Đức
lập quyền dân được châu toàn,
Quyền xa đức nhơn gian thống khổ.
TRÍ THỨC &TÔN GIÁO.
Phần lớn văn bút trong
xã hội (của giới tu hành và ngoài giới tu hành) đã làm cho nhân thế hiểu lầm
rằng việc tu hành dành cho những người chán đời nên lánh đời rồi tìm đến cảnh
chùa chiền để xa lánh xã hội. Cho nên khi người tu hành có nhận xét chi về xã
hội về thời đại hễ đồng ý (hay thuận lợi) cho họ thì thôi, còn không thì họ nói
mượn danh đạo tạo danh đời. Họ đã gieo sự lầm lạc trong xã hội.
Thật ra người tu hành
vẫn hằng quan tâm đến đạo đức, đến cuộc sống của quần chúng trong xã hội. Sự
quan tâm hay nhận định của nhà tu hành không hướng đến chiếm lĩnh chính quyền
mà vì lẽ công bình hay lòng bác ái. Còn nhà chính trị cũng dùng những phương
cách nhận định, góp ý… nhưng chủ yếu là do quyền lợi của Đảng phái mình và cuối
cùng là hướng đến việc chiếm lĩnh chính quyền. Cái khác biệt chính yếu là như
thế.
Những người cố ý hay vô
tình dụng chữ tu hành một cách thiễn cận đã giết chết ý nghĩa thật sự của việc
tu hành. Từ đó Đạo và Đời xa cách. (Như Tướng Nguyễn Thành Phương đã yêu cầu
Phạm Hộ Pháp đừng có liên can chi đến việc đời hay Đạo chi hết vào năm 1955-
Thông Liên 01)
Quan điểm trên lại càng
thể hiện sự sai lầm rõ ràng hơn nữa khi Đức Chí Tôn dạy: Thầy mở Đạo là để lập
đời Thánh Đức cho nhân loại.
Đạo Cao Đài muốn xây
đời thì phải gắn bó với xã hội, phải có một đầu cầu để ngay trong lòng xã hội
trong mọi thời điểm để xã hội bước vào chuyến xe như ý của Tôn giáo một cách hết sức tự nhiên.
Chiếc cầu ấy là Bảo Sanh- Nhân Nghĩa- Đại Đồng được thể hiện qua Trường
Học, Dưỡng Lão Ấu và Tịnh Thất vậy. Ấy là
những cách thế hay công thức mà Đạo Cao Đài cống hiến cho xã hội.
Trong bài nầy chúng tôi xin mời Thanh Thiếu Niên đọc những vần thơ (RẤT
TÀI HOA & XÚC TÍCH) của Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng hướng huấn cho một trí thức
trung niên (35 tuổi) như sau:
@@@
NHÀN ÂM ÐẠO TRƯỞNG.
Hoạch hiền hữu
nên nhớ việc nước là vì Đạo vì Đời, tuy việc tình cờ chớ đó là Thiên ý. Đạo
được rạng ngời chăng là do nơi kết quả trong bước đường của hiền hữu, cái khó
là chỗ đó.
Bần đạo xin có
mấy lời tâm huyết:
Gánh đời đã tự cất lên vai,
Trau chuốt sao cho đủ trí tài.
Tấn thối dè chừng mưu kế hiểm,
Thiệt hư gìn nhẹm chước phương hay.
Dụng quyền hơn Đức quyền tan nát,
Tạo thế kém nhân thế đọa đày.
Ví biết giống nòi đương thống khổ,
Trở đương cho vẹn phận làm trai.
Trau chuốt sao cho đủ trí tài.
Tấn thối dè chừng mưu kế hiểm,
Thiệt hư gìn nhẹm chước phương hay.
Dụng quyền hơn Đức quyền tan nát,
Tạo thế kém nhân thế đọa đày.
Ví biết giống nòi đương thống khổ,
Trở đương cho vẹn phận làm trai.
LÀM TRAI CHO VẸN PHẬN
Nợ non sông muốn gánh, phải lo tròn,
Giữa bể khơi lắc lẽo chiếc thuyền con.
Cơn sóng gió liệu còn hay để mất,
Khóc nước loạn rừng con quốc quốc.
Máu thành sông thây chất ví non cao,
Kiếp ngựa trâu Việt chủng vẫn kêu gào,
Đá tinh vệ chừ bao cho lấp bễ.
Vận hội đến đã xây thời thế,
Bởi hung tàn chưa thoát lệ nô.
Bốn ngàn năm một gánh cơ đồ,
Chia rẽ mãi điểm tô không kịp bước.
Đời lấn Đạo đời xa cội phước,
Đạo dìu đời vận nước mới an.
Đức lập quyền dân được châu toàn,
Quyền xa đức nhơn gian thống khổ.
Lấy chí Thánh dìu Đời giác ngộ,
Dụng bạo tàn đâu phải chỗ an bang.
