907. Đồng chí quê ở xã Triệu
Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Năm 1928, đồng chí tham gia Việt
Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội. Năm 1930, đồng chí là một trong những
đảng viên đầu tiên của Đảng cộng sản Đông Dương.
Năm 1937, đồng chí
giữ chức Bí thư xứ uỷ Trung Kỳ. Năm 1940, đồng chí bị địch bắt và kết án 10 năm
tù. Năm 1946, đồng chí ra Hà Nội. Cuối năm 1946, Trung ương cử đồng chí vào
lãnh đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ.
Từ 1954-1957, đồng
chí ở lại miền Nam lãnh đạo phong trào cách mạng. Năm 1957, đồng chí được điều
ra trung ương công tác. Năm 1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III
của Đảng, đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam. Năm 1978, đồng chí làm Bí thư Quân uỷ trung ương.
Tháng 12-1976, tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đồng chí được bầu làm Tổng Bí
thư ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Tháng 03-1982, tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, đồng chí Lê Duẩn tiếp tục được bầu làm
Tổng Bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam.
Ngày 10-07-1986, đồng
chí Lê Duẩn từ trần. Đồng chí đã được tặng thưởng Huân chương Sao vàng và nhiều
huân chương cao quý khác.
7. Nguyễn Văn Linh
Đồng chí Nguyễn Văn
Linh (tên thật là Nguyễn Văn Cúc) sinh ngày 01-07-1915. Đồng chí quê ở
xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Năm 1929, đồng chí tham gia học
sinh đoàn do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên lãnh đạo. Ngày 01-05-1930, đồng
chí bị thực dân Pháp bắt, bị kết án tù chung thân và đày đi Côn Đảo. Năm 1936,
đồng chí được trả tự do.
Năm 1936, đồng chí
được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương, hoạt động ở Hải Phòng và Hà Nội. Năm
1939, đồng chí tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Sài Gòn, sau đó được
Đảng điều ra Trung Kỳ để lập lại xứ uỷ Trung Kỳ. Năm 1941, đồng chí Nguyễn Văn
Linh bị bắt ở Vinh, bị kết án 5 năm tù và bị đày ra Côn Đảo.
Năm 1945, đồng chí
hoạt động ở miền Tây, Sài Gòn – Chợ Lớn với cương vị Bí thư Thành uỷ, Bí thư
đặc khu Sài Gòn – Chợ Lớn. Năm 1949-1960, đồng chí là Uỷ viên và quyền Bí thư
xứ uỷ Nam Bộ. Năm 1960, tại Đại hội Đảng lần thứ III, đồng chí được bầu vào Ban
Chấp hành trung ương Đảng, làm Bí thư, Phó Bí thư Trung ương cục miền Nam.
Năm 1976, đồng chí
giữ chức vụ Bí thư thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 12-1976, tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IV, đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu vào Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, giữ chức Trưởng ban Cải
tạo xã hội chủ nghĩa của trung ương, Trưởng ban Dân vận và Mặt trận Trung ương,
Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam đến năm 1980.
Năm 1981, đồng chí
làm Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1982, tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ V, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1985,
đồng chí được Ban Chấp hành trung ương Đảng bầu vào Bộ Chính trị, làm Bí thư
Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 12-1986, tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Linh được
bầu làm Tổng Bí thư ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam kiêm chức
Bí thư Đảng uỷ quân sự trung ương (năm 1987).
Tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 06-1991) và Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng (tháng 07-1996), đồng chí được tôn vinh làm cố vấn Ban
chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam.
Ngày 27-04-1998, đồng
chí Nguyễn Văn Linh tạ thế để lại niềm tiếc thương vô hạn cho toàn Đảng, toàn
quân và toàn thể nhân dân. Đồng chí đã được tặng thưởng huân chương Sao vàng và
nhiều Huân chương cao quý khác.
8. Đỗ Mười
Đồng chí Đỗ Mười (tên
thật là Nguyễn Duy Cống) sinh ngày 02-02-1917. Quê ở Xã Đông Mỹ,
huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Năm 1936, đồng chí tham gia phong
trào mặt trận bình dân. Năm 1936, đồng chí gia nhập Đảng cộng sản Đông Dương.
Năm 1941, đồng chí bị địch bắt và kết án 10 năm tù giam tại Hoả Lò, Hà Nội.
Tháng 03-1945, đồng chí vượt ngục tiếp tục hoạt động cách mạng, tham gia Tỉnh
uỷ Hà Đông, trực tiếp lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà
Đông.
Sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945, đồng chí Đỗ Mười giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ Hà Đông. Từ năm 1946 đến
1954, đồng chí giữ các chức vụ sau: Bí thư Tỉnh uỷ Hà Nam; Bí thư kiêm Chủ tịch
Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Định; Khu uỷ viên khu III kiêm Bí thư Tỉnh uỷ
Ninh Bình; Phó Bí thư Liên khu uỷ III kiêm Phó chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành
chính Liên khu III; Chính uỷ Bộ tư lệnh Khu tả ngạn sông Hồng.
