Ngày 29-9-2021 Ban Tôn Giáo Chính Phủ (trực thuộc Bộ Nội Vụ Ban Hành Tài Liệu cho cán bộ học tập về các tôn giáo. Đây là toàn văn tài liệu.
(Ban hành theo kèm theo Quyết định số 1158 /QĐ-TGCP ngày 29 / 9/2021 của Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ)
CHÍNH PHỦ
TÀI LIỆU
BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC, KỸ NĂNG NGHIỆP VỤ THÔNG TIN,
TUYÊN TRUYỀN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ TÍN NGƯỠNG,
TÔN GIÁO VÀ CÔNG TÁC TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO THEO
QUYẾT ĐỊNH SỐ 219/QĐ-TTG NGÀY 21/02/2019
CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
(Ban hành theo kèm theo Quyết định số 1158 /QĐ-TGCP ngày 29 / 9/2021
của Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ)
Hà Nội, NĂM 2021
LỜI NÓI ĐẦU
Nhằm đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về dân tộc và tôn giáo; các quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tín
ngưỡng, tôn giáo; những giá trị của tôn giáo đối với đời sống xã hội, góp phần
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng nhận thức đúng đắn của xã hội về
dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo và các chính sách, pháp luật về dân tộc, tín
ngưỡng, tôn giáo; tăng cường đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo trong thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời phát
huy những giá trị của tín ngưỡng, tôn giáo trong đời sống xã hội, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 219/QĐ-TTg ngày 21 tháng 02 năm 2019
phê duyệt Đề án hỗ trợ thông tin, tuyên truyền về dân tộc, tôn giáo.
Thực hiện Quyết định số 219/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Ban
Tôn giáo Chính phủ đã được giao chủ trì, phối hợp với Bộ Thông tin Truyền
thông và các cơ quan liên quan tổ chức xây dựng “Chương trình, Tài liệu bồi
dưỡng kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ thông tin, tuyên truyền chính sách pháp
luật về tín ngưỡng, tôn giáo và công tác tín ngưỡng, tôn giáo”. Đây là một phần
trong Chương trình, tài liệu bồi dưỡng tập huấn kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ
thông tin, tuyên truyền về dân tộc, tôn giáo theo Quyết định số 219/QĐ-TTg
ngày 21/02/2019 của Thủ tướng Chính phủ. Chương trình, Tài liệu gồm 03
Phần, với tổng số 16 chuyên đề giảng dạy, cụ thể:
Phần 1. Tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
Chuyên đề 1. Đặc điểm tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Chuyên đề 2. Khái quát về Phật giáo ở Việt Nam.
Chuyên đề 3. Khái quát về Công giáo ở Việt Nam.
Chuyên đề 4. Khái quát về Tin lành ở Việt Nam.
Chuyên đề 5. Khái quát về đạo Cao Đài ở Việt Nam.
Chuyên đề 6. Khái quát về Phật giáo Hòa Hảo ở Việt Nam.
Chuyên đề 7. Khái quát về Tịnh độ Cư sỹ Phật hội Việt Nam.
Chuyên đề 8. Khái quát về Các tôn giáo khác ở Việt Nam hiện nay.
Chuyên đề 9. Tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay.
Chuyên đề 10. Hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam hiện nay.
3
Phần 2. Chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
Chuyên đề 1. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn
giáo và công tác tôn giáo.
Chuyên đề 2. Quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.
Chuyên đề 3. Hoạt động đối ngoại tôn giáo ở Việt Nam góp phần thúc đẩy
ngoại giao nhân dân và đấu tranh nhân quyền.
Phần 3. Kỹ năng thông tin, tuyên truyền chính sách, pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo và công tác tín ngưỡng, tôn giáo
Chuyên đề 1. Kỹ năng định hướng, tiếp cận và xử lý thông tin trong lĩnh
vực tín ngưỡng, tôn giáo.
Chuyên đề 2. Kỹ năng vận động chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ
tôn giáo.
Chuyên đề 3. Kỹ năng nhận diện và đấu tranh đối với hoạt động lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo vi phạm pháp luật.
Ban Tôn giáo Chính phủ đã tổ chức biên soạn “Chương trình, tài liệu bồi
dưỡng kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ thông tin, tuyên truyền chính sách, pháp
luật về tín ngưỡng, tôn giáo và công tác tín ngưỡng, tôn giáo” một cách công
phu, bài bản, với sự tham gia biên soạn, góp ý, thẩm định của nhiều chuyên gia,
nhà khoa học, các nhà quản lý am hiểu sâu sắc về lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo
và công tác tín ngưỡng, tôn giáo.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình tổ chức biên soạn, tiếp thu
các ý kiến góp ý để hoàn thiện bản thảo, song do nhiều lý do chủ quan và khách
quan, Tài liệu chắc chắn khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, cần được tiếp
tục bổ sung, chỉnh sửa và cập nhật. Ban Tôn giáo Chính phủ rất mong nhận
được các ý kiến góp ý của các nhà khoa học, các nhà quản lý và các học viên.
Ý kiến góp ý xin gửi về: Ban Tôn giáo Chính phủ, đường Dương Đình
Nghệ, Phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
Trân trọng cảm ơn./.
Tháng 9 năm 2021
BAN TÔN GIÁO CHÍNH PHỦ
4
PHẦN THỨ NHẤT
TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
Chuyên đề 1
ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I. ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo
Với vị trí địa lý nằm ở khu vực Đông Nam Á, ba mặt giáp biển, Việt Nam
có điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu, tiếp biến của nhiều luồng tư tưởng,
văn hóa khu vực và thế giới. Về dân cư, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54
dân tộc anh em cùng cư trú ở nhiều khu vực với điều kiện tự nhiên, khí hậu, lối
sống, phong tục, tập quán khác nhau và mỗi dân tộc đều lưu giữ những hình
thức tín ngưỡng, tôn giáo riêng của mình, tạo nên sự phong phú, đa dạng trong
đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ
nước, dân tộc Việt Nam luôn phải tự bảo vệ mình chống lại các thế lực xâm lược
ngoại bang và các điều kiện khí hậu, tự nhiên không thuận lợi (mưa gió, bão lụt,
thiên tai…). Điều kiện tự nhiên, lịch sử đã tạo nên cho người Việt Nam tinh thần
dân tộc, tính cộng đồng cao và nhiều khả năng tiếp biến văn hóa ngoại sinh.
Nếu như ở nhiều quốc gia hiện nay vẫn có một tôn giáo giữ vai trò chủ
đạo, có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống chính trị - xã hội ở các quốc gia đó
thì tại Việt Nam hiện nay có nhiều tôn giáo cùng tồn tại và bình đẳng với nhau,
không có tôn giáo nào giữ vai trò chủ đạo. Các tôn giáo ở Việt Nam gồm cả
những tôn giáo có nguồn gốc du nhập từ bên ngoài như Phật giáo, Lão giáo, Nho
giáo; Công giáo, Tin lành; Hồi giáo…; có cả những tôn giáo nội sinh như đạo
Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa; Bửu Sơn Kỳ Hương;
Phật đường Nam tông Minh Sư đạo… cùng rất nhiều hiện tượng tôn giáo mới.
Cùng với sự đa dạng về tôn giáo, tại Việt Nam còn có sự đa dạng của các loại
hình tổ chức tôn giáo, trong đó, có những tôn giáo chỉ có một tổ chức duy nhất
(Phật giáo, Công giáo) và cũng có những tôn giáo có rất nhiều tổ chức khác
nhau (đạo Tin lành, đạo Cao Đài…). Có tôn giáo đông tín đồ (Công giáo, Phật
giáo, đạo Tin lành…) và cũng có tôn giáo có ít tín đồ, chức sắc (Bửu Sơn Kỳ
Hương, Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa…); có tôn giáo với đầy đủ hệ thống chức
5
sắc, chức việc (Công giáo, Phật giáo, Tin lành, Cao Đài,…) nhưng cũng có
những tôn giáo không có chức sắc, chỉ có chức việc (Phật giáo Hòa Hảo),…
Tính đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2020, Việt Nam có 41 tổ chức tôn
giáo đã được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân hoặc cấp giấy chứng nhận
đăng ký hoạt động tôn giáo thuộc 16 tôn giáo khác nhau; với trên 26,5 triệu tín
đồ (chiếm khoảng 27% dân số cả nước); trên 58 ngàn chức sắc; 148 ngàn chức
việc và gần 29,8 ngàn cơ sơ tôn giáo1.
1.2. Các tôn giáo ở Việt Nam tồn tại đan xen, hòa đồng và không có
xung đột tôn giáo
Là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo nhưng ở Việt Nam không có tôn
giáo nào giữ vị trí độc tôn trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc;hầu hết các tôn
giáo đều có những đóng góp nhất định cho dân tộc trên nhiều phương diện của
đời sống xã hội. Qua mỗi giai đoạn lịch sử, các tôn giáo có vai trò và vị trí khác
nhau trong đời sống xã hội nhưng ở Việt Nam chưa từng xảy ra xung đột tôn
giáo. Khác với nhiều quốc gia hiện nay, vẫn có một tôn giáo giữ vai trò chủ đạo
với số lượng tín đồ chiếm đa phần dân số (thường gọi là quốc đạo hay quốc
giáo), các tôn giáo ở Việt Nam dù ít hay nhiều tín đồ thì đều tồn tại đan xen với
nhau, không có tôn giáo nào giữ vai trò chủ đạo và các tôn giáo đều bình đẳng
trước pháp luật.
Tính đan xen, hòa đồng của tôn giáo ở Việt Nam được thể hiện rõ nét trên
một số phương diện cơ bản sau đây:
Thứ nhất, theo dòng lịch sử, trên lãnh thổ Việt Nam, số lượng tôn giáo
tăng theo xu thế hòa quyện, không đối đầu.
Người dân Việt Nam dường như có tính khoan dung, độ lượng trong quan
hệ đa tôn giáo. Các tín ngưỡng truyền thống phản ánh đời sống tâm linh phong
phú, đa dạng, sự khoan dung, độ lượng, nhân ái của người Việt Nam và tinh thần
đoàn kết toàn dân tộc. Đây là những yếu tố để người Việt Nam dễ hòa đồng với
nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc
ta, ở những giai đoạn nhất định, bên cạnh những tôn giáo lớn, chủ lưu thì luôn
có những loại hình tôn giáo khác cùng tồn tại và phát triển song song. Sau khi
du nhập vào Việt Nam, các tôn giáo đều trải qua quá trình bản địa hóa và có sự
tiếp biến với các hình thức tín ngưỡng, tôn giáo bản địa khác nên các tôn giáo
luôn có xu hướng tác động, ảnh hưởng lẫn nhau và chung sống một cách hòa
1 Ban Tôn giáo Chính phủ (2020), Báo cáo Tổng kết tình hình, công tác năm 2020 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2021 của ngành quản lý nhà nước về tôn giáo, Hà Nội.
6
bình, hữu hảo bên nhau. Thậm chí bản thân các tôn giáo lớn, giữ vai trò gần như
là chủ đạo của xã hội trong những thời kỳ lịch sử nhất định thì ngay trong nó đã
có sự dung hòa với giá trị của các tôn giáo khác. Điều này được thể hiện ngay
trong điện thờ của các loại hình tôn giáo khác nhau: Trong các chùa Phật giáo
(nhất là ở các tỉnh, thành phố phía Bắc), ngoài thờ Phật còn thờ cả các vị Thánh,
Tiên của Nho giáo, Lão giáo; các vị thần của tín ngưỡng dân gian Việt Nam như
Thổ công, Thổ địa, Thành hoàng, các Mẫu… Trong Thánh thất của đạo Cao Đài
có sự hội tụ cả các giá trị văn minh phương Tây và văn minh phương Đông. Với
Công giáo, sau một thời gian dài tồn tại ở Việt Nam, Giáo hội Công giáo đã cho
phép tín đồ được kính nhớ tổ tiên, được lập bàn thờ tổ tiên dưới bàn thờ Chúa…
Thứ hai, người Việt Nam có sự linh hoạt trong tiếp nhận các tôn giáo
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định “Người dân An Nam không có
linh mục, không có tôn giáo theo cách nghĩ của người châu Âu”2. Đối với người
Việt Nam, không ít người sẵn sàng chấp nhận thờ cúng cả thần, thánh, tiên,
Phật, lẫn thổ công, hà bá… Họ có thể đều đặn đến chùa mà vẫn say sưa hầu
bóng; có thể vừa chịu đủ những phép bí tích mà vẫn ham bói toán, tử vi; vừa
tham gia các nghi lễ tôn giáo lớn mà vẫn chăm chỉ thờ cúng tổ tiên, tổ chức hội
làng. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, người Việt Nam “tắm mình trong tâm
thức tôn giáo nhưng lại khó có thể tìm thấy trong họ một niềm tin rõ rệt”. Qua
đây cho thấy, người Việt Nam sẵn sàng tiếp nhận và thực hiện các nghi thức
sinh hoạt của nhiều tôn giáo khác nhau, miễn là đáp ứng được những nhu cầu
nhất định của cá nhân họ.
Một bộ phận người Việt Nam có xu hướng chuyển đổi hoặc đa dạng niềm
tin tín ngưỡng, tôn giáo: Họ đang tin thờ một đối tượng thiêng này lại từ bỏ
niềm tin đó và chuyển sang tin thờ một đối tượng thiêng khác. Điển hình như
trường hợp người Mông, người Dao và một số dân tộc thiểu số khác từ bỏ tín
ngưỡng truyền thống của mình để chuyển sang theo Công giáo và Tin lành; một
số người chuyển từ hệ phái Tin lành này sang hệ phái Tin lành khác; nhiều
người Kinh theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nhưng khi về già lại quy y theo
Phật giáo, họ không từ bỏ tín ngưỡng truyền thống mà họ vừa thờ cúng ông bà
tổ tiên, đồng thời cũng là Phật tử…
Thứ ba, có sự tương đồng, dung hợp nhất định trong tư tưởng và cả
trong hình thức thực hành của các tôn giáo ở Việt Nam
2 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1 (tái bản), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.463.
7
Thực tế, mỗi tôn giáo đều mang trong mình một hay nhiều tín ngưỡng; các
tín ngưỡng này đã có sự giao thoa với văn hóa Việt Nam và đều hướng đến Chân
- Thiện - Mỹ, chịu ảnh hưởng của truyền thống dân tộc, góp phần tạo nên những
nét đẹp trong nền văn hóa đa dạng, phong phú về bản sắc của dân tộc. Hệ thống
giáo lý của các tôn giáo nội sinh (Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Tịnh độ Cư sĩ Phật
hội Việt Nam,...) hầu hết đều chịu ảnh hưởng từ các tôn giáo có trước.
Thứ tư, tín đồ của các tôn giáo khác nhau có thể là người trong cùng
một gia đình, một dòng họ, chung sống trong cùng một làng, một xã…
Trong nhiều cộng đồng dân cư có sự xen kẽ giữa người có tôn giáo và
người không có tôn giáo. Ở nhiều nơi, trong cùng một làng, xã, có nhóm tín đồ
của tôn giáo này sống đan xen với nhóm tín đồ của tôn giáo khác hoặc với
những người không theo tôn giáo và họ sống hòa hợp với nhau trên nền tảng
làng, xóm, dòng họ. Vì vậy, trong một làng có thể có nhà thờ của Công giáo bên
cạnh ngôi chùa thờ Phật cùng rất nhiều đình, đền, miếu, phủ của hệ thống tín
ngưỡng dân gian. Chức sắc các tôn giáo cũng luôn có sự giao lưu, học hỏi lẫn
nhau; trong những năm gần đây, trong các dịp lễ trọng của các tôn giáo, chúng
ta không khó để thấy được hình ảnh những đoàn chức sắc của tôn giáo này tới
chúc mừng ngày lễ trọng của tôn giáo khác (như chức sắc Công giáo chúc mừng
lễ Phật đản trong Phật giáo; chức sắc Phật giáo chúc mừng lễ Giáng sinh trong
Công giáo…).
1.3. Các tôn giáo ở Việt Nam có mối quan hệ quốc tế rộng rãi
Một trong những đặc điểm quan trọng của các tôn giáo ở Việt Nam là có
mối quan hệ quốc tế rộng rãi và đa dạng. Phần lớn các tôn giáo ở Việt Nam hiện
nay đều có nguồn gốc du nhập từ nước ngoài từ nhiều thế kỷ trước đây như:
Công giáo, Phật giáo, đạo Tin lành, Hồi giáo, Tôn giáo Baha’i…; bản thân các
tôn giáo này đã chứa đựng các yếu tố của mối quan hệ quốc tế. Bên cạnh đó, do
nhiều nguyên nhân khác nhau nên một số tôn giáo nội sinh (Phật giáo Hòa Hảo,
đạo Cao Đài, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, Phật giáo
Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Giáo hội Phật đường Nam tông Minh Sư đạo…) cũng có
một bộ phận chức sắc, chức việc, tín đồ đang sinh sống ở nước ngoài, tạo nên
mối quan hệ quốc tế của các tôn giáo nội sinh. Theo thống kê của Ủy ban Nhà
nước về người Việt Nam ở nước ngoài (Bộ Ngoại giao), hiện có khoảng 5,3
triệu người Việt Nam đang sinh sống, học tập, lao động tại 109 quốc gia và vùng
lãnh thổ trên thế giới, trong đó có khoảng 80% là người có tín ngưỡng, tôn giáo
8
(với khoảng 2,5 triệu người là tín đồ của các tôn giáo). Như vậy, có thể khẳng
định hầu hết các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay đều có mối quan hệ quốc tế rộng
rãi. Các mối quan hệ quốc tế của các tôn giáo ở Việt Nam được thiết lập từ khá
lâu (mang tính truyền thống) và ngày càng được tăng cường mở rộng. Về cơ
bản, quan hệ quốc tế của các tôn giáo ở Việt Nam bao gồm: hoạt động thuần tuý
theo giáo lý giáo luật của tôn giáo; hoạt động từ thiện xã hội của các cá nhân, tổ
chức tôn giáo; các đoàn tôn giáo ra nước ngoài tham gia các hội nghị, diễn đàn
quốc tế, khóa đào tạo tôn giáo ở nước ngoài; tham gia việc giảng đạo của chức
sắc, nhà tu hành của người nước ngoài tại Việt Nam…
Quan hệ quốc tế của các tôn giáo ở Việt Nam được thể hiện ở nhiều góc
độ khác nhau, như: (1) Quan hệ phụ thuộc về cơ cấu tổ chức, hành đạo: Điển
hình là quan hệ phụ thuộc của Giáo hội Công giáo Việt Nam với Tòa thánh
Vatican; quan hệ giữa các dòng tu quốc tế của Công giáo ở Việt Nam với các
dòng Mẹ ở bên ngoài; quan hệ phụ thuộc của các tổ chức Cao Đài ở bên ngoài
với các tổ chức, hệ phái Cao Đài ở trong nước; Tin lành Mỹ có quan hệ chi phối
và đa chiều nhất đối với Tin lành Việt Nam; Giáo hội Phật giáo Việt Nam có 22
chi hội và Hội Phật tử ở nước ngoài. (2) Quan hệ truyền giáo: Nhiều tôn giáo ở
Việt Nam có nguồn gốc du nhập từ bên ngoài, được các giáo sỹ, các nhà truyền
giáo nước ngoài vào Việt Nam hoạt động và truyền giáo. Trong quá trình chủ
động hội nhập nền kinh tế quốc tế, nhất là việc mở rộng liên doanh với Hàn
Quốc, không ít tổ chức Tin lành Hàn Quốc đến Việt Nam để truyền đạo, phát
triển tín đồ. (3) Quan hệ đồng đạo: nhiều tôn giáo ở Việt Nam có quan hệ đồng
đạo với các tôn giáo ở nước ngoài. Phật giáo Việt Nam có quan hệ giao lưu, thân
hữu với rất nhiều nước có Phật giáo như: Srilanca; Thái Lan; Myanmar;
Campuchia; Lào; Ấn Độ; Pháp; Đức; nhiều Tăng Ni sinh Việt Nam được gửi đi
đào tạo tại các trường Đại học ở Ấn Độ, Đài Loan, Trung Quốc, Myanmar.
Ngoài ra, Phật giáo Việt Nam còn có các quan hệ cá nhân hoặc trong nội bộ sơn
môn, pháp phái với tăng ni, Phật tử người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài
với khoảng trên 400 ngôi chùa Việt Nam đặt tại gần 30 nước. Đạo Tin lành Việt
Nam có quan hệ ở tầm Châu lục, đặc biệt là các trung tâm Tin lành lớn Tây Âu,
Bắc Âu và Bắc Mỹ; với Tin lành trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương mà
trước hết là Tin lành Hàn Quốc (40% dân số Hàn Quốc theo đạo Tin lành với
khoảng 46 triệu tín đồ). (4) Quan hệ bình đẳng trong các tổ chức quốc tế: Giáo
hội Phật giáo Việt Nam tham gia thành lập Tổ chức Phật giáo Châu Á vì hòa
9
bình (Asian Buddhist Confrence for Peace - ABCP); thành viên của Ủy ban tổ
chức Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc (Vesak)…
Như vậy, có thể thấy rằng hầu hết các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đều có
quan hệ quốc tế rộng rãi và đa dạng;ngày càng có rất nhiều hoạt động quốc tế của
các tổ chức tôn giáo diễn ra trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, chức sắc tôn giáo,
tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam ngày một nhiều tham dự các hoạt
động hội thảo, hội nghị tôn giáo, các dịp lễ của các tổ chức tôn giáo tại được tổ
chức tại Việt Nam. Có thể khái quát một số quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn
giáo ở Việt Nam hiện nay như sau: Quan hệ dựa trên những hoạt động có tính
chất thuần tuý tôn giáo (đây là các hoạt động mang tính giao lưu giữa các tôn
giáo ở trong và ngoài nước như: thăm viếng lẫn nhau, tham gia các cuộc hội thảo,
diễn đàn khu vực và quốc tế trao đổi về giáo lý, giáo luật, lễ nghi phụng tự, sinh
hoạt tôn giáo, trao đổi về thần học, kinh sách...); Quan hệ dựa trên những hoạt
động xã hội của các cá nhân, tổ chức tôn giáo (có thể coi đó là những hoạt động
thế tục mà bất cứ tôn giáo nào cũng thực hiện, như: những hoạt động xã hội, bác
ái, từ thiện, viện trợ, văn hoá,… hoạt động tại các diễn đàn quốc tế với chủ đề hoà
bình, phát triển, tiến bộ xã hội, chống chiến tranh, xóa đói, giảm nghèo, dịch bệnh
AIDS... do các tổ chức quốc tế hoặc Liên hợp quốc đứng ra tổ chức; Đại lễ Phật
đản Liên hợp quốc - Vesak Day; đối thoại liên tín ngưỡng “Hòa bình, hòa hợp và
cùng tồn tại”...); Quan hệ thông qua các Hội thảo, hội nghị, tọa đàm về tôn giáo
được tổ chức trong và ngoài nước, có sự tham gia của chức sắc, nhà học giả,
nghiên cứu về tôn giáo ở nước ngoài(như: Hội nghị “Tôn giáo và pháp quyền”, Lễ
kỷ niệm 100 năm Tin lành vào Việt Nam…).
1.4. Đặc điểm về tín đồ tôn giáo ở Việt Nam
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định: “Tín đồ là người tin, theo một tôn
giáo và được tổ chức tôn giáo đó thừa nhận”3. Theo thống kê của Ban Tôn giáo
Chính phủ, tính đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2020, cả nước có trên trên 26,5
triệu tín đồ các tôn giáo. Đặc điểm chức sắc, tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam thể
hiện trên các mặt sau đây:
Một là, tín đồ tôn giáo ở Việt Nam có niềm tin tôn giáo sâu sắc và giữ
vững đời sống đạo; luôn tin và thực hành theo giáo lý, giáo luật của tôn giáo
Tín đồ tôn giáo ở Việt Nam là những người có đức tin, coi niềm tin tôn
giáo như là một định hướng giá trị và rất thiêng liêng. Trong đời sống của tín đồ,
3 Quốc hội (2016), Luật số 02/2016/QH14, ngày 18/11/2016 (Luật tín ngưỡng, tôn giáo), Hà Nội.
10
niềm tin tôn giáo gắn bó với họ một cách tự nguyện; việc thực hành các nghi lễ
tôn giáo và sinh hoạt tín ngưỡng được các tín đồ tôn giáo tham gia một cách nhiệt
thành. Tín đồ tôn giáo coi việc tham gia sinh hoạt tôn giáo như là một nhu cầu
tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống của họ; đức tin tôn giáo và sinh hoạt tín
ngưỡng, tôn giáo đã thành lẽ tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày của mỗi tín đồ,
mà nếu thiếu vắng sinh hoạt đó người tín đồ sẽ không an tâm, luôn cảm thấy như
bị mất mát, không hoàn thành trách nhiệm, bổn phận của tín đồ và như “mắc tội”
với đấng thiêng liêng của tôn giáo. Như vậy, việc thực hiện các lễ nghi tôn giáo
và những quy định của tổ chức tôn giáo đối với tín đồ, chức sắc tôn giáo được coi
như nếp sinh hoạt văn hóa thường ngày của họ. Tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam
có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo, nhất là những sinh hoạt tôn giáo cộng đồng mang
tính chất lễ hội. Điều này khác với tín đồ tôn giáo ở một số nước phương Tây
hoặc các nước tiên tiến, các sinh hoạt tôn giáo đi theo hướng cá nhân, ở gia đình.
Đây là đặc điểm cần quan tâm trong công tác thông tin, tuyên truyền về tôn giáo
và công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, nhằm tạo điều kiện cho các hoạt động
tôn giáo của tín đồ, chức sắc theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã
được Nhà nước chấp thuận và theo quy định của pháp luật.
Trên thực tế, tín đồ tôn giáo là công dân của một nước, gắn bó với dân
tộc, với cộng đồng xã hội, mang bản sắc văn hóa của quốc gia, dân tộc. Ngoài tư
cách là công dân, tín đồ tôn giáo còn thuộc về một tổ chức giáo hội nhất định và
chịu sự chi phối của thần quyền, giáo lý, giáo luật và lễ nghi của tôn giáo mà họ
tin theo. Trong cuộc sống hàng ngày, tín đồ còn phải thực hiện các nghi lễ tôn
giáo và tham gia các hoạt động đóng góp cho giáo hội, như chăm sóc nơi thờ tự,
làm việc theo phân công của giáo hội, coi trọng và tích cực tham gia các hoạt
động của cộng đồng tôn giáo; gắn bó, thông thạo các hoạt động từ thiện, cứu trợ
xã hội... Ngoài “việc đời” tín đồ tôn giáo còn tham gia “việc đạo”. Mỗi tôn giáo
đều có hệ thống giáo lý, giáo luật, nghi lễ và tổ chức riêng, tín đồ theo tổ chức
tôn giáo nào đều phải tuân thủ những quy định của tổ chức tôn giáo đó. Trong
suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, tín đồ các tôn giáo Việt Nam đều hăng hái
tham gia đóng góp công sức của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, đại đa số tín đồ các tôn giáo đều thực
hiện phương châm sống “tốt đời, đẹp đạo”, gắn bó, đồng hành với dân tộc, tích
cực cùng toàn dân xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
11
Hai là, tín đồ tôn giáo ở Việt Nam phần lớn là nhân dân lao động, có
tinh thần yêu nước, luôn gắn bó với dân tộc
Tín đồ tôn giáo ở Việt Nam gồm nhiều thành phần xã hội, nhưng phần lớn
là nhân dân lao động; có tính cần cù lao động, giản dị trong sinh hoạt, có tinh
thần yêu thương gắn bó và tính cố kết cộng đồng lớn. Tuyệt đại bộ phận đồng
bào các tôn giáo có lòng yêu nước, gắn bó với dân tộc. Phẩm chất này càng
được nâng lên gấp nhiều lần kể từ khi có Đảng và đồng bào các tôn giáo được
Đảng lãnh đạo, dìu dắt, hướng dẫn và tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân
tộc để cùng thực hiện mục tiêu độc lập cho dân tộc, ấm no hạnh phúc cho nhân
dân. Đây là tiền đề quan trọng và là yếu tố đưa tới thành công trong công tác vận
động, đoàn kết đồng bào các tôn giáo nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hiện nay.
Trong công tác thông tin, tuyên truyền, cần phải chú ý phát huy lòng yêu nước
và tinh thần lao động cần cù của tín đồ các tôn giáo; đồng thời, phê phán những
biểu hiện mê tín dị đoan, lệch chuẩn tâm linh trong sinh hoạt tôn giáo của tín đồ
các tôn giáo.
1.5. Đặc điểm chức sắc, chức việc tôn giáo ở Việt Nam
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định “Chức sắc” là tín đồ được
tổ chức tôn giáo phong phẩm hoặc suy cử để giữ phẩm vị trong tổ chức”; “Chức
việc là người được tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức được
cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo bổ nhiệm, bầu cử hoặc suy cử để
giữ chức vụ trong tổ chức”4. Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, tính
đến ngày 31 tháng 12 năm 2020, trong cả nước có khoảng trên 58 ngàn chức sắc
và khoảng trên 148 ngàn chức việc của các tôn giáo.
Chức sắc của mỗi một tôn giáo lại có những tên gọi khác nhau được quy
định bởi giáo lý, giáo luật, hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đó, có thứ
bậc, phẩm cấp, tên gọi khác nhau, ví dụ: Phật giáo là các tăng, ni - tính từ phẩm
thượng tọa, hòa thượng (đối với tăng), phẩm ni sư, ni trưởng (đối với ni) trở lên;
Công giáo bao gồm các phẩm: linh mục, giám mục, tổng giám mục, hồng y; đạo
Cao Đài từ phẩm lễ sanh trở lên đến phẩm giáo tông và các phẩm khác tương
đương (chức sắc cửu trùng đài gồm: lễ sanh, giáo hữu, giáo sư, phối sư, chánh
phối sư, đầu sư, thượng phẩm - thượng sanh, giáo tông); đạo Tin lành là mục sư,
mục sư nhiệm chức, truyền đạo…
4 Quốc hội (2016), Luật số 02/2016/QH14, ngày 18 tháng 11 năm 2016 (Luật tín ngưỡng, tôn giáo), Hà Nội.
12
Chức sắc, chức việc các tôn giáo đều sinh hoạt trong các hệ thống tổ chức
chặt chẽ của giáo hội các tổ chức tôn giáo. Hầu hết các chức sắc, chức việc tôn
giáo ở Việt Nam được tuyển chọn công phu từ cộng đồng tôn giáo; được đào tạo
quy mô, bài bản trong các cơ sở tôn giáo ở trong và ngoài nước nên nhiều người
có trình độ văn hóa, có sự hiểu biết sâu sắc về giáo lý, luật lệ, lễ nghi tôn giáo.
Hiện nay, chức sắc tôn giáo ở nước ta đang có sự gia tăng về số lượng, chất
lượng và hiện đại hóa mạnh mẽ từ việc nâng cao trình độ thần học, giáo lý, đến
trình độ văn hóa nói chung. Do đó, chức sắc, chức việc các tôn giáo là lực lượng
nòng cốt của giáo hội, quyết định hiện tại và tương lai của tôn giáo; là lực lượng
quan trọng trong mối quan hệ giữa giáo hội của các tôn giáo với nhà nước và là
đầu mối trong việc hướng dẫn, quản lý về hoạt động tôn giáo.
Đội ngũ chức sắc, chức việc các tôn giáo ở Việt Nam đông đảo về số
lượng, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của tín đồ. Đây là những người
hướng dẫn sinh hoạt tôn giáo cho các tín đồ và có ảnh hưởng lớn tới quần chúng
tín đồ; ở một số tôn giáo, chức sắc còn có có thần quyền (chức sắc Công giáo).
Chức sắc, chức việc tôn giáo không chỉ có ảnh hưởng quan trọng đối với tín
đồtrong đời sống tinh thần mà còn có ảnh hưởng cả trong đời sống văn hóa, xã
hội.Đại đa số chức sắc, chức việc sống “tốt đời, đẹp đạo”, gắn bó, đồng hành
cùng dân tộc.
2. TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Đời sống tôn giáo ở Việt Nam ngày càng sôi động
Nói đến đời sống tôn giáo là nói đến các mặt sinh hoạt tôn giáo của tín đồ,
hoạt động của chức sắc, chức việc, tính pháp lý và những hoạt động của các tổ
chức tôn giáo, như: việc đăng ký, công nhận tổ chức tôn giáo, việc đào tạo,
phong chức, phong phẩm, việc thuyên chuyển chức sắc, việc in ấn xuất bản kinh
sách, việc sửa chữa nơi thờ tự, việc tham gia các hoạt động từ thiện xã hội, việc
thực hiện các mối quan hệ với các tổ chức tôn giáo quốc tế…
2.1.1. Về sinh hoạt tôn giáo của tín đồ
Sự sôi động của đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay được thể hiện
trước hết ở sự gia tăng số tín đồ tôn giáo. Theo báo cáo của Ban Tôn giáo Chính
phủ, năm 2004, cả nước có 20,6 triệu tín đồ (chiếm 21,8% dân số cả nước) thuộc
06 tôn giáo được Nhà nước công nhận (Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài,
Phật giáo Hòa Hảo, Hồi giáo), trong đó có trên 34 ngàn chức sắc, gần 79 ngàn
chức việc. Tính đến tháng 12 năm 2020, đã có 16 tôn giáo được Nhà nước công
13
nhận với khoảng trên 26,5 triệu tín đồ (chiếm 27% dân số cả nước), trong đó có
trên 58 ngàn chức sắc, trên 148 ngàn chức việc. So với năm 2004, tăng 10 tôn
giáo được công nhận; số chức sắc tăng gần 24 ngàn người (tăng 70,5%), số chức
việc tăng gần 69 ngàn người (tăng 87,3%), số tín đồ tăng gần 6 triệu người (tăng
28,8%).
Sinh hoạt tôn giáo của tín đồ là một trong những yếu tố quan trọng khi
tiếp cận đời sống tôn giáo vì nó thể hiện niềm tin tôn giáo, đồng thời, cũng thể
hiện sự tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhà nước. Từ
khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, với sự cởi mở của pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo, các tín đồ tôn giáo đều thực hiện các sinh hoạt tôn giáo bình
thường tại gia đình và nơi thờ tự theo nghi lễ truyền thống của tôn giáo mình.
Thời gian gần đây, nhiều sinh hoạt tôn giáo diễn ra với quy mô lớn, kéo dài thời
gian - điều mà trước đây hầu như không thực hiện được. Điển hình là Hội thánh
Cao Đài Tây Ninh trong dịp được công nhận tư cách pháp nhân, tại Hội Yến
Diêu Trì Cung (Rằm tháng 8 năm Đinh Sửu - 1997) có đến hơn 200 nghìn lượt
người tham dự; Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo được công nhận và ra mắt
trong dịp lễ Khai đạo Phật giáo Hòa Hảo (18/5 Âm lịch năm Kỷ Mão - 1999) có
khoảng gần 500 nghìn lượt người tham dự; Lễ hội Hành hương Thánh địa La
Vang của Công giáo hàng năm đều thu hút hàng trăm nghìn lượt người tham gia;
Lễ khai mạc Năm Thánh 2010 của Giáo hội Công giáo Việt Nam tại Sở Kiện,
Hà Nam là nơi gặp gỡ của gần 100 nghìn tín đồ, chức sắc đến từ mọi miền Tổ
quốc và khách quốc tế; lễ Kỷ niệm 100 năm đạo Tin lành truyền đến Việt Nam
(2011) tại Đà Nẵng, Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh thu hút hàng vài chục nghìn
lượt tín đồ, chức sắc và khách quốc tế tới tham dự; Đại lễ Vesak năm 2008 tại
Hà Nội có gần 10 nghìn tăng, ni, phật tử và khoảng 4 nghìn khác quốc tế từ 74
quốc gia và vũng lãnh thổ tham dự; Đại lễ Vesak năm 2014 tại Bái Đính, Ninh
Bình (từ ngày 07 đến ngày 11 tháng 5 năm 2014) có hơn 10 nghìn tăng, ni, phật
tử tham dự, trong đó có 1.150 khách quốc té đến từ 95 quốc gia và vùng lãnh
thổ; gần đây nhất, Đại lễ Vesak năm 2019 tổ chức tại chùa Tam Chúc, Hà Nam
(từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 5 năm 2019) với sự tham dự của khoảng 30 nghìn
tăng, ni, phật tử cả nước, 250 tăng, ni, phật tử là Kiều bào Việt Nam đang ở
nước ngoài, 1.650 khách quốc tế đến từ 112 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó
có 04 lãnh đạo quốc gia (Tổng thống Nepan; Thủ tướng Myanmar; Phó Tổng
14
thống Ấn Độ; Chủ tịch Thượng viện Butan) và Phó Tổng Thư ký Liên hợp quốc,
28 vị đại sứ và đại diện các tổ chức quốc tế tại Việt Nam…
2.1.2. Về công nhận tổ chức tôn giáo
Cùng với bình thường và mở rộng sinh hoạt tôn giáo của tín đồ, một nội
dung đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam từ
khi đổi mới đến nay là việc công nhận các tổ chức tôn giáo. Năm 2004, cả nước
có 16 tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận thuộc 06 tôn giáo (Phật giáo,
Công giáo, Tin lành, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Hồi giáo). Ngoài 03 tổ chức
tôn giáo được công nhận từ trước, như: Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Giáo hội
Công giáo Việt Nam Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), đã có thêm nhiều
tổ chức tôn giáo mới được Nhà nước công nhận. Đó là: Ban Đại diện Cộng đồng
Hồi giáo TP. Hồ Chí Minh được công nhận năm 1992; Hội thánh Cao Đài Tiên
Thiên được công nhận năm 1995; Hội thánh Cao Đài Minh Chơn đạo được công
nhận năm 1996; Hội thánh Cao Đài Chiếu Minh Long Châu được công nhận
năm 1996; Hội thánh Truyền giáo Cao Đài được công nhận năm 1996; Hội
thánh Cao Đài Tây Ninh được công nhận năm 1997; Hội thánh Cao Đài Ban
Chỉnh đạo được công nhận năm 1997; Hội thánh Cao Đài Bạch y được công
nhận năm 1998; Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo được công nhận năm 1999 và
Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo được chính thức công nhận năm 2004; Hội thánh
Cao Đài Chơn lý được công nhận năm 2000; Hội thánh Cao Đài Cầu Kho - Tam
Quan được công nhận năm 2000; Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam)
được công nhận năm 2001; Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo tỉnh An Giang
được công nhận năm 2004 (sau đổi tên thành Cộng đồng Hồi giáo tỉnh An Giang
vào năm 2020). Điều cần quan tâm là các lần công nhận tổ chức tôn giáo nói
trên, các văn bản của Nhà nước đều nói rõ là “công nhận tư cách pháp nhân”
như với các tổ chức Cao Đài, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam)... Riêng
trường hợp Phật giáo Hòa Hảo, việc thành lập Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo
năm 1999 là quá độ để tiến tới thành lập Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo năm 2004.
Tính đến hết tháng 12 năm 2020, Nhà nước đã công nhận và cấp giấy
chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho 41 tổ chức tôn giáo thuộc 16 tôn
giáo (trong đó có 36 tổ chức tôn giáo được công nhận; 04 tổ chức tôn giáo và 01
pháp môn tu hành được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo).
Ngoài ra, còn có tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương với một số chùa tại một số tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn
15
giáo, công nhận Ban Trị sự, Ban Quản trị chùa; 01 Thánh đường của Hồi giáo
tại số 12 Hàng Lược được công nhận Ban Quản trị thánh đường. Từ khi Luật
Tín ngưỡng, tôn giáo ra đời năm 2016, mới sử dụng cụm từ “pháp nhân phi
thương mại” với việc công nhận tổ chức tôn giáo.Theo thời gian, lần lượt các tổ
chức tôn giáo được Nhà nước công nhận và cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt
động tôn giáo trong giai đoạn này gồm: Hội đồng Sư cả Hồi giáo Bà - ni tỉnh
Ninh Thuận (2007); Hội Truyền giáo Cơ đốc Việt Nam (2007); Minh lý đạo -
Tam tông miếu (2008); Giáo hội Phật đường Nam tông Minh sư đạo (2008);
Tổng hội Báp-tít Việt Nam - Ân điển Nam Phương (2008); Hội đồng Tinh thần
tôn giáo Baha’i Việt Nam (2008); Hội thánh Báp-tít Việt Nam - Nam Phương
(2008); Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (2008); Hội thánh Tin lành Trưởng lão
Việt Nam (2008); Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Việt Nam (2008); Hội thánh
Mennonite Việt Nam (2009); Bửu Sơn Kỳ Hương (2009); Pháp môn Cao Đài
Chiếu Minh Tam thanh Vô vi (2010); Hội thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam
(2010); Đạo hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa (2010); Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo
tỉnh Tây Ninh (2010); Hội thánh Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) được công nhận
năm 2011; Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo tỉnh Ninh Thuận (được công nhận
năm 2012); Hội đồng Sư cả Hồi giáo Bà - ni tỉnh Bình Thuận (được công nhận
năm 2012); Ban Quản trị Thánh đường Al Noor Hà Nội (được công nhận năm
2013); Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn (2016); Hội thánh Tin lành Liên hiệp
Truyền giáo Việt Nam (2018); Hội thánh Phúc âm Toàn vẹn Việt Nam (2018);
Giáo hội các Thánh hữu ngày sau của Chúa Giê - su Ky - tô Việt Nam (Mormon
hay Mặc Môn) được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo (2019)
dựa trên Ban Đại diện Giáo hội các Thánh hữu ngày sau của Chúa Giê - su Ky -
tô Việt Nam được chấp thuận năm 2016. Riêng Hội thánh Phúc âm Ngũ tuần
Việt Nam được công nhận pháp nhân năm 2019 sau 10 năm được cấp giấy
chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo (2009).Quần chúng tín đồ, chức sắc các
tổ chức tôn giáo được công nhận rất phấn khởi, mối quan hệ giữa tổ chức tôn
giáo với chính quyền được cải thiện rõ rệt theo hướng ngày càng tích cực; các
hoạt động tôn giáo liên quan đến tổ chức tôn giáo đều được triển khai để đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của tín đồ và hoạt động của chức sắc.
Bên cạnh những tôn giáo hoạt động ổn định, có đủ điều kiện theo luật
định và đã được Nhà nước chấp thuận, cấp đăng ký hoạt động, công nhận tổ
chức thì còn khá nhiều các hiện tượng tôn giáo mới tồn tại và hoạt động tại Việt
16
Nam. Hầu hết các hiện tượng tôn giáo mới nặng tính mê tín dị đoan, không có
giáo lý, giáo luật hoặc vay mượn từ các tôn giáo khác hoặc thể hiện lối sống lệch
lạc trái với các giá trị đạo đức, văn hóa của dân tộc.
2.1.3. Về mở trường đào tạo chức sắc tôn giáo
Tính đến tháng 02 năm 2021, các tôn giáo ở Việt Nam có 62 cơ sở đào tạo
chức sắc với trên dưới 10.000 học viên đang theo học. Cụ thể:
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam có 47 cơ sở đào tạo, trong đó có 04 Học
viện Phật giáo (Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội; Học viện Phật giáo
Việt Nam tại Huế; Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh và Học
viện Phật giáo Nam tông Khmer tại Cần Thơ); 01 trường Trung, Cao đẳng Phật
học; 34 trường Trung cấp Phật học; 08 lớp Cao đẳng Phật học.
- Giáo hội Công giáo Việt Nam có 12 cơ sở đào tạo, gồm: 01 Học viện
Công giáo Việt Nam; 01 Học viện Thần học Thánh Phêrô Lê Tùy tại Tổng Giáo
phận Hà Nội và 10 Đại Chủng viện(Đại Chủng viện Thánh Giuse Hà Nội; Đại
Chủng viện Thánh tâm Thái Bình; Đại Chủng viện Đức Mẹ Vô nhiễm Bùi Chu
(Nam Định); Đại Chủng viện Vinh Thanh (Nghệ An); Đại Chủng viện Huế
(Thừa Thiên - Huế); Đại Chủng viện Sao Biển Nha Trang (Khánh Hòa); Đại
Chủng viện Thánh Giuse TP. Hồ Chí Minh; Đại Chủng viện Thánh Quý (Cần
Thơ); Đại Chủng viện Thánh Giuse Xuân Lộc và Cơ sở 2 Đại Chủng viện Thánh
Giuse Xuân Lộc tại Đà Lạt).
- Các Hội thánh Tin lành có 04 cơ sở: Viện Thánh kinh Thần học TP. Hồ
Chí Minh thuộc Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam); Trường Kinh thánh
Hà Nội của Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc); Trường Kinh thánh Đà
Nẵng của Hội Truyền giáo Cơ đốc Việt Nam; Trường Kinh thánh của Hội thánh
Cơ đốc Phục lâm Việt Nam.
- Các Hội thánh Cao Đài có 01 cơ sở đào tạo là Học viện Truyền giáo Cao
Đài tại Đà Nẵng (hiện các Hội thánh Cao Đài trong nhóm “Liên giao hành đạo”
đang xúc tiến việc thành lập Học viện Cao Đài tại Bến Tre nhằm đáp ứng yêu
cầu đào tạo chức sắc, chức việc cho các Hội thánh).
- Phật giáo Hòa Hảo có 01 cơ sở là Trường Trung cấp Phật giáo Hòa Hảo
tại An Giang.
Với sự quan tâm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền,
hoạt động của các cơ sở đào tạo tôn giáo ngày càng đi vào nền nếp; số lượng
chức sắc các tôn giáo ở Việt Nam ngày càng tăng: nếu như năm 2004, các tôn
17
giáo chỉ có trên 34 ngàn chức sắc thì đến tháng 12 năm 2020, đã có trên 58 ngàn
chức sắc. Ngày 20 tháng 02 năm 2020, Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ đã
có Quyết định số 35/QĐ-TGCP về việc ban hành Chương trình hai môn học
Lịch sử Việt Nam và Pháp luật Việt Nam trong các cơ sở đào tạo tôn giáo và các
cơ sở đào tạo tôn giáo có trách nhiệm triển khai việc thực hiện hai môn học trên
theo quy định tại Điều 40 Luật tín ngưỡng, tôn giáo và theo Chương trình đã
được Ban Tôn giáo Chính phủ ban hành.
2.1.4. Về xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự
Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, tính đến ngày 31/12/2020,
trong cả nước có gần 29.800 cơ sở thờ tự của các tôn giáo, tăng khoảng 5.800 cơ
sở so với năm 2008. Hầu hết các cơ sở thờ tự của các tôn giáo đã được sửa chữa,
nhiều cơ sở thờ tự được xây mới (chỉ tính riêng trong năm 2020, cả nước có 192
cơ sở thờ tự được xây mới và 230 cơ sở thờ tự được sửa chữa). Nơi thờ tự là một
trong những điều kiện đảm bảo sinh hoạt tôn giáo của tín đồ nên được chính
quyền rất quan tâm. Để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo, ngoài các cơ sở thờ
tự theo truyền thống (chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường…),
theo quy định của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, còn có địa điểm hợp pháp phục vụ
sinh hoạt tôn giáo là đất, nhà ở, công trình mà tổ chức hoặc cá nhân có quyền sử
dụng hợp pháp theo quy định của pháp luật. Chỉ tính riêng trên địa bàn Thành
phố Hà Nội, hiện có 09 điểm nhóm Tin lành với khoảng 2.400 tín đồ là người
Hàn Quốc, trong đó có 06 điểm nhóm đã được cấp giấy đăng ký sinh hoạt tôn
giáo tập trung; 03 nhóm còn lại đang hoàn thiện thủ tục đăng ký. Ngoài ra, có
khoảng 1.000 người nước ngoài theo đạo Tin lành thuộc 40 quốc tịch khác nhau,
đang làm việc tại Hà Nội; năm 1995 họ tự thành lập “Hội thánh Tin lành Quốc
tế Hà Nội” để sinh hoạt tôn giáo; năm 2017, UBND thành phố Hà Nội đã chấp
thuận để Tổng hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) thuê hai địa điểm
làm nơi sinh hoạt tôn giáo tạm thời cho Hội thánh này.
Các ban, ngành chức năng liên quan đã thống nhất hướng dẫn các tổ chức
tôn giáo thực hiện các thủ tục để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên
diện tích đất cơ sở tôn giáo đang sử dụng; việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất trên diện tích đất cơ sở tôn giáo đang sử dụng được thực hiện theo
đúng pháp luật. Các địa phương đã lập Ban Chỉ đạo công tác cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, giao Sở Tài nguyên và Môi trường là cơ quan thường
trực, Sở Nội vụ (Ban Tôn giáo) xác nhận tư cách pháp lý cho các cơ sở tôn giáo
18
và người đứng đầu cơ sở tôn giáo để tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo
trong quá trình làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; xây dựng kế
hoạch tuyên truyền, phổ biến cho cán bộ, công chức, viên chức làm công tác tôn
giáo và chức sắc, chức việc, nhà tu hành các tổ chức tôn giáo thông qua các hội
nghị tập huấn, các buổi gặp gỡ, tiếp xúc, cơ bản tạo được sự đồng thuận giữa
chính quyền và chức sắc các tôn giáo trong việc giải quyết nhà, đất liên quan
đến tôn giáo. Tính đến hết tháng 12/2020, số cơ sở tôn giáo được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất chiếm 74,96% tổng số cơ sở. Ngoài ra, chính quyền các
địa phương đã xem xét nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của các tổ chức tôn
giáo và giải quyết, cấp đất cho các tôn giáo để mở rộng cơ sở thờ tự, đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của chức sắc, tín đồ.
2.1.5. Việc in ấn, xuất bản ấn phẩm tôn giáo
Từ khi đổi mới, nhất là từ khi Nhà xuất bản Tôn giáo được thành lập đến
hết năm 2020, đã có khoảng gần 10.000 xuất bản phẩm tôn giáo được xuất bản
với số lượng hàng chục triệu bản (riêng Kinh Thánh xuất bản trên một triệu
bản); các xuất bản phẩm tôn giáo được in bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như:
Tiếng Anh, Tiếng Pháp, tiếng dân tộc. Tính đến năm 2020, ở Việt Nam cấp toàn
đạo của các tổ chức tôn giáo có 15 tờ báo và tạp chí đang hoạt động, trong đó có
nhiều tờ báo, tạp chí có uy tín. Ngoài ra, các tổ chức tôn giáo cũng tăng cường
ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động với rất nhiều trang Thông tin điện
tử, các trang mạng xã hội, website của các tổ chức tôn giáo đang hoạt động
(phần lớn các tổ chức tôn giáo (kể cả tổ chức tôn giáo trực thuộc) có Website
riêng). Đặc biệt, ngày 12 tháng 01 năm 2020, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tổ
chức khai trương Trung tâm điều hành điện tử của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
2.1.6. Về hoạt động quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo
Từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, các hoạt động
quốc tế của các tôn giáo được mở ra trên nhiều tuyến, nhất là các quan hệ về
phương diện tổ chức giữa tổ chức tôn giáo ở Việt Nam với các tổ chức tôn giáo
thế giới, như Công giáo, Tin lành, Hồi giáo… Ngoài các hoạt động quốc tế bình
thường mang tính tổ chức hoặc giao lưu với các tổ chức tôn giáo quốc tế, các tổ
chức tôn giáo ở Việt Nam tham gia rất tích cực các hội nghị, các diễn đàn tôn
giáo khu vực và quốc tế như: Đối thoại liên tín ngưỡng Á - Âu (ASEM); hợp tác
liên tín ngưỡng giữa các nước của Phong trào Không liên kết; đối thoại nhân
quyền Việt Nam - Mỹ, Việt Nam - EU, Việt Nam - Úc… Theo thống kê của Ban
19
Tôn giáo Chính phủ, trong thời gian từ năm 2005 đến năm 2019, có 505 đoàn
khách tôn giáo nước ngoài vào Việt Nam hoạt động tôn giáo; 1.538 đoàn thuộc
tổ chức, cá nhân tôn giáo ở Việt Nam tham gia hoạt động quốc tế ở nước ngoài.
Quan hệ quốc tế của các tôn giáo ở Việt Nam một mặt đáp ứng nhu cầu
của các mối quan hệ, hoặc về tổ chức, hoặc đồng đạo, hoặc chia sẻ trách nhiệm
trước những vấn đề “thời sự” của thế giới như chiến tranh, xung đột tôn giáo,
sắc tộc, môi trường, biến đổi khí hậu… Mặt khác, quan hệ quốc tế của các tôn
giáo là kênh ngoại giao nhân dân góp phần làm cho thế giới hiểu biết thêm về
Việt Nam, về chuyển biến mọi mặt đời sống xã hội, trong đó có đời sống tôn
giáo ở Việt Nam.
2.2. Các tôn giáo ở Việt Nam hoạt động ngày càng ổn định, tuân thủ
pháp luật; xu hướng gắn bó, đồng hành cùng dân tộc là chủ yếu
Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo và nhiều tổ chức tôn giáo. Hầu hết
các tổ chức tôn giáo hợp pháp ở Việt Nam đều xây dựng đường hướng hoạt
động tiến bộ, tuân thủ pháp luật và gắn bó, đồng hành với dân tộc như: Giáo hội
Phật giáo Việt Nam từ khi thành lập năm 1981 đến nayluôn xác định đường
hướng hoạt động là “Đạo pháp, Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”;Giáo hội Công
giáo Việt Nam xác định đường hướng hành đạo qua Thư chung nổi tiếng năm
1980: “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc”; các Hội thánh Cao Đài được công
nhận tư cách pháp nhân đều xác định đường hướng “Nước vinh, Đạo sáng”;
Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo ngay từ khi được công nhận Ban Đại diện năm
1999 và sau đó là Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo (năm 2004) đã xác định “Vì Đạo
pháp, vì Dân tộc”; các Hội thánh Tin lành khi được công nhận đều xác định
“Sống Phúc âm, Phụng sự Thiên chúa, Phục vụ Tổ quốc và Dân tộc” hoặc “Sống
theo lời Chúa, phục vụ tha nhân, phục vụ Tổ quốc”, hoặc “Trung tín thờ phượng
Đức Chúa Trời ba ngôi theo đúng mẫu mực Kinh Thánh và trung thành với Tổ
quốc Việt Nam”; Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa với đường hướng hành đạo là
“Hành Tứ Ân - sống Hiếu nghĩa - vì đại đoàn kết toàn dân tộc”; Tịnh độ Cư sĩ
Phật hội Việt Nam với đường hướng “Tu học, hành thiện, ích nước, lợi dân”;
Ban đại diện Cộng đồng Hồi giáo TP. Hồ Chí Minh là “Sống tốt đạo, đẹp đời,
phát huy truyền thống Hồi giáo - đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, tham gia
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”5. Như vậy, nết nổi bật
của đường hướng hoạt động của các tôn giáo ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới,
5 Ban Tôn giáo Chính phủ (2015) Hiến chương các tổ chức Tin lành ở Việt Nam, Tài liệu lưu trữ, Hà Nội, tr.32.
20
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế được thể hiện trên ba khía cạnh: hoạt động tôn
giáo thuần túy theo đúng giáo lý, giáo luật, lễ nghi truyền thống; gắn bó với dân
tộc, đồng hành cùng đất nước; tuân thủ quy định của pháp luật và chính sách của
Nhà nước.
Đường hướng hoạt động tiến bộ của các tôn giáo ở Việt Nam là sự phản
ánh kết hợp hài hòa giữa tôn giáo và xã hội, sự tương đồng giữa tôn giáo và cách
mạng. Việc hình thành đường hướng tiến bộ của các tôn giáo ở Việt Nam còn
dựa trên truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc của người Việt Nam. Đây
chính là những nét đặc trưng nổi bật của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam; thể
hiện sự nỗ lực của chức sắc, tín đồ các tôn giáo. Tất cả là để hướng đến mục
đích chung đã được xác định “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
và văn minh”. Sau khi xác định đường hướng hoạt động, các tổ chức tôn giáo
đều động viên chức sắc, tín đồ nỗ lực hoạt động và trên thực tế đã thực hiện tốt
các mặt về tôn giáo và xã hội, đóng góp tích cực và hiệu quả vào công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong thời kỳ đổi mới của đất nước.
Không chỉ xác định đường hướng hoạt động như đã nói trên, các tổ chức
tôn giáo ở Việt Nam còn cử người trực tiếp tham gia vào các cơ quan dân cử và
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội để góp phần đưa đường hướng đã được
xác định vào đời sống tôn giáo và xã hội. Trong mỗi khóa Quốc hội từ khóa I
đến khóa XIV đều có chức sắc, chức việc, nhà tu hành của các tôn giáo (như
Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo) tham gia đại biểu;
nhiều vị đã giữ những trọng trách, chức vụ quan trọng của Quốc hội, góp phần
thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Bên cạnh đó, các tôn giáo ở Việt Nam còn tích cực tham gia thực hiện chủ
trương xã hội hóa trong các lĩnh vực y tế, giáo dục dạy nghề, tự thiện nhân đạo,
bảo trợ xã hội… góp phần hỗ trợ Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề xã
hội trong điều kiện mới hiện nay. Đặc biệt, từ đầu năm 2020 đến nay, trước diễn
biến phức tạp của tình hình Covid-19, Lãnh đạo các tổ chức tôn giáo đã chủ
độnghướng dẫn chức sắc, chức việc, tín đồ thực hiện nghiêm các biện pháp
phòng, chống dịch Covid-19 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, khuyến cáo
của Bộ Y tế, hướng dẫn của Bộ Nội vụ và quy định của chính quyền các địa
phương; tích cực vận động chức sắc, chức việc và tín đồ tham gia ủng hộ, chung
tay với các cấp chính quyền trong công tác phòng, chống dịch với nhiều hoạt
động ý nghĩa, thiết thực như trao tặng các trang thiết bị, vật tư y tế và thuốc hỗ
21
trợ chocông tác phòng chống dịch; giúp đỡ tiền mặt, lương thực, thực phẩm và
các nhu yếu phẩm thiết yếu cho đồng bào gặp khó khăn do thiên tai, bão lũ, dịch
bệnh với trị giá lên tới hàng nghìn tỷ đồng (không phân biệt có tôn giáo và
không có tôn giáo), góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và chia
sẻ khó khăn với đồng bào.
2.3. Hoạt động tôn giáo trong các vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Về mặt văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo đồng bào các dân tộc thiểu số ở ba
khu vực “Ba Tây” nói trên có những nét riêng độc đáo tạo nên nền văn hóa Việt
Nam rất đa dạng. Hầu hết các dân tộc thiểu số vẫn giữ tín ngưỡng truyền thống,
thờ đa thần với quan niệm vạn vật hữu linh và thờ cũng theo phong tục tập quán
truyền thống. Sau này, theo thời gian, các tôn giáo dần dần thâm nhập vào
những vùng đồng bào dân tộc thiểu số hình thành các cộng đồng tôn giáo. Đặc
biệt, thời gian gần đây, một số tôn giáo, nhất là Tin lành phát triển khá nhanh,
nhất là ở khu vực Tây Bắc và Tây Nguyên. Cụ thể từng cộng đồng dân tộc thiểu
số theo tôn giáo như sau:
Một là, cộng đồng dân tộc Khmer ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long theo
Phật giáo Nam tông. Theo thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Ban
Tôn giáo Chính phủ, tính đến năm 2020, cả nước gần 1,3 triệu tín đồ, hơn 7000
vị sư, sinh hoạt tại 462 ngôi chùa trên địa bàn 15 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, trong đó tập trung chủ yếu ở các địa phương khu vực Tây Nam bộ.
Hai là, cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên theo đạo Công giáo và
đạo Tin lành. Năm 2017, Giáo hội Công giáo Việt Nam thống kê ở khu vực Tây
Nguyên có 49.581 tín đồ người dân tộc thiểu số theo Công giáo. Theo công bố
của Ban Tôn giáo Chính phủ năm 2019, ở 5 tỉnh Tây Nguyên, vùng cao duyên
hải miền Trung và Nam Trường Sơn có 639.990 người dân tộc thiểu số theo đạo
Tin lành (chưa kể 20.100 tín đồ Tin lành là người Kinh), sinh hoạt ở 331 chi hội
và 1.742 điểm nhóm (gấp hơn 12 lần so với trước năm 1975) của hơn 30 tổ
chức, hệ phái Tin lành.
Ba là, cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Bắc (bao gồm các tỉnh miền núi
phía Bắc) theo Công giáo, đạo Tin lành và Phật giáo. Theo thống kê của Ban
Tôn giáo Chính phủ, tính đến năm 2018, tại khu vực các tỉnh miền núi phía Bắc
có 412.945 tín đồ Phật giáo; 479.644 người theo Công giáo; 213.913 người theo
đạo Tin lành (chủ yếu là đồng bào dân tộc Mông, tiếp theo là dân tộc Dao và
một số ít dân tộc khác).
22
Ngoài ra, cộng đồng người Chăm theo Hồi giáo và Bà-la-môn. Năm 2017,
người Chăm (Chăm Hồi) là 30.000 người, người Chăm (Chăm Bà-ni) là 50.095
người, người Chăm theo đạo Bà-la-môn (Bà Chăm) là 66.515 người (tổng số
người Chăm ở Việt Nam là 162.000 người ở 24 tỉnh, thành phố).
Cơ bản các tôn giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số hoạt động theo
xu hướng ổn định, tuân thủ pháp luật. Việc một số tôn giáo có xu hướng phát
triển nhanh trong các vùng đồng bào dân tộc thiểu số đặt ra cho các cấp các
ngành cùng một lúc phải thực hiện thật tốt hai chính sách đặc thù là chính sách
dân tộc và chính sách tôn giáo trong một đối tượng quần chúng, cùng một lúc
phải thận trọng giải quyết cả hai vấn đề lớn vốn phức tạp và nhạy cảm là: dân
tộc và tôn giáo.
2.4. Hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện đa dạng ở Việt Nam
Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, ở nước ta hiện nay có
khoảng 83 “hiện tượng tôn giáo mới”, trong đó có 26 “hiện tượng tôn giáo mới”
từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam và 59 “hiện tượng tôn giáo mới” hình
thành từ trong nước với hàng chục ngàn người tin theo.
Phương thức hoạt động của các loại hình này thường xa rời văn hóa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, sinh hoạt lệch chuẩn đạo đức văn hóa; đối lập
với các tôn giáo đã được Nhà nước công nhận; gây ra những xáo trộn trong xã
hội, gây mất an ninh, trật tự, phá vỡ những chuẩn mực đạo đức thông thường;
nhiều trường hợp gây ra tác hại đối với nhân cách, sức khỏe và tính mạng con
người. Một số “hiện tượng tôn giáo mới” tuyên truyền cách thức thực hành tín
ngưỡng mang màu sắc mê tín dị đoan, phi đạo đức, phản văn hóa; lợi dụng tín
ngưỡng, tâm linh để trục lợi thông qua việc thu tiền chữa bệnh, thu phí các
loại… Một số người tin theo các “hiện tượng tôn giáo mới” đã bỏ bê việc làm ăn
kinh tế, gây ảnh hưởng đến sản xuất, thu nhập của gia đình; một số còn chối bỏ
các truyền thống văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục của người Việt… dẫn
đến mâu thuẫn, mất đoàn kết trong gia đình, cộng đồng. Một số “hiện tượng tôn
giáo mới” thông qua việc tán phát “thư ngỏ” có nội dung tuyên truyền về “ngày
tận thế”, “thời mạt pháp”…, đe dọa nếu nhận được thư mà không viết thư hoặc
tuyên truyền cho người khác thì sẽ bị rủi ro, tai nạn, có khi thiệt mạng.
3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM ĐỐI VỚI CÔNG TÁC
THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN VỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
Từ những đặc điểm và tình hình tín ngưỡng, tôn giáo đã phân tích ở trên,
trong công tác thông tin, truyền thông về tôn giáo ở Việt nam cần phải quan tâm
tới một số vấn đề sau đây:
23
3.1. Thống nhất nhận thức về vai trò của tôn giáo và công tác thông
tin, tuyên truyền về tôn giáo và xây dựng, phát triển đất nước
Nhìn nhận được vai trò của tôn giáo trong phát triển đất nước, ngay từ sau
khi đất nước được giải phóng, trong suốt quá trình lãnh đạo, Ðảng và Nhà nước
ta luôn khẳng định tôn giáo và công tác tôn giáo có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp cách mạng của đất nước; thực hiện tốt chính sách tôn giáo, phát huy
truyền thống và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết tôn giáo
là một đảm bảo quan trọng cho thắng lợi sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta.
Thời gian qua, chính sách tôn giáo được Ðảng và Nhà nước hết sức quan
tâm, trong đó tập trung vào các nội dung: Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng của nhân dân; bình đẳng giữa các tôn giáo và bình đẳng trước pháp luật;
đoàn kết tôn giáo gắn với đoàn kết dân tộc; phát huy giá trị đạo đức, nhân văn,
tích cực của các tôn giáo. Ðặc biệt, Văn kiện Ðại hội XIII của Ðảng đưa ra quan
điểm mới, đó là cần tập trung phát huy các nguồn lực của tôn giáo; chống lợi
dụng tôn giáo để chia rẽ đoàn kết tôn giáo, cũng như phá hoại sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Công tác thông tin, truyền thông về tôn giáo là một “kênh” quan trọng để
tuyên truyền các chủ trương, chính sách, pháp luật của Ðảng, Nhà nước về tôn
giáo đến với cán bộ và nhân dân, nhất là với các chức sắc, tín đồ tôn giáo; tuyên
truyền về các giá trị tốt đẹp, đóng góp của tôn giáo; sự tham gia của tôn giáo với
các vấn đề của đời sống xã hội. Đồng thời, công tác thông tin, truyền thông về
tôn giáo cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phòng, chống việc lợi dụng tôn
giáo để hoạt động trái pháp luật, kích động chia rẽ nhân dân, dân tộc, làm mất an
ninh trật tự và an ninh quốc gia.
3.2. Xác định rõ mục tiêu, yêu cầu của công tác thông tin, tuyên
truyền về tôn giáo
Để công tác thông tin, tuyên truyền về tôn giáo đạt hiệu quả, cần phải xác
định rõ mục tiêu, yêu cầu của công tác thông tin, tuyên truyền về tôn giáo.
Mục tiêu chung của công tác thông tin, truyền thông về tôn giáo là đẩy
mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về tôn giáo và truyền thống lịch sử, bản
sắc văn hóa dân tộc, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, những giá trị của tôn giáo đối với đời
24
sống xã hội, góp phần phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn
kết tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mục tiêu cụ thể là: xây dựng nhận thức đúng đắn của nhân dân về tín
ngưỡng, tôn giáo và phát huy những giá trị của tín ngưỡng, tôn giáo trong đời
sống xã hội; góp phần gìn giữ, phát huy các giá trị truyền thống lịch sử, văn hóa
của dân tộc Việt Nam, tăng cường đại đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc trong
thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; đấu tranh
chống các biểu hiện lệch lạc, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo gây ảnh hưởng xấu
đến trật tự an toàn xã hội và đời sống nhân dân; thông qua công tác tuyên tuyền,
thúc đẩy công tác thông tin đối ngoại, quảng bá hình ảnh của Việt Nam đến
cộng đồng thế giới.
Công tác thông tin, tuyên truyền về tôn giáo phải đảm bảo hiệu quả, đáp
ứng kịp thời nhu cầu thông tin của công chúng; hình thức thông tin đa dạng, phù
hợp với đối tượng tiếp nhận; đảm bảo tuyên truyền có trọng tâm, trọng điểm; nội
dung tuyên truyền thiết thực, hiệu quả, đúng đối tượng, không phô trương hình
thức; quan tâm nêu bật những tấm gương người tốt việc tốt gắn với tiếp tục thực
hiện cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh; tuyên truyền những giá trị của tín ngưỡng, tôn giáo trong đời sống xã hội;
đấu tranh với các biểu hiện lệch lạc, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo gây ảnh
hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội và đời sống nhân dân.
3.4. Đa dạng hóa các hình thức thông tin, tuyên truyền và luôn luôn
đổi mới, sáng tạo trong thông tin, tuyên truyền về tôn giáo
Hiểu rõ được tầm quan trọng và vai trò của tôn giáo trong việc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước đã luôn nỗ lực, cố gắng thực hiện nhiều
chương trình, đề án quan trọng để cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của đồng
bào các tôn giáo. Nhằm nâng cao nhận thức của đồng bào về các chương trình,
đề án này, công tác truyền thông về vấn đề tôn giáo cũng được đẩy mạnh trong
nhiều năm qua. Nhờ đó, các cộng đồng tôn giáo về cơ bản đã nắm được về
chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta và thực
tế tình hình cuộc sống lao động, sản xuất, sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện tại.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên công tác thông tin, tuyên
truyền về tôn giáo vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Công tác thông tin, tuyên truyền
chưa thực sự chủ động, sáng tạo; hình thức thông tin, tuyên truyền chủ yếu là
25
theo cách cổ điển qua các hội nghị, hội thảo; chưa phát huy sự sáng tạo của các
loại hình truyền thông, nhất là chưa tận dụng được lợi thế và truyền thông trên
mạng xã hội đang phát triển mạnh mẽ hiện nay. Do vậy, cần thiết phải chủ động,
sáng tạo trong cách thông tin, tuyên truyền về tôn giáo để độ phủ sóng tới cộng
đồng hiệu quả và sâu rộng hơn.
Cần tập trung thực hiện thông tin, tuyên truyền trên báo chí, xuất bản
phẩm, thông tin điện tử, mạng xã hội và các phương tiện truyền thông khác (bao
gồm các sản phẩm thông tin, xuất bản phẩm phục vụ tín đồ, chức sắc, chức việc,
nhà tu hành các tổ chức tôn giáo); Tổ chức các hoạt động tìm hiểu về giá trị của
tôn giáo trong xã hội thông qua hội thảo, hội thi, phổ biến, tư vấn pháp luật;
Tuyên truyền thông qua các hoạt động đối ngoại, hoạt động của các cơ sở giáo
dục - đào tạo, hoạt động văn hóa - nghệ thuật, du lịch, hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức tôn giáo và các tổ chức liên quan khác.
Hiện nay, Việt Nam có gần 100 triệu dân, 130 triệu thuê bao điện thoại,
65 triệu người dùng mạng xã hội, đây có thể được coi là lợi thế trong cách mạng
công nghiệp 4.0. Để tận dụng được lợi thế này, bản thân người làm công tác
thông tin, truyền thông về tôn giáo phải được trang bị đầy đủ kiến thức, hiểu biết
cơ bản về tôn giáo, tránh sai sót, tạo cớ cho các thế lực thù địch lợi dụng. Chủ
động tìm hiểu, nắm bắt tình hình tâm tư tình cảm, bức xúc của nhân dân về các
vấn đề tôn giáo. Phát hiện kịp thời các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch trên không gian mạng; tăng cường tuyên truyền đấu tranh phản bác các luận
điệu sai trái, xuyên tạc của thế lực thù địch, phản động; phát huy vai trò của báo
chí về thông tin chính thống, định hướng dư luận xã hội. Các cơ quan báo chí
truyền thống cần thúc đẩy chuyển đổi số, tạo điều kiện để phóng viên, biên tập
viên có điều kiện nâng cao kĩ năng sử dụng các kênh truyền thông, mạng xã hội
một cách hiệu quả nhằm lan tỏa thông tin tích cực, chính thống nhằm pha loãng
các luồng thông tin sai trái, sai sự thật.
KẾT LUẬN
Việt Nam là một quốc gia có nhiều loại hình tôn giáo và nhiều người theo
tôn giáo, do đó, trong quá trình vận động cách mạng và quản lý đất nước, điều
hành xã hội, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến tôn giáo
và công tác tôn giáo và chính sách tôn giáo trong từng giai đoạn lịch sử. Chính
sách đối với tôn giáo của Việt Nam trên căn bản tôn trọng và bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
26
Đời sống tôn giáo ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay có sự thay đổi căn
bản theo chiều hướng ngày càng tiến bộ và rộng mở. Những chuyển biến trong
đời sống tôn giáo làm sáng tỏ chủ trương, chính sách đối với tôn giáo của Đảng
và Nhà nước Việt Nam, làm cho quần chúng tín đồ, chức sắc thêm tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, cùng sự đổi mới của đất nước. Chức sắc,
chức việc, tín đồ các tôn giáo ngày càng thể hiện sự ủng hộ và tham gia tích cực
vào công cuộc đổi mới, phát triển đất nước. Đồng thời, những chuyển biến trong
đời sống tôn giáo ở Việt Nam thời gian qua cũng đã góp phần giới thiệu với bạn
bè và cộng đồng quốc tế về những hình ảnh đất nước Việt Nam đổi mới, hòa
bình, ổn định và phát triển, từ đó nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế. Những chuyển biến tích cực trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam cũng là bằng
chứng để đấu tranh, phê phán những ý kiến thiếu thiện chí, phản bác các luận
điệu xuyên tạc tình hình tôn giáo và chính sách tôn giáo của Việt Nam./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (2011), Lý luận
về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
- Đỗ Quang Hưng (2005), Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam -
Lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
- Nguyễn Thanh Xuân (2020), Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt
Nam, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Phân tích những chuyển biến tích cực của tình hình tôn giáo ở Việt
Nam hiện nay?
2. Vai trò, ảnh hưởng của tôn giáo trong đời sống xã hội?
3. Những giá trị tôn giáo cần phát huy trong đời sống văn hóa xã hội?
27
Chuyên đề 2
KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM
1.1. Quá trình du nhập, lịch sử hình thành và phát triển của Phật giáo
ở Việt Nam
Đạo Phật ra đời khoảng thế kỷ thứ VI trước Công nguyên trên vùng đất
Ấn Độ cổ (nay thuộc Ấn Độ và Nê pan). Người sáng lập ra đạo Phật là Thái tử
Tất Đạt Đa, thuộc dòng họ Thích Ca (Sakyà) con vua Tịnh Phạn Vương Đầu Đà
Na (Sudhodana) - (một vị vua thuộc dòng họ Thích Ca trị vì nước Ca-tỳ-la-vệ
(Kapilavastu) xứ Trung Ấn Độ) và Hoàng hậu Ma-da (Maya). Sau khi tu hành
giác ngộ, thành đạo Bồ Đề, được tôn là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trải qua
hơn 2.500 năm tồn tại và phát triển, hiện nay đạo Phật đã trở thành một tôn giáo
có số lượng tín đồ đông đảo và có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn hoá, tín
ngưỡng của nhiều dân tộc trên thế giới.
1.1.1. Quá trình du nhập
Về địa lý, Việt Nam nằm ở giữa khu vực nối liền Ấn Độ Dương và Thái
Bình Dương nên chịu ảnh hưởng của hai nền văn minh lớn của Châu Á là Ấn
Độ và Trung Quốc, Việt Nam đã tiếp nhận 2 nền văn hoá này.
Căn cứ vào nhiều tài liệu đã được lưu hành thì Phật giáo được truyền vào
Việt Nam rất sớm, từ những năm đầu công nguyên. Lúc đầu Phật giáo được
truyền bá vào Việt Nam trực tiếp từ Ấn Độ sang bằng đường biển do các thương
nhân người Ấn Độ đến Việt Nam. Thời kỳ này gắn với tên tuổi của các danh
tăng nổi tiếng được ghi lại trong lịch sử Phật giáo Việt Nam như Ma-ha-kỳ-vực;
Khâu Đà La,…(từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ III SCN).
Cùng với đó, Việt Nam xưa trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc nên chịu
ảnh hưởng văn hoá, tín ngưỡng của người Trung Quốc. Nhiều nhà truyền giáo
Trung Quốc được phái hoặc tự nguyện sang đất Giao Châu để truyền bá đạo
Phật. Cũng có một số sư do lánh nạn rồi trở thành nhà truyền giáo tại Việt Nam.
Đến thế kỷ thứ V thì Phật giáo đã xuất hiện ở nhiều nơi trên đất nước Việt Nam.