Trị theo Đời dân chúng vẫn lầm than,
Đó là dìu chúng đến con đường tự diệt.
Do bốn chữ Minh, Cang, Liêm, Khiết,
Đạo hay Đời trăm việc cũng thành.
Gắng đề phòng bã lợi đua tranh,
Cầm bạc giữ đạm thanh khi sớm tối.
Chậm rãi bước đường xa chớ vội,
Góp ý hay mở lối cang thường,
Thương đời cho trọn chữ thương.
Thảo xá Hiền Cung.
Giữa bể khơi lắc lẽo chiếc thuyền con.
Cơn sóng gió liệu còn hay để mất,
Khóc nước loạn rừng con quốc quốc.
Máu thành sông thây chất ví non cao,
Kiếp ngựa trâu Việt chủng vẫn kêu gào,
Đá tinh vệ chừ bao cho lấp bễ.
Vận hội đến đã xây thời thế,
Bởi hung tàn chưa thoát lệ nô.
Bốn ngàn năm một gánh cơ đồ,
Chia rẽ mãi điểm tô không kịp bước.
Đời lấn Đạo đời xa cội phước,
Đạo dìu đời vận nước mới an.
Đức lập quyền dân được châu toàn,
Quyền xa đức nhơn gian thống khổ.
Lấy chí Thánh dìu Đời giác ngộ,
Dụng bạo tàn đâu phải chỗ an bang.
Trị theo Đời dân chúng vẫn lầm than,
Đó là dìu chúng đến con đường tự diệt.
Do bốn chữ Minh, Cang, Liêm, Khiết,
Đạo hay Đời trăm việc cũng thành.
Gắng đề phòng bã lợi đua tranh,
Cầm bạc giữ đạm thanh khi sớm tối.
Chậm rãi bước đường xa chớ vội,
Góp ý hay mở lối cang thường,
Thương đời cho trọn chữ thương.
Thảo xá Hiền Cung.
Ngày 15-11- Tân Mùi (23/12/1931).
* Thiễn
nghĩ an dân trị nước hay chính trị thường được viết bằng những bài chính luận,
nghị luận đanh thép. Nhưng bài thơ trên đưa những khẩu quyết an bang tế thế rất
tinh tế mà vẫn đạt chuẩn mực cho người quân tử trên đường “cầm chính đạo để
tịch tà cự bí” rất hiện thực vậy.
@@@
Mở đầu Ngài nhắc đến tên của Ông
Hoạch. Vậy ông Hoạch là ai?
Ông Lê Văn Hoạch sanh năm 1896 tại Phong Điền, Cần Thơ. Đỗ Bác Sĩ Y Khoa
năm 1922 (26 tuổi).
Năm Canh Ngọ (1930) đắc phong Bảo Sanh Quân. (cùng với Ngài Bảo Văn Pháp
Quân).
Ngày 10/11/1946 đắc cử Thủ Tướng Nam Kỳ (Hội Đồng Tư
Vấn Nam Kỳ bầu). [Đức Hộ Pháp từ bị Pháp
bắt đày đi Madagascar từ 1941 sau đó tình thế biến chuyển Pháp đưa Ngài về
Saigon: 26-7- Bính Tuất (22-8-46). Về Toà Thánh: 04-8-Bính Tuất (30-8-46)].
Trước khi nhậm chức Thủ Tướng Đức Nhàn Âm dạy Ngài BSQ:
Lấy Thánh Đức dìu đời giác ngộ,
Dụng bạo tàn đâu phải chỗ an bang.
Đức lập quyền dân đặng châu toàn,
Quyền xua đức nhơn gian thống khổ.
Dụng bạo tàn đâu phải chỗ an bang.
Đức lập quyền dân đặng châu toàn,
Quyền xua đức nhơn gian thống khổ.
Ngày 17/4/1973 Ngài nhận trách nhiệm Viện Trưởng Viện Đại học Cao Đài
(Sau đến Giáo Sư Nguyễn Văn Trường).
Ngài qui vị năm 1978 (thọ 82 tuổi) tại tư gia (Thị Xã Cần Thơ).
* Hội Thánh Cao Đài thành lập BAN THẾ ĐẠO (1965).
Đây là một phương sách mở rộng cửa Từ
Bi tiếp rước nhân tài có thiện tâm giúp Hội Thánh điểm tô đại nghiệp Đạo và
cũng là phương tiện dìu độ nguyên nhân nhập trường công quả.
Đạo Cao Đài là tài nguyên và môi trường cho: Sĩ, Nông, Công, Thương,
Binh, Tăng bước vào vận dụng để thực thi tam lập./.
Kính tặng: Thế Hệ Trẻ.
@@@
Ghi chú:
Ông Lê Văn Hoạch là Thủ Tướng từ (29-11-1946- 29-9-1947) của Nam Kỳ Quốc do chính phủ Pháp thành
lập từ ngày 07- 5-1946
"Nam Kỳ tự trị".