Sau cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược 1954, đồng chí Đỗ Mười giữ chức Bí thư Thành uỷ
kiêm Chủ tịch Uỷ ban Quân chính thành phố Hải Phòng. Tháng 03-1955, đồng chí
được bổ sung làm uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa II. Năm
1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III đồng chí được bầu vào Ban Chấp
hành Trung ương Đảng. Từ năm 1956-1973, đồng chí Đỗ Mười được bổ nhiệm làm Thứ
trưởng rồi Bộ trưởng Bộ Nội thương; Chủ nhiệm Uỷ ban vật giá Nhà nước; Trưởng
phái đoàn Thanh tra Chính phủ; Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban
kiến thiết cơ bản Nhà nước; Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ xây dựng.
Đất nước thống nhất,
tháng 12-1976, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, đồng chí được bầu vào
Ban Chấp hành Trung ương Đảng và uỷ viên dự khuyết Bộ Chính trị; tiếp tục giữ
chức Phó Thủ tướng Chính phủ. Tháng 07-1981, đồng chí Đỗ Mười giữ chức vụ Phó
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Tháng 03-1982, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ V, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành trung ương Đảng, uỷ viên Bộ Chính
trị. Năm 1986, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, đồng chí được bầu vào
Ban Chấp hành trung ương Đảng, uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư.
Tháng 06-1986, đồng chí được Quốc hội bầu làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Tháng 06-1991, tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, uỷ viên Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng. Tháng 06-1996, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII, đồng chí
tiếp tục giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng. Tháng 12-1997,
tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá VIII, đồng chí Đỗ
Mười được suy tôn làm cố vấn Ban Chấp hành trung ương Đảng.
9. Lê Khả Phiêu
9. Lê Khả Phiêu
Đồng chí Lê Khả Phiêu
sinh ngày 27-12-1931. Quê ở xã Đông Khê, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
Ngày 19-06-1949, đồng chí gia nhập Đảng cộng sản Đông Dương. Đồng chí Lê Khả
Phiêu là cán bộ trưởng thành từ cơ sở và từ trong quân đội. Trong các cuộc
kháng chiến đã trực tiếp tham gia chiến đấu và chỉ huy chiến đấu liên tục ở các
chiến trường Bắc – Trung – Nam, làm nhiệm vụ quốc tế ở nước bạn.
Từ năm 1964-1993,
đồng chí đã đảm nhận các chức vụ: Chính uỷ kiêm Trung đoàn trưởng; Phó chủ
nhiệm Chính trị Quân khu Trị Thiên; Chủ nhiệm chính trị Quân đoàn 2; Phó Chính
uỷ kiêm chủ nhiệm chính trị Quân khu 9; Phó Bí thư Quân khu uỷ Quân khu 9;
Thiếu tướng, Chủ nhiệm chính trị, Phó tư lệnh chính trị Mặt trận 719; Trung
tướng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Thượng tướng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính
trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
Năm 1991, tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần VII của Đảng, đồng chí Lê Khả Phiêu được bầu vào Ban
Chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 06-1992, tại Hội nghị Ban Chấp hành trung ương
Đảng lần thứ ba, khoá VII, đồng chí được bầu vào Ban Bí thư, sau đó được phân
công Thường trực Ban Bí thư. Tháng 01-1994, đồng chí được bầu vào Bộ Chính trị.
Năm 1996, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, đồng chí Lê Khả Phiêu
được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, uỷ viên Thường vụ, Thường trực Bộ
Chính trị.
Ngày 26-12-1997, tại
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá VIII, đồng chí Lê Khả
Phiêu được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng.
10. Nông Đức Mạnh
Đồng chí Nông Đức
Mạnh sinh ngày 11-09-1940 tại xã Cường Lợi, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn. Đồng
chí xuất thân trong gia đình nông dân dân tộc Tày, bản thân là công nhân lâm
nghiệp. Đồng chí tham gia cách mạng năm 1958 và được kết nạp vào Đảng năm 1963.
Năm 1958-1961, đồng
chí học trung cấp nông lâm trung ương. Năm 1962-1963, đồng chí là công nhân lâm
nghiệp, kỹ thuật viên điều tra trong Ty lâm nghiệp Bắc Kạn. Từ năm 1963-1965,
đồng chí làm đội phó đội khai thác gỗ Bạch Thông. Năm 1965-1966, đồng chí học
tiếng Nga tại trường ngoại ngữ Hà Nội. Từ 1966-1971, đồng chí là sinh viên Học
viện Lâm nghiệp Lêningrát, Liên Xô.
Năm 1972, trở về
nước, đồng chí được phân công làm Phó Ban thanh tra Ty lâm nghiệp tỉnh Bắc
Thái. Năm 1973-1974, đồng chí làm Giám đốc Lâm trường Phú Lương, Bắc Thái. Từ
1974-1976, đồng chí được cử đi học tại Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc.