1.1.2. Quá trình phát triển
1.1.2.1. Phật giáo từ khi du nhập đến thế kỷ X
Từ đầu Công nguyên đến thế kỷ III, Phật giáo truyền vào nước ta chủ yếu
trực tiếp từ Ấn Độ. Từ thế kỷ thứ IV trở đi, các hoạt động truyền bá của các tăng
28
sỹ Ấn Độ giảm dần và thay vào đó là các hoạt động truyền giáo đến từ Trung
Quốc, với các phái thiền, cụ thể như:
- Phái Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi: Khoản năm 580 một nhà sư Ấn Độ tên
Tỳ Ni Đa Lưu Chi - là Tổ thứ ba của phái Thiền Trung Quốc đã vào Việt Nam
tu tại chùa Pháp Vân (tỉnh Bắc Ninh) và trở thành vị Tổ sư của phái Thiền này
ở Việt Nam.
- Phái Thiền Vô Ngôn Thông: Năm 820, phái Thiền Vô Ngôn Thông
truyền vào Việt Nam (Vô Ngôn Thông họ Trịnh - là người Quảng Châu, Trung
Quốc, tu tại chùa Song Lâm, Triết Giang). Năm 820, ông sang tu tại chùa Trấn
Quốc (Hà Nội) và trở thành vị tổ sư của phái thiền này ở Việt Nam.
Từ khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam đến thế kỷ thứ X, mặc dù trong
hoàn cảnh đất nước bị xâm lược và đô hộ nhưng đạo Phật đã tạo ra được những
ảnh hưởng trong nhân dân và có những sự chuẩn bị cho giai đoạn phát triển mới
khi đất nước độc lập, tự chủ.
1.1.2.2. Phật giáo thời Đinh - Tiền Lê (968 - 1009)
Trong buổi đầu xây dựng quốc gia phong kiến độc lập, các thiền sư đồng thời
cũng là những nhà văn hoá, chính trị, quân sự, ngoại giao xuất sắc có vai trò quan
trọng trong công cuộc hộ quốc an dân. Phật giáo đóng vai trò dẫn dắt, định hướng
văn hoá, trí tuệ của dân tộc để đối lập, đối xứng với nền Nho học Trung Hoa.
Thời nhà Đinh, các thiền sư đã thể hiện rõ việc hộ trì công việc triều
chính. Thiền sư Ngô Chân Lưu, một nhà sư đã có nhiều đóng góp quan trọng
trong công cuộc cứu quốc và kiến quốc đã được vua Đinh Tiên Hoàng phong
chức "Khuông Việt Đại Sư" (năm 971).
Khi nhà Đinh mất, đất nước ta đứng trước nguy cơ xâm lược của giặc Tống
phương Bắc. Nhà Tiền Lê do Vua Lê Đại Hành đứng đầu thường mời các vị
Thiền sư uyên bác vào triều để lo bàn việc nước. Khi nhà Tống cho sứ thần sang
thăm dò thực lực nhằm chuẩn bị cho cuộc xâm lược Việt Nam, tiếp sứ thần nhà
Tống, với tài kinh bang tế thế các thiền sư đã làm cho sứ Tống phải khâm phục.
1.1.2.3. Phật giáo Việt Nam thời nhà Lý
Cuối thời Tiền Lê, trước họa xâm lăng, Thiền sư Vạn Hạnh - một bậc cao
tăng uyên bác đã đưa Lý Công Uẩn, xuất thân từ nhà sư trở thành một vị tướng
tài đức vẹn toàn lên giúp dân, giúp nước, Thiền sư Vạn Hạnh được coi là một
"kiến trúc sư" xây dựng nên sự thịnh vượng của Vương triều Lý. Thiền sư đã có
công rất lớn trong việc tham vấn cho Vua Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư (Ninh
29
Bình) ra vùng đất tiếp giáp với ngã ba sông Hồng để lập nên kinh thành Thăng
Long (Hà Nội ngày nay), một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá lớn của cả
nước trải qua hàng nghìn năm cho đến nay. Thiền sư còn giúp Vua Lý Thái Tổ
xây dựng đất nước phát triển rực rỡ. Sự xuất hiện của Lý Công Uẩn đã tạo nên
một hiện tượng độc đáo trong lịch sử Việt Nam, nhà sư trở thành nhà vua anh
minh kiệt xuất.
Hơn hai thế kỷ của triều đại nhà Lý, đạo Phật đã đóng vai trò quan trọng
trong các lĩnh vực giáo dục, đạo đức, phát triển văn học, hoạt động chính trị,
ngoại giao. Đạo Phật đã cho thấy là một tôn giáo không hề yếm thế, nhu nhược
mà là một tôn giáo đã có những đóng góp không thể phủ nhận trong công cuộc
dựng nước, an dân, xây dựng nên một quốc gia thịnh vượng.
1.1.2.4. Phật giáo Việt Nam thời nhà Trần
Do ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng và văn hoá Phật giáo nên các Vua
Nhà Trần hầu hết đều nhân từ, độ lượng. Phật giáo ở giai đoạn này tuy không
trực tiếp tham gia vào các công việc triều chính như các triều đại trước nhưng lại
có đóng góp rất lớn về các mặt tư tưởng - văn hoá - xã hội. Các thiền sư, hoàng
đế thời Trần đã lập nên Thiền phái Trúc Lâm - một hệ tư tưởng, một phái Thiền
đầu tiên và duy nhất ở Việt Nam cho đến ngày nay. Tiêu biểu là Vua Trần Nhân
Tông sau khi rời ngai vàng đã khai sáng phái Thiền Trúc lâm Yên Tử. Sự xuất
hiện của Trần Nhân Tông để trở thành Trúc Lâm Đầu Đà hay Phật Hoàng Trần
Nhân Tông một lần nữa chứng tỏ sự độc đáo trong trong lịch sử Việt Nam nói
chung và lịch sử Phật giáo Việt Nam nói riêng, Vua trở thành Phật.
1.1.2.5. Phật giáo từ thời Lê sơ đến nhà Nguyễn
Từ triều Lê Sơ trở đi, chế độ phong kiến Việt Nam đã có những phát triển
mới, lấy Nho giáo làm chỗ dựa tư tưởng chính trị và đạo đức. Phật giáo từ chỗ
cực thịnh đã mất dần vị thế, sau này, đôi lúc khởi sắc nhưng không còn vai trò
như trước nữa. Tuy nhiên với truyền thống yêu nước gắn bó với dân tộc, tôn
giáo, tín ngưỡng, do đó vẫn giữ được gốc rễ sâu bền trong nhân dân. Đồng thời,
với thái độ khoan dung, Phật giáo đã làm cho tư tưởng Tam giáo (Phật, Lão,
Nho) vốn có từ trước mang sắc thái mới. Các quan niệm Tam giáo đồng nguyên,
tức là cùng một nguồn gốc phát sinh, Tam giáo đồng tông, tức là cùng một tổ
sinh ra, xuất hiện trong thời kỳ này. Phật giáo từ thời Lê sơ đến nhà Nguyễn tiếp
trải qua nhiều thăng trầm cho đến những năm hai mươi của thế kỷ XX mới được
khởi sắc bởi phong trào chấn hưng sổi nổi, sâu rộng và toàn diện.
30
Có thể nói, đạo Phật là nguồn sức mạnh tinh thần quan trọng tạo nên
những chiến công hiển hách "Phạt Tống, bình Chiêm”, “sát Thát” của thời đại
Lý - Trần, góp phần tạo nên thần thái, bản sắc văn hoá Thăng Long - văn minh
Đại Việt huy hoàng.
1.1.2.6. Phật giáo Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược
Khi đất nước bị xâm lăng, nhiều người con Phật đã rời bỏ thiền môn, tòng
quân cứu nước. Bao lớp nhà sư “cởi áo cà sa khoác chiến bào” đã trở thành hình
ảnh hùng tráng của Phật giáo Việt Nam gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Nhiều
chùa trở thành cơ sở cách mạng nuôi dấu cán bộ. Nhiều vị sư, cư sĩ, phật tử đã
trở thành cốt cán của các tổ chức kháng chiến trên khắp mọi miền đất nước,
không tiếc thân mình để đấu tranh bảo vệ độc lập của dân tộc. Sự đóng góp của
Phật giáo Việt Nam đã được lịch sử ghi nhận.
- Phật giáo tham gia kháng chiến chống Pháp:
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Phật giáo đã có những
đóng góp quan trọng để đấu tranh, bảo vệ Tổ quốc. Các tổ chức “Tăng già cứu
quốc”, “Đoàn Phật giáo cứu quốc”, “Bộ đội Tăng già”, “Hội Phật giáo cứu
quốc” đã được thành lập trong thời kỳ này để quy tụ, vận động tăng ni, phật tử
tham gia vào cuộc kháng chiến của toàn dân tộc. Nhiều tăng, ni, phật tử đã hăng
hái lên đường tòng quân đánh giặc, cứu nước. Đặc biệt, ngày 27/02/1947 tại
chùa Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, 27 nhà sư phát nguyện “cởi áo cà
sa ra trận”, trở thành những chiến sĩ Vệ quốc đoàn kiên trung, sẵn sàng hy sinh
cho Tổ quốc. Nhiều cơ sở thờ tự của Phật giáo trên khắp mọi miền đất nước đã
trở thành những căn cứ che chở, nuôi giấu cán bộ cách mạng, như: chùa Quảng
Bá, chùa Linh Quang, chùa Ngọc Hồi, chùa Tự Khánh, chùa Thanh Trì, chùa
Sùng Giáo … ở Hà Nội; chùa Trại Sơn, chùa Trúc Động, chùa Vũ Lao… ở Hải
Phòng; chùa Ninh Cường, chùa Cổ Lễ, chùa Vọng Cung… ở Nam Định; chùa
Hoa Sơn, chùa Bích Động… ở Ninh Bình… ; Hưởng ứng lời kêu gọi của Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện “Tiêu thổ kháng chiến”, Hội Phật
giáo đã cho phá hủy nhà in Đuốc Tuệ và nhiều cơ sở vật chất khác của Phật giáo
để ủng hộ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Phật giáo tham gia đấu tranh giải phóng miền Nam:
Những năm 1954 - 1975 ở miền Nam, nhất là ở các đô thị lớn luôn có
phong trào đấu tranh sôi động của Phật giáo chống đế quốc Mỹ xâm lược với
các khẩu hiệu “Nhân dân đòi cơm áo, Phật giáo đòi hòa bình”... Vào đầu
những năm 1960, phong trào đấu tranh sôi nổi, quyết liệt của Phật giáo đã góp
phần quan trọng vào sự sụp đổ của chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Thời kỳ này
31
đã xuất hiện nhiều tấm gương sáng của các tăng ni, Phật tử đã dũng cảm tự
thiêu để đấu tranh chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn, bảo vệ “Đạo pháp và
Dân tộc”, điển hình là tấm gương của Hoà thượng Thích Quảng Đức, Đại đức
Thích Nguyên Hương, Ni cô Thích Nữ Diệu Quang, Phật tử Quách Thị Trang,
phật tử Nhất Chi Mai…Chính những nỗ lực cũng như đóng góp của đông đảo
tăng ni, Phật tử thời kỳ này đã duy trì được ảnh hưởng lớn của Phật giáo đối
với sự nghiệp đấu tranh, giải phóng dân tộc.
Đánh giá về công lao của Phật giáo đối với dân tộc Việt Nam, Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã nói trong buổi tiếp các đại biểu của Hội
nghị Thống nhất Phật giáo Việt Nam tại Phủ Chủ tịch ngày 08/11/1981: “Trong
quá khứ, Phật giáo Việt Nam đã gắn chặt với dân tộc trong sự nghiệp dựng
nước và giữ nước. Lịch sử đã xác nhận Phật giáo Việt Nam là một tôn giáo mà
từ bản chất, bản sắc từ trong thực tiễn hoạt động của mình đã biểu hiện truyền
thống yêu nước, gắn bó chặt chẽ với dân tộc, với Tổ quốc”.
- Phật giáo tham gia xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc:
Đạo Phật với tinh thần “Từ, Bi, Hỷ, Xả” đã giáo dục con người biết sống
vị tha, hoà hợp, loại bỏ oán thù, coi trọng bình đẳng và tiến bộ xã hội. Giáo lý
của Phật giáo rất phù hợp với đạo đức xã hội, góp phần xây dựng con người mới
xã hội chủ nghĩa.
Phật giáo chủ trương “Duy tuệ thị nghiệp” - lấy trí tuệ làm sự nghiệp nên đạo Phật giáo dục Phật tử chăm lo học tập, nâng cao trí tuệ để đóng góp công sức của mình vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tăng Ni, tín đồ Phật tử tích cực tham gia lao động sản xuất, đóng góp sức người, sức của để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1.1.3. Các cuộc vận động thống nhất Phật giáo và việc thành lập Giáo
hội Phật giáo Việt Nam
Khi thực dân Pháp đem quân xâm lược nước ta, cũng là lúc Pháp mang theo văn hoá, tín ngưỡng tôn giáo phương Tây truyền bá vào Việt Nam. Ở trong nước lúc này Phật giáo không được sự ủng hộ, cổ suý của triều đình nhà Nguyễn như các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần... Bản thân Phật giáo lúc này nặng về tín ngưỡng hơn tư duy. Bên cạnh đó thời kỳ này có sự xuất hiện của nhiều tôn giáo mới (chủ yếu ở Nam bộ). Từ bối cảnh đó Phật giáo buộc phải nhìn nhận, chỉnh đốn lại mình bằng cách mở trường Phật học, dịch kinh điển sang chữ quốc ngữ cho Tăng Ni, Phật tử dễ học, dễ hiểu, xây dựng các cơ sở xã hội, xuất bản các tờ tạp chí với mục đích giúp đỡ nhau cùng học Phật và hoằng pháp, nêu cao tinh thần dân tộc. Chương trình học văn hoá cũng được đưa vào giáo dục cho tăng ni.
32
Phật giáo Việt Nam ý thức được, muốn có sức mạnh thật sự phải cùng
nhau đoàn kết, cùng đứng chung trong một tổ chức để chấn hưng đạo pháp, bảo
vệ văn hoá truyền thống, góp phần đấu tranh giải phóng dân tộc. Đó là lý do để
Phật giáo tiến hành các cuộc vận động thống nhất Phật giáo trong cả nước.
1.1.3.1. Cuộc vận động thống nhất Phật giáo lần thứ nhất (năm 1951)
Cuộc vận động thống nhất đầu tiên của Phật giáo vào năm 1951, tập hợp
được 6 đoàn thể Phật giáo ở cả 3 miền. Nhưng sự thống nhất này chưa được trọn
vẹn, vì: Một là, Phật giáo thời điểm đó không phải chỉ có 6 đoàn thể; Hai là, thành
phần chỉ gồm tăng, ni, phật tử ở các vùng bị tạm chiếm; Ba là, với chính sách chia
để trị, thực dân Pháp nhận thấy lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam rất mãnh
liệt, trong đó có rất đông là tín đồ phật tử và do đó thực dân Pháp không thể để
Phật tử 3 miền có điều kiện đoàn kết chặt chẽ để phục vụ đạo pháp và dân tộc.
1.1.3.2. Cuộc vận động thành lập Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam ở
các tỉnh, thành phố phía Bắc
Cuộc vận động này bắt đầu từ tháng 9/1957 cho đến tháng 3/1958, Phật
giáo các tỉnh phía Bắc tổ chức Đại hội đại biểu với tổng số trên 200 đại biểu đại
diện cho Phật giáo Bắc tông, Nam tông, Hoa tông và Phật giáo Khmer Nam bộ
tham dự. Tổ chức này được thành lập lấy tên là "Hội Phật giáo thống nhất Việt
Nam" đặt trụ sở tại chùa Quán Sứ, 73 phố Quán Sứ, Thành phố Hà Nội do Hoà
thượng Thích Trí Độ làm Hội trưởng.
Hội Phật giáo Việt Nam hoạt động theo phương châm: Hoằng dương Phật
pháp; Lợi lạc quần sinh; Phục vụ Tổ quốc; Bảo vệ hoà bình.
Mục đích: Quy tụ tăng ni, phật tử Việt Nam để góp phần xây dựng và bảo
vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, góp phần đấu tranh giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc.
Song, sự thống nhất này cũng mới chỉ mang ý nghĩa thống nhất Phật giáo
của một miền (miền Bắc). Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam đã hoạt động cho
đến ngày thống nhất Phật giáo Việt Nam, hoà nhập trong tổ chức Phật giáo
chung của cả nước là Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
1.1.3.3. Cuộc vận động thống nhất Phật giáo năm 1964 tại miền Nam
Kể từ sau ngày chính quyền Ngô Đình Diệm triệt hạ cờ Phật giáo trong
ngày Phật đản tại Huế vào tháng 5/1963 và tiếp tục khủng bố, đàn áp Phật giáo,
phong trào đấu tranh của tăng ni, phật tử Huế lan rộng ra thành phong trào đấu
tranh phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm ở các tỉnh miền Nam. Với tư cách là
tổ chức của Phật giáo Việt Nam, Tổng hội Phật giáo Việt Nam đứng ra kêu gọi
Tăng Ni, Phật tử đấu tranh.
33
Đại diện của 11 tổ chức, môn phái (gồm 6 đoàn thể đại diện cho Tăng già
và cư sỹ trong Tổng hội Phật giáo Việt Nam cùng 5 tổ chức giáo phái khác) đã
thành lập ra "Uỷ ban liên phái bảo vệ Phật giáo". Tổ chức này hưởng ứng lời
kêu gọi đấu tranh chống chính quyền Ngô Đình Diệm để bảo vệ Phật giáo.
Cuộc đấu tranh thắng lợi, ngày 31/12/1963 Ngụy quyền cho phép Uỷ ban
liên phái bảo vệ Phật giáo tổ chức Đại hội và đã thành lập ra "Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống nhất" (GHPGVN Thống nhất). Tuy nhiên, tổ chức này vẫn
chưa thật sự thống nhất như mong muốn, vì mới chỉ thống nhất Phật giáo trong
các vùng bị tạm chiếm và cũng chưa quy tụ được tất cả các hệ phái Phật giáo ở
các tỉnh miền Nam.
1.1.3.4. Cuộc vận động thống nhất Phật giáo cả nước, thành lập Giáo hội
Phật giáo Việt Nam
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975) đất nước được
thống nhất, thể theo nguyện vọng các vị cao Tăng và toàn thể tăng ni, phật tử,
đầu năm 1980, các vị Giáo phẩm đại diện cho các tổ chức hệ phái Phật giáo lớn
trên phạm vi cả nước họp tại TP. Hồ Chí Minh để xem xét tình hình Phật giáo cả
nước và thấy rằng: Đất nước hoà bình, thống nhất là thời cơ thuận lợi cho việc
thực hiện nguyện vọng thống nhất Phật giáo từ phong trào chấn hưng Phật giáo
đầu thế kỷ, và đã quyết định thành lập một “Ban Vận động thống nhất Phật
giáo” để xúc tiến cuộc vận động trong phạm vi cả nước. Ban này bao gồm đại
diện của các tổ chức hệ phái: (1) Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam; (2) Giáo
hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất; (3) Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước Thành
phố Hồ Chí Minh; (4) Giáo hội Phật giáo cổ truyền Việt Nam; (5) Giáo hội
Tăng già nguyên thuỷ Việt Nam; (6) Hội đoàn kết sư sãi yêu nước miền Tây
Nam bộ; (7) Giáo phái Khất sĩ Việt Nam; (8) Giáo hội Thiên Thai giáo quán
tông; (9) Hội Phật học Nam Việt.
Sau gần 2 năm vận động, Ban Vận động đã tiếp xúc với đại biểu của các
tổ chức hệ phái Phật giáo Việt Nam để lấy ý kiến và đi đến thống nhất là cần
phải có một tổ chức Phật giáo chung của tăng ni, phật tử trong cả nước.
Từ ngày 4 - 7/11/1981, Đại hội thống nhất Phật giáo đã diễn ra tại chùa
Quán Sứ, Thành phố Hà Nội với sự tham dự của 168 vị Giáo phẩm, tăng ni, cư
sĩ đại diện cho 9 tổ chức, hệ phái nói trên. Đại hội đã thống nhất thành lập một
tổ chức chung của Phật giáo cả nước lấy tên là "Giáo hội Phật giáo Việt Nam"
(GHPGVN). Sự thống nhất Phật giáo Việt Nam đặt trên nguyên tắc: Thống nhất
34
ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức, tuy nhiên, các truyền thống
hệ phái và phương tiện tu hành đúng chính pháp vẫn được duy trì.
Đây là một Đại hội thống nhất Phật giáo thật sự, toàn vẹn và dân chủ.
GHPGVN ra đời là sự nối tiếp, kế thừa 2000 năm Phật giáo Việt Nam.
1.1.4. Các kỳ Đại hội của GHPGVN
GHPGVN ra đời năm 1981 đã đáp ứng được nguyện vọng đoàn kết thống
nhất Phật giáo Việt Nam của toàn thể tăng ni, tín đồ phật tử Phật giáo Việt Nam
và thực hiện sự nghiệp hoằng dương chính pháp, lợi lạc quần sinh. Đồng thời
cũng phù hợp với trào lưu phát triển của xã hội hiện đại - xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Phương châm hoạt động của GHPGVN được Đại hội thống nhất Phật giáo
cả nước xác định và thông qua thành như cương lĩnh hành động của Phật giáo
Việt Nam là: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”. Đến nay, GHPGVN đã
trải qua 8 kỳ Đại hội.
- Nhiệm kỳ I của GHPGVN (1981 - 1987) là thời kỳ xây dựng và củng cố
cơ sở với sự lãnh đạo của 2 Hội đồng: Hội đồng Chứng minh (50 vị) và Hội
đồng Trị sự (49 vị), 6 Ban trực thuộc Hội đồng Trị sự: Ban Tăng sự; Ban Giáo
dục Tăng Ni; Ban Hướng dẫn Cư sỹ Phật tử; Ban Hoằng pháp; Ban Nghi lễ; Ban
Văn hóa; thành lập được 28 Ban Trị sự Phật giáo tỉnh, thành hội.
- Nhiệm kỳ II của GHPGVN (1987-1992) là giai đoạn phát triển các mặt
hoạt động theo chương trình nội dung 6 điểm của Giáo hội trong thời kỳ đổi mới
của xã hội và đất nước, với 37 thành viên trong Hội đồng Chứng minh và 60
thành viên trong Hội đồng Trị sự, bổ sung thêm 2 Ban chuyên môn là Ban Từ
thiện Xã hội, Ban Kinh tế Tài chính nâng tổng số Ban lên 8 Ban trực thuộc Hội
đồng Trị sự, số lượng Ban Trị sự được thành lập lên 33 đơn vị tỉnh, thành hội.
- Nhiệm kỳ III của GHPGVN (1992 - 1997) là giai đoạn tiếp tục phát triển
một cách toàn diện và hoàn chỉnh các mặt hoạt động của Giáo hội với 33 vị
Thành viên Hội đồng Chứng minh và 70 vị trong Hội đồng Trị sự. Giáo hội bổ
sung thêm 01 Ban (ban Phật giáo Quốc tế) và01 (Viện Nghiên cứu Phật học Việt
Nam) Viện trực thuộc Trung ương Giáo hội, nâng tổng số Ban lên thành 9 Ban
và 01 Viện trực thuộc Hội đồng Trị sự. Số lượng Ban Trị sự Phật giáo các tỉnh,
thành phố là 41 đơn vị.
- Nhiệm kỳ IV của GHPGVN (1997 - 2002) là nhiệm kỳ tổng kết những
thành quả của Giáo hội trong nhiệm kỳ cuối cùng của thế kỷ XX để vững bước
tiến sang thế kỷ XXI. Nhiệm kỳ được hoạt động với sự chứng minh của 67 vị
35
trong Hội đồng Chứng minh và 94 vị trong Hội đồng Trị sự. Nhiệm kỳ này Giáo
hội vẫn duy trì 9 Ban, 1 Viện trực thuộc Trung ương Giáo hội như nhiệm kỳ
III.Tính đến hết nhiệm kỳ IV Giáo hội đã thành lập 45 đơn vị tỉnh, thành hội
Phật giáo trong cả nước.
- Nhiệm kỳ V của GHPGVN (2002 - 2007) là nhiệm kỳ GHPGVN củng
cố, sắp xếp tăng cường nhân sự các Ban, Viện một cách đồng bộ để làm việc
hoằng truyền chính pháp, thực hiện các hoạt động xã hội đạt hiệu quả. Nhiệm kỳ
hoạt động với 84 thành viên trong Hội đồng Chứng minh và 95 thành viên trong
Hội đồng Trị sự. Nhiệm kỳ này Giáo hội vẫn duy trì 9 Ban, 1 Viện trực thuộc
Trung ương Giáo hội như nhiệm kỳ III. Tính đến năm 2004 GHPGVN đã có 47
tỉnh, thành phố (trực thuộc Trung ương) có Ban Trị sự Phật giáo; nhiều huyện,
thị xã có Ban Đại diện Phật giáo cấp huyện, và nhiều xã, phường có Đại diện
Phật giáo cấp xã.
- Nhiệm kỳ VI của GHPGVN (2007-2012) là nhiệm kỳ GHPGVN có nhiều
đổi mới trong Giáo hội: Số lượng thành viên Hội đồng Chứng minh tăng từ 84 vị
lên 98 vị; ủy viên Hội đồng Trị sự được tăng cường từ 95 vị lên 147 vị; các Ban,
Viện trực thuộc Giáo hội được củng cố và tăng cường; Đội ngũ tham gia Hội đồng
Trị sự và Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo địa phương được trẻ hóa, là những
người có uy tín, đạo hạnh và trình độ cao. Giáo hội có 10 ban, viện (thêm một Phân
ban Đặc trách Ni giới trong Ban Tăng sự) trực thuộc Hội đồng Trị sự. Tính đến
tháng 6/2009, GHPGVN có 54 Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo cấp tỉnh.
- Nhiệm kỳ VII của GHPGVN (2012 - 2017) là nhiệm kỳ GHPGVN đã
kiện toàn hệ thống tổ chức, gồm 03 cấp hành chính Giáo hội bao gồm cấp Trung
ương, cấp tỉnh, cấp huyện với 89 thành viên Hội đồng Chứng minh, 199 Uỷ viên
Hội đồng Trị sự chính thức và 61 Uỷ viên dự khuyết;13 Ban, Viện Trung ương
(bổ sung thêm 03 Ban gồm Ban Pháp chế, Ban Kiểm soát, Ban Thông tin truyền
thông), 63 đơn vị Phật giáo cấp tỉnh, thành; hàng trăm đơn vị Phật giáo cấp
quận, huyện, thị xã thành phố thuộc tỉnh.
- Nhiệm kỳ VIII của GHPGVN (2017 - 2022) là nhiệm kỳ GHPGVN đặt
mục tiêu “Trí tuệ - Kỷ cương - Hội nhập - Phát triển”, thể hiện quyết tâm của
toàn thể Tăng Ni, Phật tử Việt Nam trong việc xây dựng và phát triển Giáo hội.
Nhiệm kỳ này Giáo hội có 96 thành viên Hội đồng Chứng minh, 224 uỷ viên
Hội đồng Trị sự. Giáo hội vẫn duy trì 13 Ban, Viện trực thuộc Hội đồng trị sự
như nhiệm kỳ VII.
36
1.2. Giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức của Phật giáo
1.2.1. Giáo lý
Giáo lý cơ bản của đạo Phật nằm trong nội dung Tứ Diệu đế (4 chân lý)
và Thuyết duyên khởi
b. Tứ diệu đế:
Tứ diệu đế là giáo lý cơ bản, xuyên suốt trong toàn bộ kinh điển Phật
giáo. Tuỳ vào căn cơ của chúng sinh mà Đức Phật thuyết pháp theo từng mức độ
khác nhau, nhưng tựu trung lại cũng đều bắt nguồn từ pháp môn Tứ đế (Khổ đế -
Tập đế - Diệt đế - Đạo đế), đó là 4 chân lý chân thực, chắc chắn.
- Khổ đế (Duhkka-satya): Trong Tứ diệu đế, đạo Phật chỉ ra đầu tiên là
vấn đề khổ. Theo giáo lý nhà Phật, con người ai cũng gặp phải những điều đau
khổ, chỉ khác là nỗi khổ đau ở mỗi con người không giống nhau.
Nói vậy không có nghĩa là đạo Phật chủ trương cuộc đời chỉ toàn là khổ,
và những người tu Phật là bi quan, yếm thế. Thực tế đạo Phật nhìn nhận cuộc
đời một cách khách quan, không xa lạ với cuộc sống thực tại của chính mình.
Với thái độ lạc quan, giáo lý Phật giáo đã chỉ cho mọi người nhận thức chân
thực sự vật, hiện tượng và chỉ cho ta con đường thoát ly ra khỏi nỗi khổ đó, đạt
đến những điều tốt đẹp.
Phật Thích Ca đã khái quát nỗi khổ của con người ra làm 8 loại, đó là 4
nỗi khổ: Sinh - Lão - Bệnh - Tử. Ngoài ra còn có các nỗi khổ khác như: "ái biệt
ly khổ" (những người thân yêu phải xa nhau); "Oán tăng hội khổ" (những người
có oán thù thường hay gặp gỡ); "Cầu bất đắc khổ" (điều mong cầu không toại
nguyện) và "Ngũ ấm xí thịnh khổ" (bị 5 yếu tố: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức nung
nấu khổ sở). Đức Phật đã nhận ra cuộc đời là khổ nên Ngài đã nói ra Khổ đế.
- Tập đế (Samudaya): Đức Phật quan niệm, thế giới vạn hữu đều y vào sự
quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả mà sinh hay mà diệt. Thấy rõ mọi nỗi đau
khổ rồi thì phải làm rõ nguyên nhân tạo thành sự khổ (khi tìm ra nguyên nhân
rồi từ đó mới có cách để khắc phục), đó là Tập đế. Những nguyên nhân nỗi khổ
đều ở chính ngay trong con người của mỗi chúng ta. Tựu chung lại có 3 vấn đề
lớn, đó là: Tham - Sân - Si, Phật giáo gọi là “Tam độc”.
- Diệt đế (Nirodha Dukkha): Diệt đế là giải thoát luận và cũng là lý tưởng
luận của Phật giáo.
Để diệt trừ khổ đau, đức Phật đã khái quát bằng 3 vấn đề: Giới - Định -
Tuệ, Phật giáo gọi là “Tam học”. Theo quan niệm trên, Phật giáo lấy trí tuệ soi
37
sáng để giải quyết mọi vấn đề mới tốt đẹp, tức là lấy “Tam học” đối trị “Tam
độc” để diệt trừ cái tham, cái ác.
- Đạo đế (Nirodha Gamadukkha): Đạo đế là con đường, là phương tiện
mà Đức Phật hướng dẫn cho chúng sinh đạt đến được quả vị, giải thoát khỏi
luân hồi sinh tử hay nói cách khác là phương pháp tu hành để diệt khổ, được vui.
Đây là pháp môn thực tiễn để tu hành, thuộc Đạo đức luận của Phật giáo.
Bát chính đạo gồm có:
+ Chính kiến (Samyag-drsti): Nhìn nhận sự việc một cách khách quan,
công bằng, tin vào sự giải thoát và nhân quả.
+ Chính tư duy (Samyag - samkalpa): Suy xét một sự việc theo đúng lẽ
phải, tư duy về nghĩa chân chính của Tứ đế để lìa tham, sân, si.
+ Chính ngữ (Samyag - vàca) : Nói lời chân thật, ngay thẳng, không thiên
kiến, lìa mọi lỗi của khẩu nghiệp.
+ Chính nghiệp (Samyag - karmànta): Hành động chân chính để thân
nghiệp được thanh tịnh.
+ Chính mạng (Samyag - àgiva): Sinh sống bằng nghề nghiệp lương thiện,
trong sạch, lìa mọi sinh hoạt bất chính để 3 nghiệp được trong sạch.
+ Chính tinh tiến (Samyag - vyàyàma): Quyết tâm tu tập, chuyên cần làm
việc nghĩa, bỏ ác làm việc thiện.
+ Chính niệm (Samyag - smrti): Nhớ nghĩ về chính pháp, gạt bỏ mọi tà niệm.
+ Chính định (Samyag - samàdhi): Tập trung tư tưởng vào một vấn đề
chính đáng, đúng với chân lý để trở thành vô lậu thanh tịnh.
b. Thuyết Duyên khởi:
Lý nhân duyên chi phối vũ trụ và nhân sinh, trong đó nhân là năng lực
phát sinh, duyên là lực hỗ trợ cho nhân phát sinh. Mọi sự vật trên thế gian đều
do các nhân và duyên hợp lại mà thành và sẽ biến diệt khi nhân duyên tan rã.
Phật giáo quan niệm các hiện tượng trong vũ trụ luôn luôn biến chuyển
không ngừng theo quy luật Thành - trụ - hoại - không (hình thành, tồn tại một thời
gian, rồi dần bị huỷ hoại và tan biến), liên tục như thế không bao giờ ngừng nghỉ.
Về nhân sinh, Phật giáo quan niệm sắc thân của con người chỉ tồn tại một
thời gian rồi sẽ huỷ diệt theo quy luật: Sinh - Trụ - Dị - Diệt (Sinh ra - lớn lên,
tồn tại - thay đổi và cuối cùng là huỷ diệt) thì tinh thần cùng với sắc thân phải
huỷ diệt theo, tinh thần không tồn tại độc lập rời sắc thân được. Do đó, Phật giáo
38
không công nhận một linh hồn vĩnh cửu, tách rời sắc thân, khi sắc thân chết để
chuyển từ kiếp này sang kiếp khác.
Với thuyết Thập nhị Nhân duyên, Phật giáo chứng minh con người sinh ra
là do các nhân và duyên hợp lại và không còn tồn tại khi nhân duyên tan rã. Phật
giáo không công nhận có một đấng tối thượng siêu nhiên tạo ra con người, cũng
như con người không tự nhiên mà sinh ra.
Đạo Phật cho rằng mọi sự vật đều chỉ là giả tạm, vô thường. Khi nhân
duyên đầy đủ hợp lại thì sự vật là "có", khi nhân duyên tan rã thì sự vật là
"không". Muôn vật từ nhân duyên mà sinh và cũng do nhân duyên mà diệt.
c. Tam tạng kinh điển:
Phật giáo có một kho tàng kinh điển vĩ đại. Riêng Đại tạng kinh có gần
10.000 pho sách, ngoài ra còn rất nhiều những trước tác, bình luận, giải thích
giáo lý. Kinh sách của đạo Phật gồm: Văn học, triết học, nghệ thuật, luân lý học
được truyền bá khắp thế giới và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nguyên bản thì
chép bằng chữ Pali và chữ Phạn (Sanscrit).
Kinh điển Phật giáo được chia làm 3 tạng:
- Kinh tạng (Sutra Pitaka - Tudala): Ghi chép những lời Phật dạy, còn gọi
là Khế kinh, coi đó như là một chân lý (Kinh là lời nói chân thực, Khế là hợp
với chân lý).
- Luật tạng (Vinaya Pitaka Tinaida): Ghi chép những giới luật của Phật
chế định dành cho 5 chúng xuất gia và 2 chúng tại gia.
- Luận tạng (Abhidhamma Pitaka): Giảng giải ý nghĩa về kinh, luật.
1.2.2. Giáo luật
Giáo luật Phật giáo do đức Phật chế ra xuất phát từ thực tế trong khi điều hành Tăng đoàn. Có thể coi đây là "Pháp quy" của đoàn thể Tăng đoàn, để quy định về tổ chức Tăng đoàn, những giới cấm, sinh hoạt của Tăng đoàn, tổ chức Tăng đoàn (đoàn thể Tăng già).
Nghi thức nhận người vào đoàn thể Tăng già, còn gọi là Phép Tiến cụ: Ban đầu Phật giáo chỉ tiếp nhận những người đã trưởng thành vào đoàn thể Tăng già, song do nguyện vọng được gia nhập Tăng đoàn của nhiều người từ khi còn rất trẻ nên Phật giáo đã chia ra thành từng bước:
+ Làm lễ "Hứa khả" cho ai tin theo Phật xin gia nhập đoàn thể Tăng già, gồm các bước:
Tổ chức trao truyền 10 giới để công nhận cho gia nhập "đoàn thể Sa di" (đó là những người tập tu để rèn luyện trở thành một vị sư chính thức).
39
Sau khi tu tập ở đoàn thể Sa di đạt được kết quả nhất định, tổ chức nghi
thức trao truyền giới cụ túc (giới pháp đầy đủ), công nhận người đó đủ tư cách là
một vị sư cho gia nhập "đoàn thể Tỷ khiêu".
Những người được công nhận là Tỷ khiêu phải có tuổi đời ít nhất là 20
tuổi và "lục căn cụ túc" (tức là hình thể phải hoàn chỉnh, tư chất thông minh ...),
đảm bảo về đạo hạnh và trí tuệ.
Việc truyền giới cho đệ tử Giáo luật quy định phải có đủ 10 vị trưởng lão
Tỷ khiêu làm thày giới sư để trao truyền giới pháp (gọi là Tam sư, thất chứng).
- Nghi thức Hứa khả cho người nhập "đoàn thể Phật tử" tại gia là nghi lễ
truyền thụ Tam quy. Người thụ Tam quy phải thực hiện các điều: Nguyện bỏ
điều ác; Nguyện làm các việc thiện; Nguyện giúp đỡ mọi người.
- Quy định về những giới cấm:
Theo Luật Tứ phận thì kinh Giới bản quy định:
+ Tỷ khiêu phải giữ 250 giới.
+ Tỷ khiêu Ni phải giữ 348 giới.
Theo Nam truyền Luật tạng thì:
+ Tỷ khiêu phải giữ 227 giới
Các giới điều tuy có khác nhau, song tựu chung lại đều căn cứ từ Ngũ giới
và Thập thiện để quy định cụ thể các điều khác nhau.
- Ngũ giới, gồm: Không sát sinh; Không nói sai sự thật; Không tà dâm;
Không trộm cắp; Không uống rượu.
- Thập thiện là mười điều thiện, gồm:
+ Ba điều thiện về thân: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm.
+ Bốn điều thiện về khẩu: Không nói dối, không nói hai chiều, không nói
điều ác, không nói thêu dệt.
+ Ba điều thiện về ý: Không tham lam, không giận dữ, không tà kiến.
- Đối với giới xuất gia còn ở bậc Sa di phải giữ 10 giới. Ngoài ngũ giới
(như đã trình bày ở trên) người tu ở bậc Sa di còn phải giữ thêm 5 giới nữa là:
+ Không trang điểm, không bôi nước hoa hay xức dầu thơm.
+ Không nằm giường đệm cao sang, giường rộng dùng cho hai người.
+ Không xem ca hát nhảy múa và cũng không được ca hát nhảy múa.
+ Không giữ vàng bạc.
+ Không ăn phi thời (quá giờ quy định).
Tăng Ni phải nương vào giới luật để làm mực thước sinh hoạt hàng ngày.
- Đối với phật tử tại gia: Sau khi thụ Tam quy (Quy Phật, quy Pháp, quy
Tăng) người Phật tử phải thụ ngũ giới là 5 điều Phật chế ra để ngăn cấm những
40
tưởng niệm ác, hành động bất chính, gieo lòng từ bi, bình đẳng trong chúng sinh
giúp họ được tiến trên con đường giải thoát, an lạc.
Ngoài ra người phật tử tuỳ căn cơ, sở nguyện có thể thụ Bát quan trai giới (8
giới). Nội dung Bát quan trai giới gồm có Ngũ giới và thêm 3 điều quy định nữa:
+ Không trang điểm
+ Không dùng đồ sang trọng (giường cao rộng; không ca múa hát xướng
và cũng không xem nghe ...).
+ Không ăn uống không đúng giờ.
1.2.3. Lễ nghi
a. Nghi thức lễ Bá tát: (còn gọi là Bố tát - Upavasatha): Tiếng Hán dịch là
Tịnh trụ, Trưởng dưỡng, có ý nghĩa tự mình sám hối các tội đã phạm trước mọi
người (theo Luận Trí Độ, quyển 13, Huyền ứng âm nghĩa, quyển 18).
b. Nghi thức An cư: An cư còn gọi là "Vũ kỳ An cư" (Vansavasana) diễn
ra hàng năm trong khoảng thời gian 3 tháng.
c. Nghi thức Tự tứ: Tự tứ có nghĩa là tổng kết khoá An cư. ở đây mỗi
người tự kiểm điểm lại bản thân mình, nếu ai vi phạm lỗi lầm gì thì phải bộc
bạch với những Tỷ khiêu khác và tự sám hối.
1.3. Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam và cơ cấu tổ chức của Giáo hội
Phật giáo Việt Nam
1.3.1. Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam
Phật giáo Việt Nam mang đầy đủ các đặc điểm của đạo Phật song lại có
những nét riêng biệt khi truyền vào Việt Nam, Phật giáo đã hoà nhập, thích nghi
và kết hợp với đời sống tâm linh, văn hoá của người dân Việt Nam nên có
những đặc điểm riêng biệt làm cho Phật giáo ở Việt Nam trở lên linh hoạt,
phong phú:
- Phật giáo dung hợp cùng tín ngưỡng truyền thống của người Việt, như:
thờ cúng Tổ tiên, thờ Thần, thờ Mẫu nhưng Phật giáo vẫn giữ vai trò chủ đạo để
làm nên Đạo Phật Việt Nam.
- Phật giáo dung hợp Nho giáo, Lão giáo để trở thành "Tam giáo đồng
nguyên" hộ trì quốc gia, dân tộc.
- Phật giáo du nhập vào Việt Nam trở thành một tôn giáo gắn bó giữa đạo
với đời, thể hiện tinh thần nhập thế. Phật giáo Việt Nam có truyền thống yêu
nước, gắn bó với dân tộc, cùng đồng hành trong những giai đoạn thăng trầm của
đất nước, góp phần đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc.
41
- Phật giáo Việt Nam tuy có nhiều tông phái Phật giáo cùng tồn tại và phát
triển, nhưng từ năm 1981 tất cả đều sinh hoạt trong một tổ chức chung là
GHPGVN. Ngoài ra, Phật giáo Việt Nam còn đoàn kết với các tầng lớp trong xã
hội và đoàn kết với các tôn giáo bạn.
- Phật giáo Việt Nam ngày càng có nhiều đóng góp trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước. Với nguồn lực hiện có, Phật giáo Việt Nam đang
ngày càng phát huy ưu thế tích cực của một tôn giáo luôn gắn bó, đồng hành
cùng dân tộc.
1.3.2. Cơ cấu tổ chức của GHPGVN
Hệ thống tổ chức của GHPGVN gồm 3 cấp: Cấp Trung ương; cấp tỉnh
(thành phố trực thuộc Trung ương); và cấp huyện (quận, thị xã, thành phố trực
thuộc tỉnh).
1.3.2.1. Cấp Trung ương
Hội đồng Chứng minh (HĐCM) và Hội đồng Trị sự (HĐTS) GHPGVN.
Nhiệm kỳ của mỗi Hội đồng là 5 năm (theo nhiệm kỳ Đại hội) và 13 ban, viện
thuộc HĐTS, gọi chung là Ban, Viện Trung ương gồm: Ban Tăng sự; Ban Giáo
dục Phật giáo; Ban Hướng dẫn Phật tử; Ban Hoằng pháp; Ban Nghi lễ; Ban Văn
hoá; Ban Kinh tế Tài chính; Ban Từ thiện Xã hội; Ban Phật giáo Quốc tế; Ban
Thông tin Truyền thông; Ban Pháp chế; Ban Kiểm soát; Viện Nghiên cứu Phật
học Việt Nam.
1.3.2.2. Cấp tỉnh, thành phố
Ban Chứng minh và Ban Trị sự GHPGVN tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, có nhiệm vụ điều hành hoạt động Phật giáo cấp tỉnh. Nhiệm kỳ Ban
Trị sự là 5 năm. GHPGVN hiện có 63 Ban Trị sự GHPGVN cấp tỉnh.
1.3.2.3. Cấp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
Ban Chứng minh và Ban Trị sự GHPGVN quận, huyện, thị xã, thành phố
trực thuộc tỉnh. GHPGVN hiện có trên 400 Ban Trị sự GHPGVN cấp huyện.
Đối với đơn vị phường, xã có nhiều cơ sở thờ tự, Ban Trị sự có thể bổ
nhiệm 1 đại diện Phật giáo phường, xã tại địa phương. Các Tự, Viện, Tịnh xá,
Tịnh thất, Niệm Phật đường,… là cơ sở thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
2. TÌNH HÌNH GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Số lượng tăng, ni, cơ sở tôn giáo
2.1.1. Số lượng tăng, ni
GHPGVN hiện có: 54.169 Tăng Ni, gồm: 40.095 Bắc Tông; 7.028 Nam
tông Khmer, 08 tu nữ, 1.754 Nam Tông kinh (1.100 chư tăng, 654 Tu nữ); 5.284
Khất sĩ; Khoảng 14 triệu tín đồ và nhiều người có niềm tin yêu mến Đạo Phật.
42
Tăng, Ni ở đây được hiểu ở hai phương diện: Giới phẩm và Giáo phẩm.
- Ở phương diện Giới phẩm: Bậc thấp là thụ giới Sa di (giữ 10 giới cấm);
Bậc cao là thụ giới Tỷ khiêu. Phật tử xuất gia đã thụ giới Tỷ khiêu (Đại đức đối
với sư nam và Sư cô đối với sư nữ) mới được coi là một vị sư chính thức.
- Ở phương diện Giáo phẩm: Phật giáo nguyên thuỷ không đặt ra Giáo
phẩm, chỉ sau này khi Phật giáo phát triển mới đặt ra. Hiện nay GHPGVN quy
định 3 bậc:
+ Đại đức - Thượng toạ - Hoà thượng (đối với tăng);
+ Sư cô - Ni sư - Ni trưởng (đối với ni).
Giáo phẩm có 2 bậc:
+ Thượng toạ, Ni sư có đủ 45 tuổi đời, 25 tuổi đạo;
+ Hoà thượng, Ni trưởng có đủ 60 tuổi đời, 40 tuổi đạo.
Sau khi thụ giới tỷ khiêu được gọi là Đại đức với tăng, Sư cô với ni nhưng
chưa được xếp vào hàng Giáo phẩm. Được công nhận tấn phong Giáo phẩm khi
đủ thời gian như trên.
2.1.2. Số lượng cơ sở tôn giáo
GHPGVN hiện có 18.544 Tự viện, gồm: 15.871 Tự viện Bắc Tông, 462
chùa Nam Tông Khmer, 45 Salate; 106 chùa Nam Tông Kinh; 541 Tịnh xá, 467
Tịnh Thất, 988 Niệm Phật đường, 54 tự viện Phật giáo người Hoa6.
Cơ sở thờ tự của Phật giáo chủ yếu do tập thể nhân dân trong làng, xã đứng
ra xây dựng (đất vua, chùa làng) rồi mời sư về trụ trì; hoặc cũng có chùa do sư
vận động tiền của thập phương đóng góp xây dựng nên; một số chùa do cá nhân
nhà sư xây dựng hay các nhà giàu có bỏ tiền ra xây dựng rồi mời sư về trụ trì theo
kiểu “biến gia vi tự”; một số chùa do tổ chức Phật giáo đứng ra xây dựng.
2.2. Tình hình hoạt động của GHPGVN
2.2.1. Hoạt động tăng sự
Việc quản lý Tăng sự là việc quan trọng hàng đầu để duy trì nền nếp kỷ
cương theo giáo luật nhà Phật. Từ ngày thành lập đến nay, Ban Tăng sự Trung
ương của GHPGVN chịu trách nhiệm vê việc quản lý Tăng ni với các nội dung
hoạt động của Ban Tăng sự, thực hiện quản lý Tăng ni như: Hướng dẫn việc thu
nhận đệ tử; hướng dẫn tổ chức giới đàn truyền giới cho tăng ni mới nhập tu; bổ
nhiệm trụ trì chùa; hướng dẫn việc xem xét đề nghị tấn phong giáo phẩm cho
Tăng ni; việc thuyên chuyển tăng ni… (Hoạt động Tăng sự theo Nội quy Ban
Tăng sự Trung ương GHPGVN).
6TLĐD, Báo cáo tổng kết công tác Phật sự 2020 của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tr.4
43
2.2.2. Hoạt động giáo dục đào tạo
Nhằm quản lý, đào tạo, bồi dưỡng Tăng ni đặc biệt là thế hệ trẻ có trình
độ kiến thức về Phật học và thế học, giúp cho các tăng ni có đầy đủ 3 đức tính:
Tâm đức, trí đức và hạnh đức, có khả năng đảm trách công tác phụng sự đạo
pháp và dân tộc, GHPGVN kể từ khi thành lập đã rất chú trọng trong công tác
đào tạo Tăng tài.
Sau 40 năm hình thành và phát triển, GHPGVN đã có một hệ thống
trường, lớp đào tạo khá cơ bản cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng được nhu
cầu tu học của Tăng ni cũng như nguyện vọng của Giáo hội. Hiện GHPGVN có
04 Học viện Phật giáo, 08 lớp cao đẳng, 34 trường Trung cấp Phật học và hàng
trăm lớp sơ cấp tại các chùa, đào tạo từ trình độ sơ cấp đến trung cấp, cử nhân,
thạc sĩ, tiến sĩ Phật học, hàng năm đào tạo hàng nghìn tăng tài cho Giáo hội.
2.2.3. Hoạt động hoằng pháp
Công tác hoằng pháp luôn được GHPGVN coi là công tác quan trọng vì
mục tiêu “Hoằng dương chánh pháp, lợi lạc quần sinh”. Nếu công tác giáo dục
Tăng ni là công tác đào tạo, bồi dưỡng những vị tu sỹ chuyên nghiệp thì hoạt
động Hoằng pháp là nội dung quan trọng đưa giáo pháp của Đức Phật đến với
tín đồ, Phật tử và mục tiêu là đến với toàn xã hội.
Các hoạt động chính trong công tác hoằng pháp của GHPGVN bao gồm:
đào tạo Giảng sư; thành lập các đoàn Giảng sư TW và các tỉnh, thành hội Phật
giáo; tổ chức khoá bồi dưỡng, hội thảo Hoằng pháp; tổ chức hội thi giáo lý cư sỹ
Phật tử; xuất bản Nội san Chuyển pháp luân; tổ chức bồi dưỡng chương trình
Phật học hàm thụ; tổ chức các cuộc thuyết giảng Phật pháp.
2.2.4. Hoạt động hướng dẫn Phật tử
Theo Hiến chương GHPGVN, Ban Hướng dẫn Phật tử TW có 2 phân ban:
Phân ban Cư sỹ và phân ban Gia đình Phật tử. Hai phân ban này hoạt động theo
hiến chương và nội quy của phân ban. Đặc thù của Phật giáo các tỉnh miền
Trung và miền Nam có tổ chức Gia đình Phật tử (được coi như các hội đoàn tôn
giáo) tập hợp các Huynh trưởng và các Đoàn sinh (thanh thiếu niên là tín đồ
Phật giáo) với các hoạt động phong phú, đa dạng.
Hoạt động Hướng dẫn Phật tử thường xuyên thực hiện một số công tác
sau: tổ chức tu học và huấn luyện Huynh trưởng; xếp cấp, tấn phong cấp, cấp thẻ
Huynh trưởng; tổ chức các Hội nghị chuyên đề; tổ chức trại họp bạn ngành Gia
44
đình Phật tử; cấp thẻ Phật tử; công tác hiếu hạnh; sinh hoạt đạo tràng và các hoạt
động văn nghệ, xã hội khác.
Theo số liệu thống kế đến đầu năm 2021, Ban Hướng dẫn Phật tử TW
GHPGVN có: 1.035 đơn vị Gia đình Phật tử đăng ký sinh hoạt tại 34 tỉnh, thành
hội Phật giáo; 9.343 Huynh trưởng các cấp7.
2.2.5. Hoạt động nghi lễ
Phật giáo Việt Nam có sự đa dạng của các hệ phái (Nam tông, Bắc tông,
Khmer, Hoa tông, Khất sỹ) nên các nghi lễ có tính đặc thù. Tuy nhiên, trên đại
thể của tinh thần Phật giáo, GHPGVN đã thống nhất nghi lễ về hình thức và nội
dung cho các ngày lễ lớn hàng năm như: Đại lễ Phật đản; Lễ Vu lan - Báo hiếu;
Lễ tưởng niệm; Trai đàn chẩn tế… Bên cạnh đó còn phải kể đến các ngày lễ lớn
gắn với đặc thù của từng hệ phái như: Lễ dâng y Kathina (của Phật giáo Nam
Tông Khmer); Lễ huý kỵ tổ sư, các nghi lễ trong an cư, kiết hạ, truyền giới (của
các hệ phái).
Ngoài ra, Ban Nghi lễ Trung ương còn được GHPGVN giao chủ trì
phối hợp với Văn phòng Trung ương, tỉnh thành hội Phật giáo các địa phương
tổ chức các công tác: Hội thảo Nghi lễ; Biên soạn giáo trình, giáo án về nghi
lễ để giảng dạy cho Tăng ni các trường Hạ và làm chủ trì cho các hoạt động
nghi lễ trong việc tổ chức các hoạt động lớn của Phật giáo Việt Nam ở trong
và ngoài nước.
2.2.6. Hoạt động nghiên cứu
Giáo hội Phật giáo Việt Nam rất chú trọng công tác nghiên cứu Phật học để làm căn cứ cho việc giảng dạy, đào tạo tăng tài và hoằng dương chánh pháp. Ngay từ Đại hội lần III năm 1992, Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã thành lập Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (đặt tại TP. Hồ Chí Minh) và Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (đặt tại Thành phố Hà Nội).
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam có Ban Chứng minh và Ban Cố vấn. Giúp việc cho 2 Ban là Hội đồng Quản trị, các Trung tâm nghiên cứu và Ban chuyên môn, gồm: Trung tâm dịch thuật Hán Nôm Huệ Quang, Trung tâm nghiên cứu Phật giáo Việt Nam, Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng Thiền học Nam Truyền, Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng Thiền học Bắc truyền, Trung tâm nghiên cứu Pàli học, Trung tâm nghiên cứu Phật giáo Nam tông Khmer, Trung tâm nghiên cứu Văn hoá Phật giáo, Trung tâm nghiên cứu Phật học Hán truyền, Trung tâm phiên dịch Phật học Anh - Việt, Trung tâm nghiên cứu Tôn giáo, Ban In ấn và xuất bản, Ban Tài chính, Trung tâm nghiên cứu và phiên dịch
7TLĐD, Báo cáo tổng kết công tác Phật sự 2020 của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tr.9
45
Phật học (được thành lập vào tháng 1/2021) với đông đảo đội ngũ nhân sự là
những tăng ni có trình độ cao về Phật học và thế học.
2.2.7. Hoạt động kinh tế
Song song với các hoạt động khác, hoạt động Kinh tế - Tài chính cũng
được Giáo hội Phật giáo Việt Nam quan tâm, vì đây là hoạt động cần thiết để
đảm bảo, duy trì các hoạt động chuyên môn cũng như các hoạt động đối nội (từ
thiện, phục vụ xã hội), đối ngoại của Giáo hội. Ban Kinh tế - Tài chính Trung
ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành lập Công ty Trách nhiệm hữu hạn Cổ
phần Thiện Tài với các lĩnh vực chủ yếu: tổ chức các tour du lịch tâm linh, hành
hương thắng tích Phật giáo; in ấn, phát hành lịch Phật giáo; phát hành kinh sách,
văn hoá phẩm Phật giáo phục vụ chức sắc và tín đồ, Phật tử.
Công tác chính của hoạt động Kinh tế - Tài chính của Trung ương Giáo
hội Phật giáo Việt Nam là: vận động các tự viện tạo nguồn kinh tế; vận động
Tăng ni cúng dàng công đức kinh phí cho hoạt động Giáo hội; vận động tín đồ
Phật tử tự nguyện cúng dàng tài sản, kinh phí cho các hoạt động thường niên,
đột xuất và các hoạt động lớn mang tầm quốc gia, quốc tế mà Giáo hội Phật giáo
Việt Nam chủ trì hoặc tham gia.
2.2.8. Hoạt động từ thiện xã hội
Vì mục đích cứu khổ, độ sinh của đạo Phật, từ ngày thành lập Giáo hội
Phật giáo Việt Nam đã luôn quan tâm đến việc vận động cứu trợ nhân đạo, góp
một phần giảm bớt gánh nặng cho xã hội.
Các hoạt động thường xuyên trong công tác từ thiện xã hội của Giáo hội
Phật giáo Việt Nam là: xây dựng hệ thống Tuệ Tĩnh đường, Phòng chẩn trị Y
học dân tộc; xây dựng các trường lớp, nhà dưỡng lão, cơ sở nuôi trẻ mồ côi; Mở
trường dạy nghề miễn phí; tham gia phong trào phòng chống HIV/AIDS; đào
tào, bồi dưỡng nghiệp vụ từ thiện xã hội cho Tăng, Ni, Phật tử; và tổ chức nhiều
cuộc cứu trợ… Các hoạt động Từ thiện - Xã hội này đã góp phần vào việc xoá
đói giảm nghèo, làm vơi bớt những khó khăn, gánh nặng cho cộng đồng, xã hội.
Đây cũng chính là phương châm “Phục vụ chúng sinh là cúng dàng chư Phật”
trong đường hướng hoạt động đồng hành cùng dân tộc của Giáo hội Phật giáo
Việt Nam.
Phát huy tinh thần “Phụng đạo, yêu nước, Giáo hội Phật giáo Việt Nam
luôn chủ động, tích cực phát huy các nguồn lực của Giáo hội vào các hoạt động
an sinh xã hội. Mỗi khi xảy ra thiên tai, địch hoạ gây khó khăn cho cuộc sống
của người dân, Giáo hội bằng các việc làm thiết thực, kịp thời trợ giúp người
dân có hoàn cảnh có khăn, những bộ phận dễ bị tổn thương trong xã hội để giúp
họ sớm vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống. Hàng năm, số tiền Giáo hội Phật
46
giáo Việt Nam huy động dành cho các hoạt động cứu trợ, an sinh xã hội lên đến hàng nghìn tỉ đồng8.
2.2.9. Hoạt động văn hoá, xuất bản, báo chí
Văn hoá Phật giáo là một bộ phận quan trọng trong kho tàng văn hoá dân
tộc. GHPGVN luôn quan tâm đến hoạt động này và đã góp phần vào việc giữ
gìn và phát huy đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, góp phần quản lý các chùa di
tích lịch sử, văn hoá nghệ thuật. Hoạt động báo chí tuyên truyền có nội dung tốt,
góp phần chuyển tải những thông tin quan trọng về chính sách đổi mới của Nhà
nước ta. Phiên dịch và xuất bản kinh sách giúp người quan tâm tìm hiểu được dễ
dàng, góp phần lợi ích cho xã hội. Hiện nay, GHPGVN các cấp có các ấn phẩm
và tạp chí như: Tuần báo Giác Ngộ, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Tạp chí Văn
hoá Phật giáo, Tạp chí Khuông Việt và nhiều nội san góp phần truyền bá những
giá trị của văn hoá, tôn giáo đến với chức sắc, tín đồ và độc giả, qua đó góp phần
tuyên truyền chính chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
2.2.10. Hoạt động quốc tế
Hoạt động quốc tế của GHPGVN là hoạt động quan trọng, luôn được
Giáo hội quan tâm. Trong những năm gần đây, hoạt động quốc tế của Phật giáo
Việt Nam ngày càng phong phú, đa dạng và hội nhập sâu vào đời sống chung
của Phật giáo thế giới. Các hoạt động quốc tế cơ bản của Phật giáo gồm: tổ chức
các đoàn chức sắc ra nước ngoài, hợp tác, hoạt động tôn giáo; tổ chức các đoàn
chức sắc Phật giáo nước ngoài vào Việt Nam hoạt động tôn giáo; tham dự các
hội nghị, hội thảo, diễn đàn quốc tế về Phật giáo; ngoài ra còn có các hoạt động
trao đổi, nghiên cứu, đào tạo, thăm viếng giữa Phật giáo Việt Nam và Phật giáo
các nước. GHPGVN đã tổ chức thành công 3 kỳ Đại lễ Vesak Liên Hợp quốc
(vào các năm 2008, 2014 và 2019) đã ghi dấu ấn của Phật giáo Việt Nam trên
trường quốc tế.
Phật giáo Việt Nam có quan hệ giao lưu, thân hữu với rất nhiều nước có
Phật giáo, đặc biệt là các nước trong khu vực như: Srilanca, Thái Lan,
Myanmar, Campuchia, Lào... và các nước Ấn Độ, Pháp, Đức ... Hiện nay, nhiều
Tăng Ni sinh Việt Nam được gửi đi đào tạo tại các trường Đại học ở Ấn Độ,
Trung Quốc, Myanmar.
8 Theo số liệu tại Báo cáo tổng kết công tác Phật sự của GHPGVN, năm 2020 tổng số tiền từ thiện
GHPGVN đã thực hiện lên đến 2.439 tỉ đồng.
47
Tóm lại, trải qua gần 2000 năm Phật giáo được truyền bá và phát triển ở Việt
Nam, đạo Phật đã khẳng định được vị trí đứng của mình trong lòng dân tộc. Khi đất
nước có chiến tranh, đa phần các Tăng Ni, Phật tử lại chính là những người chiến
sỹ lên đường bảo vệ Tổ quốc, các chùa Phật giáo lại trở thành cơ sở của cách mạng.
Khi đất nước yên bình, các Tăng Ni, Phật tử Phật giáo Việt Nam đã tích cực đóng
góp công sức của mình trong sự nghiệp kiến thiết, xây dựng Tổ quốc.
Giáo lý Phật giáo mang đậm giá trị nhân văn sâu sắc đã có tác dụng giáo
dục con người lòng nhân ái, tính hướng thiện và làm phong phú thêm kho tàng
văn hoá Việt Nam. Phật giáo Việt Nam đã được lịch sử Việt Nam ghi nhận là
tôn giáo luôn đi cùng dân tộc trong mọi cuộc thịnh suy, thăng trầm của đất nước.
3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM PHỤC VỤ CÔNG TÁC
THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN VỀ PHẬT GIÁO
Thông tin tuyên truyền là hoạt động xã hội đặc thù, tác động đến tâm tư,
tình cảm, nhận thức của con người, từ đó hướng dẫn thúc đẩy hành động của con
người thực hiện theo nội dung, mục đích tuyên tuyền.
Thông tin tuyên truyền về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng khá
đa dạng về hình thức thực hiện như: (1) Tuyên truyền miệng, (2) Tuyên truyền
qua báo, đài (báo viết, báo hình), (3) Mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn, (4) Tuyên
truyền qua ấn phẩm, tờ rơi, pa-nô, áp pích,... Tuy nhiên, tùy từng đối tượng
tuyên truyền, thời điểm tuyên truyền để lựa chọn hình thức phù hợp. Trong công
tác thông tin tuyên truyền về Phật giáo chú trọng tính tương tác, tính thuyết phục
và tránh tuyên truyền một chiều.
Để thực hiện tốt công tác thông tin tuyên truyền về Phật giáo, cán bộ làm
công tác thông tin tuyên truyền cần quan tâm một số nội dung sau:
3.1. Nắm rõ chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước
nói chung và tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có Phật giáo
Chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước là then chốt
trong công tác thông tin, tuyên truyền. Cán bộ làm công tác thông tin truyền
truyền phải thực sự hiểu biết, nắm vững nội dung các văn bản pháp luật của nhà
nước nói chung, và pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo (Phật giáo) nói riêng vì:
Thứ nhất, Phật giáo cũng giống như các tôn giáo khác, hoạt động rộng, tác
động, ảnh hưởng đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội nên hoạt động tôn giáo của Phật giáo cũng chịu sự điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành khác, như: Luật dân sự, Luật đất đai, Luật giáo dục, Luật y tế, Luật xây dựng,...
48
Thứ hai, phải nắm rõ pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo nói chung và Phật
giáo nói riêng. Chủ trương, chính sách Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo được
Đảng, Nhà nước hoạch định và xây dựng phù hợp với từng thời kỳ cách mạng
của đất nước. Đảng và Nhà nước luôn thực hiện nhất quán chính sách tự do tín
ngưỡng, tự do tôn giáo, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của mọi người, mọi người có quyền theo hoặc không theo một tôn giáo nào;
phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo (Phật giáo), đáp
ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân, bảo hộ cơ sở tín
ngưỡng, tôn giáo và tài sản hợp pháp của tổ chức tôn giáo; các tôn giáo bình
đẳng trước pháp luật và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; củng cố sự đoàn
kết giữa những người có và không có tôn giáo, giữa những người tin theo các
tôn giáo khác nhau trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các tổ chức tôn giáo và
công dân theo tôn giáo cũng phải tôn trọng, bảo vệ trật tự xã hội và thể chế nhà
nước. Không cho phép lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để làm trái với Hiến pháp,
pháp luật, trái thuần phong, mỹ tục của dân tộc, cộng đồng, địa phương, đất
nước; kiên quyết đấu tranh các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ
khối đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết dân tộc và chống phá thành quả các mạng
của đất nước.
Như vậy, Quan điểm, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà
nước đối với tín ngưỡng, tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng bao giờ cũng
có hai nội dung chủ đạo: (1) Tạo điều kiện giải quyết nhu cầu chính đáng về tín
ngưỡng, tôn giáo của quần chúng nhân dân; (2) Đấu tranh với việc lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, thành
tựu cách mạng và công cuộc đổi mới đất nước của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Cán bộ làm công tác thông tin tuyên truyền về lĩnh vực tín ngưỡng, tôn
giáo và Phật giáo điều căn bản là được trang bị đầy đủ kiến thức pháp luật của
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Phải được trang bị kiến thức về Phật giáo,
am hiểu biết tường tận chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về lĩnh vực
tín ngưỡng, tôn giáo và Phật giáo để vận dụng trong quá trình thực hiện công tác
thông tin, tuyên truyền.
Những văn bản về chủ trương Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
quan trọng hiện nay trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo đó là: (1) Nghị quyết số
25/NQ-TW về công tác tôn giáo được Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành
Trung ương bảy khóa IX ban hành vào ngày 12/03/2003. (2) Các văn kiện Đại
hội Đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam (3) Luật tín ngưỡng, tôn
giáo; Nghị định số Nghị định số 162/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và
biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
49
3.2. Hiểu được đặc điểm riêng của Phật giáo Việt Nam hiện nay
- Phật giáo là tôn giáo ngoại sinh, du nhập vào Việt Nam, trải qua hơn hai
nghìn năm tồn tại và phát triển, từ một tôn giáo ngoại nhập, Phật giáo đã được
bản địa hoá, trở thành một thành tố không thể thiếu của nền văn hoá truyền
thống Việt Nam. Nhiều giá trị đạo đức tích cực của Phật giáo đã trở thành chuẩn
mực trong đời sống tình cảm, tín ngưỡng, phong tục tập quán, góp phần xây
dựng nên bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc.
- Trong hoạt động tôn giáo của mình, Phật giáo luôn thực hiện tinh thần
khế lý khế cơ, hoạt động theo phương châm Đạo Pháp, Dân tộc và Chủ nghĩa xã
hội. Là một tôn giáo nhưng Giáo lý, giáo luật của Phật giáo hàm chứa tư tưởng
truyết học và có sự khác biệt so với các tôn giáo khác.
- Tu sĩ Phật giáo là những người thực hiện cuộc sống tu hành, từ bỏ mọi
ham muốn vật chất đời thường mà theo Phật giáo đó là nguồn gốc của mọi khổ
đau. Họ nhận được sự tôn trọng lớn và có ảnh hưởng đến một bộ phận không
nhỏ người dân trong xã hội.
- GHPGVN được thành lập năm 1981, là tổ chức Phật giáo duy nhất được
Nhà nước công nhận, có đủ tư cách pháp lý pháp nhân đại diện cho tăng, ni, tín
đồ Phật giáo Việt Nam trong và ngoài nước. GHPGVN được xây dựng trên
nguyên tắc thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức nhưng
vẫn tôn trọng quan hệ sơn môn, pháp phái. Các vị cao Tăng đứng đầu các sơn
môn, pháp phái trong GHPGVN có ảnh hưởng rất lớn đối với tăng ni, tín đồ.
Hiểu rõ về nội dung này sẽ tạo được ảnh hưởng tốt trong Tăng Ni, tín đồ, giúp
cho công tác tuyên truyền đạt kết quả.
- Hiểu về Phật giáo vì cùng là Phật giáo nhưng mỗi hệ phái có những nét
biệt truyền riêng làm nên đặc trưng trong tổ chức và sinh hoạt. Việc thông tin,
tuyên truyền cũng cần có những hình thức linh hoạt với các hệ phái để đạt hiệu
quả cao.
3.3. Nắm được các quy định của Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt
Nam, Quy chế các ban, ngành viện...
Hiến chương GHPGVN là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất của
GHPGVN. Hiện nay là Hiến chương GHPGVN tu chỉnh lần thứ VI, với 13
chương, 71 điều bao gồm các quy định chung về mục đích, thành phần, nguyên
tắc hoạt động và hệ thống tổ chức của GHPGVN. GHPGVN các cấp ban hành
văn bản và hoạt động phải phù hợp với Hiến chương GHPGVN.
Nội quy hoạt động của GHPGVN bao gồm các quy định cụ thể về từng
lĩnh vực của Giáo hội để điều chỉnh các hoạt động của GHPGVN, giữ nghiêm
giới luật, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của tăng, ni, tín đồ Phật giáo và các tự viện
50
của Tăng Ni trong tu học, hành đạo, sinh hoạt theo đúng Chánh pháp, truyền
thống Phật giáo Việt Nam.
Tăng ni Phật giáo vừa là công dân vừa là nhà tu hành, do vậy, bên cạnh
việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân theo quy định của pháp luật hiện
hành thì tăng ni Phật giáo còn nghiêm túc thực hiện các quy định của Hiến
chương, nội quy GHPGVN. Nắm rõ các quy định của Hiến chương, nội quy
GHPGVN là một yêu cầu cơ bản đối với người thông tin, tuyên truyền về Phật
giáo. Các quy định này là quy định căn bản mà mỗi Tăng ni phải nghiêm túc
thực hiện để tu tập và duy trì sinh hoạt Phật giáo.
3.4. Người làm công tác thông tin, tuyên truyền phải công tâm, khách
quan, đảm bảo tính chính xác và hiệu quả
Người làm công tác thông tin, tuyên truyền phải công tâm, khách quan
trong quá trình thông tin, tuyên truyền. Đánh giá đúng mức những giá trị văn
hoá, giá trị đạo đức mà Phật giáo mang lại, cũng như những đóng góp của Phật
giáo trong đời sống xã hội hiện nay. Ảnh hưởng sâu rộng của đạo đức Phật giáo,
văn hoá Phật giáo ngày một sâu sắc, bồi đắp thêm giá trị văn hoá Việt Nam, giá
trị của Phật giáo Việt Nam ngày một tốt đẹp.
Đẩy mạnh việc tuyên truyền về các giá trị nhân văn tốt đẹp chia sẻ, hỗ trợ
lẫn nhau; tinh thần cộng đồng, tập thể, các hành vi ứng xử nhân ái, nghĩa tình;
những gương người tốt, việc tốt, gương sống tốt đời đẹp đạo của Phật giáo nói
chung và của mỗi tăng, ni, tín đồ Phật giáo nói riêng. Qua đó, tạo tinh thần lạc
quan, đoàn kết, ngăn ngừa các hoạt động lợi dụng Phật giáo để phá hoại khối đại
đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc và công cuộc xây dựng đất nước.
Cùng với việc ghi nhận, đánh giá đúng mức những giá trị mà Phật giáo
mang lại, khi thông tin, tuyên truyền về những vụ việc phức tạp của Phật giáo
phải chính xác, trung thực, khách quan, phản ánh đúng nội dung, bản chất của sự
việc. Tránh đưa tin sai lệch, không chính xác về những vụ việc Phật giáo, làm
ảnh hưởng đến niềm tin của người dân đối với Phật giáo cũng như ảnh hưởng
đến hình ảnh Phật giáo trong dư luận xã hội.
3.5. Người làm công tác thông tin tuyên truyền phải làm nổi bật được
tinh thần hộ quốc, an dân của Phật giáo Việt Nam
Phật giáo Việt Nam là tôn giáo luôn đi đầu trong các phong trào xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ở thời kỳ lịch sử nào Phật giáo cũng luôn nỗ lực,
phát huy tinh thần gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Phật giáo Việt Nam luôn
51
đặt sự ổn đinh, phát triển của mình trong sự ổn định, phát triển của quốc gia,
dân tộc. Khi đất nước có giặc ngoại xâm, chức sắc, tín đồ Phật giáo sẵn sàng
cùng toàn dân đứng lên đấu tranh để bảo vệ hoà bình, độc lập, toàn vẹn lãnh
thổ. Khi đất nước ổn định và phát triển thì Phật giáo vừa củng cố, phát triển
về mặt tổ chức vừa phát huy những nguồn lực của mình vào sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước. Tinh thần hộ quốc an dân của Phật giáo có ảnh
hưởng sâu rộng không chỉ trong tăng ni, tín đồ Phật tử ở trong và ngoài nước
mà còn có sức lan toả ra toàn xã hội.
3.6. Người làm công tác thông tin tuyên truyền sử dụng thuật ngữ
Phật giáo trong nội dung thông tin tuyên truyền cần chính xác và phù hợp
Phật giáo là tôn giáo đa dạng về khái niệm và thuật ngữ, nên thiết nghĩ
hạn chế việc sử dụng khái niệm, thuật ngữ trong công tác thông tin tuyên truyền.
Nếu cần thiết phải sử dụng khái niệm, thuật ngữ Phật giáo để tăng kết quả của
công tác thì cần phải sử dụng chính xác và phù hợp. Không nên sử dụng khái
niệm thuật ngữ Phật giáo một cách tùy tiện. Tối kỵ việc sử dụng sai khái niệm,
thuật ngữ, sẽ dẫn đến công tác thông tin tuyên truyền không đạt được hiệu quả./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Ban Tôn giáo Chính phủ (2006), Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Viêt
Nam, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
- Nguyễn Hồng Dương (2014), Tiếp tục đổi mới chính sách về tôn giáo ở
Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận cơ bản. Nhà xuất bản Văn hóa Thông
tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.
- Nguyễn Quốc Tuấn (2012), Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam
thế kỷ 20, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
- Nguyễn Thanh Xuân (2020), Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt
Nam, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Đặc điểm nào của Phật giáo Việt Nam cần tuyên truyền để lan tỏa trong
xã hội? Nêu lý do?
2. Vai trò, ảnh hưởng của Phật giáo Việt Nam nói chung, Giáo hội Phật
giáo Việt Nam nói riêng trong đời sống xã hội hiện nay?
3. Nhận diện và cách xử lý khủng hoảng truyền thông Phật giáo hiện nay?
4. Vai trò truyền thông trong hoạt động Phật giáo trong thời đại công nghệ 4.0?
52
Chuyên đề 3
KHÁI QUÁT VỀ CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM
1.1. Quá trình du nhập và phát triển Công giáo ở Việt Nam
1.1.1. Đôi nét quá trình hình thành và phát triển của Công giáo trên thế giới Công giáo là tên gọi xuất phát từ chữ Catholique, có nghĩa là tôn giáo chung, tôn giáo phổ quát, phổ biến cho toàn thế giới. Tên gọi này có từ rất sớm, khoảng đầu Công nguyên. Liên quan đến tên gọi Công giáo có các thuật ngữ Kitô giáo, Cơ đốc giáo, Thiên chúa giáo, đạo Gia tô.
Công giáo ra đời đầu Công nguyên, do Chúa Giê-su sáng lập, Chúa Giê- su là người thuộc dân tộc Do Thái. Theo truyền thuyết: cha là Giu-se, mẹ là Ma- ri-a đồng trinh, mang thai ông một cách mầu nhiệm. Từ nhỏ là người thông minh, 12 tuổi theo cha tới đất Thánh Giê-ru-sa-lem, 30 tuổi ông bắt đầu truyền đạo. Trong thời gian đầu truyền đạo, ông thu nhận khoảng 70 người làm môn đệ, trong đó có 12 môn đệ gần gũi nhất, thân tín và sau này 11 người trở thành các Thánh Tông đồ. Trong quá trình truyền giáo, ông luôn bị những người Do Thái đả kích, phê phán; bị nhà cầm quyền đương thời ngăn cấm, kết tội mưu phản, tử hình bằng cách đóng đinh trên giá chữ thập và mất năm 33 tuổi.
Sự ra đời của Công giáo gắn liền với thời kỳ của đế quốc La Mã cổ đại, gắn liền với Nhà nước chiếm hữu nô lệ và phương thức sản xuất nô lệ; dựa trên cơ sở thần học của Do Thái giáo, đó là các quan điểm về lịch sử sáng thế, sự màu nhiệm của Đức Chúa trời, tội tổ tông truyền, linh hồn và thể xác, thế giới vĩnh hằng...; dựa trên tư tưởng lý luận triết học Hy Lạp, La Mã Cổ đại, nhất là triết học Khắc Kỷ với hai đại biểu điển hình là Phi-lông và Sê-nếch; sử dụng nhiều yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo và phong tục tập quán của các dân tộc vùng Trung cận Đông để xây dựng một giáo thuyết hoàn chỉnh.
Đầu Công nguyên đến thế kỷ thứ V, Công giáo xuất hiện và hoạt động trong cộng đồng người Do Thái nhưng bị những người theo Do Thái giáo đả kích và chính quyền La Mã đàn áp. Sang thế kỷ II SCN, tầng lớp quý tộc dần theo Công giáo làm thay đổi vị trí và ảnh hưởng của nó.
Đến thế kỷ IV, đầu thế kỷ V, Công giáo giáo trở thành quốc giáo của Đế chế
La Mã, trong quá trình mở rộng ảnh hưởng và phát sinh của Công giáo đã dẫn đến
sự phân hóa thành Công giáo và Chính Thống giáo.
Đến thế kỷ XVI, sự ra đời, phát triển của giai cấp tư sản và phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện yêu cầu cải cách Công giáo, Với những
53
cải cách của Mác-tanh Lu-thơ (1483-1546), Giăng Can-vanh (1509-1546) đã
làm xuất hiện Giáo hội cải cách gọi là Tin lành (đánh dấu thời kỳ phân liệt lần
thứ hai). Cũng thời kỳ này, vua Anh tách Công giáo ở Anh khỏi sự chỉ đạo của
Giáo hoàng và lập ra Anh giáo.
Thế kỷ thứ XIX, Chủ nghĩa Cộng sản khoa học xuất hiện ở các nước Xã
hội chủ nghĩa. Giữa thế kỷ XX với phong trào giải phóng dân tộc và sự tiến bộ
về khoa học kỹ thuật, Giáo hội có cái nhìn mới để thích nghi, phát triển. Giáo
hoàng Gioan XXIII đã triệu tập Công đồng lần thứ 21 (1963-1965) gọi là “Công
đồng Va-ti-căng II” để điều chỉnh đường hướng hoạt động của Giáo hội theo xu
thế “Canh tân, nhập thể” và đã đem lại cho Giáo hội Công giáo sắc thái mới
trong xã hội hiện đại và hiện có mặt ở hầu hết các châu lục.
Công bố của Tòa thánh Vatican vào năm 2019, trong tổng dân số thế giới
là 7 tỷ 408 triệu người, có 1 tỷ 313 triệu người Công giáo (chiếm 17,7 % dân số
thế giới). Phân chia theo từng châu lục, có 48.5% sống ở Mỹ Châu, 21.8% ở
Châu Âu, 17.8% sống ở Châu Phi, 11.1% ở Châu Á và 0.8% ở Châu Đại Dương.
1.1.2. Quá trình du nhập và phát triển Công giáo ở Việt Nam
1.1.2.1. Những yếu tố dẫn đến sự du nhập và phát triển Công giáo vào
Việt Nam
* Các yếu tố bên ngoài:
- Truyền giáo phát triển đạo là sứ mệnh thiêng liêng và thường trực của
Giáo hội Công giáo Từ thế kỷ XVI;
- Công giáo bị suy giảm, không còn giữ vị trí độc tôn ở châu Âu do phong
trào cải cách tôn giáo đưa tới sự ra đời của đạo Tin lành và các cuộc cách mạng
tư sản;
- Các cuộc phát kiến địa lý thời cận đại đã mở ra những triển vọng lớn cho
việc mở rộng nước Chúa đến những miền đất ngoại. Quá trình truyền giáo ra
ngoài châu Âu của Giáo hội Công giáo trong giai đoạn này diễn ra đồng thời với
các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây và
Toà Thánh Va-ti-căng có vai trò trung gian hoà giải để phân định ranh giới, ảnh
hưởng và truyền giáo cho các nước nói trên.
* Các yếu tố trong nước:
- Tình hình xã hội Việt Nam trong các thế kỷ XVI-XVIII có nhiều biến
động phức tạp, đất nước bị chia cắt, chiến tranh kéo dài: chiến tranh Lê - Mạc,
Khải Trịnh - Nguyễn, Tây Sơn - Nguyễn Ánh, phong trào khởi nghĩa nông dân
diễn ra ở khắp nơi… đã làm cho kinh tế đình đốn, đời sống nhân dân đói khổ
lầm than, nhất là nạn lưu tán diễn ra một cách trầm trọng.
54
- Các tôn giáo truyền thống: Nho- Phật- Lão ngày càng suy giảm, không
đáp ứng được nhu cầu đời sống tâm linh của một bộ phận quần chúng. Bởi vậy,
Công giáo xuất hiện đã đem đến cho một bộ phận nhân dân một niềm tin tôn
giáo mới.
1.1.2.2. Quá trình du nhập và phát triển Công giáo ở Việt Nam
* Từ năm 1533 đến năm 1884 (Du nhập đến khi Pháp xâm lược Việt Nam)
Công giáo truyền vào Việt Nam từ năm 1533, do giáo sĩ I-nê-khu đến làng
Ninh Cường và Quần Anh huyện Nam Chân và làng Trà Lũ, huyện Giao Thuỷ
(thuộc tỉnh Nam Định ngày nay). Nhưng phải đến thế kỷ XVII, việc truyền giáo
mới có kết quả. Cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII quan hệ giao thương giữa
Việt Nam và các nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Anh, Pháp,... phát triển để
trao đổi hàng hoá và mua vũ khí phục vụ cuộc chiến tranh trong nước giữa Chúa
Trịnh - Chúa Nguyễn. Tình hình kinh tế, chính trị trong nước lâm vào giai đoạn
khủng hoảng, cuộc sống của người dân Việt Nam rơi vào cảnh lầm than đất
nước bị chia cắt thành Đàng Trong, Đàng Ngoài. Trong bối cảnh ấy Giáo hội
Công giáo đã gửi thừa sai theo các đoàn tàu buôn của người Bồ Đào Nha, Anh,
Pháp đến truyền giáo tại các nước Châu Á trong đó có Việt Nam. Ban đầu là các
giáo sĩ thuộc Dòng Đa Minh và Dòng Tên như: Francesco Buzomi, Alexandre
de Rhodes, Pedro Marques,... và thời gian này công cuộc truyền giáo chỉ dừng
lại ở mức độ thử nghiệm, có tính chất thăm dò.
Công cuộc truyền giáo được thúc đẩy mạnh khi: chữ Quốc Ngữ ra đời
(1651); Bộ Truyền giáo được thành lập và Hội Thừa sai Paris ra đời năm 1664,
cùng với sự phát triển về thương mại của tư bản Pháp. Kết quả được đánh dấu
bằng sự kiện ngày 09/9/1659 Giáo hoàng Alexander VII với Tự sắc “Super
Cathedram Principis” quyết định thiết lập ở Việt Nam hai giáo phận đầu tiên và
giao cho hai thừa sai thuộc Hội truyền giáo Paris làm đại diện tông toà. Giáo
phận Đàng Trong từ sông Gianh trở vào Nam gồm cả phần đất Chân Lạp, Chiêm
Thành do Giám mục Lambert de la Motte cai quản và giáo phận Đàng Ngoài từ
sông Gianh trở ra Bắc bao gồm cả Lào và 5 tỉnh miền nam Trung Quốc do Giám
mục Francois Pallu coi sóc. Đến năm 1679 giáo phận Đàng Ngoài được chia làm
2: Tây Đàng Ngoài và Đông Đàng Ngoài và sau đó các giáo phận khác được
thành lập.
* Giai đoạn thứ hai từ 1885-1945 (Từ khi Pháp đô hộ đến khi thành lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa).
Với Hoà ước Giáp Thân 06/6/1884, Pháp bắt đầu đô hộ toàn bộ Việt Nam;
Công giáo được tự do, công khai hoạt động: Toà Giám mục, nhà thờ chính toà,
55
chủng viện, các tu viện, nhà thờ xứ,... được xây dựng ở nhiều nơi. Số tín hữu
tăng nhanh, nhiều Dòng tu từ Pháp và các nước khác đến đặt cơ sở và hoạt động
tại Việt Nam. Công cuộc truyền giáo không còn bị lệ thuộc bởi các quốc gia
thuộc địa mà thực hiện dưới sự chỉ đạo của trực tiếp của Bộ Truyền giáo
Vatican. Ngày 03/12/1924 Toà Thánh Vatican đổi tên các giáo phận Tông toà tại
Việt Nam theo địa hạt hành chính, nơi đặt Toà Giám mục như ngày nay. Năm
1925 Toà Thánh Vatican thiết lập Toà Khâm Sứ ở Đông Dương và đặt tại Phú
Cam (Huế). Năm 1933 Toà Thánh tấn phong linh mục Nguyễn Bá Tòng, người
Việt Nam đầu tiên làm Giám mục. Đến năm 1938, nước ta có 15 giáo phận, trên
1,5 triệu giáo dân, 1.662 tu sỹ nam, nữ, 1.132 linh mục ngừơi Việt, 979 giáo xứ.
Có thể nói, thời kỳ này được coi là “thời kỳ vàng son” của Công giáo, với
sự tạo điều kiện, bảo trợ của Pháp, Công giáo đã phát triển về mọi mặ cả về
chức sắc, tín đồ, cơ cấu tổ chức, cơ sở thờ tự cũng như cơ sở đào tạo.
* Giai đoạn thứ ba từ 1945-1975 (Giai đoạn kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ)
Đặc điểm nổi bật của giai đoạn này là nước ta trải qua hai cuộc kháng chiến
chống Pháp, Mỹ đã tác động và làm phân hoá sâu sắc trong Công giáo Việt Nam:
- Đa số chức sắc, tín đồ Công giáo đều ủng hộ cách mạng, tham gia kháng
chiến, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đóng góp tích cực về sức người, sức của cho
các công việc chung của dân tộc, nhiều chức sắc, tín đồ Công giáo đã được Đảng,
Nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng, huân chương độc lập và nhiều người
đã được bầu vào các cơ quan dân cử... Có gia đình cả nhà là linh mục, tu sĩ,
nhưng đều theo kháng chiến như: linh mục Phạm Bá Trực (sau này là Phó Trưởng
ban Thường trực Quốc hội khóa I); gia đình linh mục - liệt sĩ Nguyễn Bá Luật;
các linh mục như linh mục Hồ Thành Biên, linh mục Trần Quang Nghiêm và rất
nhiều vị linh mục khác đã tạm ngưng việc đạo để lên chiến khu trực tiếp tham gia
kháng chiến; nhiều người là Đại biểu Quốc hội các khóa I đến khóa IV, như: linh
mục Lưu Phương, linh mục Phạm Bá Trực, linh mục Nguyễn Đức Tín, linh mục
Hồ Thành Biên, linh mục Vũ Xuân Kỷ, linh mục Nguyễn Thế Vịnh.
- Năm 1954, có cuộc di cư lớn, làm chuyển biến tình hình Công giáo ở hai
miền Nam - Bắc.
Năm 1960, hàng giáo phẩm Công giáo Việt Nam được thành lập gồm 23
giám mục, 03 giáo tỉnh. Năm 1960 Giáo hội Việt Nam có 20 giáo phận, với 23
Giám mục, 1.914 linh mục, 5.789 nam nữ tu sĩ, 1.530 đại và tiểu chủng sinh. Năm
1975, khi Mỹ rút khỏi Việt Nam, Công giáo Việt Nam lại có biến động: 100 linh
mục, 400 tu sĩ, 50.000 giáo dân di cư ra nước ngoài; chỉ còn 25 Giám mục (15 vị
56
tại Toà) 2000 linh mục, gần 7.500 tu sĩ phát triển trong một quốc gia độc lập,
thống nhất, có chủ quyền.
* Giai đoạn thứ tư từ năm 1975 đến nay (Giai đoạn sau ngày thống nhất
đất nước)
Đặc điểm của giai đoạn này là đất nước thống nhất, tạo điều kiện cho
Giáo hội hai miền được thống nhất. Năm 1980, Hội đồng Giám mục Công giáo
Việt Nam được thành lập đã đưa ra bản thư Chung lịch sử “Sống Phúc âm giữa
lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”. Thư chung 1980 tỏ rõ tình
cảm và trách nhiệm của người Công giáo với đất nước: Yêu Tổ quốc, yêu đồng
bào đối với người Công giáo không những là tình cảm tự nhiên phải có mà còn
là đòi hỏi của Phúc âm. Đồng thời Thư chung 1980 đã chủ trương xây dựng một
Hội thánh của Chúa Giê-su Ki-tô tại Việt Nam gắn bó với dân tộc và đất nước,
đồng hành cùng đồng bào cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: Lòng yêu mến
của chúng ta phải thiết thực, nghĩa là chúng ta phải ý thức những vấn đề hiện
tại của quê hương, phải hiểu biết đường lối chính sách và pháp luật của Nhà
nước, tích cực cùng đồng bào toàn quốc góp phần bảo vệ và xây dựng một nước
Việt Nam giàu mạnh, tự do và hạnh phúc. Thư chung 1980, cũng định ra nhiệm
vụ xây dựng một nếp sống đạo mới và một lối diễn tả đức tin phù hợp với truyền
thống văn hoá dân tộc.
Giai đoạn này đánh dấu việc Uỷ ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam được
thành lập (đầu năm 1984), trên cơ sở tiền thân là Uỷ ban Liên lạc những người
Công giáo Việt Nam, yêu Tổ quốc, yêu Hoà bình (ra đời tháng 3/1955).
1.2. Một số đặc điểm của Công giáo ở Việt Nam
1.2.1. Ngoài những đặc điểm chung của Công giáo, như:
- Có hệ thống tổ chức chặt chẽ và thống nhất: Từ Giáo triều Vatican đến
giáo hội địa phương và mối quan hệ này được chế định trong luật lệ và lễ nghi
Công giáo. Do vậy trong quan hệ về mặt tổ chức, Công giáo ở Việt Nam chịu sự
chi phối, ràng buộc chung của Tòa thánh Vatican và những quy định của giáo hội.
- Tính độc lập ở các giáo phận: Theo giáo luật, giám mục giáo phận có tất
cả quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp về mặt tôn giáo trong phạm vi giáo
phận. Mỗi giám mục có toàn quyền đối với mọi thành phần dân Chúa trong giáo
phận mình, miễn là đường hướng đó không đi ngược lại với đường hướng hoạt
động chung của Tòa thánh Vatican và Hội đồng Giám mục Việt Nam. Giáo luật
quy định giám mục giáo phận này không có những quyền trên đối với giáo phận
khác và giám mục phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình với Giáo hoàng.
57
- Giáo sĩ Công giáo là người quyết định việc tổ chức, điều hành các sinh
hoạt đạo mang tính thần quyền cao đối với tín đồ, duy trì chế độ độc thân.
- Có tính vâng phục cao.
1.2.2. Công giáo Việt Nam còn có một số đặc điểm riêng sau:
1.2.2.1. Công giáo ở Việt Nam là một tôn giáo ngoại nhập từ phương Tây
do nhiều giáo đoàn khác nhau truyền vào:
Lịch sử gần 500 năm du nhập và phát triển của Công giáo Việt Nam cho
thấy: Công giáo truyền vào Việt Nam chủ yếu do các giáo sĩ Bồ Đào Nha, Tây
Ban Nha từ những thập niên đầu của thế kỷ XVI và sau đó là các thừa sai Pháp,
các giáo sĩ thuộc Hội Thừa sai Pa-ri.
1.2.2.2. Trong quá trình truyền giáo vào Việt Nam, Công giáo được sự hỗ
trợ tích cực từ chế độ thực dân Pháp
Với sự bảo trợ mạnh mẽ của Chính phủ Pháp từ nửa sau thế kỷ XVII, đạo
Công giáo có nhiều thuận lợi thâm nhập nhanh vào Việt Nam. Sau khi xâm lược
Việt Nam, thiết lập được chế độ thống trị thực dân, Chính phủ Pháp ban cho các
giáo sỹ thừa sai nhiều đặc quyền đặc lợi và tạo cho Giáo hội nâng cao uy thế của
mình, mở rộng phạm vi của công cuộc truyền giáo.
1.2.2.3. Quá trình xây dựng, hoàn thiện cơ cấu tổ chức và thiết lập Hàng
giáo phẩm Công giáo người bản xứ diễn ra khá lâu dài
Sau 126 năm mới thiết lập được 2 giáo phận đầu tiên; sau 135 năm mới
thụ phong được các linh mục người Việt đầu tiên; sau 400 năm mới tấn phong
được giám mục người Việt đầu tiên. Còn Hàng giáo phẩm đạo Công giáo Việt
Nam thì sau 427 năm từ khi đạo Công giáo được truyền vào Việt Nam mới được
thiết lập. Điều đó cho thấy sự chi phối khá lâu dài và khá sâu sắc của các giáo sỹ
phương Tây cả về mặt cơ cấu tổ chức và cả về Hàng giáo phẩm.
1.2.2.4. Giáo hội Công giáo Việt Nam có đóng góp trong nhiều lĩnh vực
như: y tế, giáo dục và từ thiện xã hội và văn hóa
Trong quá trình thâm nhập và phát triển của Giáo hội Công giáo Việt
Nam, giáo hội đã có những đóng góp nhất định cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam; cho sự phát triển của văn hoá Việt Nam trên nhiều lĩnh
vực như: kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc, báo chí, văn chương, ngôn ngữ; Tích
cực tham gia lĩnh vực giáo dục, y tế, từ thiện xã hội (trước đây và hiện nay đang
được đẩy mạnh hoạt động).
2. TÌNH HÌNH CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM
2.1. Về số lượng (chức sắc, chức việc, tín đồ, cơ sở tôn giáo)
58
Tính đến năm 2020, Giáo hội Công giáo Việt Nam có: Trên 07 triệu tín
đồ, chiếm gần 7% dân số cả nước; 02 Hồng y (Lịch sử Công giáo Việt Nam có
06 giám mục được phong làm Hồng y); 03 Tổng giám mục đương nhiệm; 46
giám mục, trong đó có 28 giám mục đương chức và 18 giám mục đã về hưu; hơn
5.000 linh mục triều và linh mục dòng; 25 nghìn nam nữ tu sĩ; Khoảng 9.000 cơ
sở tôn giáo (nhà thờ, nhà nguyện, cơ sở đào tạo, trụ sở Tòa giám mục; cơ sở
dòng tu).
2.2. Sự phân bố
Công giáo có sự phân bố không đồng đều giữa các khu vực.
- Về tín đồ: có có mặt ở 63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Đa số tín đồ
Công giáo là nông dân sống ở nông thôn (chiếm hơn 80%), ở thành thị (gần
20%), tập trung nhiều ở khu vực phía Nam, đông nhất là Đồng Nai (có khoảng
1,2 triệu giáo dân (chiếm khoảng 1/3 dân số tỉnh Đồng Nai), TP. Hồ Chí Minh
(có gần 700.000 giáo dân (chiếm khoảng 8,9% dân số TP. Hồ Chí Minh), ít nhất
là giáo phận Lạng Sơn chi có gần 6.300 giáo dân.
Trong xu hướng phát triển của đất nước, đời sống kinh tế của tín đồ Công
giáo ngày càng được cải thiện, tín đồ chú trọng hơn việc làm giàu và nâng cao
chất lượng cuộc sống. Trình độ dân trí được nâng lên, tuy nhiên, so với mặt
bằng chung của xã hội thì đời sống kinh tế, văn hóa của tín đồ Công giáo ở
nhiều nơi vẫn còn thấp.
- Chức sắc, chức việc Công giáo là những người được tuyển chọn, được
đào tạo bài bản trong Học viện, Đại chủng viện của Công giáo trong và ngoài
nước; có trình độ học vấn cao, hiểu biết xã hội (linh mục phải là người không
chỉ giỏi về thần học truyền giáo mà còn hiểu biết về các vấn đề xã hội, do đó
việc tốt nghiệp đại học, cao đẳng được giáo hội chú trọng và xem như yêu cầu
bắt buộc đối với các chủng sinh khi vào Đại chủng viện). Đây là lực lượng quan
trọng quyết định tới hiện tại và tương lai của giáo hội, là những người trực tiếp
xây dựng và hướng dẫn quần chúng tín đồ thực hiện đường hướng của giáo hội.
Hiện nay, các giáo xứ đều có linh mục, nhưng tỷ lệ linh mục thường đi
với tỷ lệ tín đồ nên số linh mục tập trung nhiều ở các giáo phận miền Nam, đông
nhất là giáo phận Xuân Lộc, khoảng 700 linh mục, gần 2.000 tu sĩ; giáo phận
TP. Hồ Chí Minh, khoảng 1.000 linh mục, khoảng 9.000 tu sĩ…
- Về cơ sở tôn giáo: cũng tập trung ở nhiều giáo phận lớn như : giáo phận
Xuân Lộc, giáo phận TP. Hồ Chí Minh, giáo phận Bùi Chu, giáo phận Phát
Diệm, giáo phận Vinh…
59
Cơ sở thờ tự được tạo điều kiện nâng cấp, sửa chữa hoặc xây dựng mới:
Trong những năm qua chính quyền địa phương đã cấp quyền sử dụng đất cho
giáo hội quản lý và sử dụng. Nhiều nơi đã được cấp hàng chục ha đất để giáo hội
xây dựng cơ sở thờ tự như: giao 7.500m2 đất cho Tòa Tổng Giám mục Tổng
giáo phận TP. Hồ Chí Minh xây dựng Trung tâm mục vụ; hơn 9.000m2 cho Tòa
Giám mục Đà Nẵng, 21ha cho giáo xứ La Vang; Cấp cho Tòa giám mục Xuân
Lộc gần 14 ha để xây dựng Trung tâm Đức Mẹ Nũi Cúi. Nhiều cơ sở thờ tự
Công giáo được đầu tư xây dựng với số vốn lên hàng trăm tỷ đồng, thậm chí có
công trình Công giáo dự kiến đầu tư hàng ngàn tỷ đồng như Trung tâm Hành
hương Đức Mẹ La Vang (Quảng Trị). Theo thống kê, từ năm 2003 đến nay có
khoảng số cơ sở thờ tự tăng khoảng 02 nghìn.
2.3. Hệ thống tổ chức của Công giáo ở Việt Nam
2.3.1. Hệ thống tổ chức của Giáo hội Công giáo Việt Nam
Được tổ chức theo mô hình của Giáo hội Công giáo và có một số nét
riêng, cụ thể như sau:
- Hội đồng Giám mục Việt Nam: Là một tổ chức tập hợp các giám mục
đang thi hành nhiệm vụ tại các giáo phận Việt Nam cùng nhau tổ chức đời sống
Giáo hội, hỗ trợ sứ vụ rao giảng Tin mừng và khai triển việc phục vụ các thiện
ích cho cộng đồng dân Chúa trong tinh thần liên đới, hiệp thông và tập thể.
Mục đích của Hội đồng Giám mục Việt Nam là xây dựng Giáo hội Màu
nhiệm - Hiệp thông - Truyền giáo và phục vụ con người trong xã hội. Nhiệm vụ
là cố vũ sự liên đới giữa giám mục các giáo phận, để phát huy lợi ích cho Giáo
hội bằng các hình thức tông đồ và các phương pháp thích hợp với hoàn cảnh của
thời đại trong tinh thần gắn bó với dân tộc và đất nước. Hội đồng Giám mục
Việt Nam vẫn luôn tôn trọng quyền bính của các giám mục giáo phận là quyền
thông thường, riêng biệt và trực tiếp.
Hội đồng Giám mục Việt Nam họp định kỳ: 03 năm Đại hội một lần và
hàng năm có hội nghị thường niên; khi có vấn đề quan trọng Hội đồng Giám
mục Việt Nam có thể họp hội nghị ngoại lệ do quyết định của giám mục chủ tịch
hoặc do yêu cầu của 2/3 các thành viên Ban Thường vụ, hoặc do 1/3 các thành
viên của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Từ năm 1980 đến nay, Hội đồng
Giám mục Việt Nam đã trải qua 14 lần Đại hội. Nội dung đại hội: Trao đổi công
tác mục vụ, tìm hướng giải quyết các vấn đề chung của giáo hội; ra các văn bản
như thư chung, thư mục vụ hay thông cáo và các văn bản này phải được Toà
Thánh phê chuẩn và các giám mục phải chấp nhận và thi hành; bầu Ban Thường
vụ và Chủ tịch các Uỷ ban, hình thức bầu bằng phiếu kín...
60
Cơ cấu tổ chức Hội đồng Giám mục Việt Nam gồm: Ban Thường vụ và
các đơn vị trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam.
Các đơn vị trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam hiên nay gồm có:
+ Văn phòng Hội đồng Giám mục Việt Nam;
+ 17 Ủy ban trực thuộc, gồm: Ủy ban Thánh Kinh; Ủy ban Phụng tự; Ủy
ban Thánh nhạc; Ủy ban Nghệ thuật Thánh; Ủy ban Giáo sĩ - Chủng sinh; Ủy
ban Tu sĩ; Ủy ban Giáo dân; Ủy ban Mục vụ Gia đình; Ủy ban Mục vụ Giới trẻ
và Thiếu nhi (trước 2016 là Ủy ban Mục vụ Giới trẻ); Ủy ban Mục vụ Di dân;
Ủy ban Loan báo Tin Mừng; Ủy ban Văn hóa; Ủy ban Giáo dục Công giáo; Ủy
ban Truyền thông Xã hội; Ủy ban Bác ái Xã hội; Ủy ban Công lý và Hòa bình;
+ Học viện Công giáo Việt Nam;
- Tổng giáo phận (Giáo tỉnh): hiện có 03 Tổng giáo phận, gồm: Tổng giáo
phận Hà Nội (với 11 giáo phận); Tổng giáo phận Huế (với 06 giáo phận); Tổng
giáo phận TP. Hồ Chí Minh (với 10 giáo phận).
- Giáo phận: hiện có 27 giáo phận (cấp hành chính chính thức của Giáo
hội Công giáo), chia thành 03 Tổng giáo phận như nói trên, gồm: Lạng Sơn,
Hưng Hóa, Bắc Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Bùi Chu, Phát Diệm, Thái Bình,
Thanh Hóa, Vinh, Hà Tĩnh, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Phan Thiết,
Bà Rịa, Xuân Lộc, Phú Cường, Tp.Hồ Chí Minh, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Cần Thơ,
Long Xuyên, Đắc Lắc, Kon Tum, Đà Lạt.
Trong Giáo phận còn có các Đại Chủng viện trực thuộc giáo phận: hiện có
có 10 Đại chủng viện; Hà Nội, Vô Nhiễm Bùi Chu, Thái Bình, Vinh - Thanh,
Huế, Sao Biển (Nha Trang), TP. Hồ Chí Minh, Xuân Lộc, Đà Lạt (Cơ sở 02 của
Xuân Lộc).
- Giáo hạt: Hiện có khoảng có khoảng 120 giáo hạt (cấp trung gian của
giáo hội).
- Giáo xứ: trên 3.000 giáo xứ (Cấp hành chính chính thức của Giáo hội
Công giáo).
- Giáo họ: có khoảng 6.000 giáo họ (không phải cấp hành chính mà được
thành lập đẻ giúp việc cho giáo xứ).
* Bên cạnh hệ thống tổ chức theo hệ triều nói trên, còn hệ thống tổ chức
theo hệ dòng, đó là các dòng tu. Tính đến năm 2020, ở Việt Nam có khoảng 200
dòng tu, tu hội, tu đoàn, với hơn 31 nghìn nam tu sĩ, nữ tu sĩ.
- Dòng tu được phân loại theo nhiều cách khác nhau, có thể dựa theo một
số cách sau:
61
+ Phân loại theo đối tượng: Dòng Giáo sĩ (Dòng Tên, Dòng Đa Minh,
Dòng Chúa Cứu Thế…) Bề trên dòng phải là một giáo sĩ, tối thiểu là phó tế;
không phải tất cả các Tu sĩ dòng phải là giáo sĩ; Dòng Giáo dân: khi không hội
tụ đủ các yếu tố được quy định đối với Dòng Giáo sĩ nói trên.
+ Phân loại theo hình thức tu trì: Dòng chiêm niệm (dòng tu kín), tên gọi
thường là dùng từ “Đan viện”, Tu sĩ nam gọi là “Đan sĩ” (Biển Đức, Xi-tô, Cát
Minh, Cla-ra…); Dòng hoạt động hay Dòng tông đồ: là những dòng mà ngoài
thời gian cầu nguyện và sinh hoạt trong dòng theo nội quy, các tu sĩ tham gia các
hoạt động ngoài xã hội và tông đồ giáo xứ.
+ Phân loại theo giới tính: Dòng tu nữ: là tổ chức tu trì dành riêng cho
nữ; Dòng tu nam là tổ chức tu trì dành riêng cho nam
Tuy nhiên, để dễ phân biệt, dễ nhận biết trong quản lý, từ đây ta sẽ phân
loại theo thẩm quyền thành lập, thì dòng tu có hai loại: Dòng Toà Thánh và
Dòng giáo phận.
Hệ thống tổ chức:
- Dòng giáo phận:
Nhà Mẹ Cộng đoàn
Bề trên (Tổng phụ trách) Phụ trách cộng đoàn (trưởng cộng đoàn)
- Dòng quốc tế (Dòng Tòa thánh):
Nhà Mẹ Tỉnh dòng Cộng đoàn
Bề trên tổng quyền Bề trên giám tỉnh Bề trên Cộng đoàn
Để tăng cường sự hiệp thông, trao đổi kinh nghiệm giữa các dòng tu và
tạo nên sự lớn mạnh của hệ dòng, năm 2003, Tòa thánh tái thành lập Liên hiệp
Bề trên thượng cấp Việt Nam (cấp đăng ký hoạt động năm 2010). Các dòng tu ở
Việt Nam mở rộng theo hướng đa dạng về loại hình hoạt động từ việc tham gia
hoạt động mục vụ, truyền giáo ở các xứ, họ đạo đến hoạt động bác ái xã hội,
hoạt động y tế, giáo dục, dạy nghề… và đạt hiệu quả cao ở tất cả các lĩnh vực.
Đặc biệt, tích cực tham gia công tác từ thiện xã hội, mở các trường dạy nghề, y
tế, giáo dục (hàng trăm trường mầm non, cơ sở nuôi dạy trẻ).
62
Các dòng tu ở Việt Nam mở rộng theo hướng đa dạng về loại hình hoạt
động từ việc tham gia hoạt động mục vụ, truyền giáo ở các xứ, họ đạo đến hoạt
động bác ái xã hội, hoạt động y tế, giáo dục, dạy nghề… và đạt hiệu quả cao ở
tất cả các lĩnh vực. Đặc biệt, tích cực tham gia công tác từ thiện xã hội, mở các
trường dạy nghề, y tế, giáo dục (hàng trăm trường mầm non, cơ sở nuôi dạy trẻ)
2.4. Ủy ban đoàn Kết Công giáo Việt Nam
Đây là tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoạt động theo
hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đường
hướng mục vụ của Hội đồng Giám mục Việt Nam: “Sống phúc âm giữa lòng
dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”.
Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam được thành lập năm 1955 với tên
gọi Uỷ ban Liên lạc Công giáo toàn quốc, đến năm 1983 đổi tên như hiện nay.
Mặc dù là tổ chức thuộc Mặt trận Tổ quốc, nhưng thành viên lãnh đạo và tham
gia Ủy ban là chức sắc, tín đồ Công giáo, về mặt đức tin họ vẫn thực hiện luật lệ,
lễ nghi Công giáo, nghe lời hàng giáo sĩ.
Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam có mục đích đoàn kết rộng rộng rãi
đồng bào Công giáo Việt Nam ở trong và ngoài nước trong khối Đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tổ chức, hướng dẫn, tập hợp, động viên đồng bào Công giáo Việt Nam
trong nước và ngoài nước tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
- Góp phần thực hiện đường hướng Giáo hội gắn bó với dân tộc, tăng
cường xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân lấy mục tiêu xây dựng
đất nước, truyền thống đạo đức và văn hóa của dân tộc; đấu tranh với các âm
mưu chia rẽ dân tộc và Giáo hội, giữ gìn sự trong sáng của đạo Thiên chúa.
- Tập hợp, phản ánh tâm tư nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của đồng
bào Công giáo, tổ chức Giáo hội với Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp chính đáng của đồng bào Công giáo và tổ chức
Giáo hội.
- Cùng đồng bào trong nước và nhân dân các nước trên thế giới đấu tranh
xây dựng và bảo vệ hòa bình, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và dân chủ
tiến bộ xã hội.
63
Hệ thống tổ chức Ủy ban Đoàn kết Công giáo:
- Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam được thành lập ở 02 cấp: Trung
ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Ở hai cấp này, có thể thành
lập cơ quan giúp việc, gồm: Văn phòng và Ban Tư vấn pháp luật; Ban Phong
trào; Ban Từ thiện xã hội; Ban Văn hóa thể thao. Báo Người Công giáo và dân
tộc là cơ quan ngôn luận của Ủy ban.
- Những huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có đông đồng bào Công giáo
được thành lập Ủy ban Đoàn kết Công giáo (Trước Đại hội nhiệm kỳ 2018 -
2023 thành lập Ban Đoàn kết Công giáo).
Hiện nay, có 42/63 tỉnh thành phố có Ủy ban Đoàn kết Công giáo cấp
tỉnh, trong đó có 33/42 tỉnh, thành phố có Ban Đoàn kết Công giáo cấp huyện,
với 286 Ban Đoàn kết Công giáo. Một số nơi đang thí điểm thành lập Tổ Đoàn
kết Công giáo ở xã, phường, thị trấn, như: Tp. Hà Nội thành lập được 93 Tổ
Đoàn kết Công giáo với tổng số 396 thành viên.
2.5. Về hoạt động tôn giáo
Nhìn chung, hoạt động tôn giáo của Công giáo ở Việt Nam trong những
năm qua cơ bản ổn định, xu hướng tuân thủ pháp luật, hoạt động thuần túy tôn
giáo là xu thế chủ đạo. Được sự tạo điều kiện của Nhà nước và các cấp chính
quyền, Công giáo ở Việt Nam hiện nay ngày càng phát triển, thể hiện một số
vấn đề sau:
2.5.1. Việc quản lý tổ chức của Giáo hội Công giáo Việt Nam
Việc thành lập tổ chức hành chính đạo và tổ chức trực thuộc Công giáo
được bảo đảm: Công giáo ở Việt Nam chịu sự chi phối, ràng buộc trong hệ
thống chung của Tòa thành Vatican và những quy định của giáo hội, nên tổ chức
hành chính đạo và tổ chức trực thuộc mang tính ổn định cao ít thay đổi, đa số
được thành lập trước năm 1975 và hoạt động mặc nhiên. Trong quá trình phát
triển nhu cầu thành lập mới, chia tách và khôi phục lại các tổ chức mà sau năm
1975 không còn hoạt động để thuận lợi cho sinh hoạt tôn giáo của tín đồ đã được
nhà nước giải quyết.
Qua thống kê cho thấy: Giai đoạn từ năm 2003 đến nay, có:
- 02 Giáo phận mới của đạo Công giáo được thành lập (giáo phận Bà Rịa
tách ra từ giáo phận Xuân Lộc năm 2004 và giáo phận Hà Tĩnh được tách ra từ
giáo phận Vinh từ năm 2019);
- Khoảng 1.500 giáo xứ được thành lập (thành lập mới, tái thành lập lại,
nâng cấp từ giáo họ lên giáo xứ);
64
- 50 dòng tu và 06 hội đoàn của Công giáo có phạm vi hoạt động ở nhiều
tỉnh được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo;
- Năm 1980, Nhà nước cho phép 06 Đại chủng viện để đào tạo chức sắc
của Công giáo ở Việt Nam được hoạt động trở lại, mở ra một thời kỳ đào tạo ổn
định, liên tục của Giáo hội. Với nhu cầu đào tạo ngày càng tăng, từ đó đến Nay
nhà nước tiếp tục cho phép thành lập 05 cơ sở đào tạo chức sắc Công giáo nữa,
nâng tổng số lên 11 Cơ sở đào tạo chức sắc Công giáo, trong đó có 01 Học viện
Công giáo đào tạo mang tầm quốc tế.
Việc phong chức, phong phẩm, thuyên chuyển giám mục, linh mục, bề
trên các dòng tu và thuyên chuyển nơi hoat động tôn giáo diễn ra thường xuyên
và trở thành hoạt động bình thường theo quy định của pháp luật. Thời gian qua
chính quyền các cấp đã xem xét, chấp thuận đáp ứng nhu cầu có người hướng
dẫn hoạt động tôn giáo cho tín đồ. Từ năm 2004 đến nay, Tòa thánh Vatican đã
phong chức 30 giám mục, giám mục phó và giám mục phụ tá các giáo phận. Số
lượng chủng sinh chiêu sinh ở các Đại chủng viện không hạn chế, số tốt nghiệp
ra trường được thụ phong sớm, lễ tấn phong diễn ra quanh năm.
2.5.2. Về hoạt động truyền bá và sinh hoạt tôn giáo
- Số lượng tín đồ của Công giáo ngày càng tăng, hiện nay Công giáo ở
Việt Nam có khoảng 07 triệu tín đồ, tăng khoảng 1,5 triệu tín đồ, tương đương
hơn 20% so với năm 2003.
- Việc in ấn kinh sách và xuất bản các ấn phẩm liên quan đến Công giáo
được tạo điều kiện đáp ứng cơ bản nhu cầu của chức sắc, tín đồ và tổ chức giáo hội.
- Việc tổ chức các hoạt động tôn giáo ngày càng nhiều và quy mô lớn,
trang trọng, nhiều hoạt động lớn, thu hút đông đảo quần chúng tín đồ trong và
ngoài nước tham dự, như: Đại hội Hành hương La Vang 3 năm 01 lần; Năm
Thánh kỷ niệm 457 năm (1533-2010) Công giáo có mặt tại Việt Nam; 50 năm
thành lập hàng giáo phẩm Công giáo ở Việt Nam với 3 sự kiện lớn: Lễ khai mạc
tại Hà Nam có hơn 10 vạn người tham gia, Đại hội Dân Chúa tại Tổng giáo phận
TP. Hồ Chí Minh tháng 11/2010, Lễ bế mạc Năm Thánh tại La Vang vào tháng
01/2011; Lễ cung nghinh xương Thánh Don Bosco của Tỉnh dòng Don Bosco từ
Roma về Việt Nam và đi qua nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước; Lễ kỷ niệm
80 năm Dòng Đức Bà Truyền giáo Việt Nam với sự tham dự của 26 Bề trên các
nước và nhiều người nước ngoài tham dự; Hội đồng Giám mục Việt Nam đăng
cai tổ chức Hội nghị Liên hội đồng Giám mục Á châu (FABC) vào tháng
12/2012 tại Tòa Giám mục giáo phận Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai; tổ chức 400
65
năm Dòng Tên có mặt tại Việt Nam; Lễ Phục sinh, Lễ Noel hàng năm ngày cảng
được mở rộng về mặt quy mô; Hội đồng Giám mục Việt Nam đã tổ chức đi Ad
Limina để viếng mộ hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, yết kiến Giáo hoàng
tại Vatican theo định kỳ…
2.5.3. Về Quan hệ quốc tế
- Giáo hội Công giáo Việt Nam chịu sự chỉ đạo chặt chẽ của Toà thánh
Vatican. Hàng năm Giáo hội Công giáo Việt Nam đều có các chức sắc và giáo
dân sang Vatican và các nước khác hoạt động tôn giáo, tham quan du lịch, đào
tạo… Từ năm 1989 đến nay, hàng năm Toà thánh Vatican đều cử các phái đoàn
sang làm việc với Nhà nước và thăm Giáo hội Công giáo Việt Nam.
- Quan hệ với cộng đồng Công giáo người Việt Nam ở nước ngoài: Người
Công giáo Việt Nam sống ở nước ngoài đã có từ lâu, họ đi du học, làm mục vụ ở
một số Đại chủng viện, Tòa giám mục nước ngoài có quan hệ trong công cuộc
truyền giáo ở Việt Nam như: Macao (Trung Quốc), Ayuthia (Thái Lan), Penag
(Malaysia), Pondichery (Ấn Độ), Bồ Đào Nha, Pháp.
Sau năm 1975, có khoảng 130.000 người di cư và dần hình thành cộng
đồng Công giáo người Việt Nam ở nước ngoài. Hiện nay, ước tính ở nước ngoài
có khoảng 01 triệu tín đồ Công giáo Việt Nam, có mặt ở 37 nước hình thành hơn
300 cộng đoàn; hơn 1000 linh mục; 165 nam tu sỹ và hàng ngàn nữ tu sỹ thuộc
24 dòng tu nam, 50 dòng tu nữ tập trung nhất là ở các quốc gia thuộc khu vực:
Bắc Mỹ, Tây Âu và Úc. Quốc gia có số lượng giáo sĩ, tu sĩ du học nhiều nhất là
Mỹ, Pháp và Italia, đặc biệt có 03 giám mục người Việt Nam.
2.6. Về hoạt động xã hội
2.6.1. Tham gia phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn
minh
Hưởng ứng và thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới, đô thị văn minh, những năm gần đây, đồng bào Công giáo Việt Nam
ngày càng tích cực hưởng ứng và tham gia thực hiện tốt 19 tiêu chí xây dựng xã
đạt chuẩn nông thôn mới. Tại nhiều địa phương, nhiều hộ gia đình Công giáo đã
làm ăn có hiệu quả kinh tế cao, ổn định cuộc sống gia đình, thành lập công ty,
doanh nghiệp, xưởng sản xuất, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động tại địa
phương9.
9 (1) Gia đình ông Nguyễn Văn Tuyên, ông Nguyễn Huy Tuân (Kiến An, Hải Phòng) có từ 12 - 60 ha diện tích nuôi trồng thủy sản tạo công ăn việc làm thường xuyên cho 30 - 40 lao động với mức lương từ 3,5 - 4 triệu đồng/tháng; (2) Gia đình ông Trần Văn Châu (Kim Sơn, Ninh Bình) với mô hình nuôi Ngao cho thu nhập hàng
66
Với tinh thần “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, các công trình giao
thông, thủy lợi, xây dựng nhà văn hóa, khu thể thao ở nhiều nơi đã được đồng
bào Công giáo đóng góp hàng nghìn tỉ đồng và hàng chục ngàn ngày công lao
động; nhiều gia đình Công giáo sẵn sàng tháo rỡ hàng rào, thu hoạch cây lấy gỗ,
cây ăn quả sớm để hiến đất mở rộng đường nông thôn10.
2.6.2. Tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế cùng với các hoạt
động đền ơn đáp nghĩa, từ thiện, bác ái
Các tổ chức, cá nhân Công giáo thuộc Giáo hội Công giáo Việt Nam đã
tham gia tích cực trong công tác giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo, được các bộ,
ngành liên quan đánh giá cao: Có hàng trăm cơ sở mầm non, nuôi dạy trẻ (đa số
đạt tiêu chuẩn theo quy định của Nhà nước) và huy động được hàng trăm nghìn
trẻ em đến trường, lớp, được phụ huynh học sinh tin tưởng11.
- Các cơ sở chữa bệnh nhân đạo, nuôi người cao tuổi, người tâm thần, trẻ
em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, người nhiễm HIV/AIDS, người lang thang cơ bản
đáp ứng được các quy định của pháp luật đã góp phần giảm gánh nặng, giảm sự
quá tải của các trung tâm bảo trợ xã hội của nhà nước. Theo thống kê của Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Lao động Thương binh và
Xã hội, tính đến 2016, cá nhân, đơn vị thuộc Giáo hội Công giáo Việt Nam có
56 cơ sở chăm sóc đối tượng bảo trợ đã được cấp đăng ký hoạt động, trong khi
cả nước chỉ có 113 cơ sở thuộc các cá nhân, đơn vị thuộc các tổ chức tôn giáo
được cấp đăng ký hoạt động.
- Những cơ sở dạy nghề đã tạo công ăn việc làm cho các học viên khi tốt
nghiệp ra trường với thu nhập ổn định. Theo thống kê của ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, tính đến 2016,
năm từ 3 tỷ đến 5 tỷ đồng; (3) Các xã vùng giáo huyện Nga Sơn (Thanh Hóa) có 200 hộ chăn nuôi gia súc theo mô hình trang trại, hàng năm thu nhập hàng trăm triệu đồng; (3) Cơ sở sản xuất hoa của Cộng đoàn Phan Sinh (Đà Lạt, Lâm Đồng), từ một cơ sở ươm trồng cây giống có quy mô nhỏ, hiện nay đã nghiên cứu, sản xuất thành công nhiều mẫu và giống hoa, giải quyết trên 60 lao động có thu nhập ổn định …
10 (1) Đồng bào Công giáo tỉnh Đắc Lắc tự nguyện đóng góp hàng chục tỷ đồng để nâng cấp, mở rộng và từng bước nhựa hóa đường giao thông ở khu dân cư và những tuyến đường trọng yếu, góp phần cho 30 xã đạt chuẩn nông thôn mới tính đến cuối năm 2017; (2) Khu dân cư Công giáo thôn Dũng Thủy, xã Xuân Thiện, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình đã hiến 600m2 đất, đóng góp trên 500 triệu đồng, hơn 1.300 ngày công làm đường giao thông, đóng góp tiền công lắp đặt đèn chiếu sáng ban đêm với chiều dài gần 9km (3) Ở huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, bà con giáo dân đã hiến trên 12.000m2 đất, tháo dỡ 2.100 m tường bao, đóng góp hơn 7 tỷ đồng xây mới 06 Nhà Văn hóa, làm mới 15 km đường bê tông hay huyện Yên Thành, bà con đã hiến gần 6.000m2 đất, đóng góp hàng chục tỷ đồng xây dựng công trình phúc lợi công cộng…
11 Ghi nhận những đóng góp đó, trong Hội nghị toàn quốc các tôn giáo tham gia phát triển giáo dục mầm non, năm 2015 đã có 25 tập thể Công giáo/26 tập thể các tôn giáo được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tặng bằng khen; 23 cá nhân Công giáo/25 cá nhân tiêu biểu của các tôn giáo được Bộ trưởng Bộ Giáo dục đào tạo tặng bằng khen.
67
cá nhân, đơn vị thuộc Giáo hội Công giáo Việt Nam có 11/12 trường, trung tâm
dạy nghề, trong đó: 01 trường Cao đẳng; 01 trường Trung cấp và 09 trung tâm
dạy nghề, trong khi cả nước chỉ có 12 trường, trung tâm dạy nghề của các cá
nhân, đơn vị thuộc các tổ chức tôn giáo.
- Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân thuộc Giáo hội Công giáo Việt Nam còn
có có 144 trạm xá, cơ sở khám chữa bệnh nhân đạo và được tổ chức nhiều hoạt
động có ý nghĩa, như: Các giáo xứ: Lộc Thiện, Lộc Thành, Phú Lương, Tích
Thiện, Đắc Nhau, Đắc Ơ (tỉnh Bình Phước) thường xuyên tổ chức những đợt
khám bệnh, cấp phát thuốc miễn phí cho những gia đình khó khăn, đồng bào dân
tộc, tuyên truyền bà con về giữ gìn vệ sinh môi trường, tham gia đầy đủ các
chương trình tiêm chủng quốc gia. Bên cạnh đó, nhiều linh mục và Hội đồng
mục vụ giáo xứ đã phối hợp với chính quyền, mặt trận địa phương làm tốt công
tác đền ơn đáp nghĩa như tổ chức thăm viếng, tặng quà cho gia đình thương binh
liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng nhân ngày thương binh liệt sĩ 27/7, tết cổ
truyền của dân tộc, điển hình như giáo hạt Đồng Xoài, giáo hạt Phước Long; Tại
tỉnh Phú Yên, đồng bào Công giáo đã đóp góp 13,2 tỷ đồng cho các hoạt động từ
thiện, nhất là tham gia xây nhà Đại đoàn kết, xóa nhà tạm…; nhằm nhằm chung
tay giúp đồng bào miền Trung tái thiết đời sống sau các đợt bão lũ năm 2020,
được sự đồng thuận của các cấp chính quyền, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã
tổ chức đêm nhạc “Gánh nhau trong đời” vào ngày 27/11/2020 để quyên góp
tiền ủng hộ, ngay trong đêm nhạc, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã quyên góp
được 12 tỷ đồng, sau đêm nhạc đó, Hội đồng Giám mục cũng quyên góp được
thêm khoảng 10 tỷ đồng nữa. Số tiền này đã kịp thời đưa đến ủng hộ các địa
phương bị thiệt hại nặng về bão lũ, nhất là tại một số tỉnh miền Trung. Đây là
lần đầu tiên, Hội đồng Giám mục Việt Nam tổ chức sự kiện này.
- Trong cuộc phòng chống Covid - 2019: Hưởng ứng lời kêu gọi của Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc các cấp và của các cấp chính quyền việc quyên góp, ủng
hộ công cuộc phòng chống dịch Covid - 19. bên cạnh việc ủng hộ kinh phí, vật
chất cho với giá trị hàng tỷ đồng của các giáo xứ, giáo phận Công giáo trên mọi
miền tổ quốc, nhiều cơ sở Công giáo đã được Giáo hội cho mượn để làm nơi
cách ly những người thuộc đối tượng F1, đồng thời bố trí các nhà tu hành hỗ trợ
về y tế cũng như hàng ngày lo từng bữa ăn cho những người bị cách ni, như ở
giáo phận Bắc Ninh tham gia hỗ trợ ở Vĩnh Phúc trong đợt dịch đầu tiên năm
2020, cũng như tại Bắc Giang trong đợt dịch tháng 06/2021. Đặc biệt, hưởng
68
ứng lời kêu gọi của Thủ tướng Chính phủ về việc ủng hộ Quỹ vắc xin Covid -
19, đêm ngày 05/6/2021, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã cử người trực tiếp
đến dự và hỗ trợ 03 tỷ đồng cho quỹ…
2.6.3. Tham gia bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, xây
dựng cộng đồng dân cư sáng, xanh, sạch, đẹp, văn minh.
Thực hiện Chương trình phối hợp giữa Ban Thường trực Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các tôn giáo
về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2015 - 2020, Ủy
ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam đã hướng dẫn Ủy ban Đoàn kết Công giáo
các tỉnh, thành phố xây dựng kế hoạch phối hợp cụ thể với Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, ngành Tài nguyên và Môi trường và các tổ chức tôn giáo cùng
cấp triển khai nhiều hoạt động phong phú, thiết thực vào các dịp: Ngày Môi
trường thế giới, Tuần lễ Quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường, Tuần lễ
Biển và Hải đảo Việt Nam, ngày Đại dương Thế giới, chiến dịch làm cho thế
giới sạch hơn, giờ trái đất… nhằm kêu gọi mọi người dân cùng với đồng bào
Công giáo thực hiện. Ngoài ra, còn phối hợp duy trì các mô hình Khu dân cư
bảo vệ môi trường ở cộng đồng dân cư có đông đồng bào Công giáo mang lại
hiệu quả thiết thực.
Các linh mục, Ban Hành giáo và đồng bào Công giáo ở các giáo xứ, giáo
họ cùng với cộng đồng dân cư ra quân dọn dẹp vệ sinh, bảo vệ môi trường tại
các hộ gia đình và địa bàn công cộng; huy động nhân dân nói chung và đồng bào
có đạo nói riêng làm tổng vệ sinh khu phố, ấp; giữ gìn cảnh quan môi trường
“xanh sạch đẹp”, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa.
2.6.4. Thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật, bảo đảm trật tự,
an toàn xã hội, tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở
- Đồng bào Công giáo đã luôn tích cực tham gia phong trào “Quần chúng
bảo vệ an ninh Tổ quốc”, coi việc phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội là
nhiệm vụ quan trọng để bảo đảm cuốc sống bình yên của chính quyền mình và
nhân dân; tuyên truyền, hướng dẫn bà con chấp hành nghiêm các quy định của
pháp luật, đồng thời xây dựng các sân chơi lành mạnh giúp các thanh niên trách
xa những tệ nạn xã hội, hay thành lập câu lạc bộ “Gia đình không có người thân
vi phạm pháp luật”; nhiều khu dân cư có đồng bào Công giáo không xảy ra các
vụ trọng án, thực hiện được nhiều vụ hòa giải, cảm hóa được các đối tượng lầm
lỗi, hàng năm động viên con em đến độ tuổi đi làm nghĩa vụ quân sự đạt tỷ lệ
69
cao; nhiều địa phương làm tốt công tác hậu cần quân đội, động viên các gia đình
chính sách, thăm hỏi con em làm nhiệm vụ biên giới, hải đảo; có nhiều giáo dân
tích cực tham gia giữ gìn an ninh khu phố, phối hợp với các cơ quan chức năng
chặn bắt cướp, xóa các tụ điểm hút chính ma túy, gây rối trật tự công cộng trên
địa bàn dân cư được nhân dân yêu mến và chính quyền các cấp ghi nhận…
- Trong lĩnh vực tham gia xây dựng chính quyền: Đồng bào Công giáo cả
nước đã tích cực hưởng ứng và tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021. Ban Thường
trực Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam và Ban Thường trực Ủy ban Đoàn
kết Công giáo các tỉnh, thành phố đã tham gia các hội nghị hiệp thương để lựa
chọn và giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp. Trong các cuộc bầu cử này, tại hầu hết các địa bàn có đông đồng
bào Công giáo đều hoàn thành sớm việc bầu cử với số lượng cử tri đi bầu sớm
nhất, đông nhất (tỷ lệ từ 98% đến 100%). Đồng thời, có nhiều linh mục, tu sĩ,
giáo dân được tín nhiệm bầu vào các cơ quan dân cử, các đoàn thể, như: 01 linh
mục được bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa XIV; 21 linh mục và 27 giáo dân là
đại biểu HĐND cấp tỉnh; 43 linh mục, tu sĩ và 252 giáo dân là đại biểu HĐND
cấp huyện; 158 linh mục, tu sĩ và 6.433 giáo dân là đại biểu HĐND cấp xã
nhiệm kỳ 2016 - 2021; 224 người tham gia Ủy ban Mặt trận, chính quyền xã,
phường, thị trấn; 3.680 người là Tổ trưởng, tổ phó và thư ký tổ dân cư và rất
nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân là hội viên các đoàn thể chính trị - xã hội.
3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM VỀ CÔNG GIÁO PHỤC VỤ
CÔNG TÁC THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
3.1. Người làm công tác thông tin, tuyên truyền cần nắm rõ chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước đối với lĩnh vực tín
ngưỡng, tôn giáo
Chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước đối với lĩnh
vực tín ngưỡng, tôn giáo nói chung qua mỗi thời kỳ có sự thay đổi để đảm bảo
phù hợp với hoàn cảnh thực tế. Qua các thời kỳ khác nhau, Đảng và Nhà nước
ta luôn nhất quán: tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của mọi
người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; tôn trọng, bảo vệ
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo, truyền thống thờ cúng
tổ tiên, tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng, đáp ứng nhu cầu
tinh thần của nhân dân; bảo hộ cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo và tài sản hợp pháp
70
của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo; mọi người có quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào… Nhưng đồng thời Đảng, Nhà
nước ta không chấp nhận việc các tổ chức, cá nhân lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
để xâm phạm quốc phòng an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,
môi trường, chống phá cách mạng; xâm hại đến đạo đức xã hội; xâm phạm thân
thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;
hoạt động trục lợi…
Một số văn bản chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
về lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay cần nắm vững, như: Nghị quyết 25 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về Công tác tôn giáo; Luật tín ngưỡng,
tôn giáo; Nghị định số 162/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo…
3.2. Phải nắm được cơ bản của về giáo lý, luật lệ, lễ nghi của Công
giáo, nhất là những ngày lễ Công giáo
3.2.1. Giáo lý Công giáo
Hệ thống giáo lý Công giáo được hình thành, bổ sung trong nhiều thế kỷ,
được chứa đựng trong Kinh Thánh Cựu ước và Tân ước. Ngoài ra, Công giáo
còn một số văn bản khác như các án văn của Giáo hoàng, nghị quyết của các
Công đồng, về nguyên tắc có giá trị như giáo lý. Trong sinh hoạt, từ kinh Cựu
ước và Tân ước Công giáo biên soạn thành hai loại kinh: Kinh nguyện và Kinh
bổn để mọi tín đồ cầu nguyện.
Trong giáo lý của đạo Công giáo có 5 tín điều cơ bản sau: Thiên chúa và
sự sáng tạo thế giới của Thiên Chúa; Con người và sự sa ngã của con người;
Chúa Giê-su và công cuộc cứu chuộc; Chúa Giê-su trở lại và sự phán xét cuối
cùng; Thiên đường và địa ngục, thiên thần và ma quỷ.
3.2.2. Luật lệ, lễ nghi Công giáo
Ngay từ đầu, Giáo hội Công giáo đã xây dựng được một hệ thống các luật
lệ, lễ nghi khá chi tiết, cụ thể và được thống nhất thực hiện trên phạm vi toàn thế
giới. Trước đây, luật lệ, lễ nghi và thiết chế của Giáo hội được ghi trong Bộ
Giáo luật Ca-non (xuất bản năm 1917) gồm 2000 điều. Ngày 25/01/1983, Giáo
hội Công giáo ban hành bộ giáo luật mới gọi là bộ Giáo luật năm 1983 bao gồm
1752 điều.
Luật lệ, lễ nghi của Công giáo gồm: Mười điều răn của Thiên Chúa; Sáu
điều răn của Giáo hội; Bảy phép Bí tích.
71
3.2.3. Những ngày lễ của đạo Công giáo
Lịch Công giáo tính theo dương lịch và trong một năm có rất nhiều ngày
lễ, trong đó có một số Lễ trọng (lễ buộc) có 6 ngày trong năm cụ thể: Lễ Nô-el;
Lễ phục sinh (chúa sống lại); Lễ Chúa Giê-su lên trời, sau lễ phục sinh 40 ngày;
Lễ Chúa Thánh thần thiện xuống, sau lễ Chúa Giê-su lên trời 10 ngày; Lễ Đức
bà Ma-ri-a hồn và xác lên trời, ngày 15/8; Lễ các Thánh, ngày 1/11. Ngoài ra
còn các Lễ thông thường được tổ chức theo định kỳ tại các giáo xứ, dòng tu.
3.3. Hiểu rõ cơ cấu, hệ thống tổ chức của Giáo hội Công giáo Việt
Nam, phẩm trật trong Công giáo
3.3.1 Về cơ cấu, hệ thống tổ chức (đã trình bày ở trên)
3.3.2. Về Phẩm trật trong Công giáo
Hàng giáo sỹ trong Công giáo được hình thành theo cấp bậc rõ ràng, có ba
chức thánh, gồm: Giám mục, Linh mục và Phó tế. Ngoài ra, còn có các tước vị
khác như: Hồng y, Tổng giám mục, Đức ông.
- Giáo hoàng: vị chủ chăn tối cao của toàn thể tín đồ Công giáo, có quyền
tối thượng, toàn diện và trực tiếp đối với Giáo hội. Từ vị Giáo hoàng tiên khởi
Phê-rô đến Giáo hoàng Phan-xi-cô có 266 vị.
- Hồng y: Hồng y là phẩm tước, xếp ngay dưới Giáo hoàng. Hồng y có 3
bậc: giám mục, linh mục và phó tế. Số lượng Hồng y tuy được ấn định, song
không ổn định qua thời gian, hiện nay là 222 vị.
- Tổng Giám mục: là Giám mục đứng đầu các Tổng giáo phận.
- Giám mục: Là những người được trao cho việc coi sóc một giáo phận,
có toàn quyền về mặt tôn giáo trong giáo phận đó. Trong một giáo phận có thể
có Giám mục phó hoặc Giám mục phụ tá. Tính đến ngày 31/12/2015, trên thế
giới có 5.304 giám mục.
- Linh mục: Có linh mục triều và linh mục dòng. Trong giáo xứ, Linh mục
chính xứ có quyền giảng đạo, cử hành các bí tích, tổ chức và điều hành xứ. Tính
đến ngày 31/12/2015, trên thế giới có 415.656 linh mục.
- Phó tế: có phó tế tạm thời và phó tế vĩnh viễn. Phó tế tạm thời là những
người hướng tới chức linh mục và phó tế vĩnh viễn là những người không hướng
tới chức linh mục. Tính đến ngày 31/12/2015, trên thế giới có 45.255 Phó tế
vĩnh viễn.
Hàng giáo phẩm của đạo Công giáo nói chung rất quan trọng, họ là những
người được thay mặt Chúa để điều hành các hoạt động của Giáo hội; là Cha
72
Thiêng Liêng, Cha Tinh Thần không thể thiếu trong các sinh hoạt tôn giáo hàng
ngày của tín đồ đạo Công giáo.
3.4. Thấy được những đóng góp tích cực của Công giáo đối với đời sống
xã hội, cũng như những mặt tiêu cực trong Công giáo. Qua đó, khơi dậy những
mặt tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của Công giáo. Phát huy vai trò
của các chức sắc, chức việc là tín đồ Công giáo. Chăm lo phát triển kinh tế - xã
hội trong vùng Công giáo.
3.5. Hiểu về tổ chức, nhân sự của Công giáo
Mỗi tổ chức thuộc Giáo hội Công giáo Việt Nam có đặc thù hoạt động
riêng, cơ cấu tổ chức khác nhau nên phải bám sát thực tế, nắm chắc từng tổ
chức, nhân sự đứng đầu các tổ chức, nắm tâm tư nguyện vọng, tình hình hoạt
động của họ, động viên họ chấp hành chính sách, pháp luật. Chủ động đề xuất
biện pháp quản lý cụ thể, thích hợp sẽ đạt được kết quả tốt. Chú trọng công tác
giáo dục thuyết phục, nâng cao nhận thức của chức sắc, tu sĩ, giáo dân để họ
nhận thức đúng chính sách tôn giáo tự do tôn giáo, tín ngưỡng của Đảng, Nhà
nước, để tự giác thực hiện. Qua đó, họ có thể đấu tranh với những hành vi tuyên
truyền, xuyên tạc, lợi dụng Công giáo nhằm hoạt động chính trị, làm mất an
ninh trật tự tại địa phương.
3.6. Cần phân biệt được hoạt động tôn giáo thuần tuý với các hoạt động
lợi dụng Công giáo nhằm đáp ứng quyền tự do tôn giáo của tín đồ Công giáo,
đồng thời đấu tranh, loại bỏ âm mưu chống phá Nhà nước Việt Nam của các thế
lực thù địch.
3.7. Công tác thông tin, tuyên truyền phải kip thời, đứng quy định, khách
quan, phản ánh đúng nội dung, bản chất của sự việc. Tránh đưa tin sai lệch,
không chính xác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Ban Tôn giáo Chính phủ (2015), Tập Bài giảng tôn giáo và công tác tôn
giáo, Hà Nội.
- Bộ Nội vụ (2015), Tập tài liệu bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu về Công
giáo cho công chức, (Ban hành kèm theo Quyết định số 699/QĐ-BNV ngày
07/8/2015 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Hà Nội).
- Nguyễn Hồng Dương (2008), Công giáo Việt Nam - Một số vấn đề
nghiên cứu, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
73
- Hội đồng Giám mục Việt Nam (2016), Giáo hội Công giáo Việt Nam
Niên giám 2016, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
- Hội đồng Giám mục Việt Nam (2007), Bộ Giáo luật 1983, Nhà xuất bản
Tôn giáo, Hà Nội.
- Văn phòng Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam (2005), Phụ
trương Giáo hội Công giáo Việt Nam Niên giám 2005, Nhà xuất bản Tôn giáo,
Hà Nội.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Những yếu tố dẫn đến sự du nhập và phát triển Công giáo vào Việt
Nam?
2. Giáo hội Công giáo có mấy cấp hành chính và phẩm trật trong Công
giáo như thế nào?
3. Những hoạt động xã hội nào của Công giáo cần tuyên truyền và lan tỏa
trong xã hội Việt Nam hiện nay? Nêu lý do?
74
Chuyên đề 4
KHÁI QUÁT VỀ TIN LÀNH Ở VIỆT NAM
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẠO TIN LÀNH Ở VIỆT NAM
1.1. Về lịch sử tên gọi đạo Tin Lành
Đạo Tin Lành là một tôn giáo có rất nhiều tên gọi khác nhau, tên tiếng
Anh gồm có: Protestantism, Reformism, Evangelism, Gospel, Christian, Good
new. Khi truyền vào Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đạo Tin Lành từng được người
miền Bắc gọi theo cách người Trung quốc là "đạo Thệ phản", ở miền Trung gọi
là đạo "Gia-tô", ở miền Nam gọi là đạo "Huê kỳ", ngoài ra còn có nhiều tên gọi
khác như Thìn Hùng (trong người Dao), Vàng Chứ (trong người Mông),...
Tên gọi đạo Tin Lành có từ đầu những năm 20, 30 của thế kỷ XX do giáo
sĩ Cadman người Canada thuộc Hội Liên hiệp Cơ đốc và Truyền giáo (The
Christian and Missionnary Alliance - thường được gọi tắt là Hội Truyền giáo
C.M.A) và văn sĩ Phan Khôi dịch Kinh thánh ra tiếng Việt Nam. Hai ông đã
dùng từ "Tin Lành" để chỉ nghĩa của từ Evangelism. Cũng có tài liệu cho rằng
hai ông đã sử dụng lại thuật ngữ "Tin Lành" từ bản dịch Kinh thánh của một
giáo sĩ Công giáo (cố Chính Linh).
Đạo Tin Lành trong tài liệu này được sử dụng chung cho nhiều hệ phái ra
đời trong quá trình cải cách Giáo hội Công giáo La Mã như: Trưởng lão,
Mennonite, Báp-tít, Giám lý, Lutheran, C.M.A, Cơ đốc Phục lâm, Mặc Môn,
Giê-hô-va, Anh giáo,...
1.2. Lịch sử du nhập của đạo Tin Lành ở Việt Nam
Sự xuất hiện sớm nhất của đạo Tin Lành ở Việt Nam được ghi nhận bắt
đầu từ Tin Lành cải cách Pháp, tuy nhiên đạt được thành công đầu tiên lại thuộc
về Tin Lành Bắc Mỹ - tổ chức “The Christian and Missionnary of Alliance”
(C.M.A) mà Tin Lành ở Việt Nam quen gọi là tổ chức Phước âm Liên hiệp hội
Hoa Kỳ hay Hội Truyền giáo C.M.A.
Năm 1884, Hội Truyền giáo thuộc địa (Société d'Evangelisation des
Colonies) thuộc Giáo hội Tin Lành Cải cách Pháp gửi một số mục sư tuyên uý
đến Việt Nam phục vụ cho binh lính và nhân viên quân đội viễn chinh Pháp ở
những vùng đất nhượng địa là: Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng. Trong số những
người Tin Lành Pháp đến Việt Nam thời kỳ này có một nhân vật nổi tiếng là bác
sỹ Alexandre Yersin (1863-1943). Ông ở Việt Nam hơn 50 năm, những công
việc ông làm và đời sống đạo của ông có ảnh hưởng lớn đối với Việt Nam.
75
Khoảng những năm 1890 - 1899, Hội thánh Tin Lành của người Pháp đã
được thành lập ở chợ Hàng Da nhưng sau khi Phái bộ nghiên cứu kế hoạch
truyền giáo ở Đông Dương của Tin Lành Pháp chấm dứt hoạt động (tháng
7/1925), Hội thánh cũng tan rã. Lúc này, hoạt động truyền đạo Tin Lành ở Việt
Nam hoàn toàn do tổ chức truyền giáo chuyên nghiệp đến từ Bắc Mỹ là Hội
Truyền giáo C.M.A như đề cập ở trên.
Hội Truyền giáo C.M.A tiếp cận địa bàn Việt Nam từ hướng biên giới Việt
- Trung. Sau khi thiết lập được cơ sở ở Quảng Tây (Trung Quốc), một số giáo sỹ
được Hội truyền giáo C.M.A cử vào Việt Nam. Năm 1897, Mục sư Clarence H.
Reeves từ Quảng Tây vượt qua biên giới đến Lạng Sơn. Ở Việt Nam không lâu
nhưng sau khi về, Mục sư C.H. Reeves có bài viết khá chi tiết về lịch sử, địa lý,
văn hóa và tôn giáo của Việt Nam đăng trên tờ Christian and Missionary
Alliance số tháng 9 năm 1897. Năm 1899, Mục sư Robert Alexandre Jaffray từ
Trung Quốc đi dọc theo sông Hồng đến Hà Nội dự định xây dựng cơ sở ở đây
nhưng không đạt được kết quả. Năm 1902, Hội Truyền giáo C.M.A cử vợ chồng
Mục sư Sylvain Dayan người Canada gốc Pháp đến Hải Phòng hy vọng nhận
được sự ủng hộ của người Pháp nhưng họ cũng phải sớm trở lại Trung Quốc mà
không đạt được kết quả như mong muốn. Năm 1905, Hội Truyền giáo C.M.A
chủ trương xây dựng cơ sở ở Long Châu (Quảng Tây) gần với Lạng Sơn để làm
trạm đầu cầu thâm nhập vào Việt Nam nhưng cũng không thành công.
Sau nhiều nỗ lực thâm nhập từ phía Bắc nhưng đều thất bại, Hội Truyền
giáo C.M.A chuyển hướng vào miền Trung. Năm 1911, Mục sư R.A. Jaffray
cùng với hai cộng sự là Paul M. Hosler và Griffiths Lloyd Hughes tới Đà Nẵng,
với sự giúp đỡ của ông Bonnet (người của tổ chức Thánh Kinh hội) hai ông đã
mua lại cơ sở của tổ chức này và đây chính là cơ sở Tin Lành đầu tiên tại Việt
Nam. Năm 1912, người Việt Nam ở thế kỷ XX theo đạo Tin Lành là ông
Nguyễn Văn Phúc, một trong những người bán sách Tin Lành12.
Việc đặt được cơ sở ở Đà Nẵng đã thúc đẩy Hội Truyền giáo C.M.A tăng
cường giáo sỹ vào Việt Nam. Năm 1914 đã có 09 giáo sỹ Hội truyền giáo C.M.A
ở Việt Nam, trong đó 01 người Anh, 02 người Na Uy, 04 người Canada và 02
người Mỹ. Số giáo sỹ Hội Truyền giáo C.M.A tăng lên gấp đôi vào năm 1921 và
gấp ba vào năm 1927. Từ cơ sở ở Đà Nẵng, các giáo sỹ Hội Truyền giáo C.M.A
mở thêm một số cơ sở khác ở như Hội An, Tam Kỳ, Đại Lộc,... và cử người đi
12 Thái Phước Trường (2011), Hội thánh Tin Lành Việt Nam - 100 năm hình thành và phát triển (lưu hành nội bộ), TP. Hồ Chí Minh, tr. 27.
76
truyền đạo ở Bắc Kỳ, Nam Kỳ. Kết quả đến năm 1915 ghi nhận ở Bắc Kỳ có 05
chi hội, Trung Kỳ có 06 chi hội và Nam Kỳ có 05 chi hội Tin Lành.
Khi truyền đạo ở Việt Nam, Hội Truyền giáo C.M.A tập trung vào ba hoạt
động chính là: dịch Kinh thánh ra tiếng Việt, lập nhà in và mở trường đào tạo
chức sắc; đồng thời phân khu vực Đông Dương thuộc địa hạt truyền giáo Hoa
Nam (Trung Quốc) với trung tâm ở Ma Cao. Đến năm 1915, địa hạt Đông
Dương được tách riêng. Năm 1927, Hội Tin Lành Đông Pháp (The Evangelical
Church of French Indochina) được thành lập. Năm 1936, khi Điều lệ của Hội
thánh được tu chỉnh lần thứ nhất, từ "Việt Nam" được thêm vào trong danh hiệu
Hội thánh ngay trước từ "Đông Pháp", thành Hội Tin Lành Việt Nam Đông
Pháp. Tên gọi này tồn tại cho đến năm 1945, khi thực dân Pháp bị lật đổ ở Đông
Dương từ Đông Pháp đã bị bỏ đi, chỉ còn Hội Tin Lành Việt Nam. Đến Đại hội
đồng lần thứ 21 vào năm 1950, tên gọi Hội thánh Tin Lành Việt Nam chính thức
được sử dụng.
Hệ phái Cơ đốc Phục lâm và Chứng Nhân Giê-hô-va cũng lần lượt xuất
hiện ở Việt Nam vào các năm 1929 và 1934, trong đó hệ phái Cơ đốc Phục lâm
truyền giáo khá thành công, chỉ đứng sau Hội Truyền giáo C.M.A. Các hệ phái
Tin Lành khác cũng lần lượt xuất hiện ở Việt Nam nhưng số lượng tín đồ không
nhiều, gồm: Tin Lành Mennonite (1954), Tin Lành Báp-tít (1959), Tin Lành
Môn đệ Đấng Christ (1960), Tin Lành Trưởng lão, Tin Lành Giám lý (cùng du
nhập vào năm 1968), Tin Lành Ngũ tuần (1970), năm 1974 Hội thánh Liên hữu
Cơ đốc Việt Nam ra đời,…
1.3. Quá trình phát triển của đạo Tin Lành tại Việt Nam
Căn cứ vào đặc điểm tình hình của đạo Tin Lành có thể chia quá trình phát
triển của đạo Tin Lành ở Việt Nam thành 4 giai đoạn sau:.
1.3.1. Giai đoạn thứ nhất, từ năm 1911 đến năm 1954
Trong giai đoạn này, như mọi tôn giáo khác, đạo Tin Lành không tránh
khỏi những khó khăn của buổi ban đầu nhưng đã nhanh chóng gây dựng được
các cơ sở mới. Năm 1920, nhà in Tin Lành được xây dựng tại Thành phố Hà
Nội, năm 1921 trường Thánh kinh được mở tại Đà Nẵng; năm 1926, công cuộc
truyền giáo lên khu vực Tây Nguyên được tiến hành; năm 1927, Đại hội đồng
lần thứ IV chính thức bầu ra Ban Trị sự Tổng liên hội do mục sư Hoàng Trọng
Thừa làm Hội trưởng và đặt tên là Hội Tin Lành Việt Nam Đông Pháp; năm
1928, Đại hội đồng lần thứ V quyết định phân chia Tin Lành Việt Nam thành 2
77
hạt: Bắc - Trung hạt và Nam hạt; năm 1929, hệ phái Cơ đốc Phục lâm chính
thức lập cơ sở đầu tiên ở Sài Gòn (nay là TP. Hồ Chí Minh); năm 1931, Đại hội
đồng Tổng Liên hội lần thứ VIII ở Hà Nội chia địa phận truyền giáo ở Việt Nam
thành 3 hạt Bắc - Trung - Nam Kỳ; năm 1940, đạo Tin Lành truyền vào người
Dao ở huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn; năm 1945, tên gọi Hội thánh Tin Lành
Việt Nam được thay cho Hội Tin Lành Việt Nam Đông Pháp; từ năm 1947 đến
năm 1949 có thêm 2 trường Kinh thánh được thành lập ở Buôn Ma Thuột và Đà
Lạt,...
Các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên có người theo đạo Tin lành đầu tiên
vào những năm 1930 - 1940 gồm: Dân tộc Cơ-ho (1929), dân tộc Chăm (1931),
dân tộ Hrê (1933), dân tộc Bru (1933), dân tộc Chơ-ro (1934), dân tộc Ê-đê
(1934), dân tộc Jrai (1940), dân tộc M’nông (1940), dân tộc Pacô (1940), dân
tộc Kơ-tu (1941), dân tộc Ba-na (1941),...