Năm 1976-1980, về Bắc
Thái, đồng chí là Tỉnh uỷ viên, Phó Ty lâm nghiệp tỉnh Bắc Thái kiêm chủ nhiệm
Công ty xây dựng lâm nghiệp rồi trưởng Ty lâm nghiệp tỉnh Bắc Thái. Từ
1980-1983, đồng chí là Tỉnh uỷ viên, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc
Thái. Từ 1984-10/1986, đồng chí làm Phó Bí thư Tỉnh uỷ, chủ tịch Uỷ ban nhân
dân tỉnh Bắc Thái. Từ tháng 11/1986 – 02/1989, đồng chí làm Bí thư Tỉnh uỷ Bắc
Thái.
Tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Uỷ viên dự
khuyết Ban chấp hành trung ương Đảng. Tháng 03-1989, đồng chí được phân công
làm Trưởng ban dân tộc trung ương. Tháng 11-1989, đồng chí được bầu bổ sung Đại
biểu Quốc hội khoá VIII và được bầu làm Phó chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc
hội.
Tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban chấp hành Trung ương
Đảng và được trung ương bầu vào Bộ chính trị. Tháng 09-1992, đồng chí làm Chủ
tịch Quốc hội khóa IX. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng,
đồng chí được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng, được trung ương bầu vào Bộ
chính trị.
Tháng 09-1997, đồng
chí giữ cương vị Chủ tịch Quốc hội khoá X và được phân công làm thường vụ Bộ
chính trị vào tháng 01-1998.
Tháng 04-2001, tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, đồng chí Nông Đức Mạnh được
trung ương bầu làm Tổng Bí thư của Đảng cộng sản Việt Nam. Năm 2006, tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, đồng chí Nông Đức Mạnh tiếp tục được
bầu giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
11 – Nguyễn Phú Trọng
Đồng chí Nguyễn Phú
Trọng sinh ngày 14 tháng 4 năm 1944 tại xã Đông Hội, huyện Đông Anh,
ngoại thành Hà Nội. Từ năm 1957 đến năm 1963, là học sinh trường
cấp II rồi cấp III Nguyễn Gia Thiều huyện Gia Lâm (nay là quận Long Biên) Hà
Nội.
Năm 1963, học Khoa
Văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, tốt nghiệp bằng Cử nhân Văn chương. Năm
1967, đồng chí vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau đó, công tác tại tạp chí Học tập
(tiền thân của tạp chí Cộng sản. Năm 1973, đồng chí được cử đi học lớp nghiên
cứu sinh về kinh tế chính trị tại Trường Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh).
Năm 1981, đồng chí
được cử sang Liên Xô làm thực tập sinh, học tập và bảo vệ luận án tiến sĩ tại
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Liên Xô (thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Liên Xô).
Tháng 8 năm 1983,
đồng chí về nước, tiếp tục công tác ở Ban Xây dựng Đảng của tạp chí Cộng sản.
Được đề bạt làm Phó trưởng ban (tháng 10 năm 1983), Trưởng ban (tháng 9 năm
1987), Uỷ viên Ban biên tập (tháng 3 năm 1989), Phó tổng biên tập (tháng 5 năm
1990) rồi Tổng biên tập tạp chí Cộng sản (tháng 8 năm 1991). Năm 1992, đồng chí
được phong học hàm Phó giáo sư và 10 năm sau (2002) được phong học hàm Giáo sư.
Từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 1 năm 1994, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ của Đảng Cộng sản Việt Nam, họp tại Hà Nội, đồng chí được bầu bổ sung
vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII. Tháng 8 năm 1996,
đồng chí làm Phó bí thư Thành uỷ Hà Nội, kiêm, phụ trách công tác tuyên giáo của
Thành ủy.
Tháng 2 năm 1998,
đồng chí được phân công phụ trách công tác tư tưởng – văn hóa và khoa giáo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương. Hiệu phó
trường Đại học KHXH và Nhân Văn.
Từ tháng 8 năm 1999
cho tới hết nhiệm kì của Đại hội VIII, đồng chí tham gia Thường trực Bộ Chính
trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII; trực tiếp
chỉ đạo việc biên soạn Văn kiện Đại hội IX của Đảng.
Tháng 1 năm 2000,
đồng chí làm Bí thư Thành uỷ Hà Nội. Tháng 11 năm 2001, đồng chí kiêm nhiệm Chủ
tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, phụ trách công tác lý luận của Đảng. Từ đầu
năm 2003, đồng chí trực tiếp chỉ đạo công tác tổng kết 20 năm đổi mới, chuẩn bị
và biên soạn văn kiện Đại hội X của Đảng.
Ngày 26 tháng 6 năm
2006, đồng chí đảm nhận chức vụ Chủ tịch Quốc hội thay đồng chí Nguyễn Văn An.
Tại kì họp đầu tiên
của Quốc hội khóa XII, đồng chí tái đắc cử chức Chủ tịch Quốc hội.
Tại Đại hội Đảng Cộng
sản Việt Nam XI, đồng chí được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày 19 tháng 1 năm 2011. đồng chí Nguyễn Phú Trọng
đã có nhiều nỗ lực trong công tác chỉnh đốn Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, như việc đề ra Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI “Một số vấn đề cấp bách
về xây dựng Đảng hiện nay”.
Nguyễn
Văn Đông (tổng hợp)