Đến năm 1945 ở Việt Nam có khoảng 15.000 tín đồ và tăng lên 60.000 tín
đồ vào năm 195413.
1.3.2. Giai đoạn thứ hai, từ năm 1954 đến năm 1975
Sau hiệp định Genève năm 1954, đất nước Việt Nam bị chia cắt làm hai
miền, đạo Tin Lành ở hai miền cũng có sự khác nhau. Ở phía Bắc, số đông chức
sắc, tín đồ di cư vào Nam, còn lại khoảng 1.000 tín đồ và hơn 10 mục sư, truyền
đạo thành lập nên Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc), phạm vi hoạt động
từ tỉnh Nghệ An trở ra. Năm 1962, Hội thánh thông qua bản Hiến chương đầu
tiên. Cũng trong năm này, trường Kinh thánh Hà Nội được thành lập.
Ở phía Nam, Hội Truyền giáo C.M.A đẩy mạnh hơn bao giờ việc đầu tư
kinh phí, phương tiện, giáo sĩ để giúp Hội thánh ơTin lành Việt Nam củng cố tổ
chức, mở rộng truyền giáo lên khu vực đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.
Đến năm 1975, Hội thánh Tin lành Việt Nam trở thành tổ chức Tin lành lớn ở
Việt Nam với gần 150.000 tín đồ, 190 mục sư, 167 truyền đạo, 155 truyền đạo
sinh, 530 chi hội.
Tổng cộng, đến năm 1975 ở Việt Nam có khoảng 187.000 người theo đạo
Tin lành, 20 tổ chức thuộc các hệ phái Ngũ tuần, Báp-tít, Trưởng lão,
Mennonite, Cơ đốc Phục lâm, Nhân chứng Giê-hô-va, Mặc Môn, Giám lý, Môn
đệ Đấng Christ, Quaker,.. và Tin Lành C.M.A.
1.3.3. Giai đoạn thứ ba, từ năm 1975 đến năm 2005
13 Nguyễn Thanh Xuân (2002), Bước đầu tìm hiểu đạo Tin Lành trên thế giới và ở Việt Nam, NXB Tôn giáo, Hà Nội, tr. 376.
78
Sau năm 1975, do một bộ phận tín đồ, chức sắc đạo Tin Lành ở khu vực
Tây Nguyên tham gia tổ chức chính trị phản động FULRO, chống lại chính
quyền cách mạng nên các nhà thờ Tin lành tại đây tạm dừng hoạt động. Ở đồng
bằng, nhiều chức sắc di cư ra nước ngoài dẫn đến nhiều tổ chức, hệ phái tự tan
rã, tín đồ tản lạc và sinh hoạt tôn giáo chủ yếu tại tư gia.
Cuối những năm 1980 đầu những năm 1990, khi đất nước thực hiện chính
sách đổi mới, mở rộng giao lưu quốc tế, đạo Tin Lành bắt đầu khôi phục hoạt
động. Đến tháng 4 năm 2006 ở các tỉnh Tây Nguyên, Bình Phước có gần
350.000 người theo đạo Tin Lành và khoảng 25.000 người Mông theo đạo Tin
Lành ở các tỉnh miền núi phía Bắc di cư đến.
Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng về địa bàn và số lượng người theo đạo Tin
Lành, tổ chức chính trị phản động FULRO lúc này cũng phục hồi hoạt động và
lôi kéo hàng chục ngàn tín đồ, chức sắc đạo Tin lành ở Tây Nguyên tham gia,
gây nên 2 vụ bạo loạn vào tháng 2/2001 và tháng 4/2004 ở Tây Nguyên.
Ở khu vực miền núi phía Bắc trước năm 1986 phần lớn đồng bào vùng DTTS
phía Bắc theo tín ngưỡng đa thần, chỉ một số ít theo Công giáo. Từ năm 1986, một
bộ phận người Mông, người Dao nghe truyền giáo từ đài FEBC (Manila, Philíppin)
đã từ bỏ tín ngưỡng truyền thống, theo đạo Tin Lành, ban đầu dưới tên gọi “Vàng
Chứ” (trong đồng bào Mông), “Thìn Hùng” (trong đồng bào Dao). Sau đồng bào
Mông, Dao có thêm đồng bào của các dân tộc như Tày, Nùng, Thái, Sán Chỉ tin
theo đạo Tin Lành. Năm 2003, số người Mông của 12 tỉnh miền núi phía Bắc theo
Tin Lành là gần 106.000 người, các DTTS khác khoảng 45.000 người.
Từ những năm 1990, các tổ chức, hệ phái Tin Lành trước đây tự tan rã nay
phục hồi và xuất hiện thêm nhiều nhóm mới. Đến năm 2000 cả nước có khoảng
40 tổ chức Tin Lành. Ngoài các tổ chức lớn, như Hội thánh Tin lành Việt Nam
(miền Nam), Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), Giáo hội Cơ đốc Phục lâm
Việt Nam, Hội Truyền giáo Cơ đốc Việt Nam, Hội thánh Liên hữu Cơ đốc Việt
Nam, Hội thánh Mennonite Việt Nam,... còn có các tổ chức Tin Lành như: Hội
thánh Agape, Hội chúng Ngũ tuần Việt Nam, Liên đoàn Truyền giáo Phúc âm,
Báp-tít Độc lập,… Đến cuối năm 2004, cả nước có trên 670.000 tín đồ, hơn 80 tổ
chức thuộc nhiều hệ phái Tin Lành khác nhau.
1.3.4. Giai đoạn thứ tư, từ năm 2005 đến năm 2020
Thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, đến cuối năm 2008 Nhà nước
đã công nhận 08 tổ chức Tin Lành, gồm: Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Việt Nam,
79
Hội Truyền giáo Cơ đốc Việt Nam, Tổng hội Báp-tít Việt Nam, Giáo hội Báp-tít
Việt Nam, Hội thánh Mennonite Việt Nam, Hội thánh Liên hữu Cơ đốc Việt
Nam, Hội thánh Tin Lành Trưởng lão Việt Nam, Hội thánh Phúc âm Ngũ tuần
Việt Nam. Ngày 18/11/2016 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội khóa
XIV thông qua, có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2018, thực hiện Luật, Nhà nước
cấp đăng ký hoạt động tôn giáo thêm 03 tổ chức Tin Lành là Hội thánh Phúc âm
Toàn vẹn Việt Nam, Hội thánh Tin Lành Liên hiệp Truyền giáo Việt Nam và
Giáo hội các Thánh hữu ngày sau của Chúa Giê-su Ky-tô Việt Nam nâng tổng
số tổ chức Tin Lành được Nhà nước cấp đăng ký hoạt động tôn giáo, công nhận
tổ chức tôn giáo lên con số 13 trong tổng số khoảng 80 tổ chức khác nhau.
Đến tháng 12/2020, ở Việt Nam có hơn 1,12 triệu người theo đạo Tin
Lành, trên dưới 100 tổ chức (gồm 10 tổ chức được công nhận pháp nhân, 03 tổ
chức được chấp thuận đăng ký hoạt động tôn giáo), hơn 2.300 chức sắc, gần 800
tổ chức tôn giáo trực thuộc và khoảng 5.500 điểm nhóm. Ngoài ra còn có hơn
9.000 người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam sinh hoạt tôn giáo tập
trung tại 61 điểm nhóm Tin Lành.
1.4. Một số đặc điểm của đạo Tin Lành ở Việt Nam
Đạo Tin Lành thường được nhắc đến với 5 tín lý duy nhất, gồm: “Duy Ân
điển”, “duy Đức tin”, “duy Kinh thánh”, “duy Chúa Cơ đốc” và “duy Thiên
Chúa” theo nghĩa lần lượt là: Chỉ bởi ân điển (ơn sủng) của Thiên Chúa mà con
người được cứu rỗi; để được cứu rỗi con người cần tin vào Thiên Chúa; Kinh
thánh (lời của Chúa) được ban cho tất cả mọi người, không riêng chức sắc được
dùng; Chúa Giê-su là đấng cứu chuộc duy nhất của con người, không có trung
gian khác và chỉ một mình Thiên Chúa được tôn vinh. Năm tín điều này làm cho
đạo Tin Lành trở thành tôn giáo nhất thần dễ gây xung đột với tín ngưỡng, tôn
giáo đa - phiếm thần, nhất là tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên.
Đạo Tin Lành cũng được biết đến là tôn giáo: “Hiện đại”, “duy lý”, “trần
thế”, “dân chủ”, “tự do”, “giải thiêng” và “cá thể’, thích hợp với tầng lớp thị dân
và đồng bào DTTS. Những điều này được thể hiện qua: Cơ cấu tổ chức gọn nhẹ;
nghi lễ đơn giản; nơi thờ phượng có thể thuê, mượn; chức sắc được lập gia đình
và không có thần quyền; mọi tín đồ đều có thể giao tiếp trực tiếp với Thiên
Chúa; Kinh thánh được tự do giải thích và thực hành theo cách riêng; sinh hoạt
tôn giáo vui nhộn, chủ yếu ca hát; sử dụng khoa học kỹ thuật trong quản đạo,
80
hành đạo và truyền đạo; nhiều tổ chức, nhiều hệ phái; tư duy thiên về lý tính,
thực tế; hoạt động theo nguyên tắc dân chủ, công khai, bầu cử bằng phiếu kín.
Ngoài các đặc điểm trên, đạo Tin Lành ở Việt Nam có sự kết hợp chặt chẽ
giữa hai yếu tố tôn giáo và DTTS; phân bổ chủ yếu ở 02 khu vực là Tây Nguyên và
miền núi phía Bắc; đa số tín hữu theo Tin Lành Phúc âm đã tương đối ổn định, số ít
hơn thuộc Tin Lành Ngũ tuần đang phát triển nhanh; quan hệ quốc tế của đạo Tin
Lành tương đối rộng, chủ yếu với Tin Lành Mỹ và Tin Lành Hàn Quốc, trong đó
mối quan hệ với Tin Lành Mỹ là chủ yếu, có tính lịch sử, mối quan hệ với Tin
Lành Hàn Quốc phát triển mạnh gần đây. Đạo Tin Lành ở Việt Nam vẫn trong quá
trình phát triển và hướng đến hội nhập văn hóa dân tộc.
Kinh sách của đạo Tin Lành gồm 39 quyển Cựu ước và 27 quyển Tân ước
được gọi chung là Kinh thánh. Một số hệ phái có thêm các sách khác như sách
Mặc Môn của Giáo hội các Thánh hữu ngày sau của Chúa Giê-su Ky-tô. Đạo
Tin Lành đề cao vị trí của Kinh thánh, coi đó là chuẩn mực căn bản, duy nhất
của đức tin và sự hành đạo. Với đạo Tin Lành, Kinh thánh hiện diện trong tất cả
các sinh hoạt tôn giáo và giữ vai trò như một giáo sĩ trên cả hai phương diện:
mục vụ và truyền giáo. Tín đồ đạo Tin Lành trực tiếp đọc, suy ngẫm và chiêm
nghiệm Kinh thánh. Thánh ca cũng được coi trọng trong sinh hoạt tôn giáo của
đạo Tin Lành.
Cũng như Công giáo, đạo Tin Lành thờ Thiên Chúa ba Ngôi (Ngôi Một:
Đức Chúa Cha (Đấng tự hữu, hằng hữu, toàn thiện, toàn mỹ, không có điểm bắt
đầu và cũng không có điểm tận cùng); Ngôi Hai: Đức Chúa Con (Chúa Jêsus
Christ, được thai dựng bởi Đức Thánh linh qua trinh nữ Ma-ri-a, là Đấng thần
nhân, thánh khiết, vô tội tuyệt đối, là Cứu Chúa duy nhất của nhân loại); Ngôi
Ba: Đức Thánh linh (là Thần yên ủi, hỗ trợ, đưa dẫn và cứu giúp người tin đạt
đến bậc thành nhân trong sự hiểu biết Đức Chúa Trời). Ba ngôi hiệp một, bình
đẳng, cùng bản tính và hiệp lại làm một Đức Chúa Trời trọn vẹn. Người theo
đạo Tin Lành tin vũ trụ, muôn vật đều do Thiên Chúa tạo dựng và điều khiển;
tin con người do Thiên Chúa tạo dựng theo cách riêng và có phần hồn, phần xác;
tin con người bị sa ngã và tội lỗi; tin có ngôi hai Thiên Chúa là Giê-su xuống thế
làm người, chịu chết để chuộc tội cho loài người; tin có Thiên thần và ma quỷ,
có thiên đường và địa ngục, có ngày tận thế, phục sinh và phán xét cuối cùng...
Tuy nhiên, có một số tín điều truyền thống của Công giáo đạo Tin Lành
sửa đổi và lược bỏ tạo ra sự khác biệt giữa hai tôn giáo; mức độ đề cao một số
81
tín điều cũng đậm nhạt khác nhau ở các hệ phái Tin Lành dẫn đến sự khác nhau
giữa các hệ phái.
Trong đời sống tín ngưỡng, đạo Tin Lành đề cao lý trí trong đức tin, cho
rằng sự cứu rỗi chỉ đến bởi đức tin, không phải vì những "hình thức tại ngoại"
(tức là không phải vì các luật lệ, lễ nghi). Do đó luật lệ, lễ nghi, cách thức hành
đạo của đạo Tin Lành đơn giản, không cầu kỳ.
Đạo Tin Lành thực hiện phép Rửa tội (Báp-tem) và phép Thánh thể (Tiệc
thánh). Ở phép Rửa tội, người chịu phép phải đủ tuổi để hiểu biết các lẽ đạo và
nhất là phải ăn ở trong sạch, không được phạm tội. Nghi lễ Báp-tem được tiến
hành bằng cách dìm cả người xuống nước (một số phái cho phép vẩy nước). Ở
phép Thánh thể, đạo Tin Lành cho rằng đó là kỷ niệm về sự chết của Chúa Giê-
su chuộc tội cho loài người, qua đó nhắc nhở con người sống xứng đáng hơn với
Thiên Chúa. Đạo Tin Lành thực hiện nghi lễ Thánh thể đơn giản, tất cả tín đồ và
chức sắc cùng uống rượu (nước ép trái cây) và ăn bánh. Lễ Thánh thể thường
được tổ chức vào chủ nhật đầu tiên của từng tháng. Ngoài ra, đạo Tin Lành còn
thực hiện các nghi lễ tôn giáo như: Lễ hôn phối, lễ dâng con trẻ cho Thiên Chúa
và một số lễ khác.
Tín đồ đạo Tin Lành tự xưng tội với Thiên Chúa. Khi xưng tội cũng như
khi cầu nguyện, tín đồ đạo Tin Lành có thể đứng giữa nhà thờ, trước đám đông
để sám hối hoặc nói lên ý nguyện của mình một cách công khai.
Nhà thờ đạo Tin Lành thường kiến trúc hiện đại, đơn giản. Trong nhà thờ
không có tượng ảnh, chỉ có cây Thập tự giá biểu tượng Chúa Giê-su chịu nạn.
Trong nhiều trường hợp đạo Tin Lành chỉ sử dụng những phòng họp hoặc hội
trường, đôi khi là một nhà tạm của tín đồ để làm điểm nhóm lễ, chia sẻ lời Chúa
trong Kinh thánh.
Chức sắc đạo Tin Lành gồm các phẩm: mục sư (tên gọi theo Kinh Thánh),
truyền đạo (còn gọi là giảng sư) trong đó mục sư là phẩm cao nhất. Một số tổ
chức Tin Lành gọi truyền đạo có nhiệm sở là mục sư nhiệm chức. Chức sắc đạo
Tin Lành chủ yếu là nam, nhưng cũng có một số hệ phái tuyển chọn phụ nữ và
nhìn chung họ không giữ chế độ độc thân. Chức sắc đạo Tin Lành không có thần
quyền, tức là không có quyền thay mặt Thiên Chúa ban phúc, tha tội cho tín đồ,
không phải là cầu nối trung gian trong mối quan hệ giữa tín đồ với Thiên chúa.
Quan hệ giữa chức sắc với tín đồ bình đẳng, cởi mở.
82
Đạo Tin Lành không có giáo hội chung toàn cầu cho các hệ phái. Mỗi hệ phái xây dựng các giáo hội độc lập với những hình thức, cơ cấu khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh điều kiện cho phép. Nhìn chung bộ máy tổ chức của các hệ phái Tin Lành đều đơn giản, nhiều tổ chức cấp trung ương chỉ mang tính liên hiệp, thực quyền nằm ở Hội thánh địa phương.
Để nhận diện rõ hơn về đạo Tin Lành có thể so sánh đạo Tin Lành với
Công giáo ở một số điểm như sau:
(1) Công giáo tin nhận 46/46 quyển Kinh Cựu ước trong khi đạo Tin Lành
chỉ tin nhận có 39/46 quyển.
(2) Công giáo coi Kinh thánh, các nghị quyết Công đồng và quyết định của Giáo hoàng là cơ sở của giáo lý - trong khi đạo Tin Lành cho rằng Kinh thánh là chuẩn mực căn bản và duy nhất của giáo lý và đức tin.
(3) Công giáo chủ yếu là sử dụng Kinh nguyện và Kinh bổn (sách giáo lý) trong sinh hoạt tôn giáo - trong khi đạo Tin Lành chỉ sử dụng Kinh thánh. (4) Công giáo cho rằng bà Ma-ri-a đồng trinh trọn đời và đề cao bà, coi bà là mẹ của Thiên Chúa - trong khi đạo Tin Lành lại cho rằng bà chỉ đồng trinh cho đến khi sinh Chúa Giê-su nên chỉ kính trọng chứ không tôn sùng thờ lạy, coi bà là mẹ trần thế của Chúa Giê-su.(5) Công giáo đề cao và tôn sùng các Thánh - trong khi đạo Tin Lành chỉ kính trọng các Thánh.
(6) Công giáo tin có thiên đường, địa ngục và luyện ngục - trong khi đạo Tin Lành chỉ tin có thiên đường và địa ngục, không tin có luyện ngục. (7) Công giáo thực hiện lễ rửa tội cho trẻ sơ sinh bằng vẩy nước và đặt tên Thánh cho người được rửa tội - trong khi đạo Tin Lành chủ yếu thực hiện phép Báp-têm cho người đã hiểu biết, thông thường từ 13 tuổi trở lên, chủ yếu bằng cách dìm mình xuống nước và không đặt tên Thánh cho người chịu phép Báp-tem. (8) Công giáo công nhận thuyết biến thể trong lễ Thánh Thể (bánh mì, rượu nho biến thành Mình Chúa và Máu Chúa) - trong khi đạo Tin Lành cho rằng lễ Thánh Thể là kỷ niệm về sự chết của Chúa Giê-su, bánh và rượu chỉ tượng trưng cho Mình và Máu Chúa.
(9) Công giáo quy định tín đồ xưng tội với Thiên Chúa qua linh mục -
trong khi tín đồ đạo Tin Lành tự xưng tội với Thiên Chúa.
(10) Công giáo thường sử dụng hình thức cầu nguyện chung bằng các bài kinh nguyện đã soạn sẵn - trong khi đạo Tin Lành tín đồ tự cầu nguyện, nói lên nguyện vọng của mình với Thiên Chúa và chỉ thực hiện hai bài cầu nguyện chung là Kinh Lạy Cha và Kinh Tin kính.
83
(11) Công giáo khi cầu nguyện sử dụng tràng hạt, quỳ lạy, làm dấu thánh -
trong khi đạo Tin Lành không sử dụng tràng hạt, không quỳ lạy, không làm dấu
Thánh khi cầu nguyện.
(12) Công giáo thờ hình tượng và tranh ảnh - trong khi đạo Tin Lành
không thờ hình tượng và tranh ảnh.
(13) Công giáo thường xây dựng nhà thờ theo kiểu Gô-tích, nhiều hoa văn
họa tiết cầu kỳ, có Thánh quan thày bảo hộ - trong khi nhà thờ đạo Tin Lành
kiến trúc theo lối hiện đại, trong ngoài nhà thờ không có tranh tượng, chỉ đặt
thập giá biểu tượng Chúa Ki-tô chịu nạn và không có Thánh quan thày bảo hộ.
(14) Công giáo xây dựng một giáo hội thống nhất, cơ quan trung ương là
giáo triều Vatican - trong khi đạo Tin Lành chia thành nhiều hệ phái, mỗi hệ
phái có nhiều giáo hội độc lập.
(15) Công giáo điều hành giáo hội theo cơ chế quân chủ, quyền lực tập
trung vào người đứng đầu (Đấng bản quyền) - trong khi đạo Tin Lành điều hành
giáo hội theo cơ chế dân chủ, tín đồ được tham dự các hoạt động của giáo hội
một cách trực tiếp theo chế độ đại cử tri.
(16) Công giáo có hàng giáo phẩm với những phẩm trật trên dưới khác
nhau: Giáo hoàng, Hồng y, giám mục, linh mục - trong khi giáo phẩm của đạo
Tin Lành gồm: mục sư, trưởng lão và chấp sự. Một số hệ phái có cả phụ nữ
tham gia hàng giáo phẩm. Hàng giáo phẩm Công giáo duy trì chế độ độc thân và
có thần quyền rất lớn - trong khi hàng giáo phẩm của đạo Tin Lành được lập gia
đình và thần quyền mờ nhạt.
(17) Công giáo hình thành hệ thống dòng tu nam, dòng tu nữ và được chia
thành hai loại dòng tu theo quy chế địa phận, dòng tu theo quy chế Tòa thánh -
trong khi đạo Tin Lành không duy trì dòng tu.
2. TÌNH HÌNH ĐẠO TIN LÀNH Ở VIỆT NAM
2.1. Số lượng (chức sắc, chức việc, tín đồ, cơ sở tôn giáo)
Như trên đã đề cập, đến tháng 12/2020 đạo Tin Lành ở Việt Nam có hơn
1,12 triệu người tin theo, trên dưới 100 tổ chức thuộc nhiều hệ phái khác nhau,
gần 800 tổ chức tôn giáo trực thuộc, khoảng 5.500 điểm nhóm. Ngoài ra còn có
hơn 9.000 người nước ngoài sinh hoạt tôn giáo tập trung tại 61 điểm nhóm.
2.1.1. Về tín đồ đạo Tin Lành
Trong tổng số 1,12 triệu người theo đạo Tin Lành có trên 855.000 người
DTTS (chiếm 76,33%). Khoảng 40 DTTS ở Việt Nam có người theo đạo Tin
Lành trong đó 05 dân tộc có số lượng tín đồ đạo Tin Lành lớn nhất (năm 2019)
84
gồm: Dân tộc Mông - 270.000 người, dân tộc Êđê - 124.000 người, dân tộc Jrai -
99.000 người, dân tộc K’ho - 67.000 người, dân tộc S’Tiêng - 60.000 người.
2.1.2. Về chức sắc, chức việc đạo Tin Lành
Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ vào tháng 6/2019, cả nước có
khoảng 2.300 chức sắc (bao gồm các phẩm mục sư, mục sư nhiệm chức và truyền
đạo). Tuy nhiên số lượng chức sắc do các tổ chức Tin Lành phong nhiều hơn từ 2
đến 3 lần. Tuỳ theo phẩm trật cao thấp và quy định của từng hệ phái, tổ chức Tin
Lành, các chức sắc ở phẩm khác nhau sẽ có quyền hạn khác nhau, thể hiện qua
việc làm chủ lễ các nghi lễ (bao gồm Thánh lễ và giáo lễ).
Chức việc theo quy định của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (khoản 9, Điều 2)
là “người được tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức được cấp
chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo bổ nhiệm, bầu cử hoặc suy cử để giữ
chức vụ trong tổ chức”. Đối chiếu với quy định của các tổ chức Tin Lành, chức
việc đạo Tin Lành bao gồm: Thành viên ban lãnh đạo tổ chức (như hội trưởng,
phó hội trưởng, chủ tịch, phó chủ tịch, tổng trưởng nhiệm, tổng quản nhiệm, phó
tổng trưởng nhiệm, phó tổng quản nhiệm, tổng thư ký, tổng thủ quỹ, phó tổng
thư ký phó tổng thủ quỹ, ủy viên); thành viên ban lãnh đạo tổ chức tôn giáo trực
thuộc (như quản nhiệm, thành viên ban chấp sự); thành viên ban đại diện
(trưởng ban đại diện, thư ký, ủy viên); thành viên ban lãnh đạo các cơ quan, uỷ
ban, cơ sở đào tạo tôn giáo (hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, giám quản,..). Đến
tháng 6/2019, thống kê của Ban Tôn giáo (Sở Nội vụ) các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương cho thấy cả nước có gần 7.000 chức việc, trong đó 100% chức
sắc đồng thời là chức việc.
2.2. Sự phân bố
Đạo Tin Lành hoạt động tại 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
của Việt Nam nhưng tập trung chủ yếu tại 3 khu vực sau:
- Khu vực các tỉnh Tây Nguyên và tỉnh Bình Phước: Đến đầu năm 2020
toàn khu vực có gần 584.000 người theo đạo Tin Lành (85% là đồng bào
DTTS), 311 chi hội, 1.742 điểm nhóm, 811 chức sắc, 2.587 chức việc, lần lượt
chiếm tỷ trọng 52% về tín đồ, 36% về chức sắc, 37% về chức việc của đạo Tin
Lành cả nước.
- Khu vực miền núi phía Bắc: Tổng số người theo đạo Tin Lành ở khu vực
tính đến năm 2020 là 235.635 người (95% là người Mông), 389 chức sắc, 525
85
chức việc, 09 chi hội, 1.631 điểm nhóm, lần lượt chiếm tỷ trọng 21% về tín đồ,
hơn 17% về chức sắc và gần 8% về chức việc của đạo Tin Lành cả nước.
- Khu vực trung tâm, đô thị lớn, gồm TP. Hồ Chí Minh (gần 74.000 tín đồ
nhưng có tới 95% tổ chức Tin Lành của cả nước đặt trụ sở trung ương giáo hội),
Thành phố Hà Nội (khoảng 10.000 tín đồ, 4% tổ chức Tin Lành của cả nước đặt trụ
sở trung ương giáo hội). Ngoài ra tại đây còn là nơi tập trung sinh hoạt tôn giáo của
hơn 9.000 người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam theo đạo Tin Lành.
Nếu tiếp cận theo địa bàn nông thôn và thành thị thì đại đa số tín đồ đạo
Tin Lành ở Việt Nam cư trú ở nông thôn, chủ yếu là nông thôn, miền núi ở các
tỉnh Tây Nguyên, Bình Phước, một số tỉnh Duyên hải miền Trung (60,39%) và
các tỉnh miền núi phía Bắc (21%). Kết quả này cũng tương đồng với kết quả
Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 với 88,73% tín đồ đạo Tin Lành sinh
sống ở nông thôn14.
Ngoài ra, nhiều tổ chức Tin Lành trong nước có mối quan hệ thông công,
hợp tác với các tổ chức Tin Lành ở các nước trên thế giới, nhiều nhất với Tin
lành Hàn Quốc, Tin Lành Hoa Kỳ trên các lĩnh vực như: đào tạo Thần học, mục
vụ; xuất bản ấn phẩm tôn giáo; hoạt động từ thiện nhân đạo; trao đổi học thuật,
kinh nghiệm; tổ chức sự kiện. Thông qua các hoạt động này các tổ chức Tin
Lành Việt Nam góp phần thúc đẩy hoạt động ngoại giao nhân dân, đưa văn hóa
Việt nói chung, văn hóa cơ đốc mang đặc trưng người Việt đến với các nước.
Một số tổ chức Tin lành ở Việt Nam đã có giáo sĩ, chi nhánh ở nước ngoài, tham
gia các hiệp hội Tin lành ở khu vực và quốc tế.
2.3. Cơ cấu tổ chức
Trong đạo Tin Lành không có cơ cấu tổ chức Giáo hội chung, mỗi hệ phái
có mô hình tổ chức khác nhau, đa số giao quyền tự trị cho Hội thánh địa phương
(Hội thánh cơ sở, Chi hội). Cùng hệ phái nhưng tổ chức khác nhau cũng có thể
có cơ cấu tổ chức hành chính đạo không giống nhau. Việc chia tách, ly khai,
hình thành tổ chức mới bắt đầu từ những nhóm nhỏ thường xuyên diễn ra trong
đạo Tin Lành từ quá khứ đến hiện tại và phổ biến trên toàn thế giới.
Tên gọi tổ chức của đạo Tin Lành có thể được bắt đầu bằng từ “Hội
thánh”, “Giáo hội” hoặc “Tổng hội” như: Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền
Nam), Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc), Hội thánh Mennonite Việt
14 Ban Chỉ đạo Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở Trung ương (2019), Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr.162.
86
Nam, Hội thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam, Hội Truyền giáo Cơ đốc Việt Nam,
Tổng hội Báp-tít Việt Nam, Giáo hội Báp-tít Việt Nam, Giáo hội Phúc âm Ngũ
tuần Việt Nam,... Dù được bắt đầu bằng “Hội thánh”, “Giáo hội” hay “Tổng
hội” thì ý nghĩa chung, thiêng liêng theo Kinh thánh đều là “Hội thánh của
Chúa”. Vì vậy, đa số các tổ chức Tin Lành thường dùng từ “Hội thánh” để gọi
tên tổ chức của mình và trong nhiều trường hợp cụm từ “Hội thánh Tin Lành”
được dùng như danh từ chung để chỉ các tổ chức Tin Lành.
Cơ cấu tổ chức của các Hội thánh Tin Lành được Nhà nước công nhận
hiện nay gồm 2 (hai) cấp hành chính đạo: Cấp trung ương và cấp cơ sở. Ngoài ra
một số tổ chức còn có cấp trung gian là Ban Đại diện hoặc nhân sự đại diện ở
cấp tỉnh; thấp hơn cấp cơ sở là điểm nhóm (có thể trực thuộc cấp cơ sở hoặc trực
thuộc cấp trung ương giáo hội).
Cấp trung ương giáo hội của các tổ chức Tin Lành đã được Nhà nước công
nhận, cấp đăng ký hoạt động tôn giáo hiện có nhiều tên gọi khác nhau, bao gồm:
Tổng Liên hội, Tổng hội, Ban Quản trị, Hội đồng Quản trị, Hội đồng Thường
vụ, Hội đồng Trưởng nhiệm, Ban Tổng Quản nhiệm.
Cấp cơ sở của các tổ chức Tin Lành đã được Nhà nước công nhận cũng có
nhiều tên gọi khác nhau. Một số tổ chức gọi cấp cơ sở là chi hội, số khác gọi là
Hội thánh cơ sở hoặc Hội thánh địa phương. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo gọi
chung là tổ chức tôn giáo trực thuộc. Một số tổ chức Tin Lành tiếp tục phân
hạng cấp cơ sở thành: Chi hội tự lập và Chi hội tự dưỡng.
Điểm nhóm được dùng để chỉ một cộng đồng người có cùng đức tin tôn
giáo, tập hợp với nhau để sinh hoạt đạo tại một địa điểm (có thể ở nhà riêng
hoặc nơi công cộng), chưa đủ tiêu chí để trở thành tổ chức tôn giáo trực thuộc.
Điểm nhóm thường hình thành theo đơn vi thôn (ấp, bản) hoặc xã, phường. Khi
điểm nhóm hội đủ các tiêu chí theo Hiến chương của tổ chức và quy định của
pháp luật, cơ quan trung ương giáo hội của tổ chức đề nghị cơ quan nhà nước có
thẩm quyền chấp thuận thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc. Sinh hoạt tôn giáo
của điểm nhóm Tin Lành đơn giản hơn cấp tổ chức tôn giáo trực thuộc, chưa có
một số hoạt động theo Hiến chương của tổ chức (như hoạt động phong chức,
phong phẩm, đào tạo,..) và một số hoạt động theo pháp luật (như hoạt động quan
hệ quốc tế, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất,..).
Thành viên ban lãnh đạo cấp trung ương giáo hội của các tổ chức Tin Lành
chủ yếu được hình thành thông qua bầu cử tại đại hội. Việc bầu cử được thực hiện
87
một cách dân chủ, công khai, trực tiếp bằng phiếu kín. Cơ quan lãnh đạo các cấp
của các tổ chức Tin Lành hoạt động theo nhiệm kỳ (dao động từ 2 đến 5 năm/kỳ),
thành viên ngoài chức sắc (chiếm đa số) còn có tín đồ.
Đạo Tin Lành là tôn giáo có đường hướng và phương thức hoạt động rất
năng động, luôn đổi mới từ nội dung đến hình thức để thích nghi với hoàn cảnh
xã hội. Đạo Tin Lành tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội, nhất là lĩnh
vực từ thiện nhân đạo và đang tiếp cận lĩnh vực cai nghiện ma tuý. Điều này tạo
ra uy tín, khả năng tiếp cận, truyền giáo và chung sống với nhiều chế độ chính
trị khác nhau của đạo Tin Lành.
2.4. Thực trạng hoạt động
2.4.1. Hoạt động truyền giáo
Đạo Tin lành rất linh hoạt và sử dụng nhiều phương pháp (trực tiếp và gián
tiếp) để truyền giáo, như: cấp phát Kinh sách, làm chứng đạo, thông qua hoạt
động từ thiện nhân đạo, các chương trình (phát thanh, ngoại khóa), tổ tâm vấn,...
Lực lượng tham gia hoạt động truyền giáo của đạo Tin Lành không dừng ở
chức sắc, chức việc như một số tôn giáo khác. Là người theo đạo Tin Lành, dẫu
không có phẩm trật, chức vụ nhưng đều được thôi thúc truyền giáo. Truyền giáo
với người Tin Lành vừa là sứ mệnh, bổn phận, vừa là động lực tự thân và được
xuất phát từ Kinh thánh. Tuy nhiên theo quy định của pháp luật về tín ngưỡng,
tôn giáo thì hoạt động truyền giáo phải do tổ chức, cá nhân tôn giáo đã đăng ký
hoặc thông báo và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận thực hiện.
Đạo Tin Lành cũng là tôn giáo ứng dụng mạnh mẽ khoa học kỹ thuật và
công nghệ để thực hiện các hoạt động tôn giáo trên môi trường mạng (Kinh
thánh bản điện tử; giảng đạo, truyền đạo, đào tạo, bồi dưỡng thậm chí cả đại hội
cũng có thể được tổ chức trực tuyến).
2.4.2. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, phong chức, phong phẩm
Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng giáo lý của đạo Tin Lành diễn ra với nhiều
hình thức khác nhau: đào tạo, bồi dưỡng trong nước; đào tạo, bồi dưỡng ngoài
nước; đào tạo, bồi dưỡng theo hình thức tập trung, bán tập trung, trực tuyến; tự
đào tạo và liên kết đào tạo. Theo quy định của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, các tổ
chức tôn giáo nói chung, trong đó có các Hội thánh Tin Lành, sau khi được công
nhận pháp nhân được thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo và mở lớp bồi dưỡng giáo
lý. Hiện có 03 cơ sở đào tạo tôn giáo của đạo Tin Lành, gồm:
88
(1) Viện Thánh kinh Thần học thuộc Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền
Nam) được chấp thuận thành lập năm 2003, trụ sở tại tổ 15, khu phố 5, đường
Bình Trưng, phường Bình Trưng Đông, Quận 2 (nay là Thành phố Thủ Đức),
TP. Hồ Chí Minh. Ban đầu Viện Thánh kinh Thần học có chức năng đào tạo cử
nhân Thần học, năm 2018 được chấp thuận mở thêm hệ cao học và năm 2021
thêm hệ trung cấp Thần học.
(2) Trường Thánh kinh Thần học Hà Nội thuộc Hội thánh Tin Lành Việt
Nam (miền Bắc) được chấp thuận thành lập năm 2013, trụ sở tại số 02 Ngõ
Trạm, phường Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội. Trường có
chức năng đào tạo cao đẳng và cử nhân Thần học.
(3) Trường Kinh thánh cơ đốc thuộc Giáo hội Cơ đốc Phục lâm Việt Nam
được chấp thuận thành lập năm 2017, trụ sở tại 224 Phan Đăng Lưu, quận Phú
Nhuận, TP. Hồ Chí Minh. Trường có chức năng đào tạo trung cấp, cao đẳng và
cử nhân Thần học.
Ngoài đào tạo tập trung tại cơ sở đào tạo tôn giáo, các tổ chức Tin Lành
hằng năm đều mở các lớp bồi dưỡng giáo lý theo quy định của pháp luật, bao
gồm các lớp Thánh kinh hè, giáo lý căn bản,..
Hoạt động phong chức, phong phẩm được các tổ chức Tin Lành quan tâm
thực hiện. Điều kiện, tiêu chuẩn phong chức, phong phẩm chủ yếu do các tổ
chức Tin Lành quy định trong Hiến chương, điều lệ của tổ chức được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền chấp thuận. Pháp luật không quy định điều kiện bắt
buộc về trình độ học vấn, tuổi đời, tuổi đạo cũng như trình độ Thần học của
người được phong chức, phong phẩm, chỉ quy định điều kiện chung về tư cách
công dân. Vì vậy, tuy cùng phẩm trật, chức vụ nhưng chức sắc, chức việc đạo
Tin Lành thuộc về các Hội thánh khác nhau sẽ không giống nhau về trình độ học
vấn, trình độ Thần học và mục vụ cũng như tuổi đời, tuổi đạo, thậm chí giới
tính. Một số Hội thánh Tin Lành quy định người được phong phẩm mục sư ít
nhất phải tốt nghiệp phổ thông trung học, trình độ Thần học từ cử nhân trở lên
và phải là nam giới trong khi một số Hội thánh khác lại không đặt ra những điều
kiện này hoặc quy định ở mức thấp hơn, hoặc chấp thuận phong phẩm mục sư cả
cho nữ giới.
2.4.3. Hoạt động về phương diện tổ chức
Thành lập, chia, tách tổ chức tôn giáo trực thuộc, thậm chí điểm nhóm và
ở phạm vi tổ chức giáo hội thường xuyên diễn ra trong đạo Tin Lành trên toàn
89
thế giới cũng như ở Việt Nam. Cơ cấu tổ chức nội bộ của từng Hội thánh Tin
lành vì vậy rất dễ có sự biến động. Ở quy mô lớn hơn, các tổ chức Tin lành
thường gắn kết với nhau thông qua mô hình hiệp hội, bao gồm hiệp hội tầm
quốc gia, hiệp hội khu vực, hiệp hội quốc tế. Một số tổ chức Tin Lành đã bắt đầu
cử chức sắc ra nước ngoài để truyền giáo, mở chi nhánh.
Đại hội các cấp là hoạt động tôn giáo lớn nhất của đạo Tin Lành về
phương diện tổ chức. Đại hội ở cấp cơ sở (tổ chức tôn giáo trực thuộc) thường
được gọi là Hội đồng, Đại hội toàn đạo (cấp trung ương) thường được gọi Đại hội
hoặc Đại hội đồng. Đại hội có nhiệm vụ thảo luận, quyết định các công việc quan
trọng của tổ chức trong một nhiệm kỳ, bao gồm bầu cử ban lãnh đạo, xây dựng
hoặc sửa đổi Hiến chương. Thành phần tham dự Đại hội gồm đại biểu hàng giáo
phẩm đương nhiệm (mục sư, mục sư nhiệm chức, truyền đạo) là đại biểu đương
nhiên và đại biểu là tín đồ do cấp cơ sở bầu cử theo quy chế và số lượng được quy
định. Tùy theo từng tổ chức mà Đại hội có thể tiến hành theo nhiệm kỳ 02 hoặc 05
năm một lần.
2.4.4. Hoạt động xuất bản Kinh sách
Hoạt động xuất bản Kinh sách luôn được các tổ chức Tin Lành chú trọng
thực hiện, bao gồm: tự xuất bản hoặc liên kết xuất bản. Đến cuối năm 2019, chỉ
riêng Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) đã xuất bản 1.000.000 cuốn Kinh
thánh và hướng tới 1 triệu bản in khác. Kinh thánh ở Việt Nam đã được xuất bản ra
15 ngôn ngữ gồm: K’ho, Bru, Ê-đê, Gia-rai, M’nông, Jeh, Ba-na, Tày, Jrai, Chăm,
H’rê, Chran, S’tiêng, Hoa, Nùng15. Bên cạnh hoạt động xuất bản Kinh sách, nhiều
tổ chức Tin Lành còn nhập khẩu, nhận hiến tặng Kinh sách từ nước ngoài.
Kinh thánh (66 quyển) đa số được các hệ phái Tin Lành sử dụng nên một
Hội thánh có thể đứng ra đề nghị xuất bản để đáp ứng nhu cầu cho nhiều Hội
thánh. Nói cách khác, quyển Kinh thánh được xuất bản hợp pháp (chủ yếu do Nhà
xuất bản Tôn giáo cấp phép) được lưu hành và sử dụng rộng rãi, các hệ phái, tổ
chức giáo hội khác nhau đều có thể sử dụng chung.
2.4.5. Hoạt động xây dựng cơ sở tôn giáo
Tuy số lượng cơ sở thờ tự của đạo Tin Lành không nhiều, nhưng số lượng
cơ sở thờ tự được xây dựng mới đều tăng qua các năm. Năm 2011 cả nước có
351 nhà thờ Tin Lành, con số này đã tăng lên 367 cơ sở vào năm 2013, 373 vào
15 Số liệu do Nhà xuất bản Tôn giáo cung cấp tháng 01/2020.
90
năm 2015 và 576 vào năm 201916. Ngoài ra, theo quy định mới của Luật Tín
ngưỡng, tôn giáo, các tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, nhóm sinh
hoạt tôn giáo tập trung được phép thuê, mượn địa điểm hợp pháp để làm trụ sở,
địa điểm sinh hoạt tôn giáo tập trung. Hiện có hàng ngàn địa điểm thuộc dạng
này trên phạm vi cả nước được các cấp chính quyền giải quyết để đáp ứng nhu
cầu sinh hoạt tôn giáo của người theo đạo Tin Lành.
2.5. Về từ thiện xã hội
Đạo Tin Lành là một tôn giáo có tính hiện đại và thế tục rõ nét. Công cuộc
truyền giáo của đạo Tin Lành thường được bắt đầu và gắn liền với các hoạt động
từ thiện nhân đạo, an sinh xã hội, giáo dục, y tế. Hoạt động từ thiện nhân đạo,
bảo trợ xã hội, phát triển giáo dục, y tế được các hệ phái Tin Lành thực hiện rất
có hiệu quả. Hiện nay, trên thế giới một số trường dại học danh tiếng, các trung
tâm y tế, bệnh viện nổi tiếng có nguồn gốc từ đạo Tin Lành, ngoài ra còn có các
trung tâm, các tổ chức phi chính phủ thực hiện hoạt động từ thiện nhân đạo
xuyên quốc gia gắn với đạo Tin Lành đã và đang đóng góp cho không nhỏ về
hoạt động giáo dục, y tế cộng đồng, từ thiện nhân đạo, an sinh xã hội trên toàn
cầu (như các tổ chức: ADRA - Cơ đốc Phục lâm, MCC - Mennonite, SPIR - Tin
Lành Hoa Kỳ, MQI - Quaker, WVI - Tin Lành Hoa Kỳ, BFDW - Tin Lành Đức,
KSSA - Tin lành Hàn Quốc, YWAM – Tin Lành Thụy sỹ, COCOA - Tin lành
Australia,…). Theo số liệu của Bộ Văn hóa - thể thao - du lịch Hàn Quốc, đến
tháng 12/2018 đạo Tin lành ở Hàn Quốc đóng góp 740 cơ sở giáo dục (từ bậc
tiểu học đến sau đại học), 124 viện nghiên cứu, 196 cơ sở y tế và bảo trợ xã hội,
259 tổ chức phúc lợi xã hội, 12 quỹ phi lợi nhuận. Các con số này nhiều hơn ở
Hoa Kỳ - một quốc gia đa tôn giáo nhưng chủ yếu là tín đồ đạo Tin Lành.17
Hoạt động từ thiện nhân đạo, an sinh xã hội cũng được các tổ chức Tin
Lành Việt Nam chú trọng thực hiện và đạt nhiều kết quả. Theo thống kê chưa đầy
đủ trong những năm gần đây các tổ chức Tin Lành trong nước đã và đang tích cực
tham gia các hoạt động từ thiện nhân đạo, gồm các chương trình: quỹ nạn nhân
chất độc da cam; tặng quà tết, xây nhà tình thương cho các hộ nghèo, ủng hộ
đồng bào gặp thiên tai lũ lụt, thực hiện các chương trình đưa nước ngọt, khoan
giếng tại vùng thiếu nước ngọt, xây dựng cầu bê tông tại vùng đồng bằng sông
Cửu Long; cấp học bổng cho học sinh nghèo, trẻ mồ côi, áo ấm tình thương cho
16 Số liệu tổng hợp của Ban Tôn giáo Chính phủ
17 Báo cáo chuyên đề “Đạo Tin lành trong mối quan hệ giữa Việt Nam và một số quốc gia”,Tài liệu lưu trữ tại Ban Tôn giáo Chính phủ, tr.11, 22.
91
trẻ em vùng cao; cấp phát xe lăn, các thiết bị hỗ trợ cho người khuyết tật; triển
khai tủ thuốc y tế, cấp phát các thiết bị y tế, khám từ thiện cho đồng bào nghèo
trên khắp cả nước; thành lập trung tâm tư vấn việc làm, điểm hỗ trợ cai nghiện,...
Theo thống kê sơ bộ, các tổ chức Tin Lành đã được Nhà nước công nhận trung
bình mỗi năm chi ra tổng cộng khoảng 24 tỷ đồng cho công tác từ thiện nhân đạo,
an sinh xã hội và tham gia các phong trào do chính quyền, đoàn thể các cấp phát
động như: Phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư”; “Phòng trào xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; “Phong trào xóa
đói giảm nghèo”; “Phong trào vận động thực hiện nếp sống văn hóa, văn minh,
phát triển kinh tế xã hội”; “Phong trào phát huy vai trò của các tôn giáo tham gia
bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu”,...
Trong thời gian diễn ra dịch Covid-19, Nhà nước ghi nhận việc tuân thủ
thực hiện công tác phòng, chóng dịch Covid-19 và những hoạt động ủng hộ
phòng, chống dịch Covid-19 của các tổ chức tôn giáo. Theo thống kê của Ban
Tôn giáo Chính phủ từ khi dịch Covid-19 xuất hiện ở Việt Nam đến tháng
9/2021 nhiều tổ chức, cá nhân theo đạo Tin Lành đã thông qua Mặt trận, chính
quyền các cấp ủng hộ hơn 50 tỷ đồng bao gồm tiền mặt, nhu yếu phẩm, vật tư y
tế (bộ đồ bảo hộ y tế, máy trợ thở, khẩu trang, bộ kít (test nhanh Covid-19),
dung dịch sát khuẩn,...).
Từ những năm 1990, trước vấn nạn ma tuý và nhu cầu cai nghiện trong xã
hội tăng cao, một số tổ chức và chức sắc đạo Tin Lành ở Việt Nam từ chỗ cưu
mang người nghiện ma tuý miễn phí đã từng bước tổ chức cắt cơn, giải độc; giáo
dục, phục hồi hành vi, nhân cách; tư vấn, giới thiệu việc làm cho nhiều người
nghiện cùng lúc, hình thành các điểm cai nghiện ma tuý tập trung, có thu phí.
Các hoạt động này diễn ra với nhiều tên gọi khác nhau như “mục vụ giải cứu”,
“mục vụ tái sinh”, “mục vụ phục hồi”,... Người nghiện chủ yếu do gia đình tự
nguyện đưa đến, chủ động khai báo tình trạng nghiện và đã có nhiều ngàn lượt
người tham gia, xu hướng tăng nhanh.
Đến tháng 4/2021 cả nước có 56 điểm cai nghiện ma tuý tự phát của tôn
giáo, trong đó đạo Tin Lành (55 điểm do 05 Hội thánh thực hiện), Công giáo (01
điểm); phân bố trên địa bàn 18 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tập trung
chủ yếu trên địa bàn Thành phố Hà Nội (18 điểm). Hiện có khoảng 2.000 người
đang cai nghiện ma túy tại đây; riêng địa bàn Thành phố Hà Nội từ năm 2016
92
đến tháng 12/2020 có 1.212 lượt người nghiện ma túy tham gia. Hoạt động này
đang được các cơ quan chức năng nghiên cứu, đánh giá.
2.6. Quan hệ quốc tế
Mối quan hệ quốc tế của đạo Tin lành ở Việt Nam khá đa dạng. Có thể
chia làm hai loại chủ yếu như sau:
- Mối quan hệ được thiết lập từ khi đạo Tin lành mới truyền vào Việt Nam,
theo hệ thống dọc của từng tổ chức, hệ phái, trong đó đạo Tin lành ở Việt Nam
được coi là bộ phận của các tổ chức Tin lành nước ngoài (như Cơ đốc Phục lâm,
Hội thánh Tin lành Việt Nam với Hiệp truyền giáo C.M.A trước năm 1975,..).
- Mối quan hệ đồng đạo theo tinh thần "đại kết Ki-tô giáo” Mối quan hệ
này rất phong phú và năng động, được thiết lập nhằm hỗ trợ nhau trong sinh
hoat tôn giáo, nhất là các hoạt động truyền giáo. Thuộc mối quan hệ này cũng có
02 loại:
+ Các tổ chức truyền giáo chuyên nghiệp, như: Thánh kinh hội, Ngôn ngữ
mùa hè, Cứu thế quân,..
+ Các tổ chức từ thiện xã hội do các tổ chức Tin lành quốc tế thành lập
hoặc bảo trợ như: Tổ chức Tầm nhìn thế giới, Cơ quan phát triển và cứu trợ cơ
đốc Phục lâm, Oxfam,..
Các mối quan hệ trên được thiết lập song song với các mối quan hệ khác,
nhất là mối quan hệ phi chính phủ.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đất nước mở cửa và thời đại công nghệ
4.0, hoạt động quan hệ quốc tế của các tổ chức Tin Lành ngày nay có điều kiện
rộng mở hơn. Đặc biệt năm 2017, nhân kỷ niệm 500 năm ngày cải chánh Giáo
hội, Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc) đã tổ chức lễ kỷ niệm quy mô lớn
tại Thành phố Hà Nội với sự hiện diện của mục sư Franklin - Chủ tịch Hiệp hội
truyền giáo Billy Gramham. Tham gia các hiệp hội Tin Lành thế giới và khu vực
cũng là xu hướng được nhiều tổ chức Tin Lành trong nước thực hiện, thể hiện
quan hệ quốc tế rộng mở của đạo Tin Lành và chính sách, pháp luật về tôn giáo
thông thoáng của Đảng, Nhà nước.
3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM VỀ ĐẠO TIN LÀNH PHỤC
VỤ CÔNG TÁC THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN VỀ TÍN NGƯỠNG,
TÔN GIÁO
3.1. Nắm rõ chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước đối
với tín ngưỡng, tôn giáo nói chung và Tin Lành nói riêng.
3.2. Hiểu được đặc điểm của đạo Tin Lành và đạo Tin Lành ở Việt Nam.
93
Thứ nhất, “đạo Tin Lành” là tên gọi để chỉ một tôn giáo có nguồn gốc từ
châu Âu, hình thành trên cơ sở cải cách Giáo hội Công giáo La Mã thế kỷ XVI
do chính một vị linh mục của Công giáo khởi xướng. Vì vậy, về tên gọi, không
nên nhầm lẫn giữa “đạo Tin Lành” với Công giáo.
Thứ hai, tuy chung tên gọi tôn giáo (Tin Lành) nhưng đạo Tin Lành là tôn
giáo không thuần nhất về Thần học, nhiều tổ chức, nhiều hệ phái trong đó có cả
những hệ phái có yếu tố tà giáo cả trên phương diện giáo lý (giải nghĩa Kinh
thánh) và hành đạo. Ngay từ khi ra đời, đạo Tin Lành đã hình thành nhiều tổ
chức, hệ phái, quá trình phát triển các hệ phái tiếp tục hình thành thêm, mỗi hệ
phái lại thành lập nhiều tổ chức với tên gọi có thể không giống nhau khi truyền
đến các vùng đất khác nhau. Điều này do nhiều nguyên nhân, chủ yếu xuất phát
từ chủ trương tự do giải thích Kinh thánh dẫn đến việc hình thành các giáo
thuyết, các xu hướng thần học và cách hành đạo khác nhau; sự bất đồng, mâu
thuẫn giữa những người lãnh đạo cũng là lý do phổ biến của sự chia tách, ly
khai, hình thành tổ chức giáo hội mới. Hơn nữa bản thân các hệ phái Tin Lành
cũng không ngăn cản việc tín đồ, chức sắc gia nhập các hệ phái khác hoặc đứng
ra thành lập tổ chức riêng. Vì vậy, khi tiếp cận đạo Tin Lành cần có quan điểm
đa dạng đồng thời có quan điểm lịch sử, cụ thể phù hợp với thực tế tồn tại của
tôn giáo này; nhất quán nhận thức về sự đa dạng các hệ phái trong đạo Tin lành,
bao gồm các hệ phái có yếu tố tà giáo, các hệ phái và tổ chức giáo hội mới. Việc
các hệ phái Tin Lành đánh giá lẫn nhau là dị giáo, tà giáo chỉ có giá trị tham
khảo, danh xưng trong tài liệu tuyên truyền cần chính xác và rõ cách tiếp cận.
Thứ ba, đạo Tin Lành nói riêng, cộng đồng kháng cách bao gồm các giáo
hội thuộc Ki-tô giáo nói chung chấp nhận nền Thần học của cuộc Cải cách
kháng cách đều từ chối công nhận thẩm quyền của Giáo hoàng với niềm tin xác
tín rằng chỉ có Kinh thánh là nguồn chân lý duy nhất. Tính độc thần, duy ngã ở
cộng đồng kháng cách có phần triệt để và cứng rắn hơn một số tôn giáo nhất
thần khác. Ví dụ Công giáo cũng là tôn giáo thờ phụng Thiên Chúa Ba ngôi,
nhưng bên cạnh Thiên Chúa còn thờ lạy Đức mẹ Maria, các Thánh tông đồ và
chấp nhận cho giáo dân ở Việt Nam thắp hương tưởng nhớ ông bà tổ tiên. Sự
mềm dẻo này chưa diễn ra ở đạo Tin Lành. Tuy vậy, hội nhập văn hóa dân tộc
đã sớm được các Hội thánh Tin lành Việt Nam ý thức và quan tâm thực hiện.
Ngày nay các tổ chức Tin lành ở Việt Nam đều xác tín và hiện thực hóa tôn chỉ,
đường hướng hoạt động “sống phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc
và dân tộc” bằng nhiều việc làm “tốt đời đẹp đạo” như đã đề cập ở trên.
94
Thứ tư, đạo Tin Lành ra đời ở châu Âu, phát triển mạnh ở Hoa Kỳ, từ Hoa
Kỳ truyền giáo đến các phần lớn các châu lục trên thế giới. Vì vậy, khả năng
quốc tế hóa vấn đề tôn giáo ở đạo Tin Lành lớn hơn một số tôn giáo khác. Điều
này đòi hỏi khi thông tin và truyền thông về sự kiện, vụ việc liên quan đến đạo
Tin Lành cần cẩn trọng và cân nhắc tới tác động quốc tế.
Thứ năm, là tôn giáo lấy dân chủ làm nguyên tắc tổ chức và hoạt động; đề
cao tự do cá nhân (trước Thiên Chúa), bình đẳng, bình quyền giữa “dân Chúa”
nên tính duy lý ở người theo đạo Tin Lành thường có xu hướng trội, họ coi trọng
và để tâm đến sự chấp pháp của cơ quan công quyền và người thi hành công vụ.
Thứ sáu, Kinh thánh là trung tâm đời sống đức tin của người theo đạo Tin
Lành. Kinh thánh là lời của Chúa nên không có tác giả là con người, chỉ có tổ
chức, cá nhân đứng ra xuất bản. Vì vậy, quyển Kinh thánh được xuất bản và lưu
hành hợp pháp có giá trị sử dụng rộng rãi.
Thứ bảy, một số thuật ngữ sử dụng trong thông tin, truyền thông về đạo
Tin Lành và công tác đối với đạo Tin Lành dễ nhầm lẫn, cần phân biệt, gồm:
(1) Thuật ngữ “Hội thánh”: Từ này tất cả các tổ chức, hệ phái Tin Lành
đều sử dụng để gọi tên một tổ chức của Chúa được gây dựng trên trần thế (gọi là
Hội thánh hữu hình) và tất cả đều là Hội thánh của Đức Chúa Trời. Vì vậy từ
này được đại đa số người theo đạo Tin Lành hoan nghênh nhưng về phương diện
pháp lý thì không thể tùy ý sử dụng. Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo yêu cầu
phân biệt giữa “tổ chức” (Hội thánh, Giáo hội, Tổng hội) với “nhóm sinh hoạt
tôn giáo tập trung” (Điểm nhóm), trong đó Điểm nhóm không mang nghĩa tổ
chức như nội hàm của từ “Hội thánh”. Ngoài ra, đối với người theo đạo Tin lành
còn có Hội thánh vô hình là Hội thánh thuộc về vương quốc Đức Chúa Trời, bao
gồm thời kỳ Cựu ước, thời kỳ Tân ước và mãi về sau.
(2) Chức sắc của đạo Tin Lành bao gồm các phẩm: Mục sư, mục sư nhiệm
chức và truyền đạo. Đa phần chức sắc của đạo Tin Lành không giữ chế độ độc
thân nhưng với các tổ chức thuộc Tin Lành C.M.A thì nữ chỉ được thụ phong
phẩm truyền đạo và phải độc thân. Một số hệ phái khác (Báp-tít, Mennonite,
Ngũ tuần,..) thì ngược lại, nữ bình đẳng với nam trong phong chức phong phẩm
và đều được phép lập gia đình.
3.3. Người làm công tác thông tin, tuyên truyền phải công tâm, khách
quan; có kiến thức về tôn giáo nói chung, đạo Tin Lành nói riêng và kiến thức
pháp luật về tôn giáo.
95
KẾT LUẬN
Đạo Tin Lành là tôn giáo có tính hiện đại, trần thế, duy lý và tính cá thể rõ
nét. Tuy đã có lịch sử 110 năm truyền giáo ở Việt Nam (1911 - 2021) nhưng đạo
Tin Lành ở Việt Nam vẫn chưa thực sự ổn định và đang trong quá trình hội nhập
văn hóa dân tộc. Nhưng là tôn giáo nhất thần đa hệ phái, đa tổ chức nên quá
trình này không tránh khỏi có sự đấu tranh trong nội bộ tôn giáo, giữa các hệ
phái, tổ chức Tin Lành với nhau. Nhận thức của xã hội đối với tôn giáo nói
chung, đạo Tin Lành nói riêng chưa thực sự đầy đủ, khách quan, vẫn còn khác
biệt và định kiến nhất định giữa các tôn giáo. Làm tốt công tác thông tin, tuyên
truyền về tôn giáo và chính sách tôn giáo là một trong những phương pháp quan
trọng, hiệu quả góp phần đưa đến nhận thức chung về tôn giáo và chính sách,
pháp luật về tôn giáo trong xã hội, thu hẹp khoảng cách, giảm định kiến, tăng
đồng thuận xã hội. Vì vậy đây là công tác rất quan trọng, cần được thực hiện
thường xuyên, liên tục, trên diện rộng và đảm bảo chiều sâu về tri thức, góp
phần thực hiện tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta
về tự do, đoàn kết và phát huy nguồn lực của tôn giáo phục vụ công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nguyễn Khắc Đức (2007), Đạo Tin lành trong vùng dân tộc Mông và Dao
ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội.
- Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) (2019), Đạo Tin lành những
dấu ấn lịch sử và hiện tại, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
- Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) (2021), Nghiên cứu một số tà
giáo trên thế giới và tại Hàn Quốc, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
- Đoàn Triệu Long (2013), Đạo Tin lành ở miền Trung, Tây Nguyên, Sách
chuyên khảo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
- Vũ Chiến Thắng (2017), “Công tác đảm bảo an ninh dân tộc thiểu số trên
địa bàn các tỉnh Tây Bắc hiện nay”, Tạp chí Công an nhân dân, kỳ 2, tháng
8/2017.
- Đào Đình Thưởng (2015), Vai trò của đạo đức Tin lành đối với sự phát
triển và kinh nghiệm đối với Việt Nam”, trong tuyển tập “Văn hoá tôn giáo với
phát triển bền vững ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội.
96
- Nguyễn Thanh Xuân (2006), Đạo Tin lành ở Việt Nam, Nhà xuất bản
Tôn giáo, Hà Nội.
- Nguyễn Thanh Xuân (2020), Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt
Nam, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
- Nguyễn Thanh Xuân, Lê Tâm Đắc (2020), Đời sống tôn giáo ở Việt Nam
thời kỳ đổi mới, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Đạo Tin Lành ở Việt Nam có những đặc điểm cơ bản nào? Những đặc
điểm ấy đặt ra yêu cầu gì cho người làm công tác tuyên truyền?
2. Quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với tôn giáo nói
chung, đạo Tin lành nói riêng và những vấn đề cần lưu ý trong công tác thông
tin, tuyên truyền về đạo Tin lành và công tác đối với đạo Tin lành?
3. Nguyên nhân du nhập, phát triển và ảnh hưởng của đạo Tin lành trong
vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta và những vấn đề cần lưu ý trong công
tác thông tin, tuyên truyền về đạo Tin lành vùng dân tộc thiểu số?
4. Quan hệ quốc tế của đạo Tin lành ở Việt Nam và những vấn đề cần lưu
ý trong công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại liên quan đến đạo Tin lành?
97
Chuyên đề 5
KHÁI QUÁT VỀ ĐẠO CAO ĐÀI Ở VIỆT NAM
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẠO CAO ĐÀI
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của đạo Cao Đài
Đạo Cao Đài tên gọi đầy đủ là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ độ, ra đời năm 1926
tại ấp Long Trung, xã Long Thành, huyện Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh do một số
công chức, tư sản, địa chủ, trí thức sáng lập và phát triển chủ yếu ở các tỉnh,
thành phố Nam Bộ.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp tăng cường khai thác
thuộc địa Đông Dương để hàn gắn vết thương chiến tranh ở chính quốc bằng
nhiều chính sách kinh tế hà khắc. Trong đó, chính sách cướp ruộng đất để lập
đồn điền và chính sách tăng thuế đã làm cho người nông dân Nam Bộ bị bần
cùng hoá, đời sống lầm than khổ cực.
Giới công chức, tư sản, địa chủ, thầy giáo, thầy tu bị chế độ thuộc địa chèn
ép bế tắc trong cuộc sống nên họ đã tìm đến thú chơi “xây bàn” theo kiểu thông
linh học của người phương Tây hoặc cầu cơ chấp bút theo truyền thống của
người Việt.
Trong thời gian này ở Nam Bộ xuất hiện nhiều phong trào đấu tranh chống
Pháp như: các cuộc khởi nghĩa vũ trang đến phong trào đấu tranh đòi dân sinh,
dân chủ; các tổ chức hội kín chống Pháp như Thiên Địa hội của Phan Xích
Long; các tổ chức đảng phái chính trị được thành lập công khai như Công hội
năm 1921, Đảng Lập hiến năm 1923, Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội
1926,... Tuy nhiên, tất cả các cuộc khởi nghĩa và phong trào yêu nước của nhân
dân Nam Bộ đều thất bại và bị thực dân Pháp đàn áp đẫm máu. Thất bại trong
đấu tranh, bế tắc trong cuộc sống, người dân Nam Bộ đã tìm đến tín ngưỡng, tôn
giáo để hi vọng được che chở và giải thoát.
Thực dân Pháp áp dụng chế độ chính trị thuộc địa ở Nam Bộ tương tự như
ở chính quốc, vì vậy chính sách đối với tôn giáo tại Nam Bộ không khắt khe như
ở Bắc Bộ và Trung Bộ. Nam Bộ là vùng đất mới được kiến lập, cư dân chủ yếu
thuộc bốn nhóm người là người Việt từ Bắc Trung Bộ vào, người Hoa từ Quảng
Đông, Phúc Kiến xuống, người Chăm và người Khmer. Những nhóm người này
đến lập nghiệp đã mang theo phong tục tập quán, văn hoá tín ngưỡng của vùng
98
đất đó làm cho đời sống văn hoá tín ngưỡng của người dân Nam Bộ trở nên đa
dạng và phong phú, tạo tiền đề để tiếp nhận một tôn giáo mới.
Tư tưởng Tam giáo đồng nguyên (Phật, Lão, Nho) sớm xuất hiện ở vùng
đất Nam Bộ trong bối cảnh đó đã hoà nhập cùng trào lưu “Thông linh học" của
phương Tây tạo thành phong trào cầu cơ, chấp bút và được các nhóm Ngũ chi
Minh đạo vốn có từ trước ở Nam Bộ hưởng ứng tích cực.
Việc bế tắc trong cuộc sống hiện tại, sự suy yếu của các tôn giáo, đạo lý
đương thời đã tạo ra khoảng trống về tư tưởng, tín ngưỡng, kích thích nhu cầu
tâm linh tôn giáo của quần chúng nhân dân và tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra
đời của đạo Cao Đài là phản ánh tất yếu của xã hội đương thời.
Đầu thế kỷ XX, tư tưởng Tam giáo đồng nguyên (Phật, Lão, Nho) ở Việt
Nam có xu hướng giảm xuống nhưng hoạt động của nhóm Ngũ chi Minh đạo
(Minh Sư, Minh Lý, Minh Đường, Minh Tân, Minh Thiện) tăng mạnh đã làm
hồi sinh tư tưởng Tam giáo đồng nguyên. Cùng lúc đó, phong trào Thông linh
học của phương Tây phát triển mạnh tại Nam Bộ với các hình thức “xây bàn”
tương tự như tục cầu hồn của người Việt và cầu cơ của nhóm Ngũ chi Minh đạo
đã tạo thành phong trào cầu cơ, chấp bút gọi tắt là “cơ bút”. Trong các đàn cơ
này có hai nhóm chính hình thành đạo Cao Đài. Nhóm thứ nhất do ông Ngô
Văn Chiêu cầu cơ tại các đền, chùa, phật đường theo truyền thống cơ bút thuộc
nhóm Ngũ chi Minh đạo. Nhóm thứ hai gồm các vị: Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài
Sang, Phạm Công Tắc (nhóm Cao - Phạm) tổ chức xây bàn cầu cơ theo kiểu
Thông linh học phương Tây. Năm 1926, hai nhóm cơ bút nói trên thống nhất
hình thành đạo Cao Đài, ông Ngô Văn Chiêu được thiên phong phẩm vị Giáo
tông đầu tiên của đạo Cao Đài.
Ngày 29/9/1926, một số vị chức sắc đứng đầu các đàn cơ và tín đồ đã
thống nhất kí tên vào tờ khai đạo gửi chính quyền Pháp. Ngày 19/11/1926,
những chức sắc đầu tiên của đạo Cao Đài đã tổ chức lễ khai đạo tại tỉnh Tây
Ninh và chính thức ra mắt đạo Cao Đài.
Ông Ngô Văn Chiêu sau khi có công lớn sáng lập đạo Cao Đài đã không
nhận chức Giáo tông tại Tây Ninh mà về Cần Thơ thành lập phái Cao Đài Chiếu
Minh Tam Thanh Vô Vi, thực hiện đường hướng tu luyện theo pháp môn “vô
vi” không phổ độ, không thành lập tổ chức giáo hội.
Sau ngày khai đạo, những chức sắc lãnh đạo giáo hội Cao Đài tiến hành
xây dựng Toà thánh Tây Ninh và cơ sở hạ tầng, từng bước hoàn chỉnh hệ thống
99
bộ máy tổ chức hành chính đạo từ Trung ương đến cơ sở. Do một số bất đồng
trong điều hành giáo hội, một số chức sắc lãnh đạo giáo hội Cao Đài đã tách ra
và về địa phương thành lập các tổ chức Cao Đài mới như: Cao Đài Chơn Lý,
Cao Đài Tiên Thiên, Cao Đài Ban Chỉnh đạo,… Tại Tây Ninh, số chức sắc ở lại
tiếp tục điều hành hoạt động của đạo Cao Đài. Từ đây, Cao Đài Tây Ninh trở
thành một tổ chức tôn giáo được coi là gốc của đạo Cao Đài, có Toà thánh Tây
Ninh, có số lượng chức sắc, chức việc, tín đồ đông nhất trong các tổ chức Cao
Đài. Cao Đài Tây Ninh thực hiện đường hướng hành đạo phổ độ thu hút được
đông đảo tín đồ, chủ yếu là nông dân tham gia. Một số tổ chức Cao Đài sau khi
dời Tòa thánh Tây Ninh về các địa phương thành lập tổ chức Cao Đài mới đã
xây dựng đường hướng hành đạo tiến bộ, sớm có tinh thần yêu nước và vận
động đông đảo chức sắc, tín đồ tích cực ủng hộ cách mạng, tham gia kháng
chiến chống ngoại xâm. Tuy bị chia rẽ thành nhiều tổ chức khác nhau nhưng số
lượng tín đồ và cơ sở tôn giáo của đạo Cao Đài vẫn phát triển rộng khắp các tỉnh
Nam Bộ đồng thời đã tạo ra vị thế mới cho đạo Cao Đài trong xã hội đương
thời. Chia rẽ, phân ly là đặc điểm nổi bật của đạo Cao Đài từ năm 1930 đến năm
1975. Thời gian này, đạo Cao Đài chia rẽ thành nhiều tổ chức Cao Đài khác
nhau, có lúc lên đến 30 tổ chức. Trong các tổ chức Cao Đài này có khoảng 10 tổ
chức là hoạt động theo đúng chân truyền của đạo Cao Đài và tồn tại đến nay.
Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, hoạt động của đạo Cao Đài hạn
chế về quy mô và tổ chức. Chức sắc, tín đồ về tu tại gia, duy trì Ban Quản lý tại
các cơ sở thờ tự của đạo Cao Đài, có một số ít người ở lại Toà thánh, Thánh thất
để quản lý cơ sở thờ tự và thực hiện nghi thức thờ cúng.
Từ năm 1992 đến nay, Nhà nước đã công nhận tổ chức tôn giáo đối với 10
Hội thánh Cao Đài, 21 tổ chức Cao Đài hoạt động độc lập và cấp đăng ký hoạt
động tôn giáo đối với 01 pháp môn Cao Đài.
Chức sắc, chức việc, tín đồ đạo Cao Đài vui mừng, phấn khởi trước đổi
mới về chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước, được công nhận về tổ chức tôn
giáo và hoạt động bình thường như các tôn giáo ở Việt Nam. Cao Đài Tây Ninh
và các Hội thánh Cao Đài tổ chức Đại hội nhiệm kỳ, hội nghị thường niên, Đại
lễ Hội Yến Diêu Trì Cung, Đại lễ Vía Đức Chí Tôn, Đại lễ kỷ niệm ngày khai
đạo Cao Đài,… thu hút đông đảo tín đồ tham dự và đảm bảo an toàn, trang
trọng. Các Hội thánh, tổ chức Cao Đài tích cực thực hiện các hoạt động từ thiện
xã hội với tổng kinh phí hằng năm trên 100 tỷ đồng.
100
Các Hội thánh, tổ chức Cao Đài tổ chức hoạt động liên giao hành đạo
nhằm hoạt động chung trên một số lĩnh vực như: giáo dục đào tạo chức sắc, hoạt
động báo chí, hoạt động từ thiện xã hội. Đây là hoạt động thiết thực, góp phần
tăng cường sự đoàn kết tôn giáo giữa các Hội thánh Cao Đài.
Chức sắc, chức việc, tín đồ đạo Cao Đài hoạt động tôn giáo tuân thủ quy
định pháp luật, có tư tưởng tiến bộ yêu nước và hoạt động gắn bó với dân tộc.
Số lượng tín đồ đạo Cao Đài hiện nay phát triển hơn so với năm 1975. Các cơ sở
tôn giáo của đạo Cao Đài được sửa chữa, xây dựng mới ngày càng khang trang,
đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài.
1.2. Giáo lý, giáo luật
1.2.1. Giáo lý
Giáo lý là học thuyết về triết lý sống và thế giới quan, nhân sinh quan của
tôn giáo. Tôn chỉ của đạo Cao Đài là Tam giáo quy nguyên, Ngũ chi phục nhất.
Tam giáo quy nguyên là quy ba tôn giáo: Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo trở về
cái gốc, cái nguyên bản. Đó là đường lối để thực hiện mục đích Thế đạo đại
đồng, Thiên đạo giải thoát. Ngũ chi phục nhất tức là thống nhất năm ngành đạo
thành một là Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo. Đó là đường
lối tu hành tuần tự như năm nấc thang tu hành. Đạo Cao Đài xây dựng một nền
giáo lý toàn diện tức là giáo lý Tam giáo. Theo đạo Cao Đài, Tam giáo có đủ
điều kiện xây dựng con người chân chính, xã hội an lạc là Đạo Nho, dạy con
người biết tu dưỡng thể xác và tinh thần, sống trung dung tự tại là Đạo Lão, dạy
nhân sinh biết giác ngộ và giải khổ là Đạo Phật.
Đồng thời, tôn chỉ của đạo Cao Đài còn nêu lên tinh thần “Vạn giáo nhất
lý” và cho rằng mục đích cứu cánh của tất cả tôn giáo chân chính là hướng dẫn
con người sống có đạo đức, hoàn thiện hóa bản thân, hoàn thiện hóa xã hội và
giải thoát linh hồn hướng tới xây dựng con người chuẩn mực về đạo đức, xã hội
hòa bình, hạnh phúc. Vì vậy, đạo Cao Đài chủ trương tôn trọng tín ngưỡng của
các tôn giáo để cùng thực hiện chung giáo lý của một tôn giáo lớn nhằm giác
ngộ nhân loại toàn cầu.
Mục đích của đạo Cao Đài về mặt tâm linh là giải thoát luân hồi sinh tử
hay còn nói rằng “Thế đạo đại đồng, Thiên đạo giải thoát”. Thế đạo đại đồng là
đường lối hay phương pháp giải quyết về con người tạo ra cuộc sống an lạc, hòa
bình, tiến bộ trong xã hội. Thế đạo đại đồng nhằm thực hiện thế giới nhân loại
bình đẳng, hạnh phúc không phân biệt giai cấp, tôn giáo, dân tộc lấy nhân bản
101
làm nền tảng, trong đó nhân quyền con người được tôn trọng, nhân tính được
phát huy để xây dựng một thế giới văn minh, đạo đức, hòa bình. Người đạo Cao
Đài quan niệm đó là đời Thượng nguyên Thánh Đức. Thế đạo đại đồng theo
nghĩa rộng còn là tình bác ái đối với muôn loài, vạn vật từ những sinh vật nhỏ
nhất đến các loài cầm thú, đến con người và cả chúng sinh. Thiên đạo giải thoát
là đường lối tu hành để người tu đạt được sự giải thoát toàn diện, không còn khổ
đau về thể xác hay phiền não về tâm hồn tại thế gian và xa hơn nữa được giải
thoát tâm linh. Sau khi thoát xác, linh hồn con người nếu đắc quả Thiên đạo sẽ
sống vĩnh viễn trong cõi thiên đường cực lạc, không còn bị luân hồi trở lại phàm
trần. Muốn thế, người tu theo Thiên đạo phải học đạo Đại thừa, tu luyện thân
tâm và thực hành sứ mệnh cứu độ tha nhân.
Giáo lý của đạo Cao Đài xây dựng dựa trên hai nguyên lý căn bản là:
Thiên địa vạn vật đồng nhất thể: Trời đất vạn vật có cùng một bản thể và Nhất
bản tán vạn thù, vạn thù qui nhất bổn: Một gốc phân tán ra vạn hình thức (sai
biệt), vạn hình thức (sai biệt) quay về một gốc. Từ nguyên lý thứ nhất, giáo lý
của đạo Cao Đài quan niệm Trời và Người có cùng bản thể, có thể tương thông,
tương ứng và hiệp nhất được. Nên trong Thánh giáo của đạo Cao Đài
đượcThượng Đế dạy rằng: “Thầy là các con, các con là Thầy”. Kế đến, chúng
sinh cũng đồng bản thể nên phải thương yêu nhau, nhất là giữa người với người
xem nhau như anh em, từ đó phải thực hiện mục đích đại đồng nhân loại. Từ
nguyên lý thứ hai, giáo lý của đạo Cao Đài quan niệm rằng vũ trụ là một trường
tiến hóa có khởi điểm từ bản thể Đại Linh Quang, tức Thượng Đế, phóng phát
các điểm linh quang tiềm tàng trong vạn loại để tiến hóa từ khoáng sản, thảo
mộc, thú cầm, đến con người. Rồi từ con người đến các bậc Thiêng liêng Thần
Thánh Tiên Phật để trở về hiệp nhất với Thượng Đế. Do đó, cứu giúp con người
là thực hiện sự tiến hóa để trở về với Thượng Đế, tức nguồn gốc của mình mà
cũng là của vũ trụ. Muốn thế con người phải biết tu công, lập đức để hoàn hảo
hóa bản thân đến chân, thiện, mỹ. Giáo lý Cao Đài gọi đó là “Phản bổn hoàn
nguyên”. Đạo Cao Đài có giáo lý bao dung rộng rãi, coi nhân loại đều có một
Đấng cha chung trong một đại gia đình với thuyết đại đồng, lấy tình thương yêu
để xóa bỏ hận thù.
Tóm lại, giáo lý của đạo Cao Đài dạy con người sống trung thực, trong
sáng, biết thương yêu, đùm bọc nhau, tu hành để rèn luyện đạo đức, lối sống.
Điều này, thể hiện đạo Cao Đài có sự tiến bộ trong giáo lý, hướng con người đến
102
sự hoàn thiện, hoàn mỹ, tu hành để tự giải khổ cho bản thân, giải thoát cho mọi
người nhằm xây dựng một xã hội đại đồng, hoà bình, hạnh phúc.
1.2.2. Giáo luật
Giáo luật là những quy định, điều lệ và điều cấm của tôn giáo. Những
người sáng lập đạo Cao Đài đã xây dựng các văn bản quy định về luật lệ để áp
dùng trong chức sắc, tín đồ thực hiện, nhằm hoạt động theo đúng khuôn khổ,
quy định của tôn giáo. Giáo luật cơ bản của đạo Cao Đài là gồm Tân luật, Pháp
Chánh truyền.
Pháp Chánh truyền do chức sắc đạo Cao Đài soạn thảo và được thông qua
bằng hình thức thiêng liêng của cơ bút. Nội dung Pháp Chánh truyền nêu rõ về
việc lập Bát Quái đài thực hiện quyền lập pháp do các đầng Thiêng liêng làm
chủ; lập cơ quan Cửu Trùng đài thay mặt cho Thượng Đế ở trần thế, thực hiện
quyền cứu độ, cầu rỗi cho nhân sinh; lập cơ quan Hiệp Thiên đài là bộ phận bảo
hộ luật pháp của Đạo, có trách nhiệm duy trì pháp luật, bảo vệ nền Đạo, nhưng
không được lấn quyền cơ quan Cửu Trùng đài và phát huy tinh thần trung thực
của luật pháp. Quyền hạn của hai cơ quan Cửu Trùng đài và cơ quan Hiệp Thiên
đài hoàn toàn độc lập nhưng có sự ràng buộc phải thống nhất trong thực hiện
việc Đạo, tránh sự độc đoán, chuyên quyền. Đồng thời quy định chi tiết về việc
đạo phục chức sắc, tín đồ; luật công cử cho từng phẩm chức sắc nam, nữ.
Tân luật là sự cụ thể hoá của Pháp Chánh truyền. Tân luật có nghĩa là luật
mới của một tôn giáo mới ra đời. Tân luật được lập năm 1926 gồm ba phần chính
là: Đạo pháp, Thế luật,Tịnh thất. Nội dung của Tân luật quy định trách nhiệm
đối với từng bậc tu trong đạo Cao Đài, coi trọng các cách thức tu hành, quy định
việc thực hành tu luyện của người tín đồ trong mối quan hệ với cuộc sống, sinh
hoạt của người vào nhập tịnh tu học để đạt tới sự toàn thiện, toàn mỹ.
Các quy định không được làm của người tín đồ đạo Cao Đài được thể
hiện qua Ngũ giới cấm là 5 điều cấm người đạo Cao Đài không được vi phạm:
thứ nhất là cấm sát sinh, không sát hại sinh vật từ thảo mộc, côn trùng, cầm thú
đến con người; thứ hai là cấm trộm cắp, lừa gạt người; thứ ba là cấm tà dâm, lấy
vợ người, loạn luân, tà sắc; thứ tư là cấm say mê rượu thịt, ăn uống quá độ; thứ
năm là cấm xảo trá, láo xược, lỗ mãng thô tục.
Đồng thời, đạo Cao Đài quy định người tín đồ bắt buộc phải thực hiện
theo Tứ đại điều quy để rèn luyện đạo đức tu hành: Một là phải tuân theo lời dạy
103
của bề trên; hai là không được khoe tài, kiêu ngạo; ba là tiền bạc phải rõ ràng,
phân minh; bốn là phải trung thực, thủy chung.
Nhìn chung, giáo luật của đạo Cao Đài quy định khá chặt chẽ trong hoạt
động của cá nhân và tập thể. Đối với tập thể có sự giám sát giữa các cơ quan
đạo, có cơ chế phải thống nhất trong hoạt động tôn giáo và tuân thủ theo quy
định của giáo quyền. Đối với cá nhân có quy định cụ thể thực hiện việc tu hành
như ăn chay, đạo phục, tu dưỡng, truyền đạo và những điều bắt buộc trong nếp
sống đạo, những điều cấm không được vi phạm.
1.3. Các Hội thánh, tổ chức Cao Đài
1.3.1. Hội thánh Cao Đài Tây Ninh
Cao Đài Tây Ninh là tổ chức Cao Đài đầu tiên tiếp nhận Tân luật, Pháp
Chánh truyền xây dựng Tòa thánh Tây Ninh và kiến trúc hạ tầng, xây dựng hệ
thống bộ máy tổ chức hành chính đạo từ Trung ương đến cơ sở. Trong quá trình
phát triển, với yếu tố là nơi tổ chức lễ khai đạo thành lập đạo Cao Đài, Cao Đài
Tây Ninh luôn giữ đúng theo chân truyền về giáo lý, luật lệ, lễ nghi. Hệ thống tổ
chức hành chính đạo đa dạng, chặt chẽ từ Hội thánh đến Họ đạo, có cơ quan
giám sát các hoạt động tôn giáo và các cơ quan phục vụ hoạt động thiện nguyện
đối với cộng đồng,…
Năm 1965, Cao Đài Tây Ninh được chính quyền Sài Gòn ban hành Sắc
luật số 03/65 công nhận tư cách pháp nhân. Năm 1997, Cao Đài Tây Ninh được
Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân thành lập tổ chức giáo hội theo Hiến
chương và đường hướng hành đạo mới. Hiện nay, Cao Đài Tây Ninh có hơn 1
triệu tín đồ, phạm vi hoạt động ở 35 tỉnh, thành phố, 28 tỉnh, thành phố có Ban
Đại diện Hội thánh, 400 Ban Cai quản Họ đạo, 532 cơ sở tôn giáo với 387
Thánh thất và 145 Điện Thờ Phật Mẫu, hơn 2000 chức sắc nam nữ được Hội
thánh bổ nhiệm hành đạo từ Trung ương đến địa phương và trên 15.000 chức
việc nam, nữ hành đạo tại cơ sở, hoạt động tôn giáo ngày càng ổn định, nền nếp.
1.3.2. Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo
Cao Đài Ban Chỉnh đạo là tổ chức tôn giáo có đông tín đồ (đứng thứ hai
sau Cao Đài Tây Ninh), có Tòa thánh tại Bến Tre. Năm 1934, hai vị chức sắc
cao cấp là Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương và Đầu sư Lê Bá Trang cùng một số
chức sắc, tín đồ đã dời Toà thánh Tây Ninh về Bến Tre thành lập Cao Đài Ban
Chỉnh đạo để thực hiện việc chỉnh đốn nền Đạo theo đúng Tân luật, Pháp Chánh
truyền. Với phương châm hành đạo và đường hướng tu hành thuần tuý đạo đức,
104
Cao Đài Ban Chỉnh đạo đã thu hút đông đảo các Họ đạo tham gia. Lập trường tu
hành của Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương là không tham gia chính trị, nhưng với
tinh thần trách nhiệm của người công dân với Tổ quốc, với dân tộc, ông đã thể
hiện bằng việc ngầm phong chức cho chức sắc, tín đồ của Hội thánh có tư tưởng
yêu nước và bãi nhiệm những chức sắc có tư tưởng tiêu cực. Dưới sự lãnh đạo
của Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương, Cao Đài Ban Chỉnh đạo có đường hướng
hành đạo gắn bó với dân tộc, ủng hộ cách mạng và tích cực tham gia kháng
chiến cứu quốc.
Năm 1997, Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo tổ chức Đại hội Đại biểu
Nhơn sanh lần thứ nhất, thông qua Hiến chương, bầu cơ quan lãnh đạo Hội
thánh là Thượng hội, Ban Thường trực và được Nhà nước công nhân tư cách
pháp nhân (Quyết định số 26 QĐ/TGCP ngày 08 tháng 8 năm 1997 của Ban Tôn
giáo Chính phủ).
Hiện nay, Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo tiếp tục khẳng định phương
châm hành đạo theo đường lối hành đạo của Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương,
hoạt động gắn bó với dân tộc và tuân thủ các qui định của pháp luật. Hội thánh
đã kiện toàn tổ chức bộ máy, thành lập 12/26 Ban Đại diện tỉnh, thành phố; công
cử chức sắc với hàng ngàn chức sắc từ phẩm Lễ sanh đến Đầu sư; vận động
hoàn nguyên hàng chục họ đạo; làm lễ nhập môn cho gần vạn tín đồ; xây dựng
và sửa chữa hàng trăm thánh thất; mở được nhiều lớp bồi dưỡng giáo lý hạnh
đường; in tái bản một số cuốn kinh sách phục vụ nhơn sanh; thành lập được 168
Ban Hành thiện ở các họ đạo điều trị cho hơn 1 triệu lượt người với hơn trăm
ngàn thang thuốc miễn phí. Đồng thời sửa đổi Hiến chương cho phù hợp với
tình hình thực tế hiện nay nhưng vẫn đảm bảo truyền thống của đạo Cao Đài.
1.3.3. Hội thánh Cao Đài Tiên Thiên
Sau khi chính thức ra đời, đạo Cao Đài tăng cường các hoạt động truyền
giáo ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Cao Đài Tiên Thiên có tiền đề hình
thành từ năm 1920 ở Nam Bộ. Đây là tổ chức Cao Đài có ba đời Giáo tông yêu
nước, điều này cho thấy lịch sử hình thành và phát triển của Cao Đài Tiên Thiên
đã gắn liền với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc qua hai thời kỳ kháng
chiến cứu quốc. Với truyền thống lịch sử đó, Cao Đài Tiên Thiên là Hội thánh
đầu tiên được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân năm 1995 (Quyết định số
51/QĐ/TGCP, ngày 29 tháng 7 năm 1995 của Ban Tôn giáo Chính phủ), sớm
nhất trong các Hội thánh Cao Đài ở Việt Nam. Từ đây, Cao Đài Tiên Thiên bắt
105
đầu đi vào thời kỳ hành đạo theo Hiến chương, đường hướng hành đạo mới với
tinh thần “Nước vinh, Đạo sáng”. Hiện nay, Cao Đài Tiên Thiên có trên 100
nghìn tín đồ, gần 2 ngàn chức sắc và 126 Thánh tịnh ở 16 tỉnh, thành phố, chủ
yếu ở các tỉnh Nam Bộ.
1.3.4. Hội thánh Cao Đài Minh Chơn đạo
Năm 1928, Ngọc Chưởng pháp Trần Đạo Quang dời Tòa thánh Tây Ninh
về Cà Mau thành lập Cao Đài Minh Chơn đạo với ý nghĩa làm sáng tỏ chân lý
của đạo Cao Đài đã thu hút đông đảo tín đồ chủ yếu là nông dân nghèo ở vùng
Cà Mau, Bạc Liêu vào đạo. Với phương châm lấy tu “nhơn đạo” làm nền tảng,
xem việc cứu khổ nhơn sanh là công quả cao nhất của người tu hành, xây dựng
tình thương yêu đoàn kết, tương trợ giúp đỡ, chăm lo đời sống thiết thực cho
nhơn sanh, Cao Đài Minh Chơn đạo đã tập hợp chức sắc, tín đồ tu hành rèn
luyện đạo đức con người để xây dựng xã hội đại đồng. Dưới sự lãnh đạo của
Ngọc Chưởng pháp Trần Đạo Quang và Thái Chưởng pháp Cao Triều Phát, Cao
Đài Minh Chơn đạo đã nêu cao tinh thần yêu nước vận động chức sắc, tín đồ
tham gia kháng chiến cứu quốc, góp phần cùng nhân dân giành độc lập, tự do
cho đất nước. Dấu ấn lịch sử của Cao Đài Minh Chơn đạo là Mặt trận Giồng
Bốm năm 1946 hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Thái Chưởng pháp Cao Triều Phát lãnh đạo hàng ngàn chức sắc, tín
đồ đạo Cao Đài trang bị vũ khí thô sơ đứng lên chống lại thực dân Pháp xâm
lược. Mặt trận Giồng Bốm đã khắc họa tinh thần yêu nước của đạo Cao Đài nói
chung và Cao Đài Minh Chơn đạo nói riêng, trở thành biểu tượng cho sự hy
sinh, đóng góp của người đạo Cao Đài trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc. Từ đây, Cao Đài Minh Chơn đạo trở thành nòng cốt trong hoạt động yêu
nước của đạo Cao Đài để thành lập Liên giao I, Liên giao II, Cao Đài Cứu
quốc,… góp phần cùng nhân dân cả nước đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Cao Đài Minh Chơn đạo được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân
năm 1996 (Quyết định số 39/QĐ-TGCP ngày 02/8/1996 của Ban Tôn giáo
Chính phủ). Phát huy truyền thống tốt đẹp đó, trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc hiện nay, Cao Đài Minh Chơn đạo trở thành Hội thánh Cao Đài đầu
tiên đăng cai tổ chức hội nghị giao lưu hành đạo của các Hội thánh Cao Đài năm
2008 và là một trong những thành viên thường trực của hoạt động giao lưu hành
đạo, đồng thời giữ vai trò đoàn kết trong các Hội thánh Cao Đài. Hiện nay, Cao
106
Đài Minh Chơn đạo có gần 1 ngàn chức sắc, hơn 1 ngàn chức việc, trên 30 ngàn
tín đồ, 49 Thánh thất ở 4 tỉnh (Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang).
1.3.5. Hội thánh Truyền Giáo Cao Đài
Truyền Giáo Cao Đài do các ông: Lê Trí Hiển, Trần Nguyên Chất, Trần
Quốc Luyện, Nguyễn Quang Châu,… sáng lập từ những năm 1939 và tổ chức
thành lập Hội thánh năm 1956 do ông Trần Văn Quế làm Chủ trưởng, có Tòa
thánh Trung Hưng Bửu Toà ở Đà Nẵng. Truyền Giáo Cao Đài có lập trường
hành đạo "thuần chơn vô ngã, thuần túy đạo đức", xây dựng tổ chức giáo hội
đơn giản so với các tổ chức Cao Đài nhưng được tổ chức chặt chẽ.
Hội thánh Truyền Giáo Cao Đài thực hiện giáo lý, giáo luật, lễ nghi theo
Tân luật, Pháp Chánh truyền. Trong quá trình phát triển, Hội thánh Truyền Giáo
Cao Đài tích cực vận động thống nhất các tổ chức Cao Đài như: Cao Đài Liên
đoàn (1936), Liên hòa Tổng hội (1937), Cao Đài Duy nhất (1951), Cao Đài
Thống Nhất (1952). Năm 1996, Truyền Giáo Cao Đài được Nhà nước công nhận
tư cách pháp nhân (Quyết định số 40 QĐ/TGCP ngày 24 tháng 9 năm 1996 của
Ban Tôn giáo Chính phủ).
Hiện nay, Truyền Giáo Cao Đài có khoảng 50.000 tín đồ, 63 Thánh thất,
cơ sở đạo, phạm vi hoạt động ở 17 tỉnh, thành phố, chủ yếu ở Trung Bộ.
1.3.6. Hội thánh Cao Đài Cầu Kho Tam Quan
Đầu năm 1930, một số người ở miền Trung vào Sài Gòn làm ăn, sinh sống
đã nhập môn vào đạo Cao Đài tại Thánh thất Cầu Kho. Sau đó, họ trở về quê
hương truyền đạo hình thành những nhóm Cao Đài ở Bình Định, Quảng Ngãi,
Phú Yên,… Năm 1937, Cao Đài Cầu Kho - Hội thánh Trung Việt Tam Quan
chính thức ra đời. Năm 1960, Cao Đài Cầu Kho Tam Quan đã xây dựng tổ chức
giáo hội theo Tân luật, Pháp Chánh truyền.
Sau năm 1975, Cao Đài Cầu Kho Tam Quan duy trì các sinh hoạt tôn giáo
tại cơ sở. Năm 2000, Cao Đài Cầu Kho Tam Quan tổ chức Đại hội Đại biểu
Nhơn sanh thông qua Hiến chương, đường hướng hành đạo mới và được Nhà
nước công nhận tổ chức tôn giáo (Quyết định số 199/2000/QĐ-TGCP ngày 28
tháng 4 năm 2000 của Ban Tôn giáo Chính phủ). Hiện nay, Cao Đài Cầu Kho
Tam Quan có khoảng 9 ngàn tín đồ, hơn 200 chức sắc, 300 chức việc và 28
Thánh thất ở 8 tỉnh, thành phố.
107
1.3.7. Hội thánh Cao Đài Chiếu Minh Long Châu
Cao Đài Chiếu Minh Long Châu có nguồn gốc hình thành từ năm 1928,
khi một số chức sắc dựng nhà đàn đầu tiên bằng lá cây, lấy tên là Chiếu Minh
Tự tại xã Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Hậu
Giang). Năm 1947, thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến của cách mạng,
chức sắc, tín đồ Cao Đài Chiếu Minh Long Châu phá bỏ Chiếu Minh Tự để vừa
tu hành, vừa đánh giặc.
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Toà thánh Long Châu là cơ sở nuôi giấu,
che chở, bảo vệ cán bộ cách mạng. Tại Toà thánh đã diễn ra nhiều cuộc đấu
tranh chống sự đàn áp, bắt bớ của Mỹ - Nguỵ. Cao Đài Chiếu Minh Long Châu
đã tham gia vào Liên giao I năm 1956 và Liên giao II năm 1972. Hội thánh chủ
trương vừa tu phổ độ, vừa tuyển độ phái đạo, được tổ chức theo luật Ngọc đế
Chơn truyền, xây dựng Hội thánh lưỡng đài, lưỡng phái, thực hiện đường lối
hành đạo là tu hành gắn bó với dân tộc, đoàn kết đấu tranh, phụng đạo yêu nước.
Ngày 1/5/1996, Cao Đài Chiếu Minh Long Châu đã tổ chức Đại hội Đại
biểu Nhơn sanh lần thứ nhất thông qua Hiến chương, đường hướng hành đạo
mới và bầu ra Ban Thường trực Hội thánh. Hiện nay, Cao Đài Chiếu Minh Long
Châu có hơn 100 chức sắc, 200 chức việc, gần 3 ngàn tín đồ với 14 Họ đạo, hoạt
động ở 2 tỉnh, thành phố: Cần Thơ, Hậu Giang.
1.3.8. Hội thánh Cao Đài Chơn Lý
Năm 1932, Phối sư Nguyễn Văn Ca dời Tòa thánh Tây Ninh về Mỹ Tho
thành lập Cao Đài Chơn Lý với phương châm hành đạo làm sáng tỏ chân lý của
nền đạo Cao Đài. Năm 1971, Cao Đài Chơn Lý được chính quyền đương thời
công nhận tư cách pháp nhân, có Tòa thánh Định Tường ở Mỹ Tho. Năm 2000,
Cao Đài Chơn Lý tổ chức Đại hội Đại biểu Nhơn sanh thông qua Hiến chương,
đường hướng hành đạo mới và được Nhà nước công nhận tổ chức tôn giáo (Quyết
định số 16/2000/QĐ-TGCP ngày 14/3/2000 của Ban Tôn giáo Chính phủ).
Cao Đài Chơn Lý thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế bằng Thánh tượng Tâm
nhãn (con mắt trong trái tim) thay cho thờ Thiên nhãn theo quy định của đạo Cao
Đài. Cao Đài Chơn Lý xây dựng hệ thống chức sắc, tổ chức bộ máy khác với Tân
luật, Pháp Chánh truyền của đạo Cao Đài. Cao Đài Chơn Lý thực hiện kinh sách
theo Đuốc Chơn Lý, Luật Bình quân, Thánh giáo sưu tầm,… Hiện nay, Cao Đài
Chơn lý có hơn 6 ngàn tín đồ, gần 2 ngàn chức sắc và 28 Thánh thất ở 11 tỉnh,
thành phố.
108
1.3.9. Hội thánh Cao Đài Bạch Y
Cao Đài Bạch Y do các ông Tô Bửu Tài, Trương Minh Tòng sáng lập năm
1936, có Thánh tòa Ngọc Kinh ở Kiên Giang. Cao Đài Bạch Y cơ bản hoạt động
theo quy định của đạo Cao Đài và hành đạo theo kinh luật Ngọc Đế Chơn truyền
Tân Ước Tri nguyên. Trong hai cuộc kháng chiến cứu nước, Cao Đài Bạch Y đã
tích cực tham gia hoạt động yêu nước, đấu tranh hợp pháp, bảo vệ các cơ sở
cách mạng, vận động tu sĩ không đi lính cho giặc.
Năm 1998, Cao Đài Bạch Y đã tổ chức Đại hội Đại biểu Nhơn sanh thông
qua Hiến chương, Luật công cử chức sắc, đường hướng hành đạo mới và được
Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang công nhận tư cách pháp nhân (Quyết định số
2363/1998/QĐ-UB, ngày 8 tháng 7 năm 1998 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên
Giang). Hiện nay, Cao Đài Bạch Y có khoảng 5.000 tín đồ, hơn 100 chức sắc,
200 chức việc, 14 Thánh thất, phạm vi hoạt động ở 4 tỉnh, thành phố.
1.3.10. Giáo hội Cao Đài Việt Nam (Bình Đức)
Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) được hình thành từ năm 1961, có Toà thánh
Trung ương đặt tại xã Bình Đức nay là xã Trung An, Thành phố Mỹ Tho, tỉnh
Tiền Giang. Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) thực hiện tôn chỉ, mục đích là tôn
thờ Thượng đế và các đấng Phật, Tiên, Thánh, Thần nhằm giáo dân vi thiện, bài
trừ mê tín dị đoan và xây dựng thuần phong mỹ tục. Giáo lý thực hiện theo giáo
lý căn bản của đạo Cao Đài là đem lại tình thương yêu, dìu dắt nhơn sanh xây
dựng lại chánh chơn cho nhân loại. Giáo luật dạy tín đồ giữ tròn đạo phận, làm
điều lành, điều thiện, trung thực, thật thà, không sát hại sinh vật; chức sắc, tín đồ
phải giữ trai giới hoặc trường trai. Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) xây dựng tổ
chức giáo hội, nghi lễ thờ phụng và hoạt động riêng theo Hiến pháp quy niệm,
và Hồng chương Luật sử.
Năm 2011, Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) được Nhà nước công nhận tổ
chức tôn giáo, thông qua Hiến chương và đường hướng hành đạo mới. Hiện nay,
Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) có 01 Toà thánh, 09 Thánh thất, 16 trường quy
và khoảng 5.000 tín đồ, 400 chức sắc, 300 chức việc hoạt động ở 4 tỉnh, thành
phố: Tiền Giang, Bến Tre, Long An và Đồng Tháp.
1.3.11. Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi
Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi do ông Ngô Văn Chiêu, người đệ
tử đầu tiên của đạo Cao Đài sáng lập. Năm 1927, ông Ngô Văn Chiêu không
109
nhận phẩm Giáo tông tại Toà thánh Tây Ninh về Cần Thơ tu tịnh và lập cơ tuyển
độ Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi.
Thời kỳ đầu của cơ tuyển độ hình thành ở các nhà đàn thuộc Minh Sư đạo,
sau đó phát triển ở các đàn tư gia. Cao Đài Chiếu Minh quy định trên 10 đạo
hữu được lập nhà đàn. Từ 24 vị đệ tử cấp nhất của ông Ngô Văn Chiêu đã truyền
thừa cho hàng ngàn người tu theo Chiếu Minh. Cơ tuyển độ không thành lập tổ
chức giáo hội, không có chức sắc hàng giáo phẩm. Cao Đài Chiếu Minh Tam
Thanh Vô Vi thực hiện đường hướng hành đạo theo pháp môn tu hành của ông
Ngô Văn Chiêu chuyên về tịnh luyện, nội giáo tâm truyền, không phổ độ mà giữ
bí pháp chân truyền của đạo Cao Đài. Năm 1999, Thánh Đức Tổ đình tại Cần
Thơ được công nhận tổ chức tôn giáo. Năm 2010, Cao Đài Chiếu Minh Tam
Thanh Vô Vi được Nhà nước cấp đăng ký hoạt động tôn giáo với 08 nhà đàn
trực thuộc và khoảng 3 ngàn người tu hành, hoạt động ở 7 tỉnh, thành phố.
1.4. Đặc điểm cơ bản của đạo Cao Đài
- Đạo Cao Đài là một tôn giáo nội sinh, ra đời năm 1926 ở Nam Bộ.
Những người sáng lập đạo Cao Đài đa số đều là tầng lớp trí thức, công chức, tư
sản nhỏ của chính quyền thực dân Pháp. Chức sắc, tín đồ hiện nay chủ yếu là
nông dân, hoạt động tập trung ở các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam, từ Huế
trở vào, nhiều nhất ở các tỉnh Nam bộ. Tuy nhiên, đạo Cao Đài cũng có ở một số
tỉnh phía Bắc như Hà Nội, Hải Phòng.
- Đạo Cao Đài đề cao tính thiêng liêng sự huyền diệu của cơ bút. Đạo Cao
Đài có hệ thống giáo lý, giáo luật chặt chẽ và phong phú. Nó kế thừa và mở rộng
tư tưởng tam giáo theo hướng nhập thế. Giáo lý, luật lệ, lễ nghi của đạo Cao Đài
gần gũi với phong tục tập quán, tâm lý lối sống của người dân Nam bộ.
- Ban đầu đạo Cao Đài là một tôn giáo thống nhất, có Toà thánh ở Tây
Ninh nhưng sau một thời gian ngắn do bất đồng về quan điểm hành đạo của một
số chức sắc nên chia rẽ thành các tổ chức Cao Đài khác nhau. Chia rẽ, phân ly là
đặc điểm nổi bật của đạo Cao Đài từ năm 1930 đến năm 1975. Thời gian này,
đạo Cao Đài chia rẽ thành nhiều tổ chức Cao Đài khác nhau, có lúc lên đến 30 tổ
chức. Trong các tổ chức Cao Đài này có khoảng 10 tổ chức là hoạt động theo
đúng chân truyền của đạo Cao Đài và tồn tại đến nay.
- Tổ chức giáo hội trước đây của đạo Cao Đài được xây dựng, thiết chế có
5 cấp hành chính: Trung ương, vùng, tỉnh, huyện, xã. Các cấp hành chính trong
110
đạo Cao Đài có giáo quyền rõ ràng được quy định cụ thể bằng điều luật tạo điều
kiện cho chức sắc, tín đồ thực hiện.
- Một số Hội thánh Cao Đài sớm có tinh thần yêu nước và vận động đông
đảo chức sắc, tín đồ tích cực ủng hộ cách mạng, tham gia kháng chiến chống
ngoại xâm.
- Giáo lý của đạo Cao Đài quan niệm Trời và Người có cùng bản thể, có
thể tương thông, tương ứng và hiệp nhất được. Đồng thời, đạo Cao Đài quan
niệm rằng vũ trụ là một trường tiến hóa. Do đó, cứu giúp con người là thực hiện
sự tiến hóa để trở về với Thượng Đế, tức nguồn gốc của mình mà cũng là của vũ
trụ. Muốn thế con người phải biết tu công, lập đức để hoàn hảo hóa bản thân đến
chân, thiện, mỹ. Đạo Cao Đài có giáo lý bao dung rộng rãi, coi nhân loại đều có
một Đấng cha chung trong một đại gia đình với thuyết đại đồng, lấy tình thương
yêu để xóa bỏ hận thù.
- Giáo luật của đạo Cao Đài quy định chặt chẽ trong hoạt động của cá
nhân và tập thể, được cụ thể tại Tân luật, Pháp Chánh truyền, Tứ đại điều quy,
Ngũ giới cấm,... Đối với tập thể có sự giám sát giữa các cơ quan đạo, có cơ chế
phải thống nhất trong hoạt động tôn giáo và tuân thủ theo quy định của giáo
quyền. Đối với cá nhân có quy định cụ thể thực hiện việc tu hành như ăn chay,
đạo phục, tu dưỡng, truyền đạo và những điều bắt buộc trong nếp sống đạo,
những điều cấm không được vi phạm. Quy định trong giáo luật của đạo Cao Đài
còn thể hiện sự rõ ràng và văn minh.
2. TÌNH HÌNH ĐẠO CAO ĐÀI HIỆN NAY
2.1. Về số lượng chức sắc, chức việc, tín đồ, cơ sở tôn giáo của các Hội
thánh Cao Đài
- Chức sắc: hơn 13 ngàn
- Chức việc: hơn 26 ngàn - Tín đồ: hơn 1,24 triệu18
- Cơ sở tôn giáo: hơn 1.300
Số liệu thống kê số lượng tín đồ đạo Cao Đài hiện nay có sự chênh lệch
giữa chính quyền nhà nước và tổ chức tôn giáo. Theo báo cáo của các Hội thánh
Cao Đài năm 2020, tín đồ đạo Cao Đài có hơn 2,6 triệu. Lý do, một bộ phận tín
đồ không khai nhận là tín đồ Cao Đài khi chính quyền tổ chức thống kê. Đối với
tổ chức tôn giáo ở Hội thánh, Họ đạo đã kê khai số lượng tín đồ nhập môn vào
18 Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ.
111
đạo cùng toàn thể gia đình người tín đồ gồm người già và trẻ em chưa đến tuổi
nhập môn nên có sự chênh lệch về số liệu thống kê.
2.2. Cơ cấu tổ chức của đạo Cao Đài
2.2.1. Tổ chức giáo hội cấp Trung ương
Tổ chức giáo hội được quy định trong Tân luật, Pháp Chánh truyền của
đạo Cao Đài. Ở cấp trung ương Hội thánh có Toà thánh là nơi hoạt động của
chức sắc lãnh đạo giáo hội. Về mặt tổ chức cấp Hội thánh có 3 Đài gồm: Bát
Quái đài, Cửu Trùng đài và Hiệp Thiên đài. Đặc điểm về tổ chức giáo hội của
đạo Cao Đài xây dựng trên cơ sở Trời và Người hợp nhất với nhau để giải quyết
việc đạo.
Bát Quái đài của đạo Cao Đài thuộc phần vô hình, do Ngọc Hoàng
Thượng Đế làm chưởng quản gồm các Giáo chủ của Tam giáo và Ngũ chi, Tam
Trấn Oai Nghiêm được thờ tại Bửu điện nơi Toà thánh. Bát Quái đài có nhiệm
vụ là cơ quan lập pháp, điều hành hoạt động của đạo Cao Đài thông qua hình
thức cơ bút nơi Hiệp Thiên đài. Thực tế hiện nay, Bát Quái đài không còn chức
năng lập pháp và điều hành hoạt động của đạo, đồng thời công việc điều hành
hoạt động đạo do hai Đài: Cửu Trùng đài và Hiệp Thiên đài thực hiện.
Hiệp Thiên đài là cơ quan tư pháp của đạo Cao Đài, do chức sắc phẩm Hộ
pháp đứng đầu. Hiệp Thiên đài có 2 nhiệm vụ: làm cơ quan trung gian giữa Bát
Quái đài và Cửu Trùng đài thông qua cơ bút và làm cơ quan bảo vệ pháp luật
của Đạo. Cơ quan Hiệp Thiên đài có 3 Chi: Chi Pháp, Chi Đạo và Chi Thế. Chi
Pháp do chức sắc phẩm Hộ pháp phụ trách; Chi Đạo do chức sắc phẩm Thượng
phẩm phụ trách; Chi Thế do chức sắc phẩm Thượng sanh phụ trách. Dưới phẩm
Hộ pháp, Thượng phẩm, Thượng sanh là chức sắc phẩm Thập nhị Thời quân (12
vị Thời quân), chia ra mỗi Chi 4 vị, như Chi Pháp có 4 vị Thời quân là: Tiếp
pháp, Khai pháp, Hiến pháp và Bảo pháp; Chi Đạo có 4 vị Thời quân là Tiếp
đạo, Khai đạo, Hiến đạo và Bảo đạo; Chi Thế có 4 vị Thời quan là Tiếp thế,
Khai thế, Hiến thế và Bảo thế. Thực tế hiện nay, cơ quan Hiệp Thiên đài chỉ
hoạt động với nhiệm vụ là cơ quan bảo vệ pháp luật của đạo Cao Đài, giám sát
cơ quan Cửu Trùng đài hoạt động theo pháp luật của đạo.
Cửu Trùng đài là cơ quan hành pháp của đạo Cao Đài, thực hiện các
nhiệm vụ truyền đạo, hành đạo, tổ chức thực hiện công việc đạo và giáo hóa
nhân sinh tu hành. Cơ quan Cửu Trùng đài ở Hội thánh gồm có các cơ quan Cửu
viện nam phái, Cửu viện nữ phái và các cơ quan giúp việc cho chức sắc phẩm
Giáo tông, Chưởng pháp và Đầu sư. Chức sắc cơ quan Cửu Trùng đài có 9
phẩm, đứng đầu là phẩm Giáo tông, 9 phẩm chức sắc này đối phẩm với Cửu
phẩm Thần Tiên nơi Bát Quái đài: 1. Giáo tông đối phẩm với Thiên Tiên (Phật
112
vị); 2. Chưởng pháp đối phẩm với Nhơn Tiên; 3. Đầu sư đối phẩm với Địa Tiên;
4. Chánh Phối sư và Phối sư đối phẩm Thiên Thánh; 5. Giáo sư đối phẩm với
Nhơn Thánh; 6. Giáo hữu đối phẩm với Địa Thánh; 7. Lễ sanh đối phẩm với
Thiên Thần; 8. Ban Trị sự đối phẩm với Nhơn Thần; 9. Đạo hữu đối phẩm với
Địa Thần. Cơ quan Cửu Trùng đài phân ra làm 2 phái: phái nam và phái nữ.
Chức sắc mỗi phái có quyền hành riêng biệt. Chức sắc nữ phái có phẩm cao nhất
là Đầu sư. Chức sắc bên nam phái được chia làm 3 phái: Thái, Thượng, Ngọc.
Cơ quan Cửu viện nam phái dưới quyền phụ trách trực tiếp của các chức sắc
phẩm Chánh Phối sư. Chức sắc phẩm Thái Chánh Phối sư phụ trách 3 Viện: Hộ
viện, Lương viện, Công viện; chức sắc phẩm Thượng Chánh Phối sư phụ trách 3
Viện: Học viện, Y viện, Nông viện; chức sắc phẩm Ngọc Chánh Phối sư phụ
trách 3 Viện: Hòa viện, Lại viện, Lễ viện. Tổ chức hành chính đạo cơ quan Cửu
Trùng đài nữ phái cũng có 9 Viện như nam phái, nhưng nữ phái chỉ có một vị
Nữ Chánh Phối sư, nên vị này phụ trách tất cả Cửu viện nữ phái.
Các tổ chức giáo hội cấp Trung ương của đạo Cao Đài tập trung chủ yếu
tại địa bàn Nam Bộ, với 08 Hội thánh, 01 Pháp môn tu hành. Ở miền Trung, đạo
Cao Đài có 02 Hội thánh.
2.2.2. Tổ chức cấp cơ sở
Tổ chức hành chính cấp địa phương của đạo Cao Đài có 4 cấp gồm: Trấn
đạo, Châu đạo, Tộc đạo và Hương Đạo. Trấn đạo là khu vực địa lý được giao
phụ trách nhiều tỉnh, thành phố có đạo Cao Đài do chức sắc phẩm Giáo sư đảm
nhiệm gọi là Khâm Trấn đạo. Châu đạo là địa bàn một tỉnh, thành phố có đạo
Cao Đài do chức sắc phẩm Giáo hội đảm nhiệm gọi là Khâm Châu đạo. Tộc đạo
là địa bàn một huyện, quận thuộc tỉnh, thành phố do phẩm Lễ sanh đảm nhiệm
gọi là Đầu Tộc đạo. Hương đạo là địa bàn hành chính của một xã, phường do
phẩm Chánh Trị sự đảm nhiệm được các chức việc Bàn Trị sự Hương đạo bầu
lên gọi là Đầu Hương đạo.
Tộc đạo là cấp cơ sở của đạo Cao Đài hay còn gọi là Họ đạo. Mỗi Tộc đạo
có một Thánh thất để thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế và quy tụ tín đồ tổ chức sinh
hoạt tôn giáo. Về tổ chức hành chính, Tộc đạo có văn phòng giúp việc Đầu Tộc
đạo do Đầu Phòng văn đảm nhiệm, nếu không có Đầu Phòng văn thì cử một Thư
ký giúp việc Đầu Tộc đạo. Mỗi Tộc đạo hay Thánh thất có Ban Tứ vụ để điều
hành việc đạo. Ban Tứ vụ gồm 4 vụ: Hộ vụ phụ trách việc thu chi tài chính; Lễ
vụ phụ trách việc nghi lễ và sắp xếp các ban trực thuộc: lễ, nhạc, đồng nhi thực
hiện tang sự cho người đạo; Lương vụ phụ trách về lương thực và quản lý nhà
bếp; Công vụ phụ trách việc xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự và nhà làm việc
113
của Tộc đạo. Ngoài ra, Lễ vụ còn có các ban chuyên môn trực thuộc gồm: Ban
nhạc, Ban lễ sỹ, Ban đồng nhi, Ban kiểm đàn. Ban nhạc do một nhạc sỹ phụ
trách. Ban lễ sỹ do một Lễ sỹ phụ trách. Ban đồng nhi do một Giáo nhi phụ
trách. Ban kiểm đàn có nhiệm vụ sắp đặt và gìn giữ trật tự trong đàn cúng.
Thực tế hiện nay, tổ chức hành chính của đạo Cao Đài có một số thay đổi.
Cấp Trung ương giáo hội tại Toà thánh có cơ quan Thượng hội và Ban Thường
trực Hội thánh (hoặc Thường trực, Hội đồng Chưởng quản, Ban Điều hành)
cùng cơ quan Cửu viện nam nữ và các cơ quan giúp việc Hội thánh tại Toà
thánh. Cấp địa phương không còn Trấn đạo và Hương đạo. Châu đạo được gọi là
Ban Đại diện Hội thánh hoạt động trên địa bàn một tỉnh, thành phố có nhiệm vụ
hướng dẫn Ban Cai quản các Họ đạo trên địa bàn phụ trách hoạt động theo Hiến
chương, luật đạo của Hội thánh. Đứng đầu Ban Đại diện Hội thánh ở tỉnh, thành
phố là Trưởng Ban Đại diện. Tộc đạo được gọi là Họ đạo hoạt động trong phạm
vi Thánh thất có Ban Cai quản phụ trách. Đứng đầu Ban Cai quản là Cai quản,
có Phó Cai quản và Thư ký hoạt động theo nhiệm kỳ 3 năm hoặc 5 năm. Ngoài
ra, Họ đạo còn có bộ phận Tứ vụ giúp việc Ban Cai quản và các thành viên
Chánh Trị sự, Phó Trị sự, Thông sự cùng Ban Nghi lễ.
Tại các tỉnh, thành phố có đông chức sắc, tín đồ được thành lập Ban Đại
diện hoặc Đại diện để giúp Hội thánh ở trung ương hướng dẫn các hoạt động tôn
giáo ở cơ sở là Họ đạo. Hiến chương Cao Đài Tây Ninh quy định: “Ở tỉnh, thành
phố có nhiều Họ đạo Cao Đài Toà thánh Tây Ninh thì Hội thánh bổ nhiệm Ban
Đại diện Hội thánh; Ban Đại diện Hội thánh gồm 01 Trưởng ban và 02 đến 05
Phó Ban, chọn từ hàng Giáo hữu nam, nữ và tương đương trở lên do Hội thánh
bổ nhiệm; Ban Đại diện Hội thánh có phận sự truyền đạt và hướng dẫn các Ban
Cai quản Họ đạo thông hiểu và tổ chức thực hiện đúng các Đạo lịnh, Thánh lịnh,
Huấn lịnh, Thông tri về Đạo sự của Hội thánh tới các Họ đạo,...”. Hiện nay, đạo
Cao Đài có 64 Ban Đại diện, 16 Đại diện ở 35/38 tỉnh, thành phố.
Họ đạo là cấp cơ sở của đạo Cao Đài, nơi nào có 500 tín đồ trở lên được
lập một Họ đạo có Thánh thất làm nơi thờ tự. Ban Cai quản có nhiệm vụ quản lý
công việc tại Thánh thất, phụ trách 4 phòng Công - Lương - Thơ - Lễ. Ban Trị
sự gồm các chức việc có nhiệm vụ lo về luật đạo giúp đỡ tín đồ chấp hành tốt và
lo việc từ thiện chăm sóc cuộc sống của tín đồ tại địa phận quản lý.
2.3. Thực trạng hoạt động tôn giáo của các Hội thánh Cao Đài
Hiện nay, các tổ chức giáo hội Cao Đài trải qua năm nhiệm kỳ hoạt động
nên hoạt động đạo sự từng bước đi vào nề nếp và tuân thủ pháp luật. Đa số chức
114
sắc các Hội thánh đã thích ứng với cơ chế hoạt động theo Hiến chương và đường
hướng hành đạo mới. Các lễ hội lớn trong đạo Cao Đài được duy trì tổ chức
hàng năm như Hội Yến Diêu Trì Cung, Kỷ niệm ngày khai đạo Cao Đài, Ngày
vía Đức Chí Tôn... thu hút hàng trăm ngàn chức sắc, tín đồ tham dự. Các hội
nghị, kỳ họp thường niên của Thượng hội, Hội thánh, Hội Nhơn sanh và Đại hội
nhiệm kỳ của các Hội thánh được tổ chức trang trọng, đúng pháp luật. Các Hội
thánh Cao Đài có quá trình hoạt động gắn bó với dân tộc đã tổ chức các cuộc
giao lưu hành đạo trên một số lĩnh vực tôn giáo như xuất bản Tạp chí Cao Đài,
tham gia các hoạt động nhân đạo, từ thiện xã hội, mở lớp bồi dưỡng giáo lý hạnh
đường, tổ chức các ngày lễ theo truyền thống của một số phái Cao Đài nhằm
giáo dục chức sắc, tín đồ phát huy tinh thần phụng đạo, yêu nước.
2.3.1. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, chức việc
Việc đào tạo chức sắc, chức việc của đạo Cao Đài được thực hiện ở các địa
phương với chương trình ngắn hạn mang tính bồi dưỡng là chủ yếu, chưa có
điều kiện tổ chức tập trung thành trường đào tạo chính quy. Các Hội thánh đã đề
ra chương trình phát triển giáo dục, bồi dưỡng giáo lý, đào tạo nhân tài để củng
cố đức tin cho hàng chức sắc, chức việc và toàn thể tín đồ vững vàng tu hành,
đáp ứng cơ bản được nguyện vọng nhơn sanh.
Các Hội thánh và tổ chức Cao Đài hàng năm đã mở được các khóa Hạnh
đường bồi dưỡng chức sắc với nhiều hình thức như: khóa hạnh đường, lớp giáo
lý, lễ nhạc đường… mỗi năm có trên 500 lớp giáo lý hạnh đường, trên 20 khóa
hạnh đường và có trên 2 vạn chức sắc, chức việc, đạo hữu tham dự học tập, nâng
cao kiến thức, bồi dưỡng giáo lý.
2.3.2. Hoạt động phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển,
cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc, nhà tu hành
Việc phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển, cách chức,
bãi nhiệm chức sắc, chức việc, nhà tu hành hoạt động ở các địa phương được
thực hiện theo Hiến chương của đạo Cao Đài. Các Hội thánh kiểm tra về tư cách
công dân, đạo hạnh, kiểm tra, giám sát việc thực hiện theo Hiến chương, Luật
công cử. Theo Luật tín ngưỡng, tôn giáo các Hội thánh có trách nhiệm thông
báo, đăng ký với cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo hoặc Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh.
Việc phong phẩm của Cao Đài Tây Ninh được thực hiện vào mỗi dịp Đại
hội Nhơn sanh nhiệm kỳ (5 năm/1 lần), Đại hội Nhơn sanh nhiệm kỳ tổ chức
năm 2017, Cao Đài Tây Ninh đã phong phẩm Lễ sanh cho 1.169 chức việc và
thăng phẩm Giáo hữu cho 336 vị, Giáo sư cho 39 vị. Hội thánh Cao Đài Tây
Ninh căn cứ quy định của luật đạo để phong chức, phong phẩm cho chức sắc,
115
chức việc. Tùy theo từng phẩm, các chức sắc, chức việc sẽ được phong khi đủ
năm “công nghiệp hành đạo” (tối thiểu 5 năm) và đáp ứng các tiêu chí về đạo
hạnh, với các quy định tương đối chặt chẽ.
2.3.3. Đại hội, hội nghị của đạo Cao Đài
Các phái Cao Đài đã tổ chức Đại hội nhiệm kỳ đảm bảo đúng quy định của
pháp luật và Hiến chương, Điều lệ của các Hội thánh Cao Đài. Thông qua các kỳ
đại hội nhiệm kỳ, các Hội thánh Cao Đài thực hiện sửa đổi Hiến chương, Đạo
quy, Quy chế hoạt động. Trong quá trình thực hiện, Ban Thường trực, Hội đồng
Hội thánh, Hội đồng Chưởng quản của các Hội thánh Cao Đài đã lựa chọn, giới
thiệu chức sắc lãnh đạo đảm bảo về uy tín, năng lực, sức khỏe. Qua thời gian
thực hiện, đến nay các phái Cao Đài cơ bản có sự kế thừa giữa chức sắc lớn tuổi
và chức sắc trẻ tham gia lãnh đạo giáo hội. Đồng thời, những chức sắc lãnh đạo
của các Hội thánh Cao Đài được chính quyền các cấp giới thiệu tham gia các tổ
chức chính trị xã hội ở trung ương và địa phương.
Đối với đại hội cấp cơ sở ở các Họ đạo Cao Đài đều thực hiện theo quy định
của pháp luật và Hiến chương các Hội thánh Cao Đài. Trong thời gian qua, các
Họ đạo cơ sở của các Hội thánh Cao Đài đã tổ chức Đại hội nhiệm kỳ cấp cơ sở
đảm bảo an toàn, đúng pháp luật. Thông qua Đại hội đã kiện toàn Ban Cai quản,
Ban Trị sự Họ đạo và lựa chọn nhân sự lãnh đạo ở cơ sở có năng lực, trình độ
được nhơn sanh tín nhiệm. Hằng năm, các Họ đạo Cao Đài cũng thực hiện việc tổ
chức hội nghị thường niên cấp cơ sở để tổng kết năm đạo và đề ra chương trình
hoạt động của năm đạo kế tiếp theo kế hoạch, hướng dẫn của Hội thánh.
2.3.4. Hoạt động quốc tế của đạo Cao Đài
Cao Đài Tây Ninh có nhiều hoạt động quan hệ quốc tế với các tổ chức tôn
giáo có mối quan hệ từ trước như: tổ chức Oomoto giáo ở Nhật Bản; tổ chức
Tiên Thiên Cứu Giáo Hồng Vạn ở Đài Loan; dự Đại hội Tôn giáo thế giới tại
Hàn Quốc năm 2014; tham gia hoạt động tôn giáo ở Singapo; thăm một số cơ sở
Cao Đài tại Mỹ, Canada, ... Cao Đài Tây Ninh có mời một số tổ chức tôn giáo ở
nước ngoài và tín đồ là người nước ngoài về Tòa thánh Tây Ninh tham dự Đại lễ
Hội Yến Diêu Trì Cung. Cao Đài Tây Ninh đã công nhận 07 Họ đạo trực thuộc
ở nước ngoài.
2.4 Hoạt động an sinh xã hội của đạo Cao Đài
2.4.1. Hoạt động từ thiện nhân đạo
Theo báo cáo của các Hội thánh Cao Đài hằng năm đã đóng góp trên 100
tỷ đồng vào các hoạt động từ thiện. Đa số chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài đều tham
gia hoạt động từ thiện xã hội, coi đây vừa là trách nhiệm, vừa là hoạt động thể
hiện tinh thần tôn giáo đối với cộng đồng và xã hội.
116
Hoạt động từ thiện của đạo Cao Đài được thực hiện theo quy định của đạo
thu hút được đông đảo tín đồ tham gia. Những năm gần đây, hoạt động từ thiện
của đạo Cao Đài ngày càng phát triển và tích cực tham gia các hoạt động chung
của xã hội. Tuy nhiên, hoạt động từ thiện của đạo Cao Đài còn mang tính tự phát
chưa được tổ chức chặt chẽ. Mỗi khi có việc thì cùng chung tay làm rất tích cực
nhưng sau đó lại trở lại bình thường mà không duy trì hoạt động từ thiện thường
xuyên. Đạo Cao Đài còn hạn chế về nguồn lực nên muốn thay đổi cách làm từ
thiện cần thiết phải xây dựng các cơ sở sản xuất, cơ sở trồng trọt tạo ra các vật
dụng, nông sản để làm từ thiện, đóng góp cho xã hội thì mới bền vững và huy
động được nhiều hơn nữa tín đồ tham gia.
2.4.2. Hoạt động khám chữa bệnh
Trong hoạt động khám chữa bệnh, đạo Cao Đài rất chú trọng chăm sóc sức
khỏe cho cộng đồng, đồng thời cứu giúp người dân khi đau yếu, bệnh tật với
tinh thần cứu khó trợ nghèo. Các cơ sở khám chữa bệnh của đạo Cao Đài đã
thực hiện tốt việc chăm sóc sức khỏe cho đồng đạo và người dân ở vùng có đạo
Cao Đài.
Đạo Cao Đài có 93 cơ sở phòng thuốc nam khám chữa bệnh, trong đó có
135 cơ sở bốc thuốc, 02 cơ sở chăm sóc chữa bệnh lâu dài tại cơ sở, có 11 cơ sở chăm sóc người già, tổng kinh phí thực hiện hoạt động khám chữa bệnh hằng năm khoảng 200 tỷ đồng19. Ngoài ra, ở các tỉnh, thành phố, một số Họ đạo Cao Đài có phòng khám thuốc chữa bệnh, góp phần làm tốt công việc khám chữa bệnh ở tuyến cơ sở.
3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM ĐỐI VỚI ĐẠO CAO ĐÀI
HIỆN NAY PHỤC VỤ CÔNG TÁC THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN
3.1. Về tổ chức của đạo Cao Đài
Hiện nay, các Hội thánh Cao Đài có thay đổi về hệ thống tổ chức giáo hội,
so với quy định của Tân luật, Pháp Chánh truyền. Nguyên nhân, thứ nhất do khi
thành lập lại tổ chức giáo hội đều xây dựng mô hình tập thể lãnh đạo qua hình
19 Ban Tôn giáo Chính phủ (2018), Số liệu thống kê các Hội thánh Cao Đài năm 2018, Hà Nội, tr.9. Hoạt động khám chữa bệnh của đạo Cao Đài cụ thể là: Cao Đài Ban Chỉnh đạo có 30 phòng chẩn trị y học dân tộc, châm cứu, phục vụ sức khoẻ đồng đạo khi đau yếu. Phòng chẩn trị y học dân tộc Dưỡng Đường của Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo đã khám và điều trị miễn phí cho 180.611 lượt người, cấp 817.892 thang thuốc miễn phí, châm cứu cho
143.567 lượt người, thành tiền 5.738.188.000 đồng. Tổng hợp số liệu chung của các phòng chẩn trị như xem mạch cho 1.268.685 người, bốc 118.030 thang thuốc, 198.326 lượt người được châm cứu miễn phí, trị giá là
5.998.659.670 đồng; Cao Đài Tiên Thiên có 18 phòng khám y học dân tộc, khám điều trị cho 5.098 bệnh nhân; châm cứu, bấm huyệt cho 989 người; bốc thuốc miễn phí 12.377 thang thuốc; cấp phát 1.670 gói thuốc trị gan, đau nhức; Cao Đài Chơn Lý có 2 phòng thuốc y học dân tộc ở Thánh thất Nha Trang (Khánh Hoà) và Thánh thất Thanh Bình (Tiền Giang) là nơi phát thuốc chữa bệnh miễn phí cho đồng bào nghèo khó; Cao Đài Chiếu Minh Long Châu có 3 phòng thuốc nam hoạt động trên 30 năm, đã xem mạch trị bệnh cho trên 10.825 lượt người, châm cứu cho gần 520 người, bốc 15.670 thang thuốc miễn phí; Cao Đài Bạch Y có 04 phòng thuốc Nam hoạt động từ thiện, châm cứu 12.000 người, bốc 1.988.000 thang thuốc nam, trị giá 3.976.000.000 đồng,...
117
thức: Thượng hội, Ban Thường trực, Hội đồng Chưởng quản, Ban Điều hành,…; thứ hai, do quá trình lâu dài không được phong chức, phong phẩm từ sau năm 1975 đến năm 1995 nên đa số các Hội thánh Cao Đài không đủ chức sắc hành đạo theo quy định của luật đạo; thứ ba, chức sắc Cao Đài hiện nay không dám đảm nhận phẩm vị cao trong tổ chức giáo hội như Giáo tông, Hộ pháp mà để vô vi. Từ các nguyên nhân trên, dẫn đến thiếu hụt chức sắc điều hành tổ chức giáo hội. Đồng thời mô hình tổ chức giáo hội hiện nay của đạo Cao Đài là mô hình mới, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh hiện tại để giúp các Hội thánh Cao Đài hoạt động ổn định theo Luật đạo.
3.2. Về hoạt động liên giao hành đạo
Đạo Cao Đài có hoạt động liên giao hành đạo là mô hình mới phát triển trong khoảng 10 năm gần đây. Sự ra đời của hoạt động liên giao hành đạo của các Hội thánh Cao Đài xuất phát từ dịp Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo tổ chức kỷ niệm 60 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Thánh thất Cao Đài Thủ đô Hà Nội vào năm 2006 tại Thủ đô Hà Nội. Nhân dịp này, đoàn đại biểu chức sắc lãnh đạo các Hội thánh Cao Đài đã đến chào thăm Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết. Tại buổi gặp mặt, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã khuyến khích các chức sắc Cao Đài cần đoàn kết trong hoạt động tôn giáo để có sức mạnh lan tỏa hơn trong các hoạt động tôn giáo của đạo Cao Đài. Thực hiện ý kiến của Chủ tịch nước, các Hội thánh và tổ chức đạo Cao Đài đã có sáng kiến thành lập tổ chức liên giao hành đạo để cùng giúp đỡ nhau trên con đường hành đạo về hoạt động từ thiện xã hội, hoạt động báo chí, giáo dục đào tạo chức sắc. Đây là hoạt động tự nguyện của các Hội thánh và tổ chức Cao Đài nhằm từng bước giải quyết những vấn đề cần thiết của đạo Cao Đài trong giai đoạn hiện nay.
Với tinh thần đó, các Hội thánh Cao Đài đã tổ chức hội nghị liên giao lần thứ nhất được tổ chức tại Thánh thất Thiên Cảnh đàn thuộc Hội thánh Cao Đài Minh Chơn đạo tại tỉnh Cà Mau có 07 Hội thánh và 05 tổ chức Cao Đài tham gia. Đến nay, các Hội thánh và tổ chức Cao Đài đã tổ chức 13 lần liên giao hành đạo và phát huy tốt vai trò đoàn kết tôn giáo, gắn kết hoạt động tôn giáo trên các lĩnh vực từ thiện xã hội, hoạt động báo chí, giáo dục đào tạo. 3.2. Về công tác quản lý hoạt động quốc tế của đạo Cao Đài
Công tác quản lý hoạt động quốc tế của đạo Cao Đài tạo điều kiện thuận lợi cho các Hội thánh Cao Đài được công nhận tổ chức tôn giáo trực thuộc và chức sắc, chức việc, tín đồ ở nước ngoài theo quy định pháp luật Nhà nước Việt Nam và tuân thủ quy định pháp luật ở nước sở tại. Hiện nay, đạo Cao Đài ở
118
nước ngoài có 59 Thánh thất, Thánh tịnh, Điện thờ Phật Mẫu, tổng số tín đồ
khoảng 32.000 người. Phạm vi hoạt động ở 11 nước, gồm: Mỹ, Canada, Anh,
Pháp, Đức, Úc, Nhật, Thái Lan, Philippines, Malaysia, Campuchia. Bên cạnh
hoạt động của các tổ chức Cao Đài ở nước ngoài có thái độ chống đối giáo hội ở
trong nước còn có hoạt động tiến bộ yêu nước. Các tổ chức Cao Đài ở nước
ngoài tích cực vận động chức sắc, tín đồ ở nước ngoài tham gia các hoạt động từ
thiện nhân đạo ở trong nước, hỗ trợ các Họ đạo xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự,
in kinh sách, xuất bản tài liệu của đạo Cao Đài,...
3.4. Kỹ năng giao tiếp
Trong giao tiếp hàng ngày, người đạo Cao Đài xưng hô với nhau thân
thiện, gần gũi không tạo khoảng cách giữa cấp trên và cấp dưới. Giáo tông là
người đứng đầu trong tổ chức tôn giáo, xưng danh là anh Cả, còn các vị chức
sắc xưng danh với tín đồ là anh, là chị. Tín đồ gọi chức sắc là anh lớn, chị lớn.
Đức Cao Đài khi xuất hiện qua “cơ bút” xưng danh với các đệ tử là “Thầy”, có ý
nghĩa như là người hướng dẫn, chỉ dạy cho tín đồ.
Cách xưng hô trong đạo Cao Đài được quy định chức sắc lớn hơn được
gọi là hiền huynh, hiền tỷ, gọi người chức sắc nhỏ hơn là hiền đệ, hiền muội.
Trong văn bản hoặc khi giao tiếp quy định từ tín đồ đến phẩm Giáo hữu sử dụng
chữ Ông, từ phẩm Giáo sư trở lên dùng chữ Ngài. Tuy nhiên thực tế hiện nay,
người tín đồ Cao Đài thường gọi nhau là anh lớn, chị lớn để thể hiện sự thân mật
trong giao tiếp và hàm nghĩa tôn trọng phẩm vị chức sắc trong tôn giáo. Quy
định trong giao tiếp xã hội hoặc tại gia đình, họ hàng, người đạo Cao Đài vẫn
xưng hô bình thường gọi là ông, bà, cô, dì, chú, bác, anh, chị, em, cháu,...
Đây là cách xưng hô thể hiện trong đạo Cao Đài không có sự phân biệt
giai cấp trong sinh hoạt hàng ngày, họ sống dân chủ, bình dân trong giao tiếp và
trở thành những người tu hành sống chan hoà không có khoảng cách người trên,
kẻ dưới, người đồng đạo coi nhau như anh em.
Trong công tác tôn giáo, không gọi chức sắc Cao Đài là “Thầy”, có thể gọi
trực tiếp phẩm vị tôn giáo như: Lễ sanh, Giáo hữu, Phối sư, Đầu sư,.., hay chức
vụ của họ như; Trưởng ban, Phó Trưởng ban, Cai quản, Phó Cai quản, Hội
trưởng, Phó Hội trưởng,.., hoặc gọi thân mật là ông, bà.
3.4. Kỹ năng ứng xử
Tôn trọng những nhu cầu chính đáng của chức sắc, chức việc, tín đồ và tổ
chức tôn giáo của đạo Cao Đài.
119
Trong giao tiếp, ứng xử, trao đổi công việc với chức sắc, chức việc, tín đồ
đạo Cao Đài thực hiện bằng sự chân thành, tình cảm không nên khoa trương,
hứa hẹn mà không thực hiện. Bởi chức sắc, chức việc, tín đồ đạo Cao Đài chủ
yếu là thành phần nông dân, có tính cách thật thà, tin người nhất là đối với cán
bộ, công chức Nhà nước được họ tôn trọng.
Quan tâm giải quyết những thủ tục hành chính của đạo Cao Đài theo quy
định của pháp luật, có lý, có tình.
Biết lắng nghe và kịp thời giải quyết những nguyện vọng chính đáng, hợp
pháp của chức sắc, chức việc, tín đồ đạo Cao Đài.
Kiên quyết xử lý những đối tượng cố tình vi phạm pháp luật và có thái độ
coi thường kỷ cương, phép nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Cơ quan Phổ thông Giáo lý (2005), Lịch sử đạo Cao đài, quyển 1, Nhà
xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
- Cơ quan Phổ thông Giáo lý Đại Đạo (2008), Lịch sử đạo Cao Đài, quyển
2, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
- Nguyễn Thanh Xuân (2015), Đạo Cao Đài hai khía cạnh Lịch sử và Tôn
giá (tái bản lần thứ nhất), Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Đặc điểm nào cần chú ý của đạo Cao Đài trong công tác thông tin, tuyên
truyền?
2. Trong ứng xử, giao tiếp đối với chức sắc, chức việc, tín đồ đạo Cao Đài,
tính cách nổi bật nào của họ cần chú ý? Vì sao?
3. Tại sao đạo Cao Đài phân chia thành nhiều tổ chức, hệ phái khác nhau?
4. Những hoạt động xã hội nào của đạo Cao Đài cần tuyên truyền, lan tỏa
trong xã hội hiện nay? Phân tích?
120
Chuyên đề 6
KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO HÒA HẢO Ở VIỆT NAM
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHẬT GIÁO HÒA HẢO
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo Hòa Hảo
1.1.1. Quá trình hình thành của Phật giáo Hòa Hảo
Người sáng lập Phật giáo Hòa Hảo là ông Huỳnh Phú Sổ (1920-1947)
sinh tại làng Hoà Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay là thị trấn Phú Mỹ,
huyện Phú Tân, tỉnh An Giang) là con thứ tư trong gia đình nhưng là con trai
trưởng của ông Huỳnh Công Bộ (Hương Cả Bộ) và bà Lê Thị Nhậm.
Sau khi tốt nghiệp tiểu học ông phải bỏ học vì mắc nhiều bệnh. Quá trình
lên núi chữa bệnh cũng là thời kỳ ông bắt đầu học đạo, học làm thuốc. Khi chưa
tròn 18 tuổi, ông tuyên bố mình là bậc "Sinh nhi tri", biết được quá khứ nhìn
thấu tương lai, xuống hạ giới có nhiệm vụ truyền bá cho dân chúng tư
tưởng Bửu Sơn Kỳ Hương để Chấn hưng Phật giáo, cứu độ chúng sinh khỏi
sông mê, biển khổ và "đưa nhơn loại đi vào vòng hạnh phúc". Ông chữa bệnh
cho người dân bằng các bài thuốc nam, đồng thời qua đó ông truyền dạy giáo lý
bằng những bài sám giảng (còn gọi là sấm giảng) do ông soạn thảo. Vì vậy chỉ
trong vòng 2 năm từ 1937 đến 1939 số người tin theo ông đã khá đông và ông
trở nên nổi tiếng khắp vùng.
Ngày 18/5 năm Kỷ Mão (tức ngày 04/7/1939), ông Huỳnh Phú Sổ tổ
chức lễ khai đạo tại tư gia, khi ông chưa tròn 20 tuổi. Ông đã lấy tên ngôi làng
Hòa Hảo - nơi mình sinh ra để đặt tên cho tôn giáo do mình sáng lập là “Phật
giáo Hòa Hảo”. Sau đó, ông được tín đồ Phật giáo Hòa Hảo suy tôn là “Thầy
tổ”, và được gọi “Đức Tôn Sư”, “Đức Thầy”, "Đức Huỳnh Giáo chủ".
1.1.2. Quá trình phát triển của Phật giáo Hoà Hảo
1.1.2.1. Giai đoạn từ ngày thành lập đạo (1939) đến trước năm 1975
Từ ngày thành lập đạo (1939) đến năm 1947 là thời kỳ "hoàng kim" của
Phật giáo Hòa Hảo với tư cách là một tôn giáo. Đối với tín đồ Phật giáo Hòa
Hảo, ông Huỳnh Phú Sổ trở thành Đức Phật hoá kiếp, là Phật sống vì những
việc làm và lời lẽ "siêu phàm". Chính trong khoảng thời gian ngắn này, ông
Huỳnh Phú Sổ đã cho ra đời 6 tác phẩm trong "Sấm giảng giáo lý".
Bối cảnh xã hội phức tạp của không khí chiến tranh thế giới lần thứ hai
đã ảnh hưởng đến cá nhân ông Huỳnh Phú Sổ và ảnh hưởng đến sự phát triển
121
của Phật giáo Hòa Hảo. Đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của Phật giáo Hòa
Hảo: giáo lý tiếp tục được hoàn chỉnh; nghi lễ tôn giáo được hình thành và ổn
định, đặc biệt là việc phát triển số lượng tín đồ. Theo tư liệu hiện có thì thời kỳ
này (năm 1947), số người được gọi là tín đồ Phật giáo Hòa Hảo tham gia đóng
niên liễm là 2,1 triệu người. Nguyên nhân cơ bản là do nhu cầu tôn giáo của
quần chúng, họ ngưỡng mộ giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, tự nguyện theo theo đạo để
thoả mãn nhu cầu tinh thần.
Từ năm 1947, Phật giáo Hòa Hảo chuyển sang một thời kỳ mới - thời kỳ
phát triển có tổ chức hành chính đạo nhưng cũng là thời kỳ tôn giáo dần dần bị
suy giảm, biến dạng. Năm 1964, Ban Trị sự Phật giáo Hòa Hảo nhiệm kỳ I do
Lương Trọng Tường là Hội trưởng chính thức hoạt động. Sau 25 năm, từ khi ra
đời, đây là mốc mở đầu cho thời kỳ Phật giáo Hòa Hảo có tổ chức hành chính
đạo, nhưng đồng thời cũng là tiền đề gây ra sự bất đồng và suy thoái trong nội
bộ Giáo hội.
1.1.2.2. Giai đoạn từ năm 1975 đến tháng 5/1999 (giai đoạn trước khi
Phật giáo Hòa Hảo được công nhận tổ chức)
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ngày 19/6/1975 đại
diện Tổ đình là bà Huỳnh Thị Kim Biên và Huỳnh Văn Quốc ra thông cáo giải
tán Ban Trị sự các cấp của Phật giáo Hòa Hảo. Kể từ thời điểm đó, tổ chức hành
chính đạo của Phật giáo Hòa Hảo không còn, tuy nhiên, Phật giáo Hòa Hảo vẫn
tồn tại thông qua sinh hoạt tôn giáo của cá nhân trong gia đình.
Về đức tin, niềm tin tôn giáo của tín đồ Phật giáo Hòa Hảo vẫn sâu sắc,
trong ý thức của đông đảo tín đồ vẫn tồn tại biểu trưng của Phật giáo Hòa Hảo,
các gia đình Phật giáo Hòa Hảo đều xác nhận họ tôn thờ Đức Thầy Huỳnh Phú
Sổ - người được coi là cội nguồn của đức tin. Nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của tín
đồ không suy giảm, họ tuân thủ giáo lý nguyên thuỷ và có biểu hiện thế tục hoá
trong đời sống đạo.
1.1.2.3. Giai đoạn từ tháng 5/1999 đến nay
Xuất phát từ nguyện vọng, nhu cầu chính đáng của đại đa số tín đồ, mong
muốn có một tổ chức giáo hội để hướng dẫn, phổ truyền giáo lý Phật giáo Hòa
Hảo cho bà con tín đồ tu học và có địa điểm hợp pháp để làm nơi hoạt động và
sinh hoạt tôn giáo, Nhà nước đã chấp thuận cho thành lập Ban vận động, tiến
hành Đại hội đại biểu Phật giáo Hòa Hảo lần thứ nhất vào ngày 25-26/5/1999 suy
cử Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo gồm 11 vị hoạt động theo “Quy chế tổ chức
122
và hoạt động của Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo” với đường hướng tiến bộ, gắn bó với dân tộc. Ngày 11/6/1999, Ban Tôn giáo của Chính phủ (nay là Ban Tôn giáo Chính phủ) có Quyết định số 21/QĐ/TGCP về việc công nhận tổ chức và hoạt động của Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo (nay là Ban Trị sự trung ương giáo hội Phật giáo Hòa Hảo). Đây là một sự kiện đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa to lớn vừa thể hiện tính đúng đắn về chủ trương, chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, vừa tạo luồng sinh khí mới đối với đời sống tinh thần, tâm linh của toàn thể tín đồ Phật giáo Hòa Hảo. Đại hội đại biểu Phật giáo Hòa Hảo toàn đạo lần thứ II tháng 6/2004 đã xây dựng Hiến chương, tiếp tục khẳng định đường hướng hành đạo của Phật giáo Hòa Hảo là: "Vì đạo pháp, vì dân tộc"; kiện toàn tổ chức, bao gồm Ban Trị sự 2 cấp hành chính đạo: cấp toàn đạo và cấp cơ sở. Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa Hảo - tổ chức đại diện hợp pháp duy nhất của đồng bào theo Phật giáo Hòa Hảo. Đến năm 2019, trải qua năm kỳ đại hội, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo đã từng bước phát triển, trở thành tổ chức giáo hội 2 cấp hành chính đạo gồm có Ban Trị sự trung ương Phật giáo Hòa Hảo và 400 Ban Trị sự xã, phường, thị trấn (cấp cơ sở), cùng 14 Ban Đại diện tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đến nay, Phật giáo Hòa Hảo có trên 4.000 chức việc các cấp, khoảng 1,5 triệu tín đồ, sinh sống ở 20 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trong đó, chủ yếu tập trung ở 09 tỉnh miền Tây Nam bộ là: An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Bến Tre, Hậu Giang, Tiền Giang, Long An và Kiên Giang.
Ban Trị sự trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo đã từng bước tập trung củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các ban chuyên môn. Hằng năm tổ chức 2 ngày lễ trọng của đạo là ngày khai đạo 18/5 âm lịch và ngày Đản sinh Đức Huỳnh Giáo chủ 25/11 âm lịch. Đặc biệt, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo đã vận động đông đảo tín đồ tự nguyện tham gia có hiệu quả cao trong hoạt động từ thiện - xã hội như: xây mới và sửa chữa cầu nông thôn; sửa chữa và nâng cấp đường bộ; sửa chữa và xây dựng nhà tình thương; quyên góp gạo, tiền để tổ chức cứu trợ cho các vùng bị lũ lụt; ngoài ra còn cấp thuốc Đông, Nam y miễn phí và tham gia hỗ trợ cho những bệnh nhân nghèo đi khám, điều trị bệnh,… Đặc biệt, thời gian qua bà con tín đồ đã nêu cao trách nhiệm công dân sống và hoạt động theo luật pháp, kịp thời đấu tranh với những hoạt động gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo; góp phần giữ vững ổn định chính trị, xây dựng xã hội mới theo định hướng: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
123
1.2. Giáo lý, luật lệ, lễ nghi
1.2.1. Giáo lý
Giống như các tôn giáo khác, Phật giáo Hoà Hảo cũng có những lời giáo
huấn, cầu nguyện, tiên tri do Đức thầy truyền dạy, chép thành từng cuốn gọi là
Sấm giảng viết theo dạng thơ sấm vãn truyền ngôn, giản dị dễ nhớ. Kinh sách
của Phật giáo Hoà Hảo bao gồm phần Sấm giảng và phần Thi văn giáo lý.
- Phần Sấm giảng gồm 6 cuốn:
+ Cuốn 1: Sấm giảng khuyên người đời tu niệm, được viết năm 1939theo
thể lục bát gồm 912 câu.
+ Cuốn 2: Kệ dân của người khùng, thơ 7 chữ, dài 846 câu, viết năm 1939.
Hai cuốn trên chứa đựng nội dung tiên tri những cảnh lầm than trong buổi
Hạ nguyên, tự xưng mình được phái xuống trần làm kẻ điên để giảng đạo cho
dân chúng, tỉnh ngộ họ mau mau tu niệm kẻo muộn (Ông tự nhận là kẻ "điên" vì
không làm theo những điều mà những người bình thường vẫn làm trong một xã
hội chạy theo những ham muốn vật chất).
+ Cuốn 3: Sấm giảng viết năm 1939, theo thể lục bát, dài 612 câu, trong
cuốn này ông dạy người ta phải tu nhân đạo.
+ Cuốn 4: Giác mê tâm kệ viết năm 1939, thơ 7 chữ, dài 846 câu. Ông bắt
đầu đề cập tới các khái niệm Phật giáo như Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Ngũ uẩn,
Lục căn, Lục trần… và khuyên người ta tu theo Phật giáo, nhưng cốt lòng
thành, không câu nệ hình thức, nghi lễ.
+ Cuốn 5: Khuyến thiện viết năm 1941, văn lục bát, 756 câu, kể chuyện Thích
Ca ngộ đạo, luận về khổ về tịnh độ, diệt ngã trược, trừ thập ác, hành thập thiện.
+ Cuốn 6: Cách tu hiền và cách ăn ở của người bổn đạo, viết năm 1945
dưới dạng văn xuôi. Cuốn này bàn về cách tu của Phật giáo Hoà Hảo là tu tại
gia, tức là học phật tu nhân. Lý giải tại sao phải trả Tứ Ân, luận về Tam nghiệp,
Thập ác, về Bát chính đạo. Sách cũng quy định cách thờ phượng, hành lễ,
những kiêng kỵ, cấm kỵ mà một tín đồ Phật giáo Hoà Hảo phải tin theo.
Cuốn sách này là kết quả của một thời kỳ đạo đã hình thành, phát triển,
có hệ thống tổ chức, giáo luật và nhằm đáp ứng nhu cầu đó.
- Phần Thi văn giáo lý bao gồm những bài thi văn xướng hoạ được tập
hợp lại viết từ năm 1939 đến 1947, gồm 253 bài văn vần và văn xuôi.
Giáo lý của Phật giáo Hoà Hảo tóm gọn trong 4 chữ: Học Phật, tu nhân. Và,
cái chốt của học Phật tu nhân là tứ ân. Sức lôi cuốn của Phật giáo Hoà Hảo với tín
124
đồ về phương diện giáo lý chính là ở đó, việc nó nêu cao đạo lý làm người, biểu
hiện trước hết ở Tứ ân. Giáo lý Phật giáo Hoà Hảo chứa đựng các tư tưởng của
Nho, Phật, Lão bởi "Tứ ân" là một hình thức tam giáo mà tính trội thuộc về Nho
giáo, thứ đến là Đạo giáo vì dùng phù phép trừ tà chữa bệnh, cuối cùng mới đến là
Phật giáo (ân Tam bảo). Đối với đạo Hoà Hảo, Phật giáo lại là tính trội.
Tu nhân Là rèn sửa tâm tính, làm lành lánh dữ để tích dức, làm tốt mọi
việc, sống tốt với mọi người, có ích cho đất nước, xã hội. muốn tu nhân phải
thực hiện Tứ đại trọng ân, tức đền trả bốn ân lớn: ân cha mẹ, ân đất nước, ân
tam bảo và ân đồng bào nhân loại. Ngoài ra muốn tu nhân còn phải xử thế theo
tinh thần Nho giáo: Kính trời đất, trọng thần thánh, chuyên tâm thờ phụng tổ
tiên, thảo hiền với cha mẹ, giữ phép nước, trọng thay, yêu mến anh em, giữ chữ
tín với bạn, sống có nghĩa với bà con xóm giềng.
Học Phật Là học những điều Phật dạy và làm những điều Phật khuyên
nhằm nhận thức được con đường đạt tới chân, toàn mỹ, nâng cao hơn khả năng
tu nhân. Điều kiện của học phật là thực hiện Thập nhị lệ sự (12 điều tuân): Kinh
thiên địa, Lễ thần minh, Phụng tổ tiên, Hiếu song thân, Thủ vương pháp, Trọng
sư trưởng, ái huynh đệ, Tín bằng hữu, Lục tôn tộc, Hoà hương lân, Biệt Phu
Phụ và Giáo tư tôn. Tín đồ phải thành tâm niệm Lục tự di đà và các bài kinh Tứ
Ân Hiếu Nghĩa do Đức Thầy soạn.
1.2.2. Giáo luật
Phật giáo Hoà Hảo chủ trương niệm Nam Mô A Di Đà Phật (tức niệm lục
tự Di Đà). Tín đồ thực hiện 8 điều răn của Đức Giáo chủ, xem đó như là giới
luật của đạo:
1. Không nên uống rượu, cờ bạc, thuốc phiện, chơi bời, đàng điếm, phải
giữ trọng luân lý tam cương, ngũ thường.
2. Không nên lười biếng, phải cần kiệm, sốt sắng lo làm ăn và lo tu luân chân
chất, không nên gây gổ lẫn nhau, hãy tha thứ tội lỗi cho nhau trong khi nóng giận.
3. Không nên ăn xài chưng diện thái quá và lợi dụng tiền tài mà quên
nhân nghĩa đạo lý, đừng ích kỷ và xu nịnh kẻ giàu sang, phụ người nghèo khó.
4. Không nên kêu Trời, Phật, Thần, Thánh mà sai hay hoặc nguyền rủa
vì thần thánh không can phạm đến ta.
5. Không ăn thịt trâu, bò, chó và sát sinh hại vật mà cúng thần, thánh vì
thần, thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta vì nếu ta làm tội sẽ chịu
125
tội, còn những hạng ăn đồ cúng mà hết bệnh là tà thần: Nếu ta cúng kiếng mãi
thì chúng ăn quen sẽ nhiễu hại ta.
6. Không nên đốt giấy, tiền, vàng, bạc, giấy quần áo mà tốn tiền vô lý, vì
cõi Diêm Vương không bao giờ ăn hối lộ của ta mà cũng không xài được nữa,
phải để tiền lãng phí ấy trợ cứu cho những người đói rách, tàn tật.
7. Đứng trước mọi việc gì về sự đời, hay đạo đức, phải suy xét cho minh
lý rồi sẽ phán đoán việc ấy.
8. Tóm lại phải yêu thương lẫn nhau như con một cha, dìu dắt nhau vào
con đường đạo đức, nếu ai giữ được trọn lành, trọn sáng về nơi cõi Tây phương
an dưỡng mà học đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sinh.
Tất cả thiện nam tín nữ trong tôn giáo nhà phật lúc rảnh việc nên thường
coi kệ giảng mà giữ gìn phong hoá nước nhà, giữ những tục lệ chân chính, bỏ
tất cả những sự dị đoan mê tín thái quá làm cho đạo đức suy đồi.
Rõ ràng những lời khuyên răn trên phê phán mê tín dị đoan, dùng tà thuật
bùa chú chữa bệnh và phê phán việc "hối lộ" Thần Thánh để chuộc tội. Đó là
những tư tưởng tiến bộ của Phật giáo Hoà Hảo.
1.2.3. Thờ phụng
Giáo lý Phật giáo Hoà Hảo chủ trương thờ phụng đơn giản, không cầu kỳ
phức tạp, trở về với nội tâm hơn là hình tướng bên ngoài, đúng với tinh thần vô
vi mà Đức Phật Thích Ca đã đề xướng.
Người tín đồ Phật giáo Hoà Hảo thờ cúng ba ngôi hương án tại nhà, bao gồm:
- Ngôi thờ Cửu Huyền Thất Tổ: thờ cúng tổ tiên, theo đạo lý uống nước
nhớ nguồn.
- Ngôi thờ Tam Bảo: thờ Thập phương Phật, Pháp, Tăng. Ngôi thờ này có
đặt một tấm vải màu nâu đậm (gọi là Trần Dà) tượng trưng cho sự thoát tục và
sự đoàn kết.
- Ngôi Thông Thiên: đặt ngoài trời.
Ngôi thờ Tam Bảo và ngôi Thông Thiên chỉ đặt lư hương, bình hoa, ly
nước sạch. Bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ thì ngoài ba thứ trên có thể dâng cúng
thêm thực phẩm: bánh kẹo, thức ăn nhưng là đồ cúng chay.
1.2.4. Hành lễ
Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ dạy tín đồ Phật giáo Hoà Hảo “chỉ thờ lạy Đức Phật,
tổ tiên, ông bà, cha mẹ lúc còn sống và các vị anh hùng cứu quốc. Với những kẻ
khác, nên bỏ hẳn sự lạy lục người sống, cho đến Thầy mình cũng vậy, chỉ xá thôi".
126
Những ngày lễ trọng:
Các ngày Lễ kỷ niệm của Phật giáo Hoà Hảo đều được tổ chức vào ngày âm
lịch. Trong một năm, theo âm lịch, Phật giáo Hoà Hảo có các ngày lễ, Tết chính:
Ngày 1 tháng Giêng: Tết Nguyên Đán
Ngày Rằm tháng Giêng: Lễ Thượng Nguyên
Ngày 25 tháng 2: ngày Đức Huỳnh Giáo chủ vắng mặt
Ngày 8 tháng 4: Lễ Phật đản
Ngày 18 tháng 5: Lễ Khai sáng Đạo Phật giáo Hoà Hảo
Ngày Rằm tháng 7: Lễ Trung Nguyên, Vu Lan Báo Hiếu
Ngày 12 tháng 8: Vía Phật Thầy Tây An
Ngày Rằm tháng 10: Lễ Hạ Ngươn
Ngày 17 tháng 11: Lễ Phật A-di-đà
Ngày 25 tháng 11: Lễ Đản Sinh Đức Huỳnh Giáo chủ
Ngày 8 tháng Chạp: Lễ Phật thành đạo
Trong các ngày lễ trên, ngày lễ khai đạo Phật giáo Hòa Hảo (18/5 âm
lịch) là ngày lễ lớn nhất, thu hút rất đông tín đồ Phật giáo Hòa Hảo về viếng Tổ
đình và An Hoà Tự tại thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
1.3. Đặc điểm của Phật giáo Hòa Hảo
1.3.1. Phật giáo Hòa Hảo là tôn giáo nội sinh, giản dị, bình dân
Trên cơ sở nền tảng của giáo lý Bửu Sơn Kỳ Hương, đạo Tứ Ân Hiếu
Nghĩa tư tưởng trong giáo lý của Phật giáo Hòa Hảo là sự kết hợp đơn giản
những nội dung dân dã, mộc mạc của Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo, trong đó
tư tưởng Phật giáo là yếu tố xuyên suốt. Tuy vậy, Phật giáo Hòa Hảo hoàn toàn
độc lập về kinh sách và cách thức tu hành. Đây là một tôn giáo nhấn mạnh vào
những hành vi riêng lẻ của sự thờ cúng và lòng thành. Đặc trưng này của Phật
giáo Hòa Hảo không chỉ thể hiện trong giáo lý mà cả trong luật lệ, nghi lễ hành
đạo. Ra đời trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX nhiều biến động,
Phật giáo Hòa Hảo đã bổ sung một số quan niệm và cúng lễ theo cách riêng của
mình, có nhiều tác động đối với tín đồ, phù hợp điều kiện kinh tế xã hội Nam
bộ, thích hợp với nếp sống của dân tộc, gắn liền với Nhân dân lao động, mang
yếu tố xã hội sâu sắc. Vì vậy, có lý khi nói rằng Phật giáo Hòa Hảo là “đạo
nông dân” nhưng là nông dân Nam bộ. Họ là người cần cù trong lao động, chịu
đựng gian khổ, đùm bọc lẫn nhau, cùng chia sẻ khi khó khăn hoạn nạn và sống
hòa đồng, đoàn kết với những người không theo tôn giáo hoặc tôn giáo khác.
127
1.3.2. Phật giáo Hòa Hảo không có hàng ngũ chức sắc xuất gia tu
hành, không có hàng giáo phẩm làm trung gian giữa tín đồ với đấng siêu
nhiên, bình đẳng trong sinh hoạt tôn giáo
Phật giáo Hòa Hảo là tôn giáo bình đẳng trong tu hành giữa mọi tín đồ,
không chủ trương có tín đồ xuất thế tu hành chuyên nghiệp, tín đồ đồng thời là
cư sỹ tại gia. Mỗi tín đồ tự mình trực tiếp với đạo pháp mà không cần thông qua
một nhân vật tách biệt giữa Đạo - Đời hay một giáo hội theo trật tự đẳng cấp.
Do vậy, Phật giáo Hòa Hảo không có hàng ngũ chức sắc xuất gia tu hành,
không có hàng giáo phẩm làm trung gian giữa tín đồ với đấng siêu nhiên. Vì
chức việc xuất phát từ tín đồ nên Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo được tổ chức và
vận hành theo thiết chế xã hội với đặc điểm “xã hội nào, giáo hội đấy, nhân sự
ấy”, tùy khế lý khế cơ của chúng sinh để hoạt động.
Tín đồ coi trọng việc tu tại gia, thờ cúng tại nhà là chính, nghĩa là về cơ
bản mọi sinh hoạt trong đời sống tôn giáo của tín đồ đều thực hiện ở nhà. Việc tín
đồ đến nơi công cộng (thờ tự chung) không phải là bắt buộc mà chỉ là thể hiện
nhu cầu tình cảm tôn giáo của mình đối với những nơi mang tính "kỷ niệm lịch
sử" của tôn giáo mình như Tổ đình, An Hoà Tự, các chùa Phật giáo Hòa Hảo rải
rác ở một số tỉnh Tây Nam bộ, trong đó chủ yếu là Tổ đình và An Hoà Tự.
1.3.3. Hoạt động từ thiện - xã hội là sự nhập thế của Phật giáo Hòa
Hảo nhằm củng cố đức tin
Một đặc điểm nổi bật của Phật giáo Hòa Hảo là coi hoạt động từ thiện -
xã hội là một lối tu hành. Điều này cho thấy Phật giáo Hòa Hảo là một tôn giáo
không yếm thế, xa lánh cuộc sống mà trong sự tu hành “nhập thế”, “vị nhân
sinh”, với bản tính “tu hiền chơn chất”, tín đồ Phật giáo Hòa Hảo rất hăng hái,
âm thầm tham gia các hoạt động xã hội, nhân đạo. Đặc biệt, từ khi được Nhà
nước công nhận tư cách pháp nhân, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo tiến hành 5 lần
Đại hội đại biểu toàn đạo, xây dựng Hiến chương khẳng định đường hướng
hành đạo: "Vì đạo pháp, vì dân tộc", và cụ thể hóa trong thực tiễn hoạt động của
Giáo hội qua các hoạt động từ thiện – xã hội. Chính các kết quả hoạt động từ
thiện - xã hội và những việc làm hữu ích của đồng bào Phật giáo Hòa Hảo trong
thời gian qua đã thắp sáng lên "ngọn đuốc từ bi trí thiện" thể hiện đúng tinh
thần nhập thế vì chúng sinh của Phật giáo Hòa Hảo. Đây là đặc điểm tiến bộ,
nhân văn trong hoạt động của Phật giáo Hòa Hảo trong việc phát huy tinh thần
đại đoàn kết toàn dân tộc vì một xã hội nhân văn và phát triển.
128
1.3.4. Hoạt động lợi dụng Phật giáo Hòa Hảo
Một bộ phận người theo Phật giáo Hòa Hảo vẫn thờ cúng và thực hành
giáo lý của Phật giáo Hòa Hảo nhưng không thừa nhận là tín đồ của Giáo hội
Phật giáo Hòa Hảo, do đó chưa tiếp cận được chủ trương, chính sách về tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, dễ bị lôi kéo, kích động tham gia các
hoạt động vi phạm pháp luật.
Như vậy, có thể nói Phật giáo Hòa Hảo là một tôn giáo ra đời trong
truyền thống tín ngưỡng miền Tây Nam Bộ. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển,
đến nay niềm tin tôn giáo, nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của tín đồ Phật giáo Hòa
Hảo rất lớn. Giáo lý, giáo luật, lễ nghi của Phật giáo Hòa Hảo có vai trò quan
trọng, tạo ra văn hóa, lối sống riêng của một bộ phận quần chúng Nhân dân Tây
Nam bộ, đó là những người theo đạo thuần tuý, tu hiền chân chất, vận dụng
những nét đẹp trong giáo pháp vào các hoạt động an sinh xã hội.
2. TÌNH HÌNH PHẬT GIÁO HÒA HẢO HIỆN NAY
2.1. Số lượng chức việc, tín đồ, cơ sở tôn giáo
2.1.1. Về tín đồ
Tín đồ Giáo hội Phật giáo Hoà Hảo không phân biệt nam nữ, thành phần,
dân tộc, tự phát nguyện tu hành theo tôn chỉ, đường hướng, theo nghi thức thờ
cúng, tuân hành giáo lý, giáo luật và tuân thủ pháp luật Nhà nước, giữ gìn sự
trong sáng của giáo lý chơn truyền, đoàn kết tôn giáo, đạo đời, thừa nhận bản
Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Hoà Hảo (Theo Hiến chương Giáo hội Phật
giáo Hoà Hảo).
Năm 1999 Phật giáo Hòa Hảo có khoảng 1,2 triệu tín đồ, đến năm 2009
số lượng tín đồ tăng lên trên 1,3 triệu người và đến năm 2021 có trên 1,5 triệu
tín đồ. Sự phân bố tín đồ của Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo trải rộng trên địa bàn
ở 20 tỉnh, thành phố nhưng không đều, chủ yếu tập trung ở 09 tỉnh miền Tây
Nam bộ gồm: An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Bến Tre, Hậu Giang,
Tiền Giang, Long An và Kiên Giang. Số tín đồ ở 3 tỉnh, thành phố là An Giang,
Đồng Tháp, Cần Thơ chiếm tới 99% tổng số tín đồ. Tỉnh An Giang là trung tâm,
được coi là thánh địa của tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, từ đây Phật giáo Hòa Hảo
lan toả ảnh hưởng một cách đậm nét trong các địa phương lân cận dọc sông Cửu
Long là: Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, Kiên Giang.
Giai đoạn sau khi được công nhận tổ chức (1999): Ở thời điểm số lượng
tín đồ có giảm so với trước khi được công nhận tổ chức, nhưng phát triển nhanh
129
chóng vào các giai đoạn tiếp theo. Việc tín đồ Phật giáo Hòa Hảo giảm so với
trước là do sau khi được công nhận tổ chức tôn giáo, Giáo hội Phật giáo Hòa
Hảo đã có hệ thống quản lý tín đồ bằng định danh qua việc cấp thẻ hoặc ghi tên
vào sổ tín đồ. Đến các giai đoạn tiếp theo số lượng tín đồ có tăng nhưng không
nhiều, bởi số tăng chỉ do tính cơ học là chủ yếu.
2.1.2. Về số lượng chức việc
Hiến chương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo quy định chức việc của Giáo
hội Phật giáo Hòa Hảo là những tín đồ chân tu, có tâm đạo, là công dân Việt
Nam từ 25 tuổi trở lên, tùy trình độ, năng lực, có đủ điều kiện, tiêu chuẩn, được
ứng cử hoặc bổ nhiệm vào tổ chức Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo. Do
vậy, những tín đồ Phật giáo Hòa Hảo tham gia Ban Trị sự các cấp của Giáo hội
hoặc do Giáo hội suy cử, bổ nhiệm để giữ một chức vụ trong Giáo hội được gọi
là chức việc Phật giáo Hòa Hảo.
Ngày 26/5/1999, tại An Hoà tự thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân,
tỉnh An Giang, Ban Vận động Phật giáo Hòa Hảo đã tổ chức thành công Đại hội
đại biểu Phật giáo Hòa Hảo lần thứ nhất cấp toàn đạo, suy cử được đội ngũ chức
việc chăm lo đạo sự cho tín đồ của Giáo hội.
- Cấp trung ương:
+ Nhiệm kỳ I (1999-2004), được Ban Tôn giáo Chính phủ chấp thuận
thành lập Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo cấp trung ương với 11 thành viên;
+ Nhiệm kỳ II (2004-2009) có 21 Trị sự viên trung ương;
+ Nhiệm kỳ III (2009-2014) có 26 Trị sự viên trung ương;
+ Nhiệm kỳ IV (2014-2019) số lượng Trị sự viên trung ương là 27 vị.
+ Nhiệm kỳ V (2019-2024) số lượng Trị sự viên trung ương là 28 vị.
- Cấp xã:
Ban Trị sự xã do Đại hội đại biểu tín đồ Phật giáo Hòa Hảo trong xã suy
cử theo nhiệm kỳ của Ban Trị sự Trung ương và có từ 3 đến 9 Trị sự viên gồm
các chức danh: Trưởng ban, Phó Trưởng ban, Thư ký và các Trị sự viên cơ sở.
+ Nhiệm kỳ I (1994-2004), có 257 đại diện cơ sở (chưa có BTS);
+ Nhiệm kỳ II (2004-2009) có 301 BTS cơ sở với 1.964 chức việc
+ Nhiệm kỳ III (2009-2014) có 391 BTS cơ sở với 2.583 chức việc
+ Nhiệm kỳ IV (2014-2019) có 400 BTS cơ sở với 3.181 chức việc
Tính đến tháng 5/2021, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo có trên 4.000 chức
việc, bao gồm thành viên Ban Trị sự viên trung ương, các Ban giúp việc cho
130
Ban Trị sự trung ương; Ban Đại diện các tỉnh, TP; Ban Trị sự cơ sở; Ban quản tự
các chùa Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo.
Có thể nói, do nhu cầu mở rộng hoạt động, tổ chức từng bước được củng cố
đòi hỏi nhân sự phải được được kiện toàn và tăng dần về số lượng để đáp ứng yêu
cầu phát triển hệ thống tổ chức Giáo hội, vừa đáp ứng được nguyện vọng của tín đồ
mong muốn có tổ chức tại địa phương để được hướng dẫn tu tập theo đúng giáo lý
chân truyền và Hiến chương của Giáo hội, phù hợp với quy định của pháp luật.
2.1.3. Về cơ sở tôn giáo
Truyền thống của Phật giáo Hòa Hảo là “Học Phật, tu nhân”, “tại gia cư
sĩ”, nên việc thờ phụng và hành đạo của tín đồ Phật giáo Hòa Hảo rất đơn giản,
chủ yếu là tiến hành tại gia đình. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của Phật
giáo Hòa Hảo đã xuất hiện nhu cầu cơ sở thờ tự (giáo sản) để đáp ứng nhu cầu
sinh hoạt tôn giáo tập trung của tín đồ.
Hiện nay, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo có 50 chùa đã được Nhà nước
công nhận trong đó ở An Giang 14 chùa, Đồng Tháp 23 chùa, Cần Thơ 8 chùa.
Bên cạnh đó, trên cơ sở thực hiện Hiến chương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo
và xuất phát từ nhu cầu thực tế cần có nơi làm việc ổn định của các Ban Trị sự cấp
xã, Ban Trị sự trung ương giáo hội Phật giáo Hòa Hảo đã thống nhất với cơ quan
quản lý nhà nước tiến hành xây dựng trụ sở làm việc của Ban Trị sự cấp xã.
2.2. Cơ cấu tổ chức
Về tổ chức Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo có 2 cấp: cấp cơ sở là xã, phường,
thị trấn; cấp Trung ương đại diện cho toàn đạo. Phật giáo Hòa Hảo không có hệ
thống chức sắc, tập thể tín đồ (đồng đạo) suy cử người đại diện để chăm lo việc
đạo với nhiệm kỳ 5 năm một lần. Những người được suy cử là những người tiêu
biểu cho nếp sống tốt đời đẹp đạo và làm theo nhiệm kỳ. Những người được suy
cử phải có những tiêu chuẩn được ghi trong Hiến chương Giáo hội Phật giáo
Hòa Hảo như: “Trị sự viên Ban Trị sự các cấp phải có tinh thần yêu nước, tích
cực xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, là công dân tốt, hiểu biết giáo lý, lễ
nghi, có tín nhiệm trong đạo”.
Hiện nay, tại Điều 4 của Hiến chương quy định Hệ thống tổ chức của
Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo gồm 2 cấp:
- Cấp toàn đạo có Ban Trị sự trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo:
Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo do Đại hội Đại biểu
tín đồ Phật giáo Hòa Hảo toàn đạo suy cử có từ 25 đến 29 Trị sự viên, nhiệm kỳ
131
là 5 năm, là tổ chức hợp pháp duy nhất của Phật giáo Hòa Hảo, đại diện cho toàn
thể tín đồ Phật giáo Hòa Hảo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam. Ban Trị sự trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo có các ban
chuyên ngành do Ban Trị sự trung ương bổ nhiệm theo nhiệm kỳ, gồm: (1) Văn
phòng; (2) Ban Tài chính; (3) Ban Phổ truyền giáo lý; (4) Ban Tổ chức và Nhân
sự (5) Ban Từ thiện - Xã hội; (6) Ban Kiểm soát. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn
của Văn phòng và các ban chuyên ngành sẽ được cụ thể hoá ở nội quy do Ban
Trị sự trung ương ban hành.
- Cấp cơ sở gọi là Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo xã, phường,
thị trấn (gọi chung là cấp xã):
Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo cấp xã do Đại hội Đại biểu tín đồ
Phật giáo Hòa Hảo trong xã suy cử, theo nhiệm kỳ của Ban Trị sự trung ương,
có từ 3 đến 9 Trị sự viên gồm các chức danh: Trưởng ban, Phó Trưởng ban, Thư
ký và các Trị sự viên cơ sở. Tuỳ theo yêu cầu đạo sự, Ban Trị sự xã cử Trị sự
viên phụ trách các mảng đạo sự.
Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo cấp xã đại diện cho tín đồ Phật
giáo Hòa Hảo là thành viên khối đại đoàn kết ở cơ sở.
- Tại những tỉnh, thành phố có đông tín đồ Phật giáo Hòa Hảo lập Ban
Đại diện Phật giáo Hòa Hảo tỉnh, thành phố.
Ban Trị sự các cấp có tư cách pháp nhân, có con dấu tròn để sử dụng và
được đăng ký tài khoản ở ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước, Ban Đại diện tỉnh,
thành phố và các ban chuyên ngành, văn phòng (trực thuộc Ban Trị sự Trung
ương) có con dấu sử dụng lưu hành nội bộ theo quy định của pháp luật.
Giúp việc cho Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo và nối
liên hệ với cơ sở, tại mỗi tỉnh, thành phố (trực thuộc Trung ương) có Ban Đại
diện Phật giáo Hòa Hảo tỉnh, thành phố do Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật
giáo Hòa Hảo bổ nhiệm.
2.3. Về thực trạng hoạt động tôn giáo
Sau khi Luật tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực, tại Đại hội cấp toàn đạo
nhiệm kỳ 2019-2024, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo đã tiến hành sửa đổi, bổ sung
Hiến chương theo tinh thần của Luật. Theo đó, hiện nay hoạt động của Giáo hội
PGHH có những nội dung chính như sau:
132
2.3.1. Về hoạt động hành chính đạo
Cơ cấu tổ chức giáo hội 2 cấp hành chính đạo, gồm có Ban Trị sự trung
ương và 400 Ban Trị sự xã, phường, thị trấn (cấp xã), 14 Ban Đại diện tại các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Giúp việc cho Ban Trị sự trung ương có
các ban chuyên môn gồm: Văn phòng, Ban Tài chính, Ban Phổ truyền giáo lý,
Ban Tổ chức và Nhân sự, Ban Từ thiện - Xã hội, Ban Kiểm soát. Bên cạnh đó,
50 chùa của Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo đã được Nhà nước công nhận đều có
Ban Quản tự do Ban Trị sự xã đề cử và được Ban Trị sự trung ương quyết định
thành lập, trong đó, Trưởng Ban Quản tự là Trưởng Ban Trị sự xã.
Trên cơ sở Hiến chương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo được đại biểu toàn
đạo lần IV điều chỉnh, bổ sung và thông qua, Ban Trị sự Trung ương đã tu chính
và ban hành các văn bản đạo quy dưới Hiến chương gồm:
1. Quy chế hoạt động của Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo.
2. Nội quy hoạt động của Văn phòng Ban Trị sự trung ương Giáo hội
Phật giáo Hòa Hảo.
3. Nội quy hoạt động của Ban Phổ Truyền giáo lý
4. Nội quy hoạt động của Ban Tổ Chức & Nhân sự
5. Nội quy hoạt động của Ban Từ Thiện xã hội
6. Nội quy hoạt động của Ban Tài chính
7. Nội quy hoạt động của Ban Kiểm soát
8. Nội quy hoạt động của của giáo lý viên
9. Quy chế hoạt động của Ban Trị sự xã, phường, thị trấn
10. Nội quy hoạt động của Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo tỉnh, TP
11. Quy định về hoạt động của Ban kiểm tra liên ngành Trung ương.
12. Nội quy nhà nghỉ tập thể Ban Trị sự trung ương.
Ý thức chấp hành Hiến chương và các văn bản đạo quy trong hệ thống tổ
chức của Giáo hội được nâng lên. Các nguyên tắc dân chủ (dân chủ đa số và tập
trung dân chủ), các quan hệ quản lý và các quan hệ phối hợp giữa Ban Trị sự
trung ương và các Ban Trị sự cơ sở, giữa các Ban chuyên ngành và Ban Đại diện
tỉnh, thành phố được xác lập giúp toàn bộ hệ thống Giáo hội vận hành ổn định.
Hiến chương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo quy định cụ thể nguyên tắc làm
việc của các Ban Trị sự các cấp. Theo đó, Ban Trị sự trung ương, Ban Trị sự xã
và Ban Thường trực của Ban Trị sự trung ương làm việc theo nguyên tắc dân
chủ tập thể quyết định theo đa số không trái giáo lý, giáo luật và pháp luật của
133
Nhà nước. Ban Trị sự xã tuân hành sự chỉ đạo của cấp trên, có quyền đề ra sáng
kiến nhưng chỉ thực hiện khi có sự đồng ý của cấp trên, có quyền khiếu nại các
quyết định, chỉ đạo của cấp trên nhưng phải thi hành ngay cho đến khi có quyết
định của cấp có thẩm quyền.
Hoạt động của Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo, nay là Ban Trị sự trung
ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo với vai trò là đại diện cho toàn thể tín đồ Phật
giáo Hòa Hảo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được củng cố và
đi vào chiều sâu. Tổ chức, nhân sự từng bước được kiện toàn, quy chế hoạt động
của Ban Trị sự trung ương, Văn phòng và các Ban giúp việc được xây dựng đưa
hoạt động đạo sự hành chính vào quy củ. Ban Trị sự trung ương Phật giáo Hòa
Hảo đã chọn cử đại diện, sau này là Ban Đại diện tại một số tỉnh, thành phố có
đông tín đồ, phối hợp với Ban Tôn giáo các tỉnh có Phật giáo Hòa Hảo hướng
dẫn tổ chức đại hội cơ sở suy cử Ban Trị sự các xã, phường, thị trấn.
Hiến chương của Giáo hội đã quy định trị sự viên Ban Trị sự Giáo hội
Phật giáo Hòa Hảo các cấp phải có tinh thần yêu nước, là công dân tốt, có tư
cách đạo đức tốt, có tinh thần đoàn kết, hòa hợp dân tộc; nghiêm chỉnh chấp
hành pháp luật; hiểu biết giáo lý, lễ nghi, có tín nhiệm trong Đạo, có năng lực và
điều kiện hoạt động đạo sự. Trị sự viên, chức việc có công đức với Đạo sẽ được
Ban Trị sự trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo tuyên dương và được ghi
vào sổ Công đức truyền thống Đạo. Trị sự viên, chức việc Phật giáo Hòa Hảo
nếu vi phạm những điều răn cấm của Đạo và Hiến chương Giáo hội Phật giáo
Hòa Hảo, làm tổn thương đến thanh danh đạo sẽ do Ban Trị sự xử lý theo luật
Đạo, nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
và bị xử lý theo luật Đạo.
2.3.2. Về hoạt động bổ nhiệm, suy cử, thuyên chuyển, cách chức, bãi
nhiệm chức việc
Công tác điều chuyển, bãi miễn hoặc thay đổi chức danh, bổ sung nhân sự
được tiến hành kịp thời, đúng theo Hiến chương Giáo hội và pháp luật Nhà nước.
Trong thời gian qua, Ban Trị sự các cấp tích cực trong hoạt động bổ
nhiệm, bầu cử, suy cử chức việc của Phật giáo Hòa Hảo, đặc biệt là làm tốt công
tác nhân sự trước mỗi kỳ đại hội. Hiện nay, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định
những tiêu chuẩn, điều kiện của một chức sắc, chức việc với những tiêu chí được lượng hóa rõ ràng (Điều 32) và quy trình, thủ tục đăng ký người được bổ nhiệm, suy cử, bầu cử làm chức việc cũng chặt chẽ hơn (Điều 34) giúp cho tổ
134
chức tôn giáo bầu, chọn được những chức sắc, chức việc đảm bảo chất lượng.
Bên cạnh đó hồ sơ đăng ký người được bầu cử, suy cử làm chức việc cũng có
những yêu cầu chặt chẽ là có lý lịch tư pháp của ứng viên. Tính đến tháng
5/2021, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo có trên 4.000 chức việc.
2.3.3. Về hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức việc
Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức việc được Ban Trị sự trung ương quan
tâm đầu tư: thành lập trường Trung cấp Phật giáo Hoà Hảo; mở các lớp giáo lý
căn bản để đào tạo giáo lý viên. Cụ thể:
+ Đào tạo giáo lý viên: Đào tạo giáo lý viên là một trong bốn nội dung
trọng tâm của công tác đạo sự nhằm nâng cao năng lực hoạt động cũng như nhận
thức của Trị sự viên và Trợ lý đạo sự các cấp, nhằm giúp cho tín đồ nhận thức
đúng đắn Tôn chỉ, giáo lý, lễ nghi; thực hiện đúng Hiến chương và chương trình
đạo sự của Ban Trị sự trung ương.
+ Mở lớp bồi dưỡng giáo lý viên cơ bản: Công tác bồi dưỡng giáo lý được
Ban Trị sự trung ương Giáo hội đặc biệt quan tâm và duy trì thường xuyên trong
thời gian qua. Căn cứ quy định của pháp luật và Hiến chương của Giáo hội Phật
giáo Hòa Hảo, thời gian qua Ban Trị sự trung ương đã mở được các lớp đạo sự
hành chính tại các cụm tỉnh có đông Ban Trị sự cơ sở hoặc có hướng dẫn về đạo
sự hành chính (cung cấp các văn bản đạo quy, tài liệu đạo sự hành chính, sử
dụng con dấu,…). Mục đích để trang bị cho các Trị sự viên, nhân sự các ban
chuyên ngành, tỉnh, thành phố, giáo lý viên hiểu biết về pháp luật nhà nước,
Hiến chương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo và các văn bản đạo quy có liên quan;
phương pháp điều hành tổ chức và hoạt động của hệ thống Giáo hội cũng như
những chính sách của Đảng, Nhà nước đối với tôn giáo nói chung và đối với
Phật giáo Hòa Hảo nói riêng. Trị sự viên các cấp, nhân viên trực thuộc trung
ương Giáo hội được tham gia các lớp tuyên truyền pháp luật do Ban Tôn giáo
Chính phủ tổ chức tại An Hòa tự; các lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an
ninh do Bộ chỉ huy quân sự tỉnh An Giang tổ chức,… Dù được tham dự các lớp
ngắn ngày, nhưng với tinh thần nghiêm túc học tập, các Trị sự viên, chức việc
bước đầu ý thức được việc đưa các hoạt động vào đúng quy định của Hiến
chương Giáo hội và pháp luật của Nhà nước là cần thiết để phục vụ các chương
trình đạo sự do Ban Trị sự trung ương đề ra. Hoạt động thuyên chuyển, bãi miễn
hoặc thay đổi chức danh, bổ sung nhân sự trong Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo
135
được tiến hành kịp thời, đúng theo Hiến chương của Giáo hội và pháp luật của
Nhà nước.
+ Mở lớp đạo sự hành chính: Trong điều kiện còn thiếu thốn về cơ sở vật
chất, trang thiết bị chuyên dùng và nhân sự có trình độ nghiệp vụ, nhưng bộ
phận văn phòng đã có nhiều tiến bộ thực hiện nhiệm vụ hành chính (quản lý
hành chính, quản trị cơ sở vật chất, trụ sở Ban Trị sự trung ương, điện, nước,
phục vụ hội, họp, tiếp khách,…) và nỗ lực để hoàn thành các nhiệm vụ được
phân công; đã phối hợp chặt chẽ với các Ban, bộ phận trực thuộc Ban Trị sự
trung ương tổ chức thành công các lớp hành chính đạo sự; lớp bồi dưỡng kiến
thức quốc phòng, an ninh; chăm lo các việc quan, hôn, tang, tế; đáp ứng yêu cầu
tổng hợp thông tin thành trang thời sự đăng báo Hương sen; kịp thời phản ánh
diễn tiến Đại lễ 25/11 âm lịch trên Website của Giáo hội.
+ Thành lập Trường Trung cấp Phật giáo Hòa Hảo: Với nhu cầu đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ chức việc ngày càng tăng, năm 2016 Ban Trị sự trung ương
Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo đã xây dựng đề án thành lập Trường Trung cấp
Phật giáo Hòa Hảo và được Ban Tôn giáo Chính phủ thừa ủy quyền của Thủ
tướng Chính phủ chấp thuận (Quyết định số 387/QĐ-TGCP ngày 16/12/2016).
Trường Trung cấp Phật giáo Hoà Hảo có chức năng đào tạo giáo lý viên có trình
độ trung cấp; Đào tạo, bồi dưỡng về đạo sự hành chính cho chức việc trong hệ
thống Giáo hội, đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn phát triển của Đạo; Nâng cao
trình độ cho đồng đạo về giáo lý, giáo luật, lễ nghi, trình độ học vấn, chuyên
môn, nghiệp vụ, có ý thức phục vụ Giáo hội, phục vụ đồng đạo, đồng bào, đất
nước, có kỹ năng tổ chức, giúp đồng đạo thực hành tôn chỉ giáo lý Phật giáo
Hòa Hảo theo đường hướng “Vì đạo pháp - vì dân tộc”.
Nhiệm kỳ 2014-2019, Giáo hội đã mở được 21 lớp đạo sự hành chính tại
các cụm tỉnh có đông Ban Trị sự cơ sở hoặc có hướng dẫn về đạo sự hành chính
(cung cấp các văn bản đạo quy, tài liệu đạo sự hành chính, sử dụng con dấu…),
có 2.100 học viên tham dự. Mục đích để trang bị cho các Trị sự viên, nhân sự
các ban chuyên ngành, tỉnh, thành phố, giáo lý viên hiểu biết về Hiến chương
Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo và các văn bản đạo quy có liên quan; phương pháp
điều hành tổ chức và hoạt động của hệ thống Giáo hội cũng như những chính.
- Về hoạt động quan hệ quốc tế, Phật giáo Hòa Hảo là tôn giáo nội sinh,
về cơ bản các hoạt động tôn giáo do Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo tổ chức chủ
yếu diễn ra trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
136
2.4. Hoạt động xã hội của Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo
- Hoạt động xã hội của Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo thể hiện qua
chương trình đạo sự tại các nhiệm kỳ đại hội.
Theo đó, qua 5 lần đại hội toàn đạo Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo luôn
khẳng định đường hướng hành đạo của Giáo hội Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo là
“Vì đạo pháp, vì dân tộc” với mục tiêu là “trau dồi và nâng cao đạo đức cho tín
đồ, chấn hưng nền Đạo gắn bó với dân tộc, phù hợp với chính sách và pháp luật
của Nhà nước, góp phần tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Do đó, danh mục các hoạt
động từ thiện của Phật giáo Hòa Hảo rất đa dạng và không phân biệt dân tộc, tôn
giáo, Đạo - Đời. Qua số liệu và tình hình hoạt động của các cơ sở y tế và từ thiện
nhân đạo thuộc Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo cho thấy sự đóng góp đáng kể của
các tổ chức tôn giáo này góp phần vào công tác an sinh xã hội, giảm gánh nặng
cho Nhà nước.
- Hoạt động từ thiện - xã hội là nét đặc trưng của là xương sống và là
phương thức tu học của Phật giáo Hòa Hảo.
Do những hoạt động từ thiện nhân đạo sát hợp với giáo pháp “học Phật, tu
nhân”, “tại gia cư sĩ” của Phật giáo Hòa Hảo, Ban Trị sự trung ương Giáo hội
Phật giáo Hòa Hảo đã phát động, hướng dẫn tín đồ thực hiện việc làm từ thiện -
xã hội, hoặc phối hợp với Uỷ ban Mặt trận tổ quốc tại địa phương động viên tín
đồ tham gia các chương trình từ thiện - xã hội. Các hoạt động có hiệu quả như:
xây mới và sửa chữa cầu nông thôn; sửa chữa và nâng cấp đường bộ; sửa chữa và
xây dựng nhà tình thương; quyên góp gạo, tiền để tổ chức cứu trợ cho các vùng bị
lũ lụt; ngoài ra còn cấp thuốc Đông y, Nam y miễn phí và tham gia hỗ trợ cho
những bệnh nhân nghèo đi khám, điều trị bệnh,… Nhờ có cách làm linh hoạt, phù
hợp với đặc điểm từng địa bàn nên có được những mô hình đa dạng và có kết quả
năm sau cao hơn năm trước.
- Một số mô hình hoạt động từ thiện - xã hội điển hình của Giáo hội
Phật giáo Hòa Hảo
Ban Trị sự Trung ương ký phối hợp với Uỷ ban MTTQ tỉnh An Giang mô
hình bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; thành lập tiểu ban
khuyến học thuộc Ban Trị sự trung ương và các Ban Trị sự cơ sở thành lập chi hội
khuyến học ở địa phương; Mô hình xây cầu bê tông ở Ban Trị sự cơ sở làm chủ
công trình là phương thức mới gắn hoạt động từ thiện xã hội với công cuộc xây
137
dựng nông thôn mới do Nhà nước phát động vì lợi ích của cộng đồng trong đó có
tín đồ Phật giáo Hòa Hảo; mô hình “Bếp ăn từ thiện Phật giáo Hoà Hảo” đã tác
động tốt đến hoạt động của các bếp ăn từ thiện về chất lượng cũng như loại hình
hoạt động.
Một số bếp ăn từ thiện đang mở rộng hình thức phục vụ với “Cửa hàng
không đồng”, “Tổ bảo trợ bệnh nhân nghèo”, “Bếp ăn từ thiện tại các cơ sở điều
trị đông y”,… đã tạo ra những dấu ấn đẹp trong mối quan hệ giữa người và
người. Bên cạnh đó, Tổ cất nhà từ thiện PGHH sau khi được thành lập đã đi vào
hoạt động, bước đầu đã tạo được đồng thuận của các thành viên trong tổ về mục
đích, biện pháp và qui chế hoạt động. Đây là hoạt động có tác động lớn đến công
cuộc xây dựng nông thôn mới vì thế cần phát triển thêm thành viên và xây dựng
kế hoạch hoạt động phù hợp để phát huy tốt vai trò của tổ trong hoạt động từ
thiện xã hội 20
Có thể nói, hoạt động từ thiện - xã hội của Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo đã
thể hiện được tính tích cực, tính nhân văn, tuân theo giáo lý của Đức Huỳnh giáo
chủ. Hoạt động này, trong thực tế đã mang lại hiệu quả thiết thực góp phần nâng
cao đời sống cho một bộ phận cộng đồng trong xã hội hiện nay.
Tuy nhiên, hoạt động từ thiện - xã hội là hoạt động “xương sống” của
toàn Giáo hội, được tổ chức bằng nhiều mô hình phong phú và đa dạng, nhưng
chưa khớp nối được tổ chức mạng lưới từ thiện - xã hội từ trung ương đến cơ sở;
còn những hoạt động mang tính tự phát, chưa có sự phối hợp chặt chẽ của các
cấp chính quyền, đoàn thể chính trị xã hội.
3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM VỀ PHẬT GIÁO HÒA HẢO
PHỤC VỤ CÔNG TÁC THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN
Một là, đa số tín đồ Phật giáo Hòa Hảo bản chất thật thà, chất phác, rất
sùng đạo. hiểu biết giáo lý, giáo luật của Phật giáo Hòa Hảo, biết vận động và
huy động được sức mạnh của quần chúng tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, biết kêu gọi
20 Theo Báo cáo tổng kết hoạt động từ thiện - xã hội của Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo qua các nhiệm kỳ,
kết quả như sau: (1) Nhiệm kỳ I (1999-2004): 22.342.267.729 đồng; (2) Nhiệm kỳ II (2004-2009):
197.961.574.000 đồng; (3) Nhiệm kỳ III ( 2009-2014): 514.143.363.271 đồng. Trong nhiệm kỳ IV (2014-2019),
kinh phí để tổ chức các hoạt động từ thiện - xã hội (quy thành tiền) là 1.928.215.593.000đ. Cụ thể một số hoạt
động như: sửa chữa, xây mới nhà tình thương, nhà đại đoàn kết 340.781.335.000đ; sửa chữa, xây mới cầu
401.247.822.000đ; quỹ vì con người: 163.754.866đ; quỹ vì người nghèo: 84.290.994.000đ; bếp ăn tình thương
482.533.366.000đ; nhà thuốc thảo dược 167.482.797.000đ; hỗ trợ bệnh nhân nghèo: 227.572.370đ; quỹ “cây
mùa xuân” (hỗ trợ tiền cho người nghèo đón xuân) 60.552.043.000đ.
138
ở họ ý thức từ tâm, hướng thiện,… thì họ sẽ đóng vai trò rất lớn trong công cuộc
bảo vệ và phát triển đất nước.
Hai là, đội ngũ chức việc Phật giáo Hòa Hảo có vai trò, vị trí quan trọng
trong Giáo hội nhưng nhiều chức việc chưa được đào tạo bài bản, kỹ năng tổ
chức, điều hành đạo sự còn hạn chế. Một số hoạt động của Ban Trị sự các cấp còn
mang tính hình thức, chưa phát huy sức mạnh tập thể, hoạt động mang tính chất
riêng lẻ, hiệu quả chưa cao. Điều này đặt ra yêu cầu phải có giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động của Giáo hội theo quy định của pháp luật.
Ba là, hoạt động từ thiện - xã hội là một thế mạnh, một nét đẹp trong văn
hóa tôn giáo của Phật giáo Hòa Hảo. Đặc điểm này cần được phát huy nhất là
trong công tác xây dựng nòng cốt trong các phong trào trong bối cảnh cả nước
cùng chung tay phát huy các nguồn lực xã hội để xây dựng đất nước, xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc.
Bốn là, hiện nay còn một lực lượng người theo Phật giáo Hòa Hảo, có
niềm tin sâu sắc vào tôn giáo, có sinh hoạt tôn giáo đầy đủ theo giáo lý, giáo luật
nhưng chưa sinh hoạt trong tổ chức Giáo hội. Do vậy, cần có biện pháp vận
động phù hợp để động viên tích cực tham gia các hoạt động chung của Giáo hội
và xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bùi Thị Thu Hà (2012), Phật giáo Hòa Hảo: tri thức cơ bản, Nhà xuất
bản Từ điển bách khoa, Hà Nội.
- Phạm Bích Hợp, Đời sống xã hội và tâm lý nông dân người Việt ở làng
Hoà Hảo tại An Giang trước và sau 1975.
- Bùi Văn Hải (2014), Luận án Tiến sĩ Tôn giáo học, Phật giáo Hòa Hảo -
lịch sử và những vấn đề hiện nay, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm
Khoa học Xã hội Việt Nam.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Giáo lý, giáo luật và hoạt động của Phật giáo Hòa Hảo có nhiều điểm
phù hợp với chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về bài trừ mê tín, dị
đoan? Hãy làm rõ luận điểm này trong công tác tuyên truyền?
2. Đặc điểm nào của Phật giáo Hòa Hảo cần tuyên truyền để ghi nhận
những đóng góp của Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo đối với xã hội?
3. Để công tác tuyên truyền chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước
trong Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo đạt hiệu quả cần chú ý những đặc điểm gì của
chức việc, tín đồ Phật giáo Hòa Hảo?
139
Chuyên đề 7
KHÁI QUÁT VỀ TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI VIỆT NAM
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI VIỆT NAM
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội
Việt Nam
1.1.1. Quá trình hình thành
Người sáng lập Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam là ông Nguyễn Văn
Bồng (Đức Tông sư Minh Trí) sinh năm 1886 tại xã Tân Mỹ, tổng An Thạnh
Thượng, tỉnh Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp).
Năm 1911, khi 25 tuổi, xuất phát từ nhận thức thấy cuộc sống của người
nông dân miền Nam Việt Nam dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp vô
cùng cơ cực, đói không có ăn, ốm không có thuốc, Ông Nguyễn Văn Bồng đã
đem đạo lý Phật giáo ra khuyên mọi người làm lành tránh dữ, dùng thuốc Nam
chữa trị bệnh cho mọi người không lấy tiền,… Việc làm của Ông đã được những
người nông dân Nam bộ cảm mến và ủng hộ. Đây cũng chính là thời kỳ hoạt
động làm tiền đề cho việc thành lập Tịnh độ Cư sĩ Phật hội sau này.
Năm 1919, ông Nguyễn Văn Bồng quyết định “an trí thê nhi, ly gia cắt ái”
để đi khắp miền Tây Nam bộ, từ thành thị đến thôn quê, tới những vùng xa xôi,
hẻo lánh để dùng y đạo trị bệnh cứu người, vận động những người có điều kiện
khá giả, có năng lực, uy tín cùng tham gia làm phước thiện với mình.
Để phát triển tư tưởng Phật giáo, Ông thu nhận những đệ tử có phẩm chất
đạo đức, khả năng y thuật giỏi và dạy đệ tử của mình thực hành hạnh Bồ Tát,
không tham tiền tài, địa vị, không lợi dụng nghề nghiệp để kiếm lợi cho mình.
Với lòng nhân ái và hạnh từ bi theo tinh thần Phật giáo, Ông chỉ cho người đời
thấy cuộc đời là giả tạm, là biến đổi vô thường, chỉ có tấm lòng, có đạo đức là
tồn tại mãi mãi. Ông đem giáo lý Lục phương khuyên mọi người ăn chay giữ
giới, lạy sáu hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, phương trên, phương dưới và trì niệm
Phật A Di Đà để cầu thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi, được về cõi Phật.
Trong thời kỳ này, ông Nguyễn Văn Bồng được sự trợ giúp của người cô
tên là Hồ Thị Mỹ, pháp danh Diệu Thiện ở xã Tân Mỹ, tổng An Thạnh Thượng,
tỉnh Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp). Bà là người đầu tiên trợ giúp đắc lực cho
Ông trên đường sáng lập Đạo nên sau này Bà được tín đồ suy tôn là Đức Bà Cô
Năm. Bà đã cùng Ông mượn nghề bán khoai đi khắp nơi dạy mọi người hướng
140
thiện, giúp trị bệnh cứu người không phân biệt tôn giáo, địa vị xã hội. Năm
1919, khi tín đồ đã phát triển ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, nhiều
người tìm về gặp Ông nhưng không có nơi ăn nghỉ, Bà Cô Năm đã hiến cho Ông
một căn nhà trong Rạch Dông để tín đồ có nơi cư trú để học đạo.
Là người có tư chất thông minh, giác ngộ chân lý Phật giáo, sẵn mang
dòng máu yêu nước cứu đời, ông Nguyễn Văn Bồng đã vận dung tri thức Phật
học sẵn có chuyển tải giáo lý Phật giáo thành thơ ca, kinh sách dưới dạng Phật
ngôn đối đáp ngắn ngọn, dễ hiểu để mọi người đến được với Phật giáo dễ dàng
hơn; đồng thời ông đưa mọi người vào hoạt động từ thiện nhân đạo, giúp đỡ
người nghèo, giúp đỡ cách mạng. Với những hoạt động nhập thế như vậy, số
người theo tôn giáo do ông Nguyễn Văn Bồng sáng lập ngày càng đông.
1.1.2. Quá trình phát triển của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam
Đầu năm 1930, nhận thấy số lượng người đi theo tôn giáo do ông Nguyễn
Văn Bồng sáng lập đã phát triển trên diện rộng khắp ở 21 tỉnh Nam kỳ, một số
tín đồ là những trí thức đã đề nghị Ông thành lập Giáo hội để có nền tảng lâu
dài, nhưng Ông chưa chấp thuận với lý do: “nền đạo có vĩnh cửu hay không vĩnh
cửu là do tâm hạnh của người Phật tử có lập trường hay không, có làm đúng
chính pháp thì lâu dài, làm không đúng chính pháp thì hư hoại, bán đồ nhi phế,
đâu phải do có Giáo hội hay không Giáo hội”.
Năm 1931- 1934, do tình hình, tín đồ ngày một đông, một vấn đề đặt ra là
phải lo tài chính để phục vụ cho việc hành đạo, Ông cùng Đức Bà Cô Năm và
các môn đệ vào Đồng Tháp Mười để khẩn đất khai hoang làm ruộng. Nhận thấy
cần phải có nơi tụ tập cho hội viên, thiện tín, Đức Bà Cô Năm đã dựng lên ngôi
chùa Tịnh độ đầu tiên tại ấp Mỹ Phước, xã Mỹ Quý, tỉnh Đồng Tháp lấy tên là
Hưng Phước Tự.
Thời gian này làn sóng chấn hưng Phật giáo ở cả ba miền Bắc- Trung-
Nam được phát động mạnh mẽ. Thấy nhân duyên đã hội đủ, ông Nguyễn Văn
Bồng đồng ý thành lập Hội với đủ 5 điều kiện:
- Phải có nhân tài (gồm có tài và có đức), đạo hạnh đầy đủ, lập trường
Như Lai tánh.
- Phải có uy tín với nhà cầm quyền.
- Tài chính không quyên góp tới người ngoại đạo.
- Có sự tín nhiệm của tất cả tín đồ trong xứ.
- Phải có địa điểm đặt Hội quán và xây cất Hội quán tạm thời.
141
Lúc này danh xưng “Tịnh độ Cư sĩ Phật hội” mới chính thức được chọn
làm tên cho Hội. Ban Trị sự lâm thời được thành lập và bắt đầu soạn thảo Điều
lệ, Nội quy cho Hội, để xin phép chính quyền cho thành lập Hội. Ngày
22/02/1934, Thống đốc Nam kỳ đã ra Nghị quyết số 619 cho phép Tịnh độ Cư sĩ
Phật hội hoạt động.
Ngày 25/7/1934, Ban Trị sự lâm thời đã triệu tập một hội nghị bất thường
đầu tiên. Đại hội đã suy tôn ông Nguyên Văn Bồng là Đức Tông sư (hiệu Minh
Trí) là vị Giáo chủ của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội để chủ trì công việc dạy giáo lý,
truyền bá Phật pháp cho toàn thể tín đồ, hội viên, có quyền tuyệt đối trong mọi
công việc Phật sự cũng như những việc liên quan đến Giáo hội.
Tịnh độ Cư sĩ Phật hội trở thành một tôn giáo và chính quyền thuộc Pháp
lúc đó đã cấp. Sau này, chính quyền Việt Nam Cộng hoà xác định tính hợp pháp
của Giáo hội bằng Nghị định số 83/MI/DAP ngày 22/12/1953 với tên đầy đủ là
Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam.
Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, hệ thống tổ chức
Giáo hội của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam không còn hoạt động đầy đủ như
trước nhưng hoạt động tại các hội quán vẫn sinh hoạt bình thường. Mặc dù Tịnh
độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam vẫn có 3 bộ phận là hành chính, đạo đức, y tế nhưng
hoạt động trọng tâm là phát triển mạnh về y tế (phòng thuốc Nam phước thiện).
Đến năm 1994, khi kỷ niệm 36 năm ngày Đức Tông sư Minh Trí qua đời,
toàn thể các Chi hội về Tổ đình Hưng Minh Tự dự lễ, Ban Trị sự trung ương tổ
chức đại hội bàn về củng cố lại hệ thống điều hành thống nhất trong toàn Hội và
thành lập “Ban Cố vấn Y tế và Đạo đức”. Trong các phiên họp của Ban cố vấn
đã quyết định soạn thảo đề án nhằm thành lập Hội đồng trị sự Tịnh độ Cư sĩ
Phật hội Việt Nam để phục hồi hệ thống tổ chức theo nền nếp cũ của Hội. Ngày
06/5/1995, tại Tổ đình Hưng Minh Tự (số 145, Lý Chiêu Hoàng, phường 10,
quận 6, TP. Hồ Chí Minh) đã tập trung các vị chức sắc, cao niên trong toàn Hội
và các hội viên tâm huyết với Hội họp bàn và thành lập Hội đồng Trị sự đề nghị
Nhà nước công nhận lại tư cách pháp nhân cho Hội và củng cố lại hệ thống điều
hành của Hội.
Ngày 27/11/2007, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam đã được Nhà nước
công nhận là tổ chức tôn giáo có tư cách pháp nhân. Trải qua quá trình phát
triển, đến nay Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam đã phát triển hơn 210
142
Chi hội, khẳng định tôn chỉ “Phước Huệ Song Tu” với tiêu chí “Tu học, Hành
thiện, Ích nước, Lợi dân”.
Sau khi được nhà nước công nhận tổ chức, công tác tổ chức, nhân sự của
Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam từng bước được ổn định và phát triển.
Đến nay, Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam đã trải qua 3 kỳ đại hội.
1.2. Giáo lý, luật lệ, lễ nghi
1.2.1. Giáo lý
Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam lấy giáo lý Phật đà làm gốc, song được
diễn đạt ngắn gọn, dễ hiểu cho phù hợp với đời sống của đa số người dân lao
động ở Nam bộ. Trong giáo lý của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam có nhiều
nội dung, song tập trung ở các quyển kinh, luật, luận căn bản:
- Lễ bái lục phương: Đây là quyển kinh xuyên suốt toàn bộ giáo lý của
người tu theo. Nội dung kinh hướng về người cư sĩ tại gia, sống tích cực nhập
thế giữa đời thường mà không đánh mất tâm tính bản nhiên thanh tịnh.
- Phu thê ngôn lận: Dùng hình thức đối đáp giữa hai vợ chồng nhằm đạt tới
sự diễn dịch “ý nghĩa ở ngoài lời nói.” Quyển Luận này nhằm khuyến khích người
tu hành từ tư tưởng đến hành động đều phải quả quyết, không thoái chuyển.
- Đạo đức: Đây là quyển kinh ghi lại lời thuyết giảng ý nghĩa và phương
pháp thực hành đạo đức của Đức Tông Sư Minh Trí, nội dung chủ trương đạo
đức là cái then chốt của văn minh cũng như của khoa học.
- Giới luật: Thuyết minh quan điểm của người tu Phật, nhất là người cư sĩ
tại gia, nêu rõ tính chất nghiêm minh, cẩn trọng mà người cư sĩ tại gia nếu phát
tâm thọ trì Bồ tát giới cũng có thể đạt được những thành tựu như người xuất gia.
- Học Phật vấn đáp: Là bộ Phật học phổ thông bao quát nhiều trình độ,
trong đó thuyết minh rõ về Giáo hội Tăng già, vấn đề Tam qui, chơn lý tu học,
xác định giá trị cũng như vị trí vững chắc của người cư sĩ tại gia trong Phật đạo.
- Phương pháp kiến tánh: Quyển sách thể hiện nội dung nâng cao trình độ
tu học, trình bày từng giai đoạn của quá trình tu học để đạt được Kiến Tánh.
Người Kiến Tánh thì sẽ xa lìa được thiên kiến để thực hành trung đạo. Ví như
một nhân tố tích cực, có thể làm cho người đạt tới những lợi ích hữu dụng hơn.
1.2.2. Giáo luật
Người tu theo Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam cơ bản là thực hành theo
giới luật Phật giới quy định cho những người cư sĩ tại gia. Người Cư sĩ tại gia
phải thọ tam quy: quy Phật, quy Pháp, quy Tăng (quy Tăng ở đây được hiểu
143
theo nghĩa hoà hợp chúng) và duy trì ngũ giới: 1. Không sát sinh; 2. Không trộm
cướp; 3. Không uống rượu; 4. Không tà dâm; 5. Không nói dối.
Ngoài các quy định trên tuỳ theo căn cơ và quyết tâm tu tập của từng
người mà có thể học tu theo Bát quan trai giới, gồm ngũ giới và 3 giới nữa là: 1.
Không sức nước hoa, thoa phấn sáp, đi xem hát; 2. Không nằm gường cao rộng;
3. Không ăm sau giờ Ngọ.
Ngoài các quy định cả Phật giáo, người cư sĩ tu theo Tịnh độ còn phải
chấp hành Điều lệ, nội quy (nay là Hiến chương) của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội
Việt Nam.
1.2.3. Giáo lễ
Thời kỳ mới hình thành, Đức Tông sư Minh Trí đã áp dụng Lễ bái lục
phương của Đức Thi Ca La Việt làm thành lễ nghi chính của hệ phái. Kinh “Lễ
bái lục phương” dành cho những người tu tại gia do Phật thuyết cho ông Thi Ca
La Việt. Trong kinh Đức Phật dạy người tu hành tại gia nên giữ sáu phận sự đối
với: cha mẹ, thầy dạy học, vợ chồng, bạn hữu, tôi tớ, thầy dạy đạo nên lễ theo 6
hướng: phương Đông là cha mẹ; phương Nam là thày; phương Tây là vợ chồng;
phương Bắc là bạn hữu; phương thượng là thày dạy đạo và phương hạ là tôi tớ,
mỗi hướng 4 lạy. Về sau đơn giản về mặt lễ nghi, Đức Tông sư đã quy định chỉ
lạy một hướng vào bàn thờ Phật, 24 lạy là đủ lễ. Khi lễ 5 vóc (đầu, hai tay, hai
gối) phải sát đất, hai bàn tay úp xuống (thể hiện úp tay lên bàn chân Phật tỏ lòng
biết ơn).
Lễ trọng của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam:
- Ngày 8-4 âm lịch: Lễ Phật đản và Đại hội thường niên ngành Y tế phước
thiện, đồng thời bầu Ban lãnh đạo Trung ương.
- Ngày 23-8 âm lịch: Lễ kỷ niệm ngày qua đời (viên tịch) của Đức Tông
Sư Minh Trí - Giáo chủ Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam và Đại hội thường niên
ngành Đạo đức.
Hằng tháng, vào ngày mùng 1 và 15 âm lịch là những ngày lễ sóc vọng,
làm lễ qui y cho tín đồ mới nhập đạo và thuyết giảng giáo lý. Ngoài ra còn tổ
chức những ngày lễ chung của đạo Phật, như rằm tháng Giêng, rằm tháng bảy,
rằm tháng 10,…
Hành lễ công phu tứ thời : Theo qui định lễ Phật 24 lạy (giản chính theo Lễ
Bái Lục Phương), lễ Đức Quán Thế Âm 12 lạy, lễ Đức Tông Sư Minh Trí 6 lạy.
144
1.3. Đặc điểm của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam
1.3.1. Là một tôn giáo nội sinh ra đời trong lòng dân tộc, kế thừa và tiếp
thu, phát triển chọn lọc giáo lý, giáo luật của Phật giáo
Với truyền thống nhân ái của dân tộc, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam
ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình tông tại và phát triển đã đáp ứng được
nhu cầu tín ngưỡng và hướng thiện của một bộ phận các tầng lớp nhân dân trong
xã hội, vừa có tác dụng về mặt tâm linh tôn giáo, vừa góp phân giáo dục hành vi
hướng thiện của mỗi người. Tuy tu theo Phật giáo nhưng việc tu hành đơn giản
hơn, người tu hành không phải xuất gia, xuống tóc; các cư sĩ, hội viên thiện tín
bình đẳng … điều này phù hợp với đặc điểm của cư dân ngươi Việt sống trên
mảnh đất Nam bộ phì nhiêu đang được khai phá nên đã thu hút được một bộ
phận nhân dân ở các tỉnh Nam bộ tin theo, ủng hộ.
1.3.2. Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam có hình thức tu hành đơn giản,
chú trọng giáo dục đạo đức
Hình thức tu hành đơn giản nên tín đồ dễ thực hiện, dễ tin theo, với
phương châm hoạt động nhân đạo từ thiện, giúp đỡ những người có hoàn cảnh
khó khăn, bệnh tật, thiết thực giúp cho Nhân dân, chú trọng giáo dục đạo đức,
không lợi dụng vào lòng tin của nhân dân để trục lợi nên có uy tín và ảnh hưởng
rất tốt tới tín đồ và các tầng lớp nhân dân. Có thể nói đây là một tổ chức tôn giáo
“tu học” nhưng không yếm thế, có uy tín và hoà nhập được với đời sống cộng
đồng người dân Nam bộ, là một tôn giáo nhập thế mang tính tích cực phục vụ
nhân sinh, đúng với lời nguyện ước của những tín đồ Tịnh độ Cư sĩ Phật hội:
“Thượng báo Tứ trọng ân, hạ thế tam đồ khổ, giai cộng thành phật giáo” (Tứ
trọng ân: ân sinh thành, dưõng dục của cha mẹ; ân quốc gia; ân minh sư giáo
hoá; ân xã hội. Hạ tế tam đồ khổ là giúp đỡ người đời khỏi 3 nạn tai: thù hiềm,
chém giết lẫn nhau (Đao đồ); Thuỷ đồ là nạn do nước gây ra; Hoả đồ là nạn do
lửa gây ra).
1.3.3. Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam có nghi thức thờ cúng giản dị,
giới luật không quá khắt khe
Tịnh độ Cư sĩ Phật hội không bắt buộc phải có điện thờ tượng cốt uy
nghiêm. Nếu không có điều kiện thực hành nghi thức thờ cúng thì chỉ cần niệm
Phật trong tâm cũng được. Giới luật không quá khắt khe, chỉ là những lời khuyên
nhủ hơn là những quy định nghiêm ngặt. Với những yếu tố giản dị, dễ hiểu, nhân
văn, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam đã tạo cho người nông dân niềm tin, sự tự
145
chủ với bản thân. Điều này tác động lớn đến ý thức của mọi người dân, người lớn
thì trau dồi đạo đức, có trách nhiệm khuyên dạy con cháu tu nhân, thực hành Tứ
ân. Có thể thấy, điều lớn nhất mà Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam đã làm được là
vực dậy niềm tin cho nông dân nghèo. Niềm tin ấy không chỉ là tin vào Phật mà
còn là niềm tin vào bản thân mình nơi vùng đất mới.
Giáo lý của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam khuyên dạy tín đồ “làm lành
lánh dữ”, nên họ chuyên thực hành tu hạnh bố thí để tạo phước duyên, đó là cốt
lõi của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam được thể hiên qua đặc trưng của tính
nhập thế, tính dân tộc của tôn giáo này.
Trước khi được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân, hoạt động thiện
nguyện của tín đồ Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam gặp nhiều khó khăn, hạn chế
do nguồn lực không nhiều và còn sự dè dặt trong các hoạt động, nhưng từ khi
được công nhận tư cách pháp nhân, tùy vào điều kiện kinh tế mà mỗi loại hình
từ thiện có quy mô, hình thức, cách thức ở những mức độ khác nhau, nhưng tinh
thần chung là sẽ hết lòng với các mô hình thiện nguyện xã hội, có sức lan tỏa
khắp trong vùng. Các hoạt động trong lĩnh vực y tế được xem là nổi bật nhất và
tích cực nhất. Khi nói đến Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, nhiều người nghĩ
ngay đến các hoạt động từ thiện xã hội, bởi sự nhiệt tâm, chuyên nghiệp, bài bản
và hiệu quả. Chẳng hạn, trong lĩnh vực y tế, họ có các tổ sơ cứu bệnh nhân,
phòng khám và điều trị bệnh miễn phí, phòng thuốc phúc thiện,...
2. TÌNH HÌNH GIÁO HỘI TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT HỘI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng chức sắc, chức việc, tín đồ, cơ sở tôn giáo
Hiến chương Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam quy định cụ thể
về tín đồ, chức sắc như sau:
- Tín đồ của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam không phân biệt
nam nữ, thành phần, dân tộc, theo đạo có làm lễ qui y, tuân hành giáo lý, giáo
luật và tuân thủ pháp luật của Nhà nước, giữ gìn sự trong sáng của giáo lý chơn
truyền, đoàn kết tôn giáo, đạo đời và thừa nhận bản Hiến chương của Giáo hội.
Tất cả các tín đồ xuất phát từ lòng mến đạo, tùy năng lực, được tham gia vào
hoạt động Phật sự, làm công tác từ thiện xã hội hợp pháp và đóng góp ý kiến,
công, của cho công việc chung của đạo. Tín đồ mỗi Chi hội được tính theo danh
sách sổ qui y tại Chi hội đó. Những tín đồ có chân tu, có tâm đạo, là công dân
Việt Nam, tùy trình độ, năng lực, có đủ điều kiện, tiêu chuẩn qui định của Giáo
hội, được ứng cử hoặc bổ nhiệm vào tổ chức Ban Trị sự các cấp và các Ban
146
khác. Tất cả tín đồ có thẻ đạo đều có quyền bầu cử theo đơn vị cư trú hoặc theo
Hội quán đã làm lễ qui y.
- Chức sắc của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam là những tín đồ
đã qua các khoá học Giáo lý hoặc Y lý, thi và đỗ tốt nghiệp, được tấn phong nếu
hội đủ những tiêu chuẩn theo qui định của Giáo hội và qui định của pháp luật về
tín ngưỡng, tôn giáo. Hệ thống chức sắc của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội
Việt Nam gồm các phẩm vị:
+ Môn Tu Huệ gồm các phẩm vị: Huấn sư, Giảng sư, Phó Giảng sư,
Giảng viên, Thuyết Trình viên;
+ Môn Tu Phước gồm các phẩm vị: Huấn sư Y khoa, Giảng sư Y khoa,
Phó Giảng sư Y khoa, Giảng viên Y khoa, Chức sắc Y tế Phước thiện bậc 2.
Tính đến tháng 5/2021, Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam có 214
chi hội, mỗi chi hội đều có phòng thuốc Nam phước thiện và chùa với khoảng
1,5 triệu tín đồ, hội viên; có hơn 600 chức sắc, 2.200 chức việc, gần 800 thầy
thuốc (y sĩ) và hơn 400 y sinh, phân bố ở 20 tỉnh, thành phố. Trụ sở chính của
Giáo hội đặt tại Tổ đình Hưng Minh Tự, số 45 đường Lý Chiêu Hoàng, phường
10, quận 6, TP. Hồ Chí Minh.
Hoạt động của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam chủ yếu thông
qua hệ thống các phòng thuốc nam phước thiện, đây là hoạt động quan trọng
nhất và cũng là hoạt động từ thiện xã hội chủ yếu của tổ chức tôn giáo này.
Trong điều kiện tình hình kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, hệ thống phòng
thuốc nam phước thiện của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam đã góp
phần chia sẻ gánh nặng về khám chữa bệnh cho xã hội và Nhà nước. Các phòng
thuốc nam phước thiện của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam ngày càng
được đông đảo tín đồ, hội viên và Nhân dân tín nhiệm tham gia.
Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam là tổ chức hoạt động tôn giáo
dựa trên tư tưởng, giáo lý Phật giáo và phát triển hơn về các hoạt động phước
thiện. Cũng như các tổ chức tôn giáo khác, nguồn tài sản của Giáo hội chủ yếu
là do các cư sĩ, tín đồ, hội viên tự nguyện hiến tặng, đóng góp tiền và công sức
để xây dựng nên.
2.2. Cơ cấu tổ chức
Theo Hiến chương, Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam là một tổ
chức tôn giáo thống nhất từ trung ương đến địa phương, không chia tách biệt lập
môn phái. Tổ chức của giáo hội gồm có 03 cấp theo hệ thống như sau:
147
- Cấp trung ương có Ban Trị sự trung ương, đứng đầu là chức danh Chánh
Hội trưởng. Ban Trị sự trung ương là cấp quản lý - điều hành cao nhất của Giáo
hội Tịnh độ Cư sĩ Phật Hội Việt Nam.
- Cấp tỉnh, thành phố có Ban Trị sự tỉnh, thành hội, đứng đầu là chức danh
Hội trưởng.
- Cấp phường, xã có Ban Trị sự Chi hội, đứng đầu là Trưởng ban.
Hiến chương của Giáo hội quy định: “Muốn thành lập chi hội phải có ít
nhất 50 (năm mươi) tín đồ, hội viên. Mỗi phường, xã dù đông tín đồ cũng chỉ
được phép thành lập một chi hội”.
Ban Trị sự các cấp có tư cách pháp nhân, có con dấu tròn để sử dụng và
được đăng ký tài khoản ở Ngân hàng. Các ban chuyên môn, văn phòng (trực
thuộc Ban Trị sự trung ương) có con dấu sử dụng lưu hành nội bộ theo quy định
của pháp luật.
Ban Trị sự các cấp của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam do đại
hội đại biểu tín đồ bầu ra theo hình thức bỏ phiếu trực tiếp và phiếu kín. Thành
viên Ban Trị sự có 12 vị chính thức và 03 vị dự khuyết, nhiệm kỳ là 05 năm và
có các chức danh: 01 Chánh Hội trưởng; 02 Phó Hội trưởng; 01 Tổng Thư ký;
01 Phó Tổng Thư ký; 01 Thủ bổn; 01 Phó Thủ bổn; 03 Kiểm soát; 02 Cố vấn; 02
dự khuyết.
Để thực hiện công tác quản lý tổ chức, kinh tế, xã hội theo đúng tôn chỉ
của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, Ban Trị sự trung ương được
thành lập thêm những ban phụ tá, gồm:
1. Ban Đạo đức và Ban Chấp hành Đạo đức Trung ương: Phụ trách công
tác đạo đức, đào tạo và giảng dạy giáo lý.
2. Ban Y tế Phước thiện Trung ương: Phụ trách các phòng thuốc Nam Y
Dược - Đông Y - Tây Y, đào tạo và giảng dạy.
3. Ban Hộ đạo: Phụ trách việc liên lạc và đoàn kết của nữ tín đồ, hỗ trợ
các hoạt động của Ban Trị sự Trung ương.
4. Ban Kinh tế: Phụ trách phát triển kinh tế.
5. Ban Thanh thiếu nhi Tịnh Độ phụ trách các hoạt động Thanh thiếu nhi
trong Giáo hội.
Tổ chức nhiệm vụ, quyền hạn của các Ban phụ tá sẽ được cụ thể hóa ở
Nội quy do Ban Trị sự trung ương ban hành.
148
2.3. Thực trạng hoạt động tôn giáo
2.3.1. Công tác hành chính đạo
Với cơ cấu tổ chức chặt chẽ từ trương ương đến địa phương, tính đến
tháng 5/2021 Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam có 214 tổ chức tôn giáo
trực thuộc là Ban Trị sự cấp xã/phường. Tại mỗi Ban trị sự, có các Ban giúp
việc, hỗ trợ về công tác hành chính - văn phòng, mặc dù còn thiếu thốn về cơ sở
vật chất, xong tại mỗi Ban trị sự đề có các bộ phận chuyên trách, biết sử dụng
máy tính và thành thạo công tác văn phòng (kế toán, văn thư, lưu trữ,…).
Để giúp các chi hội thực hiện đúng đường hướng hành đạo của Giáo hội
và tuân thủ pháp luật của Nhà nước, hằng năm Ban Trị sự trung ương Tịnh độ
Cư sĩ Phật hội Việt Nam tổ chức các lớp hành chính đạo cho chức sắc, chức việc
để phổ biến những quy định của pháp luật về tôn giáo và công tác hành chính
đạo; đồng thời tổ chức triển khai sâu rộng Điều lệ, Nội quy, nghi thức hành lễ,
công tác văn phòng nhằm nâng cao kỹ năng hành chính đạo.
Nhằm thành lập mỗi tỉnh có một Ban Giảng huấn, hằng năm, Ban Trị sự
trung ương Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam tổ chức bồi dưỡng cho
chức sắc. Các Ban Giảng huấn cấp tỉnh có nhiệm vụ phổ truyền giáo lý căn bản
cho hầu hết các chức việc trong Ban Y tế phước thiện và tín đồ, Ban Giảng huấn
trung ương mở các lớp giáo lý viên cao cấp, lớp giáo lý dành cho lực lượng kế
thừa. Trong thời gian qua, Ban Trị sự trung ương Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội
Việt Nam đã đào tạo được khoảng 7.000 giáo lý viên căn bản, gần 3.000 thuyết
trình viên cao cấp, gần 100 giảng viên, hơn 30 phó giảng sư, giảng sư. Ngoài ra
trong thời gian qua, khoảng 3.000 chức sắc, chức việc được tham dự các cuộc học
tập chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo để hiểu được và làm tốt công
việc đạo sự.
Trong các kỳ đại hội, bên cạnh việc bầu ra Ban Trị sự các cấp theo nhiệm
kỳ 05 năm, Hiến chương của Giáo hội được chỉnh sửa, bổ sung theo quy định của
pháp luật và tình hình thực tế phát triển của Giáo hội. Nhằm mục đích kiện toàn
cơ cấu tổ chức, nâng tầm hoạt động của Giáo hội phù hợp với sự phát triển của xã
hội, Hiến chương đã được toàn thể các Ban, chức sắc, chức việc, tín đồ nghiêm
túc thực hiện. Từ năm 2014, Ban Trị sự trung ương đã cùng với các Ban Trị sự
tỉnh, thành hội soạn thảo Nội qui Ban Trị sự; tu chỉnh, bổ sung bản Nội qui ngành
và Ban Y tế Phước thiện, Nội qui Ban Đạo đức và Ban Chấp hành Đạo đức; bản
Tiêu chuẩn tấn phong, thọ phong chức sắc hai ngành Y tế - Đạo đức.
149
2.3.2. Về hoạt động bổ nhiệm, suy cử, thuyên chuyển, cách chức, bãi
nhiệm chức việc
Sau khi được công nhận tổ chức, Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt
Nam tăng cường các hoạt động củng cố tổ chức, tu chỉnh Hiến chương, Điều lệ
hoàn thiện, chặt chẽ hơn. Hàng năm, các Giáo hội thực hiện phong chức, phong
phẩm cho khoảng 20 chức sắc. Hoạt động suy cử, bầu chức sắc giữ các chức vụ
trong các cơ quan hành chính đạo được duy trì thông qua các Đại hội nhiệm kỳ,
Hội nghị nhân sự, từng bước kiện toàn tổ chức. Tính đến tháng 4/2021 đã phong
phẩm, phong chức cho 624 chức sắc, gần 800 thầy thuốc (y sĩ) và hơn 400 y
sinh học thuốc; tổ chức bầu cử, suy cử 2.200 chức việc.
Việc phong chức, phong phẩm, bầu cử, suy cử, bổ nhiệm của Giáo hội
Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam được thực hiện theo quy định tại Điều 32 Luật
tín ngưỡng tôn giáo và Hiến chương, Nội quy của Giáo hội. Sau khi phong phẩm
cho các chức sắc, các tổ chức tôn giáo đã thực hiện thủ tục Thông báo đến cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 33 Luật tín ngưỡng, tôn
giáo. Hoạt động suy cử, bầu chức việc giữ các chức tại Ban Trị sự các cấp được
duy trì thông qua các Đại hội nhiệm kỳ, Hội nghị, từng bước kiện toàn tổ chức.
2.3.3. Hoạt động đào tạo bồi dưỡng chức sắc, chức việc
- Nhằm củng cố cho hoạt động đạo sự, trọng tâm là hoạt động y tế phước
thiện, trong nhiệm kỳ qua các tỉnh, thành hội, chi hội thường xuyên mở các lớp
giáo lý căn bản cho tín đồ hội viên học tập để nắm vững đường lối, phương thức
tu học của giáo hội dựa trên nền tảng Phước Huệ Song Tu. Ngành Đạo đức toàn
đạo trong nhiệm kỳ qua đã mở được rất nhiều khóa học tập giáo lý căn bản và
các khóa đào tạo, tu nghiệp cho nhân viên thuyết giảng giáo lý; Ban Giảng huấn
Đạo đức nhiều tỉnh, thành hội đã dựa vào kinh điển giáo hội để đưa vào các bài
thuyết giảng giáo lý có các nội dung cùng tham gia Bảo vệ môi trường và ứng
phó với biến đổi khí hậu. Thông điệp của giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt
Nam đã nhấn mạnh đến nội dung các chức sắc, chức việc, y sĩ, y sinh phải là
tấm gương “Thiểu dục tri túc, sống hòa hợp giữa con người với thiên nhiên”.
Phòng thuốc nam là cơ quan phước thiện của giáo hội, chẳng những tượng
trưng cho tôn chỉ của giáo hội, mà cũng là nơi để cho toàn thể các sắc hội viên
tín đồ, y sĩ, y sinh cùng nhau tu phước.
Thời gian qua, Ban Giảng huấn Y khoa trung ương giáo hội đã đào tạo
được hơn 150 y sĩ các cấp. Mở khóa Tu nghiệp Y sĩ cho hơn 40 người. Công tác
150
y tế nổi bật nhất là tại Trung ương hội, đã tổ chức sát hạch thành công về trình
độ y dược cổ truyền cho hơn 100 y sĩ của Giáo hội, thực hiện theo Thông tư số
29/2015/TT-BYT của Bộ Y tế ban hành ngày 12/10/2015. Đã được Cục Quản lý
Y dược Cổ truyền Bộ y tế tổ chức sát hạch.
- Ban Trị sự các tỉnh, thành phố và Ban Trị sự trung ương Giáo hội bồi
dưỡng một số chức sắc đạo đức để thành lập Ban giảng huấn tại mỗi tỉnh, các
ban giảng huấn cấp tỉnh có nhiệm vụ phổ truyền giáo lý cơ bản cho hầu hết
chức việc trong Ban y tế Phước thiện và tín đồ. Ban giảng huấn trung ương đã
mở các lớp giáo lý cao cấp, một lớp giáo lý dành cho lực lượng kế thừa. Đến
tháng 10/2020, Giáo hội đã đào tạo được một lực lượng chức sắc như sau: Giáo
lý căn bản: 6.090 vị; Thuyết trình viên 3 cấp: 2.633 vị; Giảng viên: 71 vị; Phó
giảng sư: 34 vị; Giảng sư: 12 vị.
Ban giảng huấn trung ương đã biên tập lại kinh sách và đăng ký xuất bản
với Nhà xuất bản Tôn giáo, trong đó có: Phu Thê Ngôn Luận, Lễ Bái Lục
Phương, Đạo Đức, Giới Luật, Phước Huệ Song Tu cùng hai quyển mới là kinh
A Di Đà và Pháp Bửu Đàn Kinh Trích Giảng. Điểm quan trọng là xuất bản Bộ
giáo lý căn bản gồm 05 tập để làm tài liệu giảng dạy giáo lý Phật Đà và phát huy
tôn chỉ Phước Huệ Song Tu. Soạn thảo lại qui trình thi cử chức danh Thuyết
Trình Viên, Giảng viên nhằm đào tạo một số chức sắc có đủ trình độ để làm
nòng cốt cho công tác giảng dạy về tôn giáo của Giáo hội.
- Hoạt động đào tạo của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam chia làm 02
“ngành”: Ngành Tu phước và Ngành Tu huệ, trong đó:
Về Tu phước: Giới Y sĩ của giáo hội cũng là những tu sĩ, làm việc và sinh
sống tại hội quán (chùa). Để hoạt động đúng Luật khám chữa bệnh, các Phòng
Thuốc nam phước thiện phải có chứng chỉ hành nghề của Sở Y tế, và các Y sĩ
phải có Giấy chứng nhận do Sở Y tế cấp/hoặc công nhận. Đến nay nhân sự
chuyên môn của Giáo hội đã có khoảng 90 Huấn viên Y khoa nam dược, hơn
800 Y sĩ phước thiện. Bên cạnh đó, còn có đông đảo đội ngũ kỹ thuật viên và y
sinh đang học nghề Y dược theo chương trình thống nhất của giáo hội.
Về Tu huệ: Từ khi thành lập Giáo hội, công tác dạy đạo do Ban Đạo đức
đảm nhiệm. Đức Tông sư Minh Trí là vị thầy tối cao (gọi là Thượng sư chứng),
trực tiếp giảng dạy là các vị chức sắc do Đức Tông sư Minh Trí sắc phong gồm
các giáo phẩm Huấn sư, Phó Huấn sư, Giảng sư, Phó Giảng sư, Huấn viên đạo
đức (gọi là Hạ sư truyền). Chương trình giảng dạy, tu học hướng đến mục tiêu
151
thực hành Phước Huệ song tu, nội dung ứng dụng bao gồm các giáo điển: kinh
Lễ Bái Lục Phương, Phu Thê Ngôn Luận, kinh Đạo Đức, Giới Luật. Các kinh
điển nhà Phật được sử dụng để nâng cao trình độ gồm có: kinh A Di Đà, kinh
Kim Cang, kinh Pháp Bửu Đàn, kinh Thủ Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa.
Đến nay, Ban Giảng huấn và Hoằng pháp trung ương (trực thuộc Ban Đạo
đức trung ương), biên soạn bộ giáo trình 3 cấp, thống nhất việc đào tạo nhân sự.
Đồng thời, Ban Giảng huấn và Hoằng pháp trung ương đảm nhận công tác tổ
chức các khóa đào tạo nhân sự chuyên môn và thực hiện công tác giảng giải giáo
lý tại các hội quán trong những ngày Chủ nhật và ngày Mùng Một (ngày sóc),
ngày Rằm (ngày vọng).
Bên cạnh những thuận lợi như trên giáo hội hiện vẫn còn một số khó khăn
như: Việc thực tập của y sĩ trung cấp y học cổ truyền là y sĩ của Tịnh độ Cư sĩ
còn khó khăn, vì đa số các y sĩ trung cấp y học cổ truyền là y sĩ cấp II của giáo
hội đã có thâm niên khám chữa bệnh trên 5 năm, hiện đang đảm nhiệm ở các
phòng thuốc nam phước thiện của giáo hội ở các tỉnh thành, nếu tham gia thực
tập ở các bệnh viện chuyên khoa thì phòng thuốc phải đóng cửa, ảnh hưởng đến
chất lượng hoạt động của Ban tu phước của Giáo hội.
2.3.4. Về hoạt động quan hệ quốc tế
Cùng với sự phát triển theo xu thế chung của thế giới và phù hợp với
đường lối đối ngoại của Nhà nước, Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam
mở rộng mối quan hệ với các tôn giáo trên thế giới trên nhiều mặt của đời sống
xã hội. Chủ yếu tập trung vào các hoạt động thuần túy tôn giáo như: thảo luận về
giáo lý, giáo luật, lễ nghi; phương thức sinh hoạt; đào tạo, trao đổi về kinh sách;
các hoạt động bác ái, từ thiện.
Bên cạnh các hoạt động trong khuôn khổ chương trình, Giáo hội đã tăng
cường các hoạt động thuyết giảng, tham gia sinh hoạt tôn giáo, hướng dẫn bà
con tín đồ ở nước ngoài tu học, tạo dựng quan hệ đoàn kết, gần gũi trong kiều
bào Việt Nam ở nước ngoài, giúp cho kiều bào hiểu hơn về chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà nước ta, hướng tình cảm của kiều bào về quê hương, đất nước.
Bên cạnh đó, Giáo hội đã ký kết hành động “Vai trò của các tôn giáo Việt Nam
tham gia bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu”.
Theo báo cáo (năm 2020) của Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Tịnh độ
Cư sĩ Phật hội Việt Nam, tín đồ thuộc Giáo hội hiện nay có ở 02 quốc gia là Úc
và Đan Mạch. Trong đó, số lượng tín đồ ở Úc có 110 người, Đan Mạch có 105
152
người. Việc sinh hoạt của các tín đồ ở 02 quốc gia này tuân thủ theo giáo lý, giáo
luật, lễ nghi của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam. Ban Trị sự trung
ương Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam giúp nhóm tín đồ ở 02 quốc gia
này thành lập Ban Trị sự chùa (cấp cơ sở) theo Hiến chương của giáo hội Tịnh
độ Cư sỹ Phật hội Việt Nam, gồm 01 Trưởng ban, 02 phó ban và 04 uỷ viên;
hướng dẫn tu học, giảng giải kinh sách, giáo lý, giáo luật, hướng dẫn lễ nghi qua
mạng Internet, băng đĩa và sách... Bên cạnh đó, Ban Trị sự trung ương Giáo hội
Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam giúp đào tạo y sỹ khám chữa bệnh bằng thuốc
nam (vật lý trị liệu, châm cứu, khám - bốc thuốc nam,…).
2.4. Hoạt động xã hội
2.4.1. Tham gia phát triển kinh tế xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Những năm qua, Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam đã cùng chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc các cấp và toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở,
phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh; nhất là, chăm lo cho
người nghèo, người có công với nước, người già cô đơn, trẻ mồ côi, khuyết tật,
xây dựng nhà tình thương, Nhà Đại đoàn kết; chăm lo giúp đỡ người bị bệnh
phong, nhiễm và ảnh hưởng HIV/AIDS, cứu trợ thiên tai, tai nạn,... Tính đến
tháng 5/2021, Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam có 214 phòng thuốc
nam và nhiều vườn thuốc nam quý hiếm.
Ngoài ra, Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam còn chủ động phối
hợp với các tổ chức, đoàn thể tổ chức các đoàn khám, chữa bệnh lưu động, phát
thuốc miễn phí cho hàng triệu lượt người nghèo. Các địa phương có nhiều cơ sở
bảo trợ xã hội của tôn giáo là: TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, An Giang, Vĩnh
Long,... Nhìn chung, các cơ sở này đều đáp ứng đầy đủ các quy định, góp phần
cùng Nhà nước và xã hội trong công tác khám chữa bệnh cho Nhân dân.
Về cơ bản Ban Trị sự trung ương Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt
Nam đã tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động chức việc, tín đồ
tham gia thực hiện các phong trào thi đua yêu nước và tích cực tham gia phát
triển cộng đồng thông qua các cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư", “Người Việt Nam ưu tiên
dùng hàng Việt Nam,… Các cuộc vận động này góp phần quan trọng vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; quan tâm đến đời sống tinh thần đạo đức
của tín đồ bằng cách mở nhiều khóa giáo lý để giảng giải những nội dung
chuyên sâu về đạo đức của con người nói chung, đạo đức tôn giáo nói riêng.
153
Trong thời gian qua, Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam đã ký kết
hành động “Vai trò của các tôn giáo Việt Nam tham gia bảo vệ môi trường và ứng
phó với biến đổi khí hậu”. Tham dự Hội thảo quốc tế chính sách, pháp luật nhằm
đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo chia sẻ kinh nghiệm giữa Châu âu và
Việt Nam.
2.4.2. Tham gia hoạt động xã hội hóa về y tế, từ thiện nhân đạo
Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam tham gia các hoạt động xã hội
hóa về y tế và từ thiện nhân đạo theo hai hình thức chủ yếu: hoạt động thường
xuyên và hoạt động không thường xuyên. Qua số liệu và tình hình hoạt động của
các cơ sở y tế và từ thiện nhân đạo thuộc Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt
Nam cho thấy sự đóng góp đáng kể của tổ chức tôn giáo này góp phần vào công
tác an sinh xã hội, giảm gánh nặng cho Nhà nước. Cụ thể:
- Mặt tích cực:
Hiện nay Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam đã thành lập được
214 phòng thuốc nam phước thiện. Để các phòng thuốc nam hoạt động hiệu quả
và đạt chất lượng tốt, chủ trương của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam
là luôn quan tâm tới việc đào tạo các y bác sĩ có trình độ. Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ
Phật hội Việt Nam hiện có 3 trung tâm đào tạo nhân lực cho các phòng thuốc
nam tại TP. Hồ Chí Minh, Long An và Cà Mau.
Y tế - phước thiện là hoạt động quan trọng nhất và cũng là hoạt động từ
thiện xã hội chủ yếu của Giáo hội. Trong tình hình kinh tế đất nước còn nhiều
khó khăn, hệ thống phòng thuốc nam phước thiện của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội
Việt Nam đã góp phần chia sẻ gánh nặng về khám chữa bệnh cho xã hội và Nhà
nước. Các phòng thuốc nam phước thiện của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam
ngày càng được nhiều người khắp nơi tín nhiệm.
Hoạt động thuốc nam của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam bắt
nguồn từ quan niệm: tu hành chân chính, muốn thành chánh quả phải có Phước
túc - Huệ túc, phải tịnh đủ tam nghiệp, ý tu, ý hành thì ý tịnh; khẩu tu khẩu hành
thì khẩu tịnh; thân tu thân hành thì thân tịnh. Con người có hai phần quan trọng
như nhau là Tâm và Thân, cho nên đối với người bệnh, trước hết không phải
đem Phật pháp đến với họ, mà phải đem đến cho họ những phương thuốc thần
diệu của một nền y đạo thật sự để xoa bớt nỗi đau thể xác, loại trừ căn bệnh rồi
dần dần hướng họ tu hành theo Phật pháp.
154
Với tôn chỉ Phước - Huệ song tu, Tịnh độ “tu Phước” chủ yếu là dùng y
đạo (Nam dược) để chữa bệnh cho người, là kết quả của điều lành, những việc
phước thiện, giúp đỡ người đời bớt khổ thêm vui. Như thế là thực hiện đúng
hướng chủ nghĩa từ bi của đức Phật, góp phần phát triển nền y học cổ truyền
Việt Nam. Phương tiện tu phước chủ yếu là các phòng thuốc nam phước thiện
bên cạnh nơi thờ tự và tu học.
Phòng thuốc nam tượng trưng cho tôn chỉ của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật
hội Việt Nam, đồng thời là nơi để cho toàn thể các chức sắc, chức việc, tín đồ, hội
viên cùng nhau tu phước. Để nâng cao trình độ của các y sỹ, y sinh, Ban Trị sự
trung ương Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam đã hoàn thiện bộ tài liệu
giảng dạy y sỹ (cấp I, II và III), Huấn viên y khoa và bộ giáo trình môn châm cứu.
Nhiệm kỳ vừa qua, Ban Trị sự trung ương đã liên tục mở các khoá đào tạo, rèn
luyện về chuyên môn lẫn đạo đức, tổ chức các khoá học dành cho y sỹ, y sinh từ
trung ương đến các tỉnh, thành hội. Nhằm tạo thuận lợi cho việc đi lại, tiết kiệm
tiền bạc, thời gian, công tác giảng dạy của Ban Giảng huấn được Ban Trị sự trung
ương phân bố đều khắp các tỉnh, thành hội. Ngoài việc đào tạo theo chương trình
của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, mỗi khi có kỳ tuyển sinh quốc gia,
giáo hội đều khuyến khích các tín đồ còn trong độ tuổi đi học (18-30) thi vào các
trường Đại học và Trung cấp để học và chuẩn hoá bằng cấp theo quy định của Bộ
Y tế.
Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam đã tạo dựng được nền tảng y
học cổ truyền vững vàng đáp ứng được yêu cầu chuyên môn về khám bệnh, chữa
bệnh và đạo đức nghề nghiệp. Hoạt động của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội
Việt Nam luôn được quần chúng Nhân dân ủng hộ và tài trợ, được chính quyền
các địa phương tạo điều kiện hoạt động.
Trong năm 2020, nhằm hỗ trợ cho bà con đồng đạo khắc phục tình trạng
khô hạn, mất mùa Đoàn thiện nguyện của Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Tịnh
độ cư sĩ Phật hội Việt Nam tổ chức trao các vật phẩm là các phần quà, ngoài ra
còn có 110 tấn tole hỗ trợ cho đồng bào ở huyện Bắc Trà Mi. Tổng số tiền và
quà trị giá là hơn 4,8 tỷ đồng. Đồng thời, Ban Trị sự Trung ương giáo hội Tịnh
độ cư sĩ Phật hội Việt Nam đã đăng ký ủng hộ “quỹ vì người nghèo và chương
trình an sinh xã hội” năm 2020 với số tiền khoảng 140 tỷ đồng. Số tiền được quy
đổi từ các hoạt động từ thiện xã hội của Giáo hội, gồm các hình thức như: Khám
bệnh và bốc thuốc miễn phí; châm cứu miễn phí; phát thuốc thành phẩm miễn
phí; hoạt động cứu tế và tham gia các chương trình vận động tại địa phương có
hội quán của Giáo hội.
155
3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM VỀ TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT
HỘI VIỆT NAM PHỤC VỤ CÔNG TÁC THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN
- Điều kiện hoạt động của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam còn
gặp nhiều khó khăn, vì đa phần tín đồ là nông dân nghèo, trình độ hiểu biết pháp
luật còn hạn chế; số lượng tín đồ, hội viên phân bố không đều. Do vậy, công tác
tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cần được
quan tâm, phù hợp với đặc điểm của tôn giáo này.
- Đóng góp của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam cho nền y học cổ truyền
cần được ghi nhận, lan tỏa trong xã hội qua các hình thức tuyên truyền phù hợp.
- Tuyên truyền những thông tin, kiến thức chuyên sâu về y tế, hướng dẫn
để Giáo hội phát huy tốt hơn nữa hoạt động y tế phước thiện của Giáo hội./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Ban Tôn giáo Chính phủ (2019) “Tập bài giảng về Tịnh độ cư sỹ Phật
hội Việt Nam”.
- Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (2019) “Hiến chương của
Giáo hội Tịnh độ Cư sỹ Phật Hội Việt Nam”.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Hoạt động nào của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam cần
tuyên truyền để ghi nhận những đóng góp của Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật
hội Việt Nam đối với xã hội?
2. Để giúp Giáo hội Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam phát huy hoạt động
y tế - phước thiện cần những khuyến nghị gì?
156
Chuyên đề 8
KHÁI QUÁT VỀ MỘT SỐ TÔN GIÁO KHÁC Ở VIỆT NAM
(Hồi giáo, Baha’i, Bà La Môn giáo, Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa,
đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Minh sư đạo, Minh lý đạo)
1. HỒI GIÁO
1.1. Khái quát chung về Hồi giáo ở Việt Nam
1.1.1. Sự hình thành, phát triển và quá trình du nhập vào Việt Nam của
Hồi giáo
1.1.1.1. Sự hình thành của Hồi giáo
Hồi giáo, theo tiếng A rập là “Islam giáo”, nghĩa là phục tùng, vâng lệnh
Thượng đế (Allah). Tên gọi “Hồi giáo” là cách gọi trước đây của người Trung
Quốc chỉ tôn giáo của dân tộc Hồi Hột theo Islam giáo. Ở Việt Nam hiện nay
tồn tại hai cách gọi là “Hồi giáo” và “Islam giáo”, trong đó từ “Hồi giáo” được
sử dụng phổ biến hơn.
Hồi giáo ra đời ở Mecca vào đầu thế kỷ VII sau Công nguyên, trong bối
cảnh xã hội chế độ công xã nguyên thủy dần chuyển sang chế độ xã hội có giai
cấp, đòi hỏi cần phải thống nhất các bộ lạc trong bán đảo A rập thành một nhà
nước phong kiến; đồng thời tín ngưỡng thờ đa thần không còn đáp ứng nhu cầu
của xã hội mới, đòi hỏi phải thay thế bằng một tôn giáo thờ nhất thần. Trong bối
cảnh đó, Muhammad (571 - 632) đã mặc khải và phát triển Hồi giáo, trở thành
người được tín đồ Hồi giáo tôn vinh là Sứ giả cuối cùng.
Theo sử sách, vào tháng 9 Hồi lịch hằng năm, Muhammad thường vào
hang đá ở núi Hira, gần thành phố Mecca để tịnh cốc và suy niệm. Bỗng một
đêm vào năm 610, lúc ông 40 tuổi, với những giây phút xuất thần chìm sâu trong
suy niệm, ông thấy thiên thần Gabriel đến trao cho ông thông điệp của Thượng
đế (Allah) và thông báo: “ông được Thượng đế chọn làm sứ giả của Ngài”. Từ
đó, ông trở thành nhà thông thái và truyền bá tư tưởng Hồi giáo tới những tín đồ
đầu tiên.
1.1.1.2. Quá trình phát triển của Hồi giáo
Khi mới ra đời, Hồi giáo vấp phải sự phản kháng quyết liệt của tầng lớp
đứng đầu các bộ lạc. Tuy nhiên, trong vòng 20 năm, Hồi giáo đã được truyền bá
ra một vùng rộng lớn thuộc bán đảo A rập. Sau khi Muhammad qua đời, từ năm
157
636, những người kế tục ông đã tiến hành thời kỳ truyền bá Hồi giáo đến các
quốc gia khác như: Siri, Ba Tư, Ai Cập, Tây Bắc Ấn Độ,… Cho đến thế kỷ XI,
Hồi giáo đã trở thành một tôn giáo thống soái của các dân tộc từ Địa Trung Hải
đến Vịnh Ba Tư; thâm nhập sâu vào các dân tộc Châu Phi rồi vượt biển vào Tây
Ban Nha, châu Âu. Trong khoảng 3 thế kỷ (từ thế kỷ XIV - XVI) Hồi giáo đẩy
mạnh việc truyền bá sang nhiều nước vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
Hiện nay, Hồi giáo là một trong hai tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất
thế giới, với gần 2 tỷ tín đồ, chiếm khoảng 23% dân số toàn cầu, có mặt ở hơn
200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên tất cả các châu lục với các chế độ chính trị
khác nhau và những nền văn hoá đa dạng, trong đó có khoảng 50 quốc gia tuyên
bố Hồi giáo là quốc giáo. Tín đồ Hồi giáo có ở châu Á hơn 60%, khu vực Trung
Đông và Bắc Phi khoảng 20%, châu Phi và cận Sahara khoảng 15%, châu Âu và
châu Mỹ khoảng 3% số lượng tín đồ Hồi giáo toàn thế giới.
Hồi giáo có nhiều hệ phái, trong đó hệ phái Sunni chiếm khoảng 80%
tổng số tín đồ Hồi giáo thế giới, còn lại là các hệ phái khác như: Shi’i, Ismali,
Sufi, Babit, Bekhait,...
1.1.1.3. Sự du nhập của Hồi giáo vào Việt Nam
Hồi giáo du nhập vào cộng đồng người Chăm ở Việt Nam từ khoảng thế
kỷ IX đến thế kỷ X qua các thương nhân A rập, Ấn Độ, Ba Tư.
Các giai đoạn phát triển:
- Giai đoạn trước năm 1470: Hồi giáo manh nha trong cộng đồng Chăm
thông qua các thương nhân từ Trung Cận Đông truyền vào, nhưng chưa phát triển.
- Giai đoạn từ sau 1470 đến năm 1840: giai đoạn truyền đạo từ một bộ
phận người Chăm Việt Nam lưu tán ở nước ngoài về cộng đồng người Chăm
trong nước, dẫn đến sự giao hoà giữa Hồi giáo và Bàlamôn giáo, hình thành Hồi
giáo Bàni tại vùng Nam Trung bộ.
- Giai đoạn từ sau 1840 đến nay: hình thành vùng thứ hai theo Hồi giáo
chính thống của người Chăm - Chăm Islam tại vùng thượng nguồn sông Tiền
(Châu Đốc - An Giang ngày nay) và hình thành cộng đồng cư dân ngoại lai theo
Hồi giáo ở TP. Hồ Chí Minh.
1.1.2. Giáo lý, giáo luật, lễ nghi
1.1.2.1. Giáo lý
Giáo lý Hồi giáo được chứa đựng toàn diện trong kinh Qur’an và luật
Sharia. Theo Hồi giáo, kinh Qur’an là những lời giáo huấn của Thượng đế cho
158
loài người mà Muhammad đã nhận được qua thiên thần Gabriel, cũng như
Thượng đế đã mặc khải cho các vị tiên tri trước Muhammad. Hồi giáo đặc biệt
đề cao ý nghĩa, tính thiêng liêng, vĩnh cửu của kinh Qur’an, coi đây là quyển
sách đúng chân lý nhất.
Giáo lý Hồi giáo gồm hệ thống những tín điều như: niềm tin Allah là
Thượng đế duy nhất, là Đấng kiến tạo ra vạn vật và con người; niềm tin vào
Muhammad, sứ giả của Allah có sứ mạng cứu chuộc loài người khỏi tội lỗi;
niềm tin vào thiên thần và ma quỷ, thiên đường và địa ngục; niềm tin vào sự bất
tử của linh hồn; niềm tin vào ngày tận thế, ngày phục sinh và phán xét cuối
cùng; niềm tin vào sự vĩnh cửu của kinh Qur’an.
Quan niệm về con người, Hồi giáo cho rằng con người có hai phần: thể
xác và linh hồn. Thể xác chỉ là cái vỏ bọc tạm thời, cuộc sống nơi trần gian chỉ
là “ngưỡng cửa” để đi vào cuộc sống vĩnh cửu ở thế giới bên kia. Linh hồn con
người là bất diệt, sẽ có ngày tận thế, tất cả sinh mệnh đều kết thúc, sau cùng là
ngày phục sinh cho tất cả những người chết; nhưng người chết sẽ được Allah
cho sống trở lại để xem xét giữa công và tội, người thiện sẽ được lên thiên đàng,
kẻ ác không nghe theo Allah sẽ bị đày xuống hỏa ngục.
1.1.2.2. Giáo luật
Giáo luật Hồi giáo phần lớn được ghi nhận trong kinh Qur’an. Giáo luật
Hồi giáo quy định mọi tín đồ phải thực hành 5 cốt đạo:
- Biểu lộ đức tin: Mọi tín đồ Hồi giáo phải tin rằng có một Thượng đế duy
nhất là Allah và Muhammad là thiên sứ của Ngài.
- Cầu nguyện mỗi ngày (hành lễ): Tín đồ Hồi giáo thực hiện cầu nguyện 5
lần mỗi ngày theo thời gian quy định. Vào buổi trưa thứ 6 hàng tuần, các tín đồ
cầu nguyện tập thể tại thánh đường do Imâm hướng dẫn.
- Nhịn chay tháng Ramadan: Mọi tín đồ Hồi giáo đến tuổi trưởng thành
bắt buộc phải nhịn chay tháng Ramadan (tháng 9 Hồi lịch), trừ trẻ em, phụ nữ có
thai và cho con bú, những người ốm. Trong tháng này, tín đồ Hồi giáo phải nhịn
ăn, uống, hút thuốc, không được quan hệ nam nữ và tránh mọi cám dỗ khác từ
lúc mặt trời mọc cho đến khi mặt trời lặn.
- Thực hiện bố thí (Zakah): Là việc làm bắt buộc đối với mọi tín đồ Hồi
giáo, được thực hiện sau tháng chay Ramadan bằng cách bố thí cho những tín đồ
Hồi giáo nghèo khổ, túng thiếu, bệnh tật,… lương thực, thực phẩm, tiền mặt...
159
- Hành hương Mecca (Haji): Thực hiện Haji là bắt buộc cho tất cả tín đồ
Hồi giáo, ít nhất một lần trong đời, nếu hoàn cảnh cho phép (có sức khỏe và có
điều kiện kinh tế).
Giáo luật Hồi giáo còn có những qui định cụ thể về sinh hoạt tôn giáo, về
cuộc sống con người trong gia đình và xã hội, như: cầu nguyện, đọc kinh
Qur’an, cắt da quy đầu, tang ma, cưới hỏi, phụ nữ,…
1.1.2.3. Những ngày lễ trọng
Người Hồi giáo lấy ngày thứ 6 hàng tuần làm ngày thánh lễ. Ngoài ra, họ
còn có các ngày lễ trong năm (theo Hồi lịch) như:
- Lễ kỷ niệm ngày Muhammad cùng đoàn người Hồi giáo di cư từ Mecca
đến Medina để lánh nạn, ngày 01/01 Hồi lịch.
- Lễ tạ ơn - Ashura, ngày 10/01 Hồi lịch.
- Lễ sinh nhật thiên sứ Muhammad ngày 12/3/570 Hồi lịch.
- Lễ kết thúc tháng Ramadan từ 27/9 - 01/10 Hồi lịch.
- Lễ kỷ niệm ngày thiên thần chuyển bản gốc kinh Qur’an từ Thượng đế
xuống trần thế vào tối 27 tháng Ramadan.
- Lễ cống sinh tổ chức sau 70 ngày kể từ kết thúc tháng Ramadan, ngày
10/12 Hồi lịch.
1.1.3. Những đặc điểm cơ bản của Hồi giáo
- Hồi giáo là một tôn giáo quốc tế, có trung tâm tôn giáo ở Mecca nhưng
không có tổ chức giáo hội thống nhất mà chia rẽ thành nhiều hệ phái hoặc theo
từng quốc gia và thường chịu nhiều ảnh hưởng của phong tục tập quán, truyền
thống lịch sử và nhất là các thể chế chính trị ở từng nước.
- Hồi giáo không có hàng giáo phẩm nhưng có chức sắc. Ở nhiều nước
Hồi giáo, chức sắc có cả thần quyền lẫn thế quyền.
- Hồi giáo quy định không thờ tượng, ảnh trong các thánh đường.
- Ngôn ngữ và chữ viết A rập được sử dụng trong sinh hoạt tôn giáo. Tín
đồ Hồi giáo trên toàn thế giới phải đọc kinh Qur’an bằng tiếng A rập. Điều này
làm cho người Hồi giáo giao tiếp với nhau một cách dễ dàng dù ở quốc gia nào.
- Luật lệ Hồi giáo đã chi phối mọi mặt đời sống tôn giáo và xã hội của tín
đồ, nên người Hồi giáo thường có lối sống nghiêm khắc, khép kín,... Đa số
người Hồi giáo có niềm tin tôn giáo sâu sắc, ý thức cộng đồng tôn giáo cao.
- Người Hồi giáo chỉ sử dụng các sản phẩm, đặc biệt là thực phẩm được
Hồi giáo cho phép (Halal) đảm bảo những quy định nghiêm ngặt trong kinh
160
Qur’an và luật Sharia về các công đoạn sản xuất, về nguyên liệu và thành phẩm,
về bảo quản và phân phối cũng như nhân công lao động.
Cộng đồng Hồi giáo ở Việt Nam cũng mang những đặc điểm nêu trên của
Hồi giáo thế giới, tuy nhiên còn có thêm những đặc điểm riêng, tạo nên tính
khác biệt với Hồi giáo thế giới.
Thứ nhất, đại đa số tín đồ Hồi giáo ở Việt Nam là người Chăm, truyền
thống văn hóa tộc người hòa quyện cùng đức tin tôn giáo.
Thứ hai, tính chính thống của Hồi giáo bị biến thể. Hồi giáo khi vào Việt
Nam chịu sự chi phối bởi bản sắc truyền thống văn hoá lâu đời của Bàlamôn
giáo và hệ thống tín ngưỡng bản địa với chế độ mẫu hệ, Hồi giáo bị "Chăm hoá"
cho phù hợp với truyền thống đạo đức và văn hoá của người Chăm, dẫn đến
hình thành hai dòng là Chăm Islam và Chăm Bàni. Trong đó, người Chăm Islam
thực hiện nghiêm túc 5 cốt đạo như Hồi giáo chính thống, hành hương Mecca,
có mối quan hệ sâu rộng với Hồi giáo thế giới, dùng kinh Qur’an bản gốc; người
Chăm Bàni cũng thờ Allah, sứ giả Muhammad, thực hiện tháng Ramưwan
(Ramadan) và các kiêng cữ trong đời sống tôn giáo trên cơ sở quy định của Hồi
giáo chính thống nhưng không hành hương Mecca, không có mối quan hệ với
Hồi giáo thế giới; dùng kinh Qur’an chép tay, giản lược so với kinh Qur’an gốc.
Hệ thống chức sắc của Hồi giáo gồm có: giáo chủ (Mufty), phó giáo chủ
(Naib Mufty), giáo cả (Ha Kim), phó giáo cả (Naib Ha Kim), người rao giảng
giáo lý (Khotib), người hướng dẫn hành lễ (Imam), Tuon, Bilal, nhưng ở Việt
Nam, hệ thống chức sắc Hồi giáo có sự khác nhau giữa Hồi giáo (Islam) và Hồi
giáo Bàni, cụ thể:
Chức sắc Hồi giáo dòng Islam có 06 cấp là:
- Hakim (Giáo cả) là người am hiểu giáo lý, có uy tín, phụ trách chung.
- Naep (Phó Giáo cả) là người giúp việc cho Hakim và thay Hakim khi
Hakim vắng mặt.
- Ahly là người giúp Hakim về lĩnh vực xã hội.
- Imam là người hướng dẫn tín đồ trong buổi lễ.
- Kho-típ là người giảng giáo lý trong lễ thứ sáu hằng tuần.
- Tuân là thầy dạy giáo lý cho tín đồ.
Chức sắc Hồi giáo Bàni chia làm 4 cấp:
- Sư cả (thầy Pô Gru) là người quyết định mọi vấn đề về đời sống tôn giáo.
- Mưm là người điều khiển các buổi lễ ở thánh đường.
161
- Kho-típ hay Tip là người đảm nhận một số nghi lễ tại thánh đường hay
tại tư gia.
- Thầy Chang (Achar) là người mới nhập vào tầng lớp tu sĩ, có nhiệm vụ
giám sát.
Thứ ba, cộng đồng Chăm Bàni hầu như cách biệt với thế giới Hồi giáo,
trong khi đó, cộng đồng Chăm Islam thường xuyên có quan hệ với cộng đồng
Hồi giáo Đông Nam Á và thế giới. Mối quan hệ này ngoài nền tảng tôn giáo còn
có những yếu tố hoà quyện quan trọng khác là lịch sử, dòng tộc, hôn nhân và
ngày càng phát triển với nhiều hình thức đa dạng như: tham gia các hoạt động
tôn giáo (thi xướng kinh Qur’an, hành hương Mecca, tập huấn Imâm, hội thảo,
du học,...) và tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội.
1.2. Tình hình Hồi giáo ở Việt Nam hiện nay
1.2.1. Về số lượng tín đồ, chức sắc, chức việc, cơ sở thờ tự
- Tín đồ: hơn 80.000 tín đồ, trong đó có khoảng 51.000 tín đồ Hồi giáo
Bàni và khoảng 32.000 tín đồ Hồi giáo Islam. Tín đồ Hồi giáo Islam tập trung ở
14 tỉnh, thành phố: An Giang, TP. Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Nai, Ninh
Thuận, Kiên Giang, Trà Vinh, Cần Thơ, Tiền Giang, Long An, Bình Dương, Bình
Phước, Bình Thuận, Hà Nội; Hồi giáo Bàni tập trung ở Ninh Thuận, Bình Thuận.
- Số lượng chức sắc, chức việc Hồi giáo hơn 1.000 người, trong đó, Islam
hơn 600 người, Bàni hơn 400 người.
- Số lượng cơ sở thờ tự của Hồi giáo là 89 cơ sở, trong đó Chăm Islam 54
cơ sở, Chăm Bàni 25 cơ sở. Thánh đường, tiểu thánh đường Hồi giáo Islam dáng
dấp như thánh đường trên thế giới, được xây dựng theo hướng Đông - Tây;
thánh đường Hồi giáo Bàni có dáng dấp đơn giản, mang tính địa phương.
1.2.2. Về cơ cấu tổ chức
Tính đến tháng 5/2021, có 6 tổ chức Hồi giáo được Nhà nước công nhận ở
cấp Ban Đại diện tỉnh, thành phố và 01 Ban quản trị thánh đường Hồi giáo,
trong đó:
- Chăm Bàni có 2 tổ chức: Hội đồng Sư cả Hồi giáo Bàni tỉnh Ninh Thuận
(2007) và Hội đồng Sư cả Hồi giáo Bàni tỉnh Bình Thuận (2012). Dưới Hội đồng
Sư cả có Ban Quản lý thánh đường hoặc Ban phong tục. Ban Quản lý thánh đường
có nhiệm vụ chăm lo đời sống tôn giáo cho tín đồ, vận động tín đồ sống "tốt đời
đẹp đạo" đoàn kết với cộng đồng dân cư các tôn giáo khác. Tổng sư cả là người
162
được các sư cả suy tôn, có uy tín lớn trong đạo, nhưng không bắt buộc phải có mà
tuỳ vào mỗi địa phương.
- Chăm Islam có 4 tổ chức là Ban Đại diện cộng đồng Hồi giáo các tỉnh,
thành phố: TP. Hồ Chí Minh (1992), An Giang (2004), Tây Ninh (2010), Ninh
Thuận (2012). Dưới Ban Đại diện cộng đồng Hồi giáo tỉnh, thành phố là các
Ban quản trị thánh đường. Đứng đầu mỗi Ban quản trị là vị Hakim sau đó là một
số chức sắc như Naep, Ahly, thư ký, thủ quỹ. Bên cạnh việc chăm lo đời sống
tôn giáo cho tín đồ, Ban quản trị còn là cầu nối giữa cộng đồng Hồi giáo địa
phương với chính quyền cơ sở.
1.2.3. Thực trạng hoạt động tôn giáo
Trong những năm qua, các hoạt động tôn giáo của cộng đồng Hồi giáo
các tỉnh, thành phố diễn ra khá sôi động, tuân thủ pháp luật, đáp ứng nhu cầu đời
sống tâm linh của đồng bào, góp phần vào việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
1.2.3.1. Hoạt động hành chính đạo
Công tác hành chính đạo ổn định, đi vào nề nếp do có sự dẫn dắt, điều
hành của Ban đại diện cộng đồng Hồi giáo các tỉnh, thành phố và Ban quản trị
các thánh đường. Các hoạt động tôn giáo tại cơ sở thờ tự diễn ra theo đúng giáo
lý, giáo luật và tuân thủ quy định của pháp luật. Tuy nhiên, phần lớn chức sắc,
chức việc lớn tuổi, chưa đảm bảo đội ngũ kế cận nên có những hạn chế nhất
định trong điều hành hoạt động đạo sự.
1.2.3.2. Hoạt động bổ nhiệm, suy cử, thuyên chuyển, cách chức, bãi nhiệm
chức việc
Các tổ chức Hồi giáo tổ chức các đại hội, hội nghị đảm bảo quy trình, chất
lượng và theo quy định của pháp luật hiện hành; việc chọn cử nhân sự tham gia các
tổ chức Hồi giáo được triển khai khá chặt chẽ, dân chủ, phần lớn chức sắc, chức
việc đã phát huy vai trò của mình trong cộng đồng, có quan hệ tốt với chính quyền.
1.2.3.3. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chức sắc, chức việc
Hiện nay, ở Việt Nam chưa có trường đào tạo chức sắc Hồi giáo, tuy vậy
các cấp chính quyền đều tạo điều kiện cho các khu vực, thánh đường tổ chức lớp
dạy giáo lý và tiếng A-rập cho con em người Chăm Hồi giáo. Các Ban Đại diện
cộng đồng Hồi giáo cũng tích cực mời các tổ chức Hồi giáo nước ngoài vào Việt
Nam tổ chức các lớp tập huấn Imâm ngay tại địa phương.
Hoạt động Daw’ah (thuyết giảng giáo lý) trong cộng đồng Hồi giáo Việt
Nam thời gian qua diễn ra khá sôi động, với sự gia tăng của các đoàn thuyết giáo
163
nước ngoài. Bên cạnh ý nghĩa tích cực, những hoạt động của các nhóm Daw’ah
cũng cần được chấn chỉnh theo hướng tuân thủ pháp luật, đảm bảo an ninh chính
trị, an toàn xã hội.
1.2.3.4. Các hoạt động quốc tế
Mối quan hệ với thế giới Hồi giáo của cộng đồng Hồi giáo Việt Nam ngày
càng phát triển với nhiều hình thức đa dạng như: tham gia các hoạt động tôn giáo
(thi xướng kinh Qur’an, hành hương Mecca, tập huấn Imâm, hội thảo, du học,...)
và tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội. Số lượng tín đồ Chăm Islam đi hành
hương Mecca ngày càng tăng trong những năm gần đây với hai hình thức: đi tự
túc và đi bằng nguồn tài trợ của các tổ chức Hồi giáo nước ngoài. Số lượng tín đồ
Hồi giáo Việt Nam đi du học cũng tăng đáng kể dựa vào sự tài trợ của thân nhân
ở nước ngoài và các tổ chức Hồi giáo, chủ yếu học tại Indonesia, Libia, A rập Xê
út, Ai Cập, Malaysia. Ngoài ra, hoạt động quyên góp, tiếp nhận tài trợ từ các cá
nhân, tổ chức Hồi giáo trong nước và nước ngoài thường xuyên diễn ra nhằm
phục vụ cho việc xây dựng, trùng tu cơ sở thờ tự, in ấn kinh sách,...
1.2.4. Hoạt động xã hội của các tổ chức Hồi giáo
Đa phần bà con tín đồ Hồi giáo có đời sống kinh tế khó khăn. Tuy vậy,
các tổ chức Hồi giáo đã triển khai được một số hoạt động từ thiện dựa vào
nguồn đóng góp từ những cá nhân tích cực trong cộng đồng và một số nguồn tài
trợ từ tổ chức, cá nhân người nước ngoài. Việc từ thiện được cộng đồng Hồi
giáo thực hiện trong suốt cả năm, nhưng đặc biệt quan trọng trong tháng lễ
Ramadan do đây là một trong năm điều cốt đạo trong giáo lý Islam. Trong dịp
này, Ban Đại diện các thánh đường phối hợp với các ban, ngành của địa phương
rà soát lại những hộ nghèo, những người có hoàn cảnh khó khăn để hỗ trợ.
Những hoạt động từ thiện thường được triển khai là: giúp đỡ bà con tìm việc
làm, xây nhà đại đoàn kết, trao quà (tiền mặt, lương thực, đồ dùng học tập,…)
cho người già neo đơn, các hộ nghèo, các em khuyết tật, các em học sinh nghèo;
làm giếng khoan để cung cấp nguồn nước sạch cho bà con sinh hoạt, hỗ trợ kinh
phí cắt da quy đầu cho trẻ em,…
1.3. Những vấn đề cần quan tâm về Hồi giáo phục vụ công tác thông
tin, tuyên truyền về tín ngưỡng, tôn giáo
Công tác thông tin, tuyên truyền về tín ngưỡng, tôn giáo đối với cộng
đồng Hồi giáo cần lưu ý một số điểm sau để đạt hiệu quả:
164
Thứ nhất, cần chú ý tới đặc điểm dân tộc, tộc người của đồng bào theo
Hồi giáo. Đa phần tín đồ Hồi giáo ở Việt Nam là người Chăm, mang đặc điểm
kép: vừa là đồng bào dân tộc thiểu số vừa là đồng bào có đạo. Tính cộng đồng là
nét nổi bật của cộng đồng Hồi giáo. Tín đồ Hồi giáo có niềm tin tôn giáo sâu
sắc, giáo lý, giáo luật và lễ nghi được thực hiện theo quy định của kinh Qur’an,
nhưng bên cạnh đó họ có nét văn hóa riêng so với tín đồ Hồi giáo trên thế giới.
Thứ hai, nội dung, cách thức tuyên truyền về chủ trương, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước đến chức sắc, chức việc, tín đồ Hồi giáo cần cụ thể,
dễ hiểu, dễ áp dụng. Việc thông tin, tuyên truyền phải góp phần nâng cao hiểu
biết về pháp luật và ý thức tự giác tuân thủ pháp luật của người dân, hạn chế
những hoạt động vi phạm pháp luật.
Thứ ba, trong công tác thông tin, tuyên truyền cần có sự quan tâm, lắng
nghe, ghi nhận những tâm tư, nguyện vọng của chức sắc, tín đồ để phối hợp hoặc
đề xuất các cơ quan chức năng kịp thời tháo gỡ góp phần ổn định tôn giáo của
Nhân dân.
Thứ tư, cần quan tâm phát huy vai trò cầu nối của đội ngũ chức sắc, chức
việc, trí thức người Chăm Hồi giáo trong tuyên truyền đối ngoại, bởi lẽ, mối
quan hệ giữa chức sắc, chức việc, trí thức người Chăm Hồi giáo (Chăm Islam)
với các tổ chức, cá nhân Hồi giáo nước ngoài, kể cả với các chính thể Hồi giáo
nước ngoài rất chặt chẽ trên tinh thần huynh đệ.
2. TÔN GIÁO BAHA’I
2.1. Khái quát chung
2.1.1. Sự hình thành, phát triển và quá trình du nhập vào Việt Nam của
tôn giáo Baha’i
2.1.1.1. Sự hình thành và phát triển
Tôn giáo Baha’i ra đời năm 1863 tại Ba Tư (nay là Iran), người sáng lập
là Mirza Husayn Ali (1817 - 1892) được tín đồ gọi là Baha'u'llah (nghĩa là vinh
quang của Thượng Đế). Ông qua đời và được chôn tại Haifa (Israel) vào năm
1892. Lăng của Baha'u'llah là nơi thiêng liêng nhất, là trung tâm hành hương của
đạo Baha’i.
Khi Baha'u'llah qua đời, quyền lãnh đạo được truyền cho con trai trưởng
của ông là Abbas - Effendi tức là Abdu’ l - Baha (1844 - 1921). Trước khi chết,
165
Abdu’l - Baha đã chỉ định cháu của mình là Shoghi - Effendi (1897 - 1957) làm
Giáo hộ và thủ lĩnh tinh thần đạo Baha'i. Sau khi Shoghi- Effendi qua đời, nền
quản trị được chuyển sang một Hội đồng quốc tế, từ đây hệ thống tổ chức của đạo
Baha'i đã hình thành và phát triển vững chắc.
Năm 1948, cộng đồng Baha’i quốc tế đã chính thức được chấp nhận tại
Liên Hợp Quốc là một tổ chức phi Chính phủ, hoạt động trong lĩnh vực hỗ trợ
phát triển; đến tháng 5/1970 được hưởng cương vị tư vấn tại Hội đồng kinh tế - xã
hội Liên Hợp quốc (ECOSOC). Đại diện tôn giáo Baha’i đã được bầu là Chủ tịch
các Uỷ ban của Tổ chức phi chính phủ tại Liên Hợp quốc. Ngoài ra, cộng đồng
Baha'i quốc tế có quan hệ chặt chẽ với các tổ chức khác của Liên Hợp quốc như:
Tổ chức y tế thế giới (WHO), Chương trình môi trường của Liên Hợp quốc
(UNEP), Quỹ trẻ em của Liên Hiệp Quốc (UNICEF),... Hiện nay, tôn giáo Baha’i
có khoảng hơn 6 triệu tín đồ ở 235 quốc gia và vùng lãnh thổ, thuộc hơn 2.100 sắc
tộc, ở phần lớn các nước Hồi giáo. Ấn Độ là quốc gia có số lượng tín đồ Baha’i
đông nhất thế giới với khoảng hơn 2 triệu người.
2.1.1.2. Quá trình du nhập và phát triển của tôn giáo Baha’i ở Việt Nam
- Thời kỳ trước năm 1975:
Ngày 18/02/1954, được sự nhất trí của Hội đồng tinh thần Baha’i Ấn Độ,
Bà Shirin Fozdar cùng con trai và con dâu đến Sài Gòn truyền giáo. Ngày
21/4/1955, Hội đồng Tinh thần Baha’i đầu tiên được thành lập tại Sài Gòn, gồm
9 thành viên. Hội đồng tinh thần địa phương này được chính quyền Sài gòn công
nhận tại Nghị định số 2.509/HCSV ngày 20/9/1955. Năm 1964, Hội đồng Tinh
thần toàn quốc đầu tiên được thành lập. Năm 1970 có khoảng 95.000 tín đồ và đến
đầu năm 1975 tăng lên khoảng 205.000 tín đồ, trong đó có khoảng 30.000 người
dân tộc thiểu số, với 687 Hội đồng Tinh thần địa phương.
Trước năm 1975, cộng đồng tôn giáo Baha’i có nhiều hoạt động sôi nổi và
rộng khắp, có cơ sở ở hầu hết các tỉnh, thành phố, những vùng dân tộc miền núi
và người Hoa ở Sài Gòn. Một trong những hoạt động nổi bật của tôn giáo
Baha’i lúc đó là việc tổ chức “ngày tôn giáo Hoàn cầu” hằng năm, Hội nghị lần
thứ nhất được tổ chức ngày 21/01/1962 tại Sài Gòn, để cùng đại diện các tôn
giáo khác tham dự như: Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Cao Đài... thảo
luận, bàn bạc các đề tài liên quan đến thống nhất tôn giáo và vai trò hoà hợp tôn
giáo trong xã hội. Từ đó, ngày tôn giáo Hoàn cầu đã trở thành ngày truyền thống
liên tục từ năm 1962 đến năm 1975 của tôn giáo Baha’i.
166
- Từ năm 1975 đến nay:
Sau ngày giải phóng miền Nam (30/4/1975) hoạt động của cộng đồng Baha’i
giảm sút và ngừng hẳn vào năm 1977. Sự liên lạc giữa cộng đồng Baha’i các tỉnh với
cơ cấu quản trị trung ương của tôn giáo Baha’i ở Việt Nam bị gián đoạn.
Trong thời gian từ năm 1989 - 1990, cộng đồng Baha’i hoạt động trở lại,
tháng 4/1989 một cơ cấu Baha’i lấy tên là “Ban liên lạc tín đồ Baha’i” được
thành lập tại TP. Hồ Chí Minh để liên lạc với tín đồ trong nước.
Năm 2005, tôn giáo Baha’i có ở 45 tỉnh, thành phố với hơn 6.000 tín đồ, tập
trung chủ yếu tại các tỉnh, thành phố từ miền Trung trở vào. Ở các tỉnh miền Bắc,
tôn giáo Baha'i cũng có ở nhiều tỉnh, thành phố như Hà Nội, Phú Thọ, Hoà Bình,…
Ngày 28/3/2007, Cộng đồng tôn giáo Baha’i Việt Nam được cấp đăng ký
hoạt động tôn giáo. Ngày 21/3/2008, tại TP. Hồ Chí Minh, Cộng đồng tôn giáo
Baha’i Việt Nam đã tiến hành đại hội đại biểu lần thứ nhất để bầu Hội đồng
Tinh thần tôn giáo Baha’i Việt Nam và thông qua Hiến chương, chương trình
hoạt động của tổ chức trong nhiệm kỳ lần thứ nhất (2008- 2009). Ngày
14/7/2008, Cộng đồng tôn giáo Baha’i Việt Nam được Trưởng ban Ban Tôn
giáo Chính phủ thừa uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định công
nhận tổ chức tôn giáo. Đến năm 2021, Cộng đồng tôn giáo Baha’i Việt Nam đã
trải qua 14 kỳ đại hội (nhiệm kỳ 01 năm).
2.1.2. Nội dung cơ bản về giáo lý, luật lệ, lễ nghi và đặc điểm
2.1.2.1. Giáo lý
Cũng như các tôn giáo khác, tín đồ đạo Baha’i tin rằng tất cả các tôn giáo
trên thế giới do Thượng đế tạo ra, Thượng đế đã cử nhiều sứ giả trước đó như:
Abraham, Moses, Jesus, Muhammad,… để dậy nhân loại biết cách tìm hiểu, thờ
phụng Người và sứ giả của Thượng đế trong thời đại này là đức Baha’u’llah.
Giáo lý căn bản của đạo Baha’i là:
- Thượng đế là Đấng tối cao duy nhất.
- Tất cả các tôn giáo đều có chung một nguồn gốc thiêng liêng.
- Mọi người đều thuộc một gia đình, gia đình nhân loại, vì đều là con của
Thượng đế.
Theo tôn giáo Baha’i, đức Baha’u’llah đã trao cho tín đồ nhiệm vụ đem
giáo lý của mình đến toàn thể nhân loại bằng lời nói và gương tốt, cấm sự ép
buộc. Tín đồ Baha’i chỉ trao tặng giáo lý cho những ai muốn tìm hiểu, không cố
167
nài khi có người tỏ ý không muốn nghe.thuộc một gia đình, gia đình nhân loại,
vì đều là con của Thượng đế.
2.1.2.2. Giáo luật
- Về cầu nguyện: Tín đồ tôn giáo Baha’i từ 15 tuổi trở lên cầu nguyện
hàng ngày vào buổi sáng bằng Thánh kinh do Baha’u’llah truyền lại. Kinh cầu
nguyện này bắt buộc mọi người phải đọc riêng, không được đọc kinh hàng loạt,
trừ trường hợp cầu nguyện trong tang lễ. Baha’u’llah đã tập trung nhiều điều
giáo huấn của mình vào trong 150 bộ sách với một số nguyên lý chính sau:
Nhân loại thống nhất: Đây là nguyên lý cốt lõi giáo lý của Baha’u’llah. Sự
thống nhất thế giới là giai đoạn cuối cùng trong cuộc tiến hoá của nhân loại, điều
này sẽ được thực hiện dựa trên sự nhìn nhận của cá nhân về nguyên lý nhân loại
thống nhất này như là nguyên lý tâm linh chủ yếu.
Sự tìm hiểu chân lý một cách độc lập: Việc này đòi hỏi con người phải gắng
công nhiều hơn là sự chấp nhận đức tin mù quáng do người khác giảng dạy.
Nền tảng chung của tất cả các tôn giáo: Nền tảng chung của tất cả các tôn
giáo lớn trên thế giới đều có nguồn gốc thiêng liêng. Tất cả đều do Thượng đế
mặc khải ở những nơi và những thời đại khác nhau tuỳ theo nhu cầu và khả năng
tiến hoá của con người.
Sự hoà hợp thiết yếu giữa khoa học và tôn giáo: Baha’u’llah cho rằng tôn
giáo và khoa học hoà hợp với nhau. Tôn giáo chân chính và khoa học chân chính
không bao giờ mâu thuẫn với nhau. Cả hai là những mặt hỗ trợ của chân lý.
Sự bình đẳng nam nữ: Baha’u’llah đã công bố sự bình đẳng nam nữ.
Baha’u’llah không nêu điều này như một niềm hy vọng thần thánh hoặc lý
tưởng, nhưng đan kết nó như một yếu tố căn bản trong cơ cấu của tôn giáo
Baha’i. Sự bình đẳng này được nâng đỡ bằng luật pháp, đòi hỏi cùng một tiêu
chuẩn giáo dục cho mọi người và sự bình quyền trong xã hội.
Xoá bỏ mọi thành kiến: Phương thức hiệu nghiệm để xoá thành kiến là ý
thức về nhân loại thống nhất. Khi một người đạt được nhận thức tâm linh về tính
thống nhất của nhân loại, người đó có thể vượt qua thành kiến của riêng mình.
Giáo dục phổ thông bắt buộc: Tri thức là ân huệ lớn nhất Thượng đế ban
cho mọi người và những ai đánh mất cơ hội đạt tới tri thức thì sẽ sống cuộc đời
hạn hẹp hơn người khác.
Hoà bình thế giới: Căn bản chính yếu của giáo lý Baha’i là nêu cao sự
thống nhất nhân loại và đem đến nền hoà bình thế giới.
- Về truyền giáo: Tôn giáo Baha’i không có chức sắc, do vậy việc truyền
giáo là nhiệm vụ của mọi tín đồ.
168
- Về hôn nhân, gia đình: Hôn nhân được tiến hành khi hai bên nhất trí và
cha mẹ cho phép (nếu cha mẹ còn sống). Hôn lễ tổ chức giản dị, gồm có cô dâu
và chú rể đọc một câu kinh ghi sẵn trước hai nhân chứng được Hội đồng tinh
thần địa phương chấp thuận và cấp giấy hôn thú, ngoài ra còn phải thực hiện
theo quy định của pháp luật của nước sở tại. Tín đồ Baha’i được phép kết hôn
với người khác chủng tộc, không phân biệt màu da và tôn giáo.
Luật của tôn giáo Baha’i hạn chế việc ly dị, Hội đồng tinh thần địa
phương có trách nhiệm hoà giải khi các cặp vợ chồng xảy ra các chuyện bất hoà,
nếu hoà giải không thành, vợ chồng sẽ ly thân trong một năm, sau một năm nếu
hai bên vẫn bất hoà thì có thể ly dị theo pháp luật hiện hành của nước sở tại.
- Về tu kín và xuất thế: Tôn giáo Baha’i cấm việc tu kín và xuất thế.
Baha’u’llah khuyên tín đồ tích cực tham gia vào đời sống xã hội và nâng cao
hạnh phúc chung, coi hôn nhân và đời sống gia đình là điều quan trọng căn bản
của xã hội loài người.
- Về thủ tục nhập đạo: Tôn giáo Baha’i không có phép bí tích như Công
giáo, không có lễ Báp-tem hay thêm sức cho trẻ em. Con của cha mẹ theo tôn
giáo Baha’i đến 15 tuổi đương nhiên có trách nhiệm sống theo giáo lý tôn giáo
Baha’i. Người nào tin nhận Baha’u’llah là sứ giả Thượng đế, thì bày tỏ đức tin
của mình với Hội đồng Tinh thần địa phương (HĐTTĐP) của tôn giáo Baha’i
nơi gần nhất, người đó sẽ được Hội đồng Tinh thần này xem xét công nhận là tín
đồ. Nếu tín đồ nào không còn tin Baha’u’llah và muốn rời khỏi cộng đồng tôn
giáo Baha’i, người đó phải thông báo cho Hội đồng Tinh thần nơi đó biết để xoá
tên khỏi danh sách bầu cử.
- Quy định về lịch: Lịch Baha’i tính theo năm mặt trời, bắt đầu vào ngày
xuân (thường là ngày 21/3 theo dương lịch). Một năm chia ra 19 tháng, mỗi
tháng gồm 19 ngày cộng thêm 4 ngày dư (năm nhuận có 5 ngày dư), những ngày
dư nằm giữa tháng thứ 18 và tháng thứ 19, tháng 19 là tháng chay. Một ngày
Baha’i bắt đầu từ lúc mặt trời lặn hôm trước đến lúc mặt trời lặn hôm sau.
- Một số quy định khác như: Cấm dùng rượu, ma tuý; cấm nói xấu sau
lưng và chỉ trích người khác; trung thành với Chính phủ và không tham gia vào
các hoạt động chính trị.
2.1.2.3. Các lễ cầu nguyện và trai giới
Trong năm có 9 ngày Thánh lễ và thời kỳ trai giới, 9 ngày Thánh lễ là:
- Năm mới bắt đầu vào tối 21/3 gọi là lễ Naw - Ruz (tết Baha’i).
- Ngày 21/4, là ngày tuyên ngôn của Baha’u’ llah (năm 1863).
- Ngày 23/5, là tuyên ngôn của Bab (23/5/1844).
- Ngày 29/5, là lễ thăng thiên của Baha’u’llah (29/5/1892).
169
- Ngày 9/7, là lễ tử đạo của Bab (1850).
- Ngày 20/10, là lễ giáng sinh của Bab (1819).
- Tối 12/11, là lễ giáng sinh của Baha’u’llah (1817).
- Tối 26/11, là lễ giao ước.
- Ngày 28/11, là lễ thăng thiên Abdul - Baha (1921).
Lễ gồm 3 phần:
- Phần tâm linh: Cầu nguyện, tưởng nhớ các bậc tiền bối.
- Phần quản trị: Thảo luận về việc phát triển tôn giáo địa phương và chào
mừng những tín đồ mới.
- Phần xã hội: Gặp gỡ, hỏi thăm sức khoẻ các đạo hữu và gia đình.
Ngoài những ngày thánh lễ trên, tín đồ tôn giáo Baha’i phải trai giới 19
ngày liền trong mỗi năm, từ ngày 2/3 - 21/3, thời gian này là tháng thứ 19 của
lịch Baha’i). Trong thời gian này, tín đồ phải nhịn ăn uống ban ngày, từ lúc mặt
trời mọc đến lúc mặt trời lặn và chỉ ăn uống vào buổi tối, nhằm dành thời gian
cho việc rèn luyện ý trí, cầu nguyện và suy tưởng. Những người dưới 15 tuổi và
trên 70 tuổi, người bệnh, phụ nữ có thai và cho con bú, du khách và những
người lao động nặng nhọc chân tay đều được miễn.
2.1.3. Đặc điểm cơ bản của tôn giáo Baha’i
- “Nhân loại thống nhất” là nguyên lý cốt lõi trong giáo lý của tôn giáo
Baha’i. Quan niệm này đã khích lệ tôn giáo Baha’i giữ được sự thống nhất, hòa
hợp trong cộng đồng tôn giáo Baha’i và với các tôn giáo khác, với xã hội.
- Tôn giáo Baha’i không có chức sắc, chỉ có chức việc. Để lo việc đạo có
Hội đồng Tinh thần tại mỗi địa phương, trên Hội đồng Tinh thần địa phương là
Hội đồng Tinh thần cấp quốc gia và Hội đồng Tinh thần quốc tế (Tòa Công lý
quốc tế). Việc lựa chọn nhân sự tham gia Hội đồng Tinh thần các cấp được thực
hiện thông qua hình thức bỏ phiếu kín, không có đề cử và không cho phép sự
vận động tranh cử.
- Tôn giáo Baha’i đề cao sự tuân tùng pháp luật, trung thành với chính phủ
và không tham gia vào các hoạt động chính trị; đề cao sự thiết yếu của khoa học
trong đời sống và sự hòa hợp, thống nhất giữa tôn giáo và khoa học.
- Cộng đồng tôn giáo Baha’i Việt Nam có mối quan hệ gắn bó với Cộng
đồng tôn giáo Baha’i quốc tế, đặc biệt là với Ban Cố vấn Châu Á và Tòa Công
lý quốc tế.
2.2. Thực trạng tôn giáo Baha’i ở Việt Nam
2.2.1. Về số lượng tín đồ, chức việc, cơ sở tôn giáo
Tính đến năm 2021, tôn giáo Baha’i có khoảng 7.000 người tin theo ở 45
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Trong đó, tập trung đông nhất tại một số
170
tỉnh, thành phố: Hà Nội, Đà Nẵng, Quảng Nam, Gia Lai, Ninh Thuận, Bình
Thuận, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Hậu Giang, Kiên Giang,… Tín
đồ tôn giáo Baha’i ở Việt Nam có nhiều người thuộc tầng lớp trí thức, có đời
sống kinh tế và trình độ văn hoá khá cao. Số lượng chức việc tôn giáo Baha’i ở
Việt Nam là hơn 300 người.
Cộng đồng tôn giáo Baha’i Việt Nam có trụ sở làm việc của Hội đồng tinh
thần Baha’i Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh và 02 cơ sở tôn giáo ở TP. Đà Nẵng
và tỉnh Bình Thuận. Trong đó, cơ sở tôn giáo đặt tại TP. Đà Nẵng được gọi là
trung tâm Baha’i, ngoài ra sinh hoạt tôn giáo của các hội đồng địa phương chủ
yếu diễn ra tại nhà riêng của tín đồ.
2.2.2. Cơ cấu tổ chức của tôn giáo Baha’i ở Việt Nam
Hệ thống tổ chức của Cộng đồng Tôn giáo Baha’i Việt Nam theo hai cấp:
Cấp toàn quốc là Hội đồng Tinh thần tôn giáo Baha’i Việt Nam; cấp cơ sở là
Hội đồng Tinh thần tôn giáo Baha’i địa phương. Hiện cộng đồng tôn giáo Baha’i
Việt Nam có 34 Hội đồng Tinh thần địa phương. Các Hội đồng Tinh thần đều
gồm có 9 thành viên, được bầu lại hàng năm vào khoảng thời gian từ 21/4 đến
2/5 do toàn thể tín đồ trưởng thành từ 21 tuổi trở lên bỏ phiếu kín.
2.2.3. Thực trạng hoạt động tôn giáo
- Hoạt động hành chính đạo:
Hoạt động hành chính đạo của cộng đồng tôn giáo Baha’i Việt Nam cơ
bản ổn định và chấp hành quy định của pháp luật. Cộng đồng tôn giáo Baha’i
thường xuyên tổ chức các nhóm cầu nguyện để mọi tín đồ thuộc mọi tầng lớp xã
hội quy tụ; tổ chức các nhóm học tập một cách có hệ thống để chia sẻ thông điệp
từ Tòa Công lý quốc tế. Với mục tiêu hướng vào sự phát triển của thanh thiếu
niên trong xã hội, các Hội đồng tinh thần địa phương chia ra những cụm để sinh
hoạt theo những hoạt động cốt lõi với phương hướng “Nỗ lực giúp thanh niên
bước đi trên đường phụng sự, sống hữu ích cho xã hội”. Cộng đồng tôn giáo
Baha’i Việt Nam đã phát huy rất tốt nguồn lực của nhóm thanh thiếu niên, với nhiệt
huyết tuổi trẻ và quyết tâm cao, các nhóm thanh thiếu niên được quy tụ và đã tham
gia vào các hoạt động xây dựng kỹ năng phụng sự và phát triển tri thức, đức tính và
lòng nhân ái trong cách đối đầu với các tệ nạn và thách thức của xã hội.
- Hoạt động bổ nhiệm, suy cử, bầu cử, thuyên chuyển, cách chức, bãi
nhiệm chức việc:
Thành viên các Hội đồng Tinh thần tôn giáo Baha’i ở Việt Nam hiện nay có nhiều người thuộc tầng lớp trí thức, có đời sống kinh tế và trình độ văn hoá khá cao. Họ nhìn chung tuân thủ pháp luật, có uy tín trong cộng đồng tín đồ tôn giáo Baha’i.
171
Hoạt động bầu cử chức việc vào Hội đồng Tinh thần tôn giáo Baha’i Việt
Nam các cấp nhiệm kỳ 01 năm được thực hiện trong tháng Ridvan theo hình
thức bỏ phiếu kín và kết quả theo đa số. Việc đề cử, vận động tranh cử và kết bè
phái đều bị cấm theo giáo luật tôn giáo Baha’i.
- Hoạt động quan hệ quốc tế: cộng đồng tôn giáo Baha’i Việt Nam có
quan hệ thường xuyên và mật thiết với cộng đồng Baha’i trên thế giới. Hoạt
động của cộng đồng tôn giáo Baha’i Việt Nam thống nhất với cộng đồng Baha’i
các nước thông qua sự chỉ đạo chung của Toà Công lý Quốc tế và Ban Cố vấn
châu lục ở mỗi châu lục trên thế giới.
2.2.4. Hoạt động xã hội của cộng đồng tôn giáo Baha’i Việt Nam
Cộng đồng tôn giáo Baha’i tham gia tích cực và có hiệu quả trong công
tác từ thiện - xã hội cũng như các hoạt động cứu trợ thiên tai, bão lũ, giúp đỡ các
trẻ mồ côi, cơ nhỡ, khuyết tật,… Với nhiều sinh hoạt phong phú và hữu ích,
cộng đồng Baha’i Việt Nam đã đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển
chung của xã hội như: tham dự các hội thảo, cùng các tôn giáo bạn đối thoại về
khả năng góp phần vào các chương trình phát triển xã hội và hoạt động nhân đạo
từ thiện; tổ chức các hoạt động nhân đạo từ thiện, hằng năm đặc biệt vào dịp Lễ
Ayyam-i-Ha (Ngày của Thượng Đế) từ ngày 25 đến hết tháng 2 dương lịch; tạo
môi trường học tập, sinh hoạt và giáo dục đức tin lành mạnh và hướng thiện cho
tất cả các thành phần trong xã hội, không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo, trong
đó có một số hoạt động cốt lõi như: các nhóm học tập, các buổi cầu nguyện, lớp
giáo dục đạo đức dành cho thiếu nhi và các nhóm thanh thiếu niên.
Đồng hành cùng các tôn giáo khác trong công tác bảo vệ môi trường, ứng
phó với biến đổi khí hậu, Hội đồng Tinh thần tôn giáo Baha’i đã vận động các
chức việc, tín đồ cam kết tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường, tuyên
truyền sâu rộng trong nội bộ tổ chức và tín đồ, người dân xung quanh về ý
nghĩa, tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường, không sử dụng vật tư,
phương tiện độc hại, tăng nguy cơ ô nhiễm và phát thải ra môi trường…
2.3. Những lưu ý trong công tác thông tin, tuyên truyền đối với tôn
giáo Baha’i
- Cộng đồng tôn giáo Baha’i Việt Nam đề cao việc tuân thủ chính sách
pháp luật của Nhà nước do quy định của giáo luật và đường hướng hành đạo của
Cộng đồng tôn giáo Baha’i Việt Nam. Do đó, trong công tác thông tin, tuyên
truyền với cộng đồng tôn giáo Baha’i, người làm công tác thông tin, tuyên
172
truyền cần phát huy mặt tích cực này, sử dụng linh hoạt kiến thức pháp luật để
khích lệ sự tin tưởng, hợp tác của tín đồ tôn giáo Baha’i.
- Thường xuyên động viên, tăng cường mối quan hệ giữa chức việc, tín đồ
tôn giáo Baha’i đối với các cấp chính quyền, mặt trận tổ quốc và các tổ chức
thành viên, trong đó chú trọng phát huy vai trò, trách nhiệm của chức việc,
những người có uy tín trong cộng đồng tích cực tham gia các hoạt động xã hội.
- Phát huy mối quan hệ quốc tế của cộng đồng tinh thần tôn giáo Baha’i
Việt Nam trong việc thúc đẩy các mối quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với các
quốc gia có liên quan.
3. BÀLAMÔN GIÁO
3.1. Khái quát chung
3.1.1. Sự hình thành, phát triển và du nhập của Bàlamôn giáo vào
Việt Nam
Bàlamôn giáo (Brahmanism) ra đời thời kỳ hậu Veda (khoảng thế kỷ X
Tr.CN) trong xã hội Ấn Độ cổ đại, trở thành tôn giáo chính thống của xã hội Ấn
Độ. Trong quá trình phát triển của mình, Bàlamôn giáo có những cải cách trên
cơ sở tiếp thu yếu tố tín ngưỡng dân gian, Phật giáo, đạo Jaina để trở thành tân
Bàlamôn giáo vào thế kỷ thứ IV SCN (Ấn Độ giáo). Hiện nay, Bàlamôn giáo có
khoảng 900 triệu tín đồ, chủ yếu ở Ấn Độ và một số nước chịu ảnh hưởng của
văn hoá Ấn Độ.
Theo các nhà nghiên cứu, Bàlamôn giáo du nhập vào dân tộc Chăm rất
sớm. Đến thế kỷ VII, Bàlamôn giáo, mà chính xác là việc thờ Siva đã trở thành
tôn giáo chính thống của cộng đồng người Chăm. Trải qua các giai đoạn phát
triển, Bàlamôn giáo đã bị người Chăm bản địa hóa, trở thành một tôn giáo có
nhiều khác biệt so với Bàlamôn giáo ở Ấn Độ. Vì sự khác biệt này nên người
Chăm theo Bàlamôn giáo không gọi mình là Chăm Bàlamôn mà tự nhận mình là
Chăm Ahier hoặc Chăm Jat (tức Chăm gốc).
3.1.2. Giáo lý, giáo luật, lễ nghi của Bàlamôn giáo
Giáo lý, giáo luật Bàlamôn giáo không có hệ thống rõ ràng, không còn giữ
được nguyên vẹn những quy định của đạo Bàlamôn nguyên thuỷ mà bị bản địa
hóa và hoà quyện vào phong tục, tập quán của người Chăm.
173
Về giáo lý và sự thờ phụng, Bàlamôn giáo của người Chăm không theo
Tam vị nhất thể, chỉ đề cao thần hủy diệt dưới dạng biểu tượng âm dương lưỡng
hợp: Linga - Yoni và cho rằng thần Siva là thần hủy diệt nhưng lại chứa đựng sự
sáng tạo, sáng tạo để hủy diệt, hủy diệt để sáng tạo,… Cứ thế, vũ trụ luôn vận
động và phát triển. Việc thờ thần sáng tạo tối cao (Brahma) được người Chăm
chuyển thành thờ Mẹ Xứ sở (Pô Inư Nưgar), biến Đấng tối cao thành Nữ thần.
Về nghi lễ, cách thức hành đạo, các nghi lễ tôn giáo của người Chăm
Bàlamôn được gắn với các nghi lễ dân tộc và nghi thức cúng tế trong năm với
những phép thuật bùa chú cùng những lễ vật mang đậm bản sắc Chăm. Trong
nghi lễ tôn giáo, người Chăm Bàlamôn chú trọng đến những nghi lễ cho con
người để đạt được bốn mục tiêu quan trọng là: Dharma (bổn phận, đạo lý), Artha
(của cải và sự thịnh vượng), Kama (tình yêu), Moksha (giải thoát). Có tới 40 lễ
thức cho vòng đời của một con người.
3.1.3. Đặc điểm của Bàlamôn giáo ở Việt Nam
- Bàlamôn giáo là một tôn giáo đề cao phụ quyền, khi du nhập vào xã hội
mẫu hệ của người Chăm đã bị “Chăm hóa”, chịu ảnh hưởng của chế độ mẫu hệ.
- Đến nay, tuy chế độ đẳng cấp không còn trong đời sống xã hội Chăm Bà
la môn, nhưng trong tôn giáo vẫn còn đậm nét. Chức sắc Chăm Bàlamôn là
những người giữ địa vị cao nhất trong xã hội. Chức sắc được duy trì theo chế độ
cha truyền con nối, những người khác dù giàu có, tài giỏi cũng không được gia
nhập hàng ngũ chức sắc. Trong cộng đồng Chăm Bàlamôn, những người giàu có
nhưng thuộc dòng họ đẳng cấp thấp thì vẫn không được coi trọng bằng những
người nghèo nhưng thuộc dòng họ đẳng cấp cao.
- Tuy là một tôn giáo có nguồn gốc từ nước ngoài nhưng cộng đồng
Bàlamôn giáo ở Việt Nam có quan hệ quốc tế rất ít, sinh hoạt tôn giáo diễn ra
khép kín trong các dinh, đền, tháp.
3.2. Thực trạng hoạt động của các tổ chức Bàlamôn giáo ở Việt Nam
3.2.1. Về tín đồ, chức sắc, chức việc, cơ sở thờ tự
Hiện nay, người Chăm Bàlamôn sinh sống tập trung ở hai tỉnh Ninh
Thuận và Bình Thuận với số lượng hơn 66.000 người (năm 2020). Niềm tin tôn
giáo của tín đồ khá sâu sắc, việc thực hiện các nghi lễ và sinh hoạt tôn giáo của
họ diễn ra nghiêm túc, thành kính và mang tính cộng đồng cao. Tuy nhiên, đa số
người Chăm Bàlamôn không hiểu biết đầy đủ về giáo lý, giáo luật của Bàlamôn
giáo. Sự hiểu biết về giáo lý, giáo luật chủ yếu trong tầng lớp chức sắc.
Người Chăm Bàlamôn có nghề nghiệp chính là làm nông, sự hiểu biết về
pháp luật còn hạn chế, nhất là các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
174
về kinh tế, xã hội, tôn giáo, dân tộc... Cộng đồng Chăm Bàlamôn có tinh thần
gắn bó với dân tộc.
Tính đến năm 2020, cộng đồng Chăm Bàlamôn có hơn 400 chức sắc,
chức việc. Bên cạnh các chức sắc Bàlamôn còn có các thầy cúng dân gian như
thầy bóng, thầy vỗ trống paranưng, thầy kéo đàn Kanhi, bà bóng,…
Chức sắc, chức việc Chăm Bàlamôn đều là những người cao niên, có uy
tín nhất trong cộng đồng nhưng thường chỉ thông hiểu chữ Chăm, có vị không
biết tiếng Việt. Do vậy, khả năng quản lý, điều hành hoạt động hành chính đạo
của đội ngũ chức sắc, chức việc Chăm Bàlamôn nhiều hạn chế.
Về cơ sở thờ tự: Cơ sở thờ tự chủ yếu của người Chăm Bàlamôn là hệ
thống các đền, tháp và các cơ sở nhỏ lẻ khác như miếu, lăng, dinh, nhà tự, chùa,...
Hiện nay, ở cả hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận có 37 cơ sở. Đa số các đền,
tháp có niên đại từ xa xưa và đã được công nhận là di tích lịch sử văn hoá.
3.2.2. Về cơ cấu tổ chức
Hiện nay, có 02 tổ chức tôn giáo của người Chăm Bàlamôn đã được Nhà
nước công nhận. Cộng đồng Chăm Bàlamôn ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình
Thuận đã được Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận tổ chức với tên gọi cấp tỉnh là
Hội đồng chức sắc Chăm Bàlamôn, cấp cơ sở là Ban phong tục. Hội đồng chức
sắc Chăm Bàlamôn do đại hội đại biểu chức sắc, tín đồ Bàlamôn giáo tỉnh bầu
ra, nhiệm kỳ 5 năm. Ban phong tục được hình thành bởi chức sắc, tu sĩ và nhân
sĩ trí thức trên địa bàn một thôn hay một địa hạt.
3.2.3. Về thực trạng hoạt động của Bàlamôn giáo
- Hoạt động hành chính đạo: Hội đồng Chức sắc Bàlamôn giáo tỉnh Bình
Thuận và Hội đồng Chức sắc Chăm Bàlamôn tỉnh Ninh Thuận đã tổ chức các
hoạt động đạo sự của cộng đồng Chăm Bàlamôn ổn định, tuân thủ quy định của
pháp luật. Hội đồng Chức sắc đã thành lập các tiểu ban chuyên trách giúp cho
hoạt động của Hội đồng Chức sắc ngày càng tinh gọn, hiệu quả. Hoạt động
phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, suy cử chức sắc, chức việc được thực hiện
theo quy định của Luật tín ngưỡng, tôn giáo và giáo luật của tổ chức.
- Hoạt động xã hội: Việc tham gia các hoạt động từ thiện xã hội được
cộng đồng Chăm Bàlamôn hưởng ứng tích cực qua những chương trình thiết
thực như: đóng góp Quỹ Vì người nghèo, đền ơn đáp nghĩa, ủng hộ đồng bào
gặp thiên tai, ủng hộ góp đá xây dựng đảo Trường Sa, tham gia hoạt động bảo
vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu do Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam phát động,...
3.3. Những lưu ý trong công tác thông tin, tuyên truyền đối với
Bàlamôn giáo ở Việt Nam
175
- Bàlamôn giáo đã và đang giữ vai trò chủ đạo trong đời sống văn hóa,
tâm linh của một bộ phận người Chăm, tuy nhiên có hiện tượng người Chăm
Bàlamôn cải đạo sang Tin lành, Công giáo và Hồi giáo. Do đó, công tác thông
tin, tuyên truyền cần chú ý động viên, khích lệ cộng đồng Chăm Bàlamôn nói
riêng, đồng bào Chăm ở Việt Nam nói chung nêu cao tình thần đoàn kết dân tộc,
đoàn kết tôn giáo, không cổ súy các hành động gây mâu thuẫn, chia rẽ trong
cộng đồng, ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương, đồng thời chung tay
giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc Chăm với nhiều giá trị tốt đẹp.
- Công tác thông tin, tuyên truyền cần chú trọng phát huy vai trò, trách
nhiệm của chức sắc, chức việc, những người có uy tín trong cộng đồng, qua đó
truyền tải tới toàn thể cộng đồng Chăm Bàlamôn giáo một cách hiệu quả nhất./.
4. PHẬT GIÁO TỨ ÂN HIẾU NGHĨA
4.1. Khái quát chung
4.1.1. Lịch sử hình thành của Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ra đời tháng 5 năm 1867 tại Cù lao Ba (huyện An
Phú, tỉnh An Giang ngày nay), do ông Ngô Lợi sáng lập. Ông sinh tại Mỏ Cày -
Bến Tre, là sỹ phu Cần Vương, tham gia khởi nghĩa ở vùng Mỹ Tho - Tiền
Giang, bị giặc truy nã, ông chạy vào vùng Thất Sơn - An Giang ẩn thân.
Khi mới ra đời, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa được ông Ngô Lợi gọi là đạo “Thờ
ông bà”, sau này tín đồ gọi đạo của mình là đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Đến năm 2020,
chức sắc, chức việc, tín đồ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đổi tên tôn giáo thành Phật giáo
Tứ Ân Hiếu Nghĩa và tên tổ chức tôn giáo là Phật hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa.
Việc truyền đạo được ông Ngô Lợi thực hiện qua việc chữa bệnh, khi
bệnh dịch đang hoành hành. Sau này, ông gắn việc truyền đạo với quá trình tập
hợp nông dân khai hoang lập ấp, xây dựng căn cứ cách mạng. Trong quá trình
ổn định cuộc sống của tín đồ ở núi Tượng, ông Ngô Lợi đã cho xây dựng chùa
miếu để thực hành nghi lễ, đẩy mạnh việc truyền đạo rộng rãi ở vùng Thất Sơn
và các vùng xung quanh để thu nạp tín đồ. Trong thời gian không lâu, đã có rất
nhiều người đi theo ông để học đạo. Năm 1870, Ngô Lợi chính thức nhận danh
hiệu Đức Bổn sư.
Hình thức và cách thức tuyên truyền, phát triển đạo của Đức Bổn sư Ngô
Lợi là thể hiện nội dung “Tu nhân - Học Phật” qua các bộ kinh hoặc chuyển
thành các thể thơ dưới dạng Sấm vãn với lời lẽ bình dị, mộc mạc dễ nhớ và dễ
176
đi vào lòng người, rất phù hợp với trình độ và điều kiện hoàn cảnh của nông
dân lúc bấy giờ. Do đó, Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa nhanh chóng được người
nông dân tiếp nhận.
Sau khi ông Ngô Lợi viên tịch tại núi Tượng (1890), Phật giáo Tứ Ân
Hiếu Nghĩa không có người kế vị, các mối đạo đều giao cho ông Trò, ông Gánh
phụ trách. Không lâu sau, một số ông Gánh rời vùng Thất Sơn đi các nơi khác
truyền đạo. Vì vậy, Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa hình thành hai hệ thống: Một
hệ thống được duy trì ở các làng được coi là thánh địa của Phật giáo Tứ Ân Hiếu
Nghĩa như: An Định, An Hoà, An Thành, An Lập thuộc vùng Thất Sơn - An
Giang. Tín đồ ở các làng này được gọi là tín đồ nội thôn. Hệ thống thứ hai là tín
đồ ở những nơi mà các ông Gánh đi truyền đạo như Kiên Giang, Bến Tre, Đồng
Tháp, Tiền Giang, Cần Thơ, Bà Rịa - Vũng Tàu... hệ thống này được gọi là
ngoại thôn.
Tín đồ Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có chung niềm tin tôn giáo sâu sắc,
đó là thực hiện “Tứ đại trọng ân”. Họ gọi nhau là thân bằng và có tính cộng đồng,
bởi quan điểm yêu thương đồng bào đã thấm nhuần trong tư tưởng của họ. Từ khi
Đức Bổn sư Ngô Lợi truyền bá Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đến trước năm 1975,
số lượng tín đồ phát triển rất đông, khoảng hơn 10 vạn người.
4.1.2. Giáo lý, giáo luật và đặc điểm của Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa
Tôn chỉ hành đạo của Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là “Hành Tứ ân - Sống
hiếu nghĩa - Vì đại đoàn kết dân tộc”. Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa lấy đạo hiếu
làm đầu, không chủ trương ly gia cắt ái, không đặt ra giới luật khắt khe và không
có sự phân biệt, kiêng kị khác nhau giữa chức sắc và tín đồ. Giáo lý của Phật
giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là sự tổng hợp, hoà đồng các quan niệm cũng như các
đối tượng thờ cúng của 3 tôn giáo: Phật, Lão, Nho và tín ngưỡng dân gian. Xuất
phát từ nền tảng “Tu nhân - Học Phật” trong đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và truyền
thống của dân tộc ta là “Tu nhân tích đức”, thuyết tu nhân học Phật của Phật
giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã được kế thừa, phát triển ở nhiều khía cạnh và cụ thể
hoá hơn.
Về tu nhân: Đức Bổn sư Ngô Lợi dạy tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa phải tu
nhân vì phải trau dồi đạo đức thì mới hoàn thành tốt công việc và sống tốt với
mọi người trở thành người có ích cho xã hội. Tu nhân có nghĩa là phải thực hiện
tứ đại trọng ân: Ân cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo và ân đồng bào.
177
Ân tổ tiên, cha mẹ: Cha mẹ là người có công sinh thành dưỡng dục ta, vì
vậy đền đáp công lao trời biển ấy mới xứng đáng là đạo làm người. Đồng thời
phải biết ơn ông bà, tổ tiên là thế hệ đã sinh thành ra cha mẹ. Để đền đáp công
ơn tổ tiên, cha mẹ ta phải làm những điều tốt đẹp, làm vui lòng cha mẹ, tránh
những điều xấu ảnh hưởng đến tổ tiên, ông bà. Bên cạnh đó, ta phải biết chăm lo
cúng giỗ tổ đường. Chính xuất phát từ việc phải báo hiếu cha mẹ, ông bà nên
Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa không chủ trương ly gia cắt ái để đi tu.
Ân đất nước: Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa cho rằng tổ tiên, cha mẹ và
chúng ta, ai cũng có quê hương đất nước - nơi chôn nhau cắt rốn và nuôi dưỡng
mỗi chúng ta. Vì vậy, phải có bổn phận bảo vệ quê hương, đất nước mỗi khi có
giặc ngoại xâm, xây dựng quê hương giàu mạnh.
Ân tam bảo: Phải đền ơn tam bảo gồm Phật, Pháp, Tăng bằng cách noi
theo những lời Phật dạy, truyền bá đến mọi người để loại trừ lòng ham muốn
hẹp hòi, cùng hướng tới chân, thiện, mỹ.
Ân đồng bào, nhân loại: Phải biết sống với đồng bào bằng tình huynh đệ
vì đó là những người cùng màu da, cùng chung cảnh ngộ, cùng chia sẻ buồn,
vui. Ngoài ra, mỗi chúng ta còn chung sống với nhân loại trên trái đất, vì vậy
không được phân biệt màu da, chủng tộc, phải sống trong hoà bình.
Kinh sách của Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là những lời giáo huấn, cầu
nguyện, tiên tri của Đức Bổn Sư truyền dạy, được chép thành từng cuốn hoặc
một số đựoc những ông Trò ghi lại. Hầu hết các kinh sách Tứ Ân Hiếu Nghĩa
được soạn, viết bằng chữ Hán trên giấy bản khổ lớn lúc Đức Bổn Sư còn tại thế.
Sau này, một số ông Trò, ông Gánh bổ sung thêm nội dung đạo lý dưới dạng
Sấm vãn truyền khẩu theo các thể thơ lục bát, song thất lục bát, ngũ ngôn, thất
ngôn rất dễ nhớ, dễ đi vào lòng người. Theo các nhà nghiên cứu thì Phật giáo Tứ
Ân Hiếu Nghĩa có 24 bộ kinh do Đức Bổn Sư sáng tác có nội dung phản ánh
nhiều đối tượng, khá phong phú và đa dạng. Trong đó có ba bộ kinh chủ yếu là:
Bà-la-ni Kinh, Kinh pháp bửu trường sanh và Kinh siêu độ. Cuốn kinh đầu tiên
là Bà-la-ni Kinh do Đức Bổn Sư viết từ khi ông chưa khai sáng Phật giáoTứ Ân
Hiếu Nghĩa (năm 1851). Đây là cuốn kinh dùng tụng niệm rộng rãi trong cúng
lễ, có nội dung ca ngợi Quan Thế Âm Bồ Tát xuất hiện mọi nơi, mọi lúc để cứu
khổ, cứu nạn và mang hạnh phúc đến cho mọi người.
Bên cạnh hệ thống kinh sách truyền giảng đạo lý, nghi thức thờ cúng, Phật
giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa còn có hệ thống Sấm vãn (còn gọi Sấm giảng) được các
178
cao đồ (ông Trò, ông Gánh) sáng tác để cụ thể hoá những lời dạy của Đức Bổn sư
Ngô Lợi. Được viết bằng thể thơ lục bát, ngũ ngôn, thất ngôn nhằm phục vụ
những bài cúng dường và khuyên răn người đời tu nhân, tích đức nên Sấm vãn
được truyền miệng rộng rãi và dễ dàng bám sâu vào tiềm thức của tín đồ.
Nhìn chung, phần lớn kinh sách và Sấm vãn Tứ Ân Hiếu Nghĩa đều được
thể hiện bằng thơ nên dễ nhớ, dễ thuộc với những nội dung hướng về việc đền
trả Tứ Ân và việc Hiếu, Nghĩa.
* Các ngày lễ chính (tính theo âm lịch).
- Lễ kỷ niệm ngày ngộ đạo, ngày sinh Đức Bổn Sư Ngô Lợi và ngày Khai
sáng đạo (05/5 âm lịch).
- Lễ vía kỷ niệm này Đức Bổn Sư qua đời (13/10 âm lịch).
4.1.3. Đặc điểm của Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa
- Tín đồ Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có chung niềm tin tôn giáo sâu sắc;
họ gọi nhau là thân bằng và có tính cộng đồng; có lòng tự hào và niềm tin vững
chắc vào tôn giáo của mình.
- Chùa Tứ Ân Hiếu Nghĩa khác với chùa Phật giáo, vì đây không phải là
nơi tu hành của những người cắt ái ly gia mà là nơi thờ cúng các đối tượng tôn
giáo và thực hiện các lễ nghi của Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Chùa Tứ Ân
Hiếu Nghĩa còn là nơi để chữa bệnh cho tín đồ và để tín đồ thể hiện mối quan hệ
với thân bằng của mình.
4.2. Thực trạng Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa
4.2.1. Về chức sắc, chức việc, tín đồ, cơ sở tôn giáo
- Về tín đồ: Từ khi Đức Bổn sư Ngô Lợi truyền bá đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa
đến trước năm 1975, số lượng tín đồ phát triển đông, khoảng 100.000 người. Từ
sau giải phóng miền Nam, đời sống kinh tế, văn hoá-xã hội của tín đồ được nâng
lên, nhu cầu tôn giáo của một bộ phận tín đồ có những thay đổi, làm cho tôn
giáo nội sinh này khó có thể phát triển và mở rộng phạm vi hoạt động.
Theo thống kê của Văn phòng Phật hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa tính đến tháng
4/2021 có khoảng 78.000 tín đồ, sinh sống tập trung tại 16/63 tỉnh, thành phố,
bao gồm các tỉnh, thành phố: An Giang, Vĩnh Long, Tiền Giang, Bến Tre, Bình
Định, Đồng Nai, Kiên Giang, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Hậu Giang, Cà Mau, Long
An, Cần Thơ, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tp. Hồ Chí Minh, Lâm Đồng, Đăk Lăk.
Trong đó, tỉnh An Giang là trung tâm của Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa với
khoảng 36.000 tín đồ, phân bố ở 11 huyện, thị trấn trên địa bàn tỉnh, riêng huyện
179
Tri Tôn có khoảng 26.000 tín đồ. Sự phân bố tín đồ này cho thấy Phật giáo Tứ
Ân Hiếu Nghĩa là một tôn giáo bản địa, cơ bản giới hạn trong vùng đồng bằng
sông Cửu Long.
- Về chức sắc, chức việc: Số lượng chức sắc, chức việc của Phật giáo Tứ
Ân Hiếu Nghĩa tính đến tháng 04/2021 có khoảng 500 người (trong đó có 24 vị
Trưởng gánh còn lại là chức việc - Cư sĩ, Thông tín và Thủ lễ). Các vị chức sắc
sinh sống và chỉ có ở các cơ sở nội thôn thuộc huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.
- Về cơ sở thờ tự: Cơ sở thờ tự của Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là hệ
thống các chùa, đình, miếu, Tam Bửu gia và bàn thờ tại gia đình. Hiện nay, chùa
Tứ Ân Hiếu Nghĩa tập trung nhiều nhất ở vùng Thất Sơn, tại các làng: An Định,
An Hoà, An Lập và An Thành.
Bên cạnh hệ thống chùa, tại các làng Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa còn có
các đình, miếu là nơi diễn ra các sinh hoạt tôn giáo của tín đồ và là một bộ phận
trong hoạt động tôn giáo do các Trưởng Gánh trực tiếp phụ trách.
Theo số liệu thống kê của Phật hội tính đến tháng 4/2021, số lượng cơ sở
thờ tự của Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 74 cơ sở thờ tự (trong đó có 39 cơ sở
nội thôn (ở An Giang) và 37 cơ sở ngoại thôn).
4.2.2. Về cơ cấu tổ chức
Trong quá trình tồn tại và phát triển, ban đầu Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa
không chủ trương lập cơ sở như một số tôn giáo khác. Người đứng đầu là Đức
Bổn Sư, dưới là các đại đệ tử, hay còn gọi là các cao đồ. Trong số các cao đồ
được được phân ra các chức năng cụ thể khác nhau: Những người phát huy ý
tưởng của Đức Bổn sư được gọi là ông Trò; những người thay mặt Đức Bổn Sư
chăm lo việc đạo của một nhóm tín đồ gọi là ông Gánh. Sau khi Đức Bổn Sư
qua đời, do sự phân hóa của các ông Gánh nên cơ cấu tổ chức Đạo đã được
thành lập.
Người sáng lập ra Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa được gọi là Đức Bổn Sư.
Đức Bổn Sư gọi tín đồ là Bá gia. Dưới Đức Bổn sư là các Đại đệ tử, còn gọi là Cao
đồ. Trong số các Cao đồ được phân ra những chức năng cụ thể khác nhau: những
người phát huy ý tưởng của Đức Bổn sư được gọi là ông Trò; những người thay
mặt Đức Bổn sư chăm lo việc đạo của một nhóm tín đồ được gọi là ông Gánh.
Giúp việc cho Trưởng Gánh có Thông tín, Cư sĩ và Thủ lễ.
180
Thông tín là người thông báo các ngày lễ, các sự việc như: Tang ma, cưới
hỏi, ốm đau cho mọi người trong Gánh biết và đứng ra quyên góp tiền bạc,
phẩm vật khi cần thiết. Mỗi Gánh có một đến hai Thông tín.
Cư sĩ là người có nhiệm vụ soạn sớ, điệp, tụng kinh, thỉnh chuông, mõ trong
các buổi cúng lễ. Tùy theo số lượng tín đồ, mỗi Gánh có từ hai đến vài chục Cư sĩ.
Thủ lễ có nhiệm vụ chuẩn bị bàn ghế, bố trí công việc, thắp hương và
dâng cho các Trưởng Gánh nguyện hương trong các buổi lễ.
Gánh của Tứ Ân Hiếu Nghĩa là nơi tập hợp tín đồ cùng thọ giáo với một
ông Gánh. Đạo này có 24 Gánh, đứng đầu Gánh là Trưởng Gánh, Trưởng Gánh
không phải do bầu mà suy cử, thông thường là do cha truyền con nối hoặc
truyền hiền, họ là người hiểu biết về đạo pháp và uy tín trong tín đồ. Trưởng
Gánh là người trông coi việc đạo, tổ chức cúng lễ trong gánh. Trường hợp chưa
suy cử được Trưởng Gánh thì Gánh đó cử người đại diện Gánh.
Hiện nay, Hiến chương của Phật hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa quy định Giáo hội
có hai cấp, “Ban Trị sự trung ương Phật hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa” là cơ quan lãnh
đạo của Giáo hội nhằm phối hợp chăm lo, điều hành mọi công việc của toàn đạo.
“Ban Trị sự trung ương Phật hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa” có trụ sở tại chùa Tam Bửu,
Phi Lai, thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang; ở cấp cơ sở là Gánh.
Ban Trị sự trung ương Phật hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa là cấp lãnh đạo điều
hành hoạt động của toàn đạo, làm việc theo nguyên tắc: Tập trung - dân chủ,
thiểu số phục tùng đa số: Phật hội bao gồm tất cả các vị Trưởng Gánh do đại hội
đại biểu suy tôn trong mỗi kỳ đại hội của đạo. Phật hội điều hành đôn đốc việc
đạo và quan hệ với Nhà nước, đồng thời chỉ định việc thành lập Văn phòng và
các bộ phận giúp việc gồm: Ban Tài Chính; Ban Xã hội - Từ thiện; Ban Lễ nghi;
Ban Giáo lý; Ban Kiểm soát. Mỗi bộ phận có cấp Trưởng và từ một đến hai cấp
Phó ban và một số người giúp việc nếu cần thiết. Phật hội và các Ban giúp việc
hoạt động theo nhiệm kỳ 05 năm theo nhiệm kỳ của Đại hội cấp toàn đạo.
Gánh đạo gồm các thân bằng quy y thọ giáo với một Trưởng Gánh, là cấp
lãnh đạo trực tiếp của Đạo, tổ chức quản lý sinh hoạt đạo một cách nghiêm
trang, chặt chẽ trong Gánh đạo.
Mỗi Gánh có một Trưởng Gánh là người nhiều hiểu biết việc đạo, có uy
tín trong tín đồ, trong coi việc đạo và chịu trách nhiệm về mọi sinh hoạt của đạo
của gánh. Lãnh đạo Gánh thực hiện các hoạt động đạo theo nội dung đồng thuận
tại các kỳ họp của Gánh, của Đạo trong kỳ đạo sự.
181
Tam Bửu gia hoặc tư gia của Trưởng Gánh là nơi làm việc của Gánh đạo.
Các Gánh cùng phối hợp với nhau chăm lo điều hành công việc chung của toàn
đạo, cả nội thôn và ngoại thôn.
Ngoài ra, còn có Ban Quản tự chùa Tứ Ân Hiếu Nghĩa do Trưởng Gánh
bầu lên. Ban Quản tự có nhiệm vụ giúp Trưởng Gánh trong việc tổ chức nghi lễ
thờ cúng, trùng tu, sửa chữa chùa, miếu, quản lý tài chính và làm từ thiện xã hội.
Ban Quản tự chùa thường có từ 07 đến 11 thành viên với nhiệm kỳ là 03 năm.
4.2.3. Thực trạng hoạt động tôn giáo
4.2.3.1.Về sinh hoạt tôn giáo
Từ khi miền Nam hoàn toàn giải phóng một số tổ chức của Đạo tự giải
tán. Vốn là một tôn giáo có truyền thống yêu nước, đạo đức tôn giáo của Phật
giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa rất gần gũi với đạo đức xã hội Việt Nam, đa số tín đồ
tham gia sinh hoạt tôn giáo thuần tuý. Sinh hoạt tôn giáo của tín đồ Phật giáo Tứ
Ân Hiếu Nghĩa đều được các cấp chính quyền địa phương tạo điều kiện cho tiến
hành bình thường tại gia đình và các cơ sở thờ tự của Đạo.
Hằng năm, Ban Trị sự trung ương Phật hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa phối hợp
với Ban Tôn giáo (Sở Nội vụ) tỉnh An Giang tổ chức các lớp phổ biến về chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và công tác hành chính
đạo cho các chức sắc, chức việc nhưng chủ yếu tập trung cho các chức sắc, chức
việc tại khu vực nội thôn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng tôn giáo của Ban Trị sự
còn nhiều hạn chế, chủ yếu “truyền tử, truyền tôn” theo từng Gánh.
4.2.3.2. Về hội nghị, đại hội
Đại hội đại biểu toàn Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa được tổ chức 5 năm
một lần. Hội nghị thường niên được tổ chức mỗi năm 2 lần: Lần thứ nhất diễn ra
trước ngày Đại lễ 5/5 âm lịch, lần thứ 2 được diễn ra vào tháng 12 âm lịch hàng
năm. Ngoài hội nghị thường niên, khi cần thiết tổ chức hội nghị bất thường phải
được sự đồng ý của 2/3 số lượng thành viên Phật hội.
4.2.3.3. Về in ấn kinh sách
Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã in ấn 07 cuốn kinh, làm tài liệu rao giảng
cho các chức sắc, chức việc, tín đồ của Đạo, bao gồm: Siêu Thăng Kinh, Phổ Độ
Kinh, Đinh Sơn Hội Thượng Kinh, Hiếu Nghĩa Kinh (trong cuốn Hiếu Nghĩa
Kinh có 03 cuốn là: cuốn Hạ - cuốn Trung - cuốn Thượng) và Ngũ giáo Văn.
Ngoài ra Ban Giáo lý còn tiến hành biên tập và hiệu đính kinh bộ kinh Siêu độ
và Pháp Bửu Trường Sanh cho các tín đồ của Đạo.
182
4.2.3.4. Về hoạt động bổ nhiệm, suy cử, thuyên chuyển, cách chức, bãi
nhiệm chức việc
Trong nhiệm kỳ 2015-2020, Ban Trị sự trung ương Phật hội Tứ Ân Hiếu
Nghĩa tổ chức trao quyết định công nhận phong phẩm, phong chức cho 07 vị cư
sĩ thọ phẩm vị Trưởng Gánh.
4.2.4. Về hoạt động xã hội
Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa thực hiện các hoạt động từ thiện xã hội
thường xuyên nhưng chỉ được tiến hành ở nội thôn và đối với tín đồ Phật giáo
Tứ Ân Hiếu Nghĩa có hoàn cảnh khó khăn.
Phật hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã vận động các nhà hảo tâm, mạnh thường
quân hỗ trợ chương trình an sinh xã hội như: tặng quà, xây nhà đại đoàn kết cho
hộ nghèo có hoàn cảnh khó khăn; ủng hộ đồng bào miền Trung bị lũ lụt, quỹ
người nghèo, quỹ cây mùa xuân, quỹ khuyến học, cầu, đường, trường, trạm y tế;
ủng hộ tiền và hiện vật cho Ban chỉ đạo phòng chống dịch Covid-19,…
4.3. Những vấn đề cần quan tâm về Phật hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa để
phục vụ công tác thông tin, tuyên truyền về tín ngưỡng, tôn giáo
- Cần tăng cường công tác nâng cao trình độ, giáo dục pháp luật cho đội
ngũ chức sắc, chức việc; hướng dẫn chức sắc, chức việc, tín đồ Phật giáo Tứ Ân
Hiếu Nghĩa thực hiện các hoạt động tôn giáo và liên quan đến tôn giáo theo quy
định của pháp luật hiện hành.
- Do đặc điểm tôn giáo, các vị Trưởng Gánh đều là những người đứng đầu
mỗi Gánh, có vai trò ngang nhau trong Ban Trị sự trung ương, vì vậy, cần phát
huy vai trò của các Trưởng Gánh đảm bảo sự đoàn kết, hài hòa.
- Đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền, phổ biến những chủ trương,
chính sách và pháp luật của Đảng, Nhà nước cho chức sắc, chức việc, tín đồ,
giúp cho đồng bào nắm vững pháp luật, vừa an tâm sống đạo, hành đạo vừa thực
hiện tốt trách nhiệm công dân đối với đất nước.
- Làm tốt công tác vận động quần chúng, động viên chức sắc, chức việc,
tín đồ Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa phát huy truyền thống yêu nước của đạo,
tích cực tham gia đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước, củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.
183
5. ĐẠO BỬU SƠN KỲ HƯƠNG
5.1. Khái quát chung
5.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương ra đời do ông Đoàn Minh Huyên sáng lập vào
cuối năm 1849 (năm Kỷ Dậu) tại Cốc ông Đạo Kiến (nay là Tây An cổ tự, xã
Long Kiến, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang). Ông Đoàn Minh Huyên (1807-1856)
quê ở Tòng Sơn, tổng An Thạnh Thượng, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng
Tháp), đạo hiệu là Giác Linh. Vừa chữa bệnh, vừa tổ chức khai hoang lập ấp, vừa
truyền bá tư tưởng Bửu Sơn Kỳ Hương, ông Đoàn Minh Huyên đã thu phục được
hàng vạn tín đồ tin theo. Ông được tín đồ suy tôn là Phật Thầy Tây An.
Về tên gọi của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, cho đến nay vẫn chưa có sự
thống nhất trong việc giải nghĩa nhưng nhiều giả thuyết cho rằng ông Đoàn
Minh Huyên đặt ra trên cơ sở bốn chữ đầu bài thơ :
Bửu ngọc quân minh thiên việt nguyên
Sơn trung sư mạng địa nam tiền
Kỳ niên trạng tái tân phục quốc
Hương xuất trình sanh tạo nghiệp yên.
Sau khi khai sáng đạo Bửu Sơn Kỳ Hương (năm 1849) ông Đoàn Minh
Huyên vào khu vực núi Sam, Thới Sơn, Láng Linh (An Giang) truyền đạo đến
khi ông qua đời (năm 1856). Chính những hoạt động chữa bệnh, khẩn hoang,
dạy người tu hành làm lành tránh dữ đã đáp ứng nhu cầu của người nông dân và
hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ nên đạo Bửu Sơn Kỳ Hương phát triển mạnh mẽ,
rộng rãi trong quần chúng nhân dân miền Tây Nam Bộ. Khi thực dân Pháp xâm
lược nước ta (năm 1867) những trại ruộng của tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương
trở thành căn cứ chống Pháp do các nhóm tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương dưới sự
lãnh đạo của các đệ tử cốt cán của Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên. Điển
hình là cuộc khởi nghĩa của Quản cơ Trần Văn Thành (gọi là ông đạo Thành),
Nguyễn Trung Trực (tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương).
Sau khi các cuộc khởi nghĩa chống thực dân pháp bị thất bại, thực dân
Pháp thẳng tay đàn áp tàn bạo, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương không còn phát triển
như trước về mặt khẩn hoang, lập trại ruộng. Song, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương vẫn
tiếp tục tồn tại trong nông dân ở vùng An Giang, Đồng Tháp,…
Từ khi đất nước thống nhất, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương vẫn tồn tại và hoạt
động bình thường ở các chùa, tại nhà tín đồ như mọi hình thức tín ngưỡng, tôn
giáo bản địa khác nhưng số lượng tín đồ và cơ sở thờ tự không nhiều.
184
5.1.2. Nội dung cơ bản về giáo lý, giáo luật, lễ nghi của đạo Bửu Sơn
Kỳ Hương
5.1.2.1. Giáo lý, kinh sách
Từ khi sáng lập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, ông Đoàn Minh Huyên đã
truyền bá thuyết Hội Long Hoa và điểm báo đời Hạ Ngươn sắp mãn. Hội Long
hoa sắp khai để lựa chọn những người hiền đức, nhân nghĩa lập lên đời Thượng
Ngươn an lạc, đồng thời trừng trị những kẻ gian ác, mất nhân tính. Như vậy,
muốn có phước đức thì con người phải phát tâm tu hành theo chánh pháp của
chư Phật, làm lành, tránh dữ, từ bi bác ái, cứu nạn cứu khổ, lấy tứ ân làm đầu,
giới định huệ làm gốc. Ông luôn khuyên bảo chúng sinh phải thực hiện Tu nhân,
học Phật và điều đó đã trở thành giáo lý chân truyền của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương lấy giáo pháp “Tu nhân - Học Phật” và việc báo
đáp “Tứ đại trọng ân” (ân Trời Phật, ân Quân Vương, ân cha mẹ, ân sư phụ) sau
này Tứ ân được hiểu là: Ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân Tam bảo và ân đồng
bào nhân loại là tôn chỉ. Trong giáo lý của Bửu Sơn Kỳ Hương, Tu nhân là quá
trình tự rèn rũa tâm tính của mỗi con người trong cuộc sống và phải luôn tâm
niệm làm lành, tránh dữ để tu nhân tích đức. Việc Tu nhân là nhằm dẫn dắt con
người ta trong cơn mê lạc được trở về với con đường lương thiện, chính đạo,
luôn sống đúng với đạo làm người, giúp ích gia đình, xã hội, phù hợp với luân
thường đạo lý, có đầy đủ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Việc quan niệm học Phật có nghĩa là tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương phải noi
theo gương đức Phật, với việc trì niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà. Giáo lý của đạo
Bửu Sơn Kỳ Hương đã đặt vấn đề Tu nhân trước khi học Phật không phải là
không coi trọng việc học Phật mà là do việc nhìn nhận Tu nhân chính là nấc
thang thứ nhất để sau đó hội đủ điều kiện học Phật.
Giáo lý Tu nhân - học Phật của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương thật ngắn gọn,
sâu xa, lối diễn đạt theo hướng tuỳ hoàn cảnh, tuỳ căn cơ, chính vì vậy giáo lý
Tu nhân, học Phật đã nhanh chóng được một bộ phận dân chúng tiếp nhận và coi
đó là lẽ sống của mình để rồi sau đó trở thành đệ tử của Phật Thầy Đoàn Minh
Huyên, tín đồ của Bửu Sơn Kỳ Hương.
Ngoài những giáo lý căn bản nêu trên, ông Đoàn Minh Huyên còn truyền
dạy cho những tín đồ thân tín mà sau này là những đại đệ tử của ông mật chú và
bí pháp công truyền để tăng sức khoẻ, trị bệnh cứu người. Những vị đại đệ tử đó
185
chính là những người thay mặt Phật Thầy truyền bá giáo lý Tu nhân, học Phật,
phát triển tín đồ, khai khẩn đất đai, mở rộng mối đạo.
Về kinh sách, do đặc điểm ra đời, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương rất ít kinh
sách. Tín đồ chủ yếu thực hành theo lời dạy của Phật Thầy và các ông Đạo, sau
đó truyền khẩu trong cộng đồng tín đồ. Kinh của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương được
thể hiện chủ yếu bằng thơ lục bát thông qua truyền khẩu như: Tòng Sơn căn gốc,
Giảng Phật Thầy, Giảng Giáp Thìn. Đối với kinh sách được in thành văn thỉ hiện
nay ở An Giang còn sử dụng quyển “Sấm truyền Phật Thầy Tây An”, còn tại
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương dùng phổ biến ba bộ
kinh: Bộ kinh Thiên Ngươn “Tâm kinh”; Bộ kinh Mạc Kiếp “Báo phụ mẫu ơn
kinh”; Bộ kinh Huỳnh Đình - kinh “Mật tông” trợ duyên.
5.1.2.2. Giáo luật
Xuất phát từ tôn chỉ hành đạo là: lấy Tứ ân làm đầu, Giới định huệ làm
gốc, và với quan điểm đời có luật lệ ở đời, đạo phải có giới luật của đạo nhằm
chặn đứng ác duyên sinh khởi nên tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương luôn coi giới luật
là cội gốc của việc tu hành và những người chân tu cần am hiểu và thực hiện
nghiêm giới luật.
Nội dung cơ bản của giáo luật Bửu Sơn Kỳ Hương là việc tín đồ phải thực
hành nghiêm Tam quy, ngũ giới, trong đó tam quy được hiểu là việc tín đồ khi
gia nhập pháp môn phải tự nguyện quy y Phật, tự nguyện quy y pháp, tự nguyện
quy y tăng. Đây được coi là điều kiện cơ bản bắt buộc, đầu tiên để trở thành tín
đồ và là yếu tố khẳng định đức tin của tín đồ đối với tôn giáo mà mình hướng
theo. Ngũ giới bao gồm:
- Cấm sát sinh, hại người, hại vật.
- Cấm tham lam, trộm cắp, hưởng thụ của phi nghĩa, không làm mà hưởng
- Cấm tà dâm, truỵ lạc (cả tâm dâm và thân dâm).
- Cấm rượu chè, hút chích, ma tuý, cờ bạc, mê tín dị đoan, đồng bóng, bói toán.
- Cấm gian dối, vọng ngữ, châm chọc, chia rẽ…
Tuy nhiên đến nay giới luật đã có sự phát triển, bổ sung cho phù hợp với
quan niệm về thuần phong mỹ tục từng vùng. Tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương
đều được tự do để tóc, râu, được lấy vợ lấy chồng.
5.1.2.3. Lễ nghi
* Nghi lễ và cách thờ cúng của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương:
186
Với quan niệm, sự thờ phụng là tiêu biểu cho lòng tôn kính các đấng từ bi,
trước đây, trong những chùa Bửu Sơn Kỳ Hương do ông Đoàn Minh Huyên
dựng lên không bài trí hình ảnh hay cốt tượng, mà ông chỉ cho thờ một tấm vải
màu đỏ, gọi là Trần Điều được treo trước tường chính điện. Theo quan niệm của
đạo Bửu Sơn Kỳ Hương thì tấm Trần Điều thể hiện tấm lòng từ bi, bác ái, đoàn
kết, yêu mến đồng bào, nhân loại.
Ngoài ra, tín đồ còn lập bàn thờ tại gia đình, với bài trí tương tự như ở
chùa nhưng đơn giản hơn. Giữa nhà lập bàn thờ gia tiên, phía trên bàn thờ gia
tiên có thờ Trần Điều, ngoài sân có bàn thờ thông Thiên. Cúng lạy 2 lần trong
ngày (sáng sớm và chiều tối), cúng lạy gia tiên trước, cúng Tam bảo và sau cùng
là cúng lạy tại bàn thờ thông Thiên.
* Các lễ trọng hàng năm được tính theo âm lịch, như sau:
- Lễ Thượng Ngươn (Rằm tháng giêng)
- Lễ Phật đản (mùng 8/4);
- Lễ Vu Lan (Rằm tháng Bảy);
- Lễ Hạ Ngươn (Rằm tháng Mười);
- Lễ vía Phật Thầy (12/8)
Ngoài ra, còn có các lễ theo tập quán dân tộc, Tết Đoan Ngọ,...
Lễ được dâng lên ban thờ được thực hiện như Phật Thầy truyền thừa gồm
nhang đèn, hoa, quả (nay thường được bày ngũ hoa, ngũ quả) và nước lã (nước
trắng thể hiện sự thanh khiết).
Lễ phục hiện nay được quy định như trang phục truyền thống thời khai
sơn lập đạo gồm áo dài, khăn đóng còn về màu sắc thường là màu đen, xám, nâu
tuỳ mỗi chùa quy định.
* Thủ tục nhập đạo:
Trước đây, việc thu nhận tín đồ xin thọ phái Bửu Sơn Kỳ Hương được
ông Đoàn Minh Huyên và sau này là các đại đệ tử của ông thực hiện rất đơn
giản nhằm nhanh chóng phát triển tín đồ, xây dựng lực lượng kháng chiến chống
thực dân Pháp. Người muốn xin nhập đạo phải có đức tin và luôn luôn tâm niệm
thực hành theo giáo lý, giáo luật của Bửu Sơn Kỳ Hương là Tu nhân - học Phật
và phải thực hiện Quy y cầu đạo, qua các bước sau :
- Phải có người (cư sĩ hoặc tín đồ) hoặc cha, mẹ giới thiệu,
- Đến xin Ban quản tự (chùa),
187
- Được Ban quản tự giảng giải, hướng dẫn giới luật Tam quy ngũ giới cho
người cầu đạo gồm dâng ngũ hoa, ngũ quả; nguyện cầu trước chánh điện.
Nếu người cầu đạo đồng ý gia nhập đạo, thì thực hiện nghi lễ cầu đạo.
5.1.3. Đặc điểm
Với đặc điểm là không có chức sắc, không có tổ chức giáo hội nên sự tồn
tại và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương theo phương pháp truyền thừa với việc
truyền giảng giáo lý của thầy tổ (ông Đoàn Minh Huyên) cho các đệ tử thân tín,
rồi lớp đệ tử trước truyền cho lớp đệ tử sau và truyền vào trong dân chúng để
phát triển tín đồ nên tổ chức của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương chỉ cục bộ ở từng vùng
có “ông đạo”". Chính vì vậy tuỳ vào khả năng thuyết giảng và uy tín của “ông
đạo” mà mỗi vùng có sự phát triển tín đồ khác nhau.
Xét về nguồn gốc giáo lý căn bản và bản chất của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương
có thể khẳng định phái Thiền Lâm Tế của Phật giáo nói chung và Thiền phái Trúc
Lâm Yên tử chính là cái nôi sinh ra đạo Bửu Sơn Kỳ Hương. Tuy nhiên về hình
thức và phương pháp tu hành lại mang tính thực tiễn, gần gũi với đời sống người
dân hơn, mang bản chất đặc thù Việt Nam hơn, chính vì vậy đạo Bửu Sơn Kỳ
Hương được coi là tôn giáo bản địa đầu tiên của người Việt Nam bộ.
5.2. Thực trạng đạo Bửu Sơn Kỳ Hương
5.2.1. Về chức sắc, chức việc, tín đồ, cơ sở tôn giáo
- Về tín đồ: Tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương đa số là người Kinh sinh sống
chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long với nghề nghiệp chính là làm ruộng,
mức thu nhập thấp, sống kinh tế, văn hoá - xã hội còn hạn chế. Trong khi đó đại
bộ phận tín đồ ở vùng sâu, vùng kháng chiến cũ theo đạo lâu năm, có truyền
thống yêu nước, có nhiều đóng góp trong kháng chiến cũng như trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước và chính quyền địa phương.
Tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương coi việc “tu nhân” là tôn chỉ tối thượng trong
tu hành, điều đó giúp cho con người loại trừ những cái xấu xa và hướng thiện, tự rèn
sửa tâm tính, làm lành lánh dữ, tích đức cho sau này khi được dự “Hội Long Hoa”.
Việc “tu nhân” còn giúp con người ta luôn sống đúng với đạo làm người, giúp ích
gia đình, xã hội, có luân thường đạo lý, có đầy đủ Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Theo thống kê tính tới tháng 4/2021, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương có khoảng
10.000 tín đồ sinh sống chủ yếu ở An Giang, Đồng Tháp, Bà Rịa-Vũng Tàu,
Long An, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Tiền Giang, Bến Tre. Tại nhà tín đồ Bửu Sơn
188
Kỳ Hương vẫn duy trì việc thờ cúng theo nghi lễ tôn giáo với ban thờ tôn giáo (cũng
có tấm trần điều, chân đèn, bát hương, hoa, nước lã) bên cạnh bàn thờ gia tiên.
- Về chức sắc, chức việc: Đặc điểm của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương là không có
chức sắc, không hình thành tổ chức Giáo hội nên đạo Bửu Sơn Kỳ Hương phát triển
theo phương pháp truyền thừa, truyền giảng giáo lý của Thầy tổ cho các đệ tử thân
tín, hết lớp trước truyền lại cho lớp sau, tùy thuộc vào khả năng truyền giảng và uy
tín của các ông Đạo. Vì vậy, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương chỉ có chức việc quản tự tại
các chùa, không phân chia đơn vị tín đồ làm cơ sở của đạo.
- Về cơ sở thờ tự: Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương có 12 cơ sở thờ tự (chùa, đền,
miếu) ở các tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Long An, Sóc Trăng, Vĩnh
Long, Bến Tre, trong đó có 08 cơ sở đã được Nhà nước công nhận về mặt tổ
chức với mô hình Ban Trị sự chùa hoặc Ban Quản tự.
5.2.2. Về cơ cấu tổ chức
Với đặc thù riêng của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương từ trước đến nay là không
hình thành tổ chức giáo hội cho nên nền tảng tổ chức cơ bản của Đạo chính là
chùa Bửu Sơn Kỳ Hương bởi vì chùa là tổ chức độc lập, là nơi thờ tự chung của
cộng đồng tín đồ sinh hoạt lễ nghi tôn giáo ở mỗi địa phương do ông Đoàn Minh
Huyên hoặc đệ tử của ông dựng lên.
Chùa còn là đầu mối điều hành, tổ chức và quản lý mọi hoạt động nghi lễ
tôn giáo cả về đối nội, đối ngoại. Vì vậy, việc tổ chức bộ máy lãnh đạo quản lý
hoạt động của chùa Bửu Sơn Kỳ Hương có sự khác nhau ở mỗi địa phương.
Tại chùa có Ban Quản tự (Ban Quản trị) với cơ cấu thường gồm Trưởng ban,
các Phó Trưởng ban, thư ký, thủ quỹ, thành viên (tùy theo tập quán, nhu cầu từng
chùa) là những người cao niên, hiểu biết về đạo pháp, giáo lý và có điều kiện lo
việc đạo nhiều hơn, có uy tín trong Đạo để hướng dẫn, giúp đỡ tín đồ tu tập.
5.2.3. Về thực trạng hoạt động tôn giáo
Hiện nay tồn tại 02 nhóm đạo Bửu Sơn Kỳ Hương: nhóm ông Đoàn Minh
Huyên và nhóm ông Nguyễn Tấn Đắc.
Tính đến tháng 9/2020, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương của nhóm đạo Bửu Sơn
Kỳ Hương thuộc giáo chủ Đoàn Minh Huyên có khoảng hơn 6.300 tín đồ với 06
cơ sở thờ tự, tập trung ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Bà Rịa - Vũng Tàu,
Long An, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Tiền Giang và Bến Tre.
Ngoài nhóm đạo Bửu Sơn Kỳ Hương của ông Đoàn Minh Huyên thì
nhóm đạo Bửu Sơn Kỳ Hương thuộc ông Nguyễn Tấn Đắc có khoảng hơn 3.500
189
tín đồ, phân bố ở Đồng Tháp, Long An, Vĩnh Long, Tiền Giang, Kiên Giang và
Bến Tre.
Hiện tại các nhóm này hoạt động ổn định, cơ bản tuân thủ pháp luật và
được chính quyền địa phương tạo điều kiện trong hoạt động tôn giáo. Chức sắc,
tín đồ gắn bó trong khối đại đoàn kết dân tộc, tích cực tham gia các hoạt động từ
thiện xã hội, tập trung tu học, hành đạo theo tôn chỉ mục đích của Đạo.
5.3. Những vấn đề cần quan tâm về đạo Bửu Sơn Kỳ Hương để phục
vụ công tác thông tin, tuyên truyền về tín ngưỡng, tôn giáo
- Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương không có tổ chức giáo hội chung, chỉ hình
thành tổ chức cấp chùa nên cần tăng cường công tác quản lý nhà nước và công
tác truyên truyền, vận động để Ban Quản tự/Ban Quản trị chùa hoạt động đúng
quy định của pháp luật.
- Chức việc, tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương đa phần cao tuổi, công tác
điều hành đạo sự của chức việc còn nhiều hạn chế; các cơ sở của đạo hoạt động
riêng lẻ nên tôn chỉ, mục đích hành đạo không thống nhất. Cần tạo điều kiện để
các chức việc đạo Bửu Sơn Kỳ Hương nâng cao kiến thức pháp luật và kỹ năng
hành chính đạo.
- Cần tuyên truyền chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước nói
chung, về tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng, hướng dẫn các kỹ năng đến chức việc,
tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương một cách cụ thể, chi tiết, phù hợp với đặc điểm
văn hóa, tôn giáo.
6. MINH SƯ ĐẠO
6.1. Khái quát chung về Minh Sư đạo
6.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Minh Sư đạo
Minh Sư đạo có nguồn gốc từ Trung Quốc xuất hiện vào khoảng thời kỳ
nhà Đường, được truyền vào Việt Nam từ đời vua Tự Đức (1848-1883). Minh
Sư có thể hiểu rằng: Minh có nghĩa là sáng, thông hiểu đến sáng suốt. Sư là
người tu đạt tới giải thoát, trở thành thầy. Minh Sư là người tu đạt tới sự
thông hiểu, sáng suốt, giải thoát để trở thành bậc thầy (tu sỹ của đạo Minh Sư
từ bậc Thiên Ân trở lên thường gọi là Thầy). Minh Sư đạo suy tôn Đạt Ma Tổ
Sư là vị Tổ đầu tiên (vị Tổ Thiền tông Ấn Độ thứ 28, truyền giáo qua Trung
Quốc năm 520).
Thời kỳ nhà Thanh, Đông Sơ Tổ Sư (tổ thứ 15) được Y Đạo Tổ Sư (tổ thứ
14) phái sang Việt Nam truyền đạo. Năm 1863 (Quí Hợi), trên đường từ Thái
190
Lan về Trung Quốc, ông định ghé qua Chợ Lớn, nhưng trước tình hình ba tỉnh
miền Đông bị thực dân Pháp xâm chiếm, ông bèn qua Hà Tiên lập ngôi Quảng
Tế Phật đường.
Cuối thế kỷ 19, chính quyền thực dân Pháp đô hộ và triều đình nhà
Nguyễn tăng cường áp bức, bóc lột nhân dân. Các cuộc khởi nghĩa yêu nước của
nhân dân và các tầng lớp xã hội đều thất bại. Đời sống của nhân dân lao động
ngày càng lầm than cực khổ, nhiều nông dân phải bỏ ruộng đồng đi làm thuê,
cuốc mướn và làm công nhân trong các đồn điền, xí nghiệp của thực dân Pháp.
Một số công chức, tư sản, địa chủ có tinh thần dân tộc thì bị chèn ép trong công
việc và kinh doanh. Lúc này các giá trị đạo đức, văn hoá truyền thống của dân
tộc bị lối sống thực dụng phương Tây và chính sách cai trị của thực dân Pháp
làm ảnh hưởng nghiêm trọng dẫn đến suy thoái. Các giáo lý tôn giáo của đạo
Phật, đạo Lão, đạo Khổng cũng không còn được nhân dân tin theo.
Trong điều kiện chính trị, xã hội, văn hoá như thế, quần chúng nhân dân
tìm đến với tín ngưỡng, tôn giáo. Một trong những tôn giáo thời bấy giờ là tôn
giáo Minh Sư đạo đã du nhập vào Việt Nam và nhanh chóng thích nghi, được
nhân dân đón nhận, tin theo.
Đạo Minh Sư hoạt động mạnh và phát triển trên 50 Phật Đường từ Bắc tới
Nam, gồm 3 tông phái:
Phái Đức Tế: có Tổ đình Quang Nam Phật Đường, số 17 Trần Quang
Khải, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh.
Phái Phổ Tế: có Tổ đình Linh Quang Tự ở Hóc Môn, TP. Hồ Chí Minh.
Phái Hoằng Tế: có Tổ đình Long Hoa Phật Đường ở Cai Lậy, Tiền Giang.
Sau năm 1975 vì những lý do khác nhau, Minh Sư đạo không duy trì được
tổ chức Giáo hội, tu sỹ, tín đồ về tu tại cơ sở.
Tổ chức Giáo hội Minh Sư đạo tan rã, chỉ sinh hoạt tôn giáo tại phật
đường cơ sở. Tu sỹ, tín đồ Minh Sư đạo tu tịnh tại Phật đường, ít tham gia hoạt
động xã hội ở địa phương.
- Năm 2000, Lão sư Trần Tích Định, Trụ trì Quang Nam Phật đường ở
TP. Hồ Chí Minh có đơn xin thành lập Giáo hội. Ngày 01/2/2007, Ban Tôn giáo
- Dân tộc TP. Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho
Quang Nam Phật đường, số 17 Trần Quang Khải, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh.
Ngày 17/8/2007, Ban Tôn giáo Chính phủ cấp đăng ký hoạt động tôn giáo tại
công văn số 694/GCN/TGCP cho Giáo hội Phật đường Nam Tông Minh Sư đạo.
Giáo hội PĐNT Minh Sư đạo thành lập Ban Vận động gồm 17 thành viên do
Lão sư Trần Tích Định làm Trưởng ban. Ban Vận động Giáo hội PĐNT Minh
191
Sư đạo đã tiến hành biên soạn các nội dung văn kiện và làm thủ tục, hồ sơ xin tổ
chức Đại hội cơ sở để được công nhận pháp nhân.
Ngày 02/6/2008, Minh Sư đạo tổ chức Đại hội Đại biểu Minh Sư toàn đạo
tại TP. Hồ Chí Minh thông qua Hiến chương và suy cử Hội đồng Trưởng lão,
bầu Ban Trị sự Trung ương Giáo hội. Đại Lão sư Trần Tích Định được bầu làm
Trưởng Ban Trị sự Trung ương. Ngày 01/10/2008, Ban Tôn giáo Chính phủ có
Quyết định số 196/TGCP-CĐ công nhận về tổ chức tôn giáo của Giáo hội Phật
đường Nam Tông Minh Sư đạo.
6.1.2. Đặc điểm cơ bản của Minh Sư đạo
Minh Sư đạo là tổ chức tôn giáo du nhập từ Trung Quốc vào Việt Nam có
một số đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo gần gũi với văn hoá Việt Nam thờ Ngọc
Hoàng Thượng đế, Lão Tử, Khổng Tử, Quan Thế Âm Bồ Tát nên dễ được quần
chúng nhân dân đón nhận, tin theo.
Minh Sư đạo là một trong “Ngũ chi Minh đạo” có ảnh hưởng đến sự ra đời
của đạo Cao Đài. Minh Sư đạo có một số đặc điểm giống đạo Cao Đài như: thờ
Tam giáo, Đức Ngọc Hoàng Thượng đế, một vài nghi thức cúng lễ giống nhau,
một số bài kinh của Minh Sư đạo được đạo Cao Đài sử dụng. Ngoài ra, một số
chức sắc lớn của Minh Sư đạo như: Thái Lão sư Trần Đạo Quang, Đại Lão sư
Nguyễn Đạo Tương… đã gia nhập đạo Cao Đài và trở thành những chức sắc
đứng đầu Cao Đài Minh Chơn đạo ở Cà Mau. Ông Ngô Minh Chiêu, người đệ tử
đầu tiên của Đức Cao Đài thường luận đạo với các vị tu Minh Sư ở Tân An và
chùa Ngọc Hoàng (Sài Gòn).
Hệ thống giáo lý chặt chẽ có tôn chỉ, mục đích thuần tuý tôn giáo nhằm
hướng dẫn tín đồ tự độ, tự tha, tu chơn giải thoát, hiệp nhất tinh hoa của của ba
nền tôn giáo Nho - Thích - Đạo.
Tổ chức bộ máy giáo hội đơn giản, tu sỹ, tín đồ chủ yếu tu tịnh tại cơ sở,
thuần tuý tu hành không phổ độ, ít tham gia hoạt động xã hội. Giáo luật của
Minh Sư đạo quy định nghiêm ngặt, tín đồ phải ăn chay trường, hiểu biết chữ
Hán, sau thời gian thử thách mới được xuất gia vào đạo.
Ban đầu Minh Sư đạo là tông phái thống nhất nhưng kể từ khi Đông Sơ
Tổ sư mất đi thì Minh Sư đạo bị chia thành hai phái. Phái Đức Tế có Tổ đình tại
Quảng Đông (Trung Quốc) và phái Phổ Tế có Tổ đình tại Singapore. Tại Việt
Nam, Minh Sư đạo chia rẽ thành 03 phái là Đức Tế, Phổ Tế và Hoằng Tế. Các
phái Minh Sư cũng là tiền thân của các chi Minh đạo như: Minh Đường, Minh
192
Thiện, Minh Tân. Do điều kiện lịch sử nên một bộ phận tu sỹ, tín đồ của Minh
Sư đạo đã gia nhập Phật giáo.
Các vị chức sắc lãnh đạo Minh Sư đạo có tư tưởng chống áp bức, bóc lột
nên khi du nhập vào Việt Nam, chức sắc, tín đồ Minh Sư đạo đã hưởng ứng các
phong trào kháng chiến cứu quốc, vận động đông đảo tín đồ tham gia các hoạt
động yêu nước và trở thành truyền thống của Minh Sư đạo trong hai cuộc kháng
chiến chống giặc ngoại xâm, giải phóng dân tộc.
6.2. Tình hình Minh Sư đạo hiện nay
6.2.1. Số lượng chức sắc, chức việc, tín đồ, cơ sở tôn giáo của Giáo hội
Phật đường Nam Tông Minh Sư đạo
- Chức sắc: hơn 150
- Chức việc: trên 200
- Tín đồ: hơn 5 ngàn21
- Cơ sở tôn giáo: 52
6.2.2. Cơ cấu tổ chức của Giáo hội Phật đường Nam Tông Minh Sư đạo
- Hệ thống tổ chức hành chính Giáo hội Phật Đường Nam Tông Minh Sư
đạo gồm:
* Cấp Trung ương: Hội đồng Trưởng lão, Ban Trị sự Trung ương giáo hội
và các Ban thuộc giáo hội (Ban Nghi lễ, Ban Hoằng pháp, Ban Giáo dục, Ban
Từ thiện, Ban Kiểm soát, Ban Tài chánh).
* Cấp địa phương: Ban Trị sự tỉnh, thành phố và Ban Trị sự Phật đường.
Nơi nào có từ 03 Phật đường trở lên được lập Ban Trị sự tỉnh, thành phố.
Nơi nào chưa đủ điều kiện thành lập Ban Trị sự Phật đường mới thì được lập
Ban Nghi lễ cơ sở.
- Hội đồng Trưởng lão của Giáo hội Phật đường Nam Tông Minh Sưđạo
được Đại hội Đại biểu Minh Sư toàn đạo suy tôn và tại vị suốt đời, có số lượng
là 10 vị Lão sư. Các Lão sư trong Hội đồng Trưởng lão suy cử 01 vị làm Thái
Lão sưđứng đầu Hội đồng Trưởng lão.
Hội đồng Trưởng lão là cơ quan tối cao của nền đạo, có nhiệm vụ: chủ trì
các sinh hoạt tôn giáo và giữ gìn chơn truyền đạo pháp của Minh Sư đạo; hướng
dẫn và giám sát Ban Trị sự Trung ương Giáo hội trong quá trình hoạt động; quản
lý chung việc tu hành của các tu sỹ, tín đồ, tiến cử thành viên Ban Trị sự Trung
ương Giáo hội với Đại hội nhiệm kỳ; phê chuẩn những việc trọng yếu của đạo
21 Giáo hội Phật đường Nam Tông Minh Sư đạo (2020), Báo cáo tổng kết hội nghị thường niên năm 2020.
193
như: Hiến chương sửa đổi, chương trình hành đạo, Ban Trị sự Trung ương Giáo
hội, thăng thưởng, kỷ luật thành phần giáo phẩm, giải quyết tranh chấp trong nội
bộ đạo, thành lập, chia tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể các Phật đường…
Ban Trị sự Trung ương giáo hội được Đại hội Đại biểu Minh Sư toàn đạo
bầu ra, từ 15 vị đến 19 vị (từ phẩm Thiên ân trở lên), gồm có: 01 Trưởng ban, 03
Phó Trưởng ban, 01 Tổng thư ký và các thành viên. Nhiệm kỳ của Ban Trị sự
Trung ương giáo hội là 5 năm, nếu trong nhiệm kỳ có khuyết thì giáo hội xem
xét bổ nhiệm.
Ban Trị sự Trung ương Giáo hội có nhiệm vụ lãnh đạo, thay mặt cho Giáo
hội chịu trách nhiệm pháp lý trước Nhà nước, trực tiếp quản lý, điều hành các
hoạt động của Giáo hội, cụ thể: soạn thảo các chương trình hoạt động, hướng
dẫn việc tu hành cho toàn đạo thực hiện; phê chuẩn nội dung hoạt động của các
Phật đường đệ trình; tổ chức các khoá sơ thừa, trung thừa, thượng thừa để tấn
đạo, cầu pháp cho tu sỹ, tín đồ, khen thưởng, kỷ luật tu sỹ, tín đồ theo đúng giới
luật, tiến hành hòa giải tranh chấp trong nội bộ đạo; phê duyệt Trụ trì, Ban Trị
sự Phật đường ở các tỉnh, thành phố, bổ nhiệm Trưởng ban, Phó Trưởng Ban Trị
sự tỉnh, thành phố và các thành viên khác trong Ban Trị sự do vị Trưởng ban lựa
chọn, đề cử (nếu có).
Để giúp Ban Trị sự Trung ương giáo hội điều hành việc đạo và thực hiện
các nhiệm vụ, quyền hạn được giao, Giáo hội thành lập các Ban thuộc giáo hội
gồm: Ban Nghi lễ, Ban Hoằng pháp, Ban Giáo dục, Ban Từ thiện, Ban Kiểm
soát, Ban Tài chánh. Mỗi Ban có từ 03 đến 05 thành viên do 01 vị Lão sư phụ
trách (hoặc vị chức sắc từ phẩm Chứng ân trở lên) làm Trưởng ban, có từ 01 đến
02 Phó ban, 01 Thư ký và các thành viên. Nhiệm kỳ của các Ban thuộc giáo hội
là 5 năm. Nếu trong nhiệm kỳ có khuyết thì giáo hội xem xét bổ nhiệm. Các Ban
có nhiệm vụ cụ thể như sau:
+ Ban Nghi lễ có nhiệm vụ: thực hiện nghi lễ chung, chỉnh trang đạo phục
theo luật Đạo. Trường hợp cần chỉnh đốn về lễ nghi cho phù hợp với phong tục
tập quán ở địa phương cần đệ trình lên Hội đồng Trưởng lão; sắp đặt, thi hành
các cuộc lễ, nghi tiết hành lễ, cách cúng chơn truyền của Tổ sư. Chăm lo chỉ dạy
nghi thức tang lễ, cúng tuần, cúng cửu, cầu cao thăng, lập nguyện cho chức sắc
hàng giáo phẩm ở Tổ đình và các Phật đường cho thống nhất trong toàn Đạo;
phụ trách việc tiếp khách, tiếp tân chung; sắp xếp và thi hành các lễ cúng, lễ hội;
làm các sớ cúng, sớ sách lập nguyện cho từng cấp,...
194
+ Ban Hoằng pháp có nhiệm vụ: nghiên cứu kinh điển, giới luật, ngũ giới,
thập giới, tứ đại điều quy, Hiến chương, Quy chế, các bài sám, lễ bổn, tạp biểu,
khánh chúc và các tài liệu liên quan đến Giáo hội; biên soạn tập tài liệu phổ biến
cho chức sắc hàng giáo phẩm học tập giáo lý, giáo luật của Giáo hội và thực
hiện thuyết pháp cho chức sắc, tu sỹ, tín đồ học hiểu; phối hợp với Ban Giáo dục
tổ chức các khóa học Sơ thừa, Trung thừa và Thượng thừa.
+ Ban Giáo dục có nhiệm vụ: lập chương trình giảng dạy về lịch sử, giáo
lý, giáo luật trong toàn đạo (phân hạng chức sắc hàng giáo phẩm, tu sỹ, tín đồ);
chủ trương về việc giảng đạo, thuyết pháp (các bài thuyết pháp do Hội đồng
Trưởng lão phê duyệt), thông qua chương trình phổ thông, sách báo, thông tin về
Đạo, mở mang việc học tập đến các Phật đường; chăm lo việc mở học Đạo của
các Phật đường, lập thư viện, tủ sách có đủ kinh sách Đạo. Đệ trình việc kiểm
duyệt kinh sách cho ấn tống, ban hành; mở khóa bồi dưỡng hoặc trường đào tạo
chức sắc hàng giáo phẩm kế thừa.
+ Ban Kiểm soát có nhiệm vụ: kiểm soát về tài chính, lương thực, đồ từ
khí, nhân số và nhân công trong các Ban thuộc Giáo hội. Việc kiểm soát chỉ có
tính chất kiểm số người trung thực, chứng thực rồi trình lên Trưởng Ban Trị sự
Trung ương quyết định, chứ không có quyền sắp đặt, sửa đổi hay trách cứ; về tài
chánh, mỗi tháng xét một kỳ, ký tên chứng thực, các sổ sách, giấy tờ thâu xuất
nơi Giáo hội. Vào đầu tháng 11Âm lịch xem xét lại hết bộ sổ; thanh tra, kiểm
soát các Phật đường hoặc các vụ việc khiếu kiện liên quan đến Giáo hội, thẩm
tra đạo đức của chức sắc hàng giáo phẩm; kiểm tra tư cách đại biểu các kỳ Đại
hội, Hội nghị, giữ gìn an ninh, trật tự các cuộc lễ hội, hội họp của Giáo hội; đề
nghị Hội đồng Trưởng lão khen thưởng, kỷ luật chức sắc, tu sỹ, tín đồ.
+ Ban Từ thiện có nhiệm vụ: lập dưỡng đường, phòng chẩn trị y học, khu
nghĩa địa, sửa sang mồ mả, tháp, dựng mộ bia các chức sắc có công với Giáo
hội; thành lập Ban Từ thiện từ Giáo hội đến Phật đường cơ sở; thăm viếng, an
ủi, nâng đỡ tinh thần các chức sắc, tu sỹ, tín đồ tuổi cao không thể hành đạo; tổ
chức việc quyên góp, giúp đỡ những người bệnh tật, tai nạn, khốn khổ, nghèo
đói trong Đạo ngoài đời, đồng bào bị thiên tai hạn hán, lũ lụt và vận động bổn
đạo tham gia các hoạt động từ thiện xã hội; xây dựng tình thương yêu, đoàn kết
trong chức sắc, tu sỹ, tín đồ thực hiện các hoạt động phước thiện trong toàn đạo.
+ Ban Tài chánh có nhiệm vụ: giữ gìn và xem xét hồ sơ đất điền, nhà cửa,
tài sản của Giáo hội; ký biên lai mỗi khi thâu xuất tiền, có quyền ký tên các toa
195
xuất nhưng trước khi xuất phải có đơn xin xuất đã được Trưởng Ban Trị sự Trung ương phê duyệt; lập chương trình, kế hoạch thu chi cho ngân sách Giáo hội được quân bình mỗi năm; vận động các nhà hảo tâm thường xuyên ủng hộ lương thực cho Giáo hội; quản lý lương thực, đồ vật, tài sản của Giáo hội, có thủ quỹ giữ gìn, các việc xuất phát hàng ngày phải có đơn xin và toa xuất rõ ràng, hằng tháng có Ban Kiểm soát đến kiểm tra.
Ban Trị sự tỉnh, thành phố có từ 3 đến 5 vị gồm: 01 vị Trưởng ban, 2 vị Phó Trưởng ban do Ban Trị sự Trung ương Giáo hội lựa chọn, bổ nhiệm. Các thành viên còn lại trong Ban Trị sự tỉnh, thành phố (nếu có) do vị Trưởng ban chọn ra nhưng không quá 2 vị, sau đó trình Giáo hội trung ương phê chuẩn, bổ nhiệm. Trụ sở của Ban Trị sự tỉnh, thành phố đặt tại một Phật đường phù hợp. Nhiệm kỳ của Ban Trị sự tỉnh, thành số là 05 năm. Nếu trong nhiệm kỳ có khuyết thì Giáo hội xem xét bổ nhiệm.
Ban Trị sự tỉnh, thành phố có nhiệm vụ: phổ biến và tổ chức thực hiện chương trình hoạt động của Giáo hội đến các vị Trụ trì, Ban Trị sự Phật đường, Ban Nghi lễ cơ sở; giúp Ban Trị sự Trung ương Giáo hội nắm vững tình hình hoạt động và nguyện vọng của các tu sỹ, tín đồ, thiện nam tín nữ tại địa phương; thay mặt Giáo hội giải quyết sắp xếp ổn định nội bộ, các hoạt động của Phật đường trong địa phận, tạo điều kiện cho các Ban Trị sự Phật đường cơ sở tương trợ lẫn nhau trong việc tu hành. Những việc quan trọng phải xin ý kiến Ban Trị sự Trung ương Giáo hội; được Giáo hội uỷ quyền quan hệ với chánh quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể, tôn giáo,… trong phạm vi cho phép. Ban Trị sự Phật đường do đại hội Phật đường cơ sở tín nhiệm bầu ra, có nhiệm vụ giúp vị Trụ trì điều hành các hoạt động của Phật đường. Số thành viên Ban Trị sự từ 3 đến 5 vị, nhiệm kỳ Ban Trị sự Phật đường là 05 năm.
Phật đường cơ sở do một vị Lão sư trụ trì, nơi nào chưa có Lão sư có thể chọn một vị thuộc hàng giáo phẩm từ Thiên ân trở lên. Vị Trụ trì Phật đường có trách nhiệm chăm lo hoạt động tu học tại Phật đường, lãnh đạo Ban Trị sự trong hoạt động của Phật đường và có nhiệm vụ đào tạo, tiến cử cho Giáo hội người thừa kế mình cho Phật đường.
Ngoài việc giới thiệu đệ tử tiếp nối làm Trụ trì Phật đường nếu có nhu cầu về chức sắc thì Phật đường cơ sở kiến nghị với Giáo hội Trung ương để được giúp đỡ.
Ban Trị sự Phật đường có nhiệm vụ: tổ chức thực hiện chương trình hoạt
động của giáo hội theo Hiến chương và giới luật; quản lý chức sắc, tu sỹ sinh
196
hoạt tại phật đường; chăm lo hoạt động tu học và đào tạo chức sắc, tu sỹ tại phật
đường; quan hệ với chánh quyền, đoàn thể trong phạm vi của phật đường.
- Những nơi chưa đủ điều kiện thành lập Ban Trị sự Phật đường mới thì
được lập Ban Nghi lễ cơ sở.
Ban Nghi lễ cơ sở có nhiệm vụ: tổ chức thực hiện chương trình hoạt động
của cơ sở theo Hiến chương và giới luật; quản lý chức sắc, tu sỹ sinh hoạt tại cơ
sở; chăm lo hoạt động tu học của chức sắc, tu sỹ tại cơ sở.
Giáo hội Phật Đường Nam Tông Minh Sư đạo đã được công nhận tổ chức
giáo hội năm 1920 và hệ thống tổ chức từ Trung ương tới cơ sở, có hàng vạn
chức sắc, tín đồ và gần 100 chùa hoạt động trên 20 tỉnh, thành phố.
Năm 2007, Giáo hội Phật Đường Nam Tông Minh Sư đạo được cấp đăng
ký hoạt động, tháng 10/2008, Ban Tôn giáo Chính phủ ra quyết định công nhận
tổ chức của Giáo hội Phật Đường Nam Tông Minh Sư đạo.
6.2.3. Thực trạng hoạt động tôn giáo của Giáo hội Phật đường Nam
Tông Minh Sư đạo
Minh Sư đạo có 52 Phật đường (trong đó có 43/52 phật đường thuộc giáo
hội, còn 09 phật đường chưa trở về sinh hoạt với giáo hội), hoạt động ở 18 tỉnh,
thành phố. Tổ đình của Minh Sư đạo đặt TP. Hồ Chí Minh22.
Các tỉnh, thành phố có Minh Sư đạo: Bến Tre, Long An, TP. Hồ Chí
Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Tiền Giang, Vĩnh Long,
Ninh Bình, Hà Nội, Kiên Giang, Hậu Giang, Cần Thơ, Đà Nẵng, Đồng Tháp,
Khánh Hoà, Phú Yên, Bình Định.
Hiến chương của Minh Sư đạo xây dựng giáo hội hoạt động có hai cấp:
cấp Trung ương có Hội đồng Trưởng lão, Ban Trị sự Trung ương Giáo hội; cấp
cơ sở là Ban Trị sự Phật đường. Ở tỉnh, thành phố có nhiều Phật đường thì thành
lập Ban Trị sự tỉnh, thành phố (không phải là một cấp hành chính) để làm đầu
mối hướng dẫn các Phật đường cơ sở hành đạo tại địa phương.
Hoạt động của Giáo hội Phật đường Nam Tông Minh Sư đạo hiện nay có
những chuyển biến tích cực về tổ chức giáo hội đã củng cố chức sắc Hội đồng
Trưởng lão gồm 07 Lão sư; chức sắc Ban Trị sự Trung ương gồm 19 vị; thành lập
Ban Từ thiện lo giúp đỡ các phật đường và tu sỹ còn khó khăn. Củng cố thành lập
Ban Trị sự Tỉnh hội Tiền Giang, Ban Trị sự Tỉnh hội Vĩnh Long, Ban Trị sự Tỉnh
22 Giáo hội Phật đường Nam Tông Minh Sư đạo, Báo cáo tổng kết hội nghị thường niên năm 2020.
197
hội Khánh Hòa. Các phật đường cơ sở đều có chức sắc Trụ trì phật đường và Ban
Trị sự phật đường để lo các công việc sinh hoạt tín ngưỡng tại cơ sở.
Về giáo dục, đào tạo đã phối hợp với chính quyền các cấp tổ chức 02 hội
nghị học tập về chính sách tôn giáo của nhà nước và thủ tục hành chính; tham
gia nhiều các lớp bồi dưỡng kiến thức về pháp luật liên quan đến tôn giáo, đất
đai, an ninh quốc phòng,… Hướng dẫn chức sắc, tu sỹ tích cực học tập giáo lý,
giáo luật, chữ Hán để nâng cao kiến thức trong việc điều hành, hướng dẫn tín đồ
tu hành theo quy định của giáo hội.
Về sinh hoạt nghi lễ được tổ chức trang nghiêm tại các Phật đường thu hút
đông đảo tín đồ tham dự, như: Lễ Vía Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế ngày 9
tháng Giêng; Lễ Thượng ngươn ngày Rằm tháng Giêng; Lễ giỗ tông phái giỗ Tổ
sư Vương Đạo Thâm ngày 24 tháng 4 Âm lịch; Lễ Trung ngươn ngày Rằm
tháng 7; Lễ Hạ ngươn ngày Rằm tháng 10; Lễ Thành đạo Đức Đông Sơ Tổ sư
ngày 24 tháng 11 Âm lịch,…
Về tấn phong chức sắc đã thực hiện theo đúng quy định của giáo hội và
pháp luật của nhà nước. Hiện nay, Minh Sư đạo có trên 150 chức sắc từ phẩm
Thiên ân đến phẩm Đại Lão sư. Việc xem xét cầu phong, cầu thăng chức sắc
thực hiện theo Hiến chương quy định, đảm bảo quyền lợi cho chức sắc tu hành.
Về giữ giới, chức sắc, tu sỹ của Minh Sư đạo từ phẩm Sám hối trở lên bắt
buộc thực hiện nghiêm túc việc giữ giới, ăn chay trường. Hàng ngày, thực hành
cúng tứ thời, đọc kinh, trau đồi đạo hạnh, lập công bồi đức, tu học.
Ban Trị sự Trung ương giáo hội đã hướng dẫn các phật đường ổn định về
tổ chức; trao đổi với chính quyền địa phương về việc tranh chấp cơ sở thờ tự của
04 phật đường tại Bình Định, Đồng Tháp, Hà Nội; phối hợp với Ban Tôn giáo
thành phố Cần Thơ củng cố lại nhân sự Ban Trị sự của Nam Nhã Phật đường.
Ngoài ra, Ban Trị sự Trung ương vận động các phật đường chưa gia nhập giáo
hội đăng ký thủ tục với chính quyền địa phương xin công nhận tổ chức để chức
sắc, tu sỹ được đảm bảo quyền lợi tu hành.
Về xây dựng cơ sở thờ tự, giáo hội đã chú trọng nâng cấp, trùng tu các phật
đường. Nhiều phật đường của Minh Sư đạo đã trùng tu, xây mới ngày càng khang
trang. Tiêu biểu như: Kim Long Phật đường ở Khánh Hòa, Nam Hòa Phật đường ở
Khánh Hòa, Thiên Huê Phật đường ở Tiền Giang, Phổ Hòa Phật đường ở Tiền
Giang, Trọng Văn Phật đường ở TP. Hồ Chí Minh, Hòa Nam Phật đường ở Đà
Nẵng, Nam Tôn Phật đường ở Quảng Nam, Phổ Hiệp Phật đường ở Long An,…
198
2.3. Hoạt động xã hội của Giáo hội Phật đường Nam Tông Minh Sư đạo
Đây là một trong các nhiệm vụ quan trọng của giáo hội thực hiện theo
tinh thần lục hòa để phục vụ đạo pháp, phục vụ chúng sinh. Trong những năm
qua, giáo hội đã thực hiện tốt hoạt động từ thiện ở các phật đường như: nấu cơm
từ thiện, ủng hộ đồng bào bị thiên tai, giúp đỡ các hộ nghèo, quỹ đền ơn đáp
nghĩa,... Tiêu biểu như: Tổ Y tế Tuệ Tĩnh Đường tại Hòa Nam Phật đường ở Đà
Nẵng hằng năm khám chữa bệnh cho gần 3 ngàn lượt người, bốc thuốc hơn 8
ngàn thang, châm cứu cho trên 2 ngàn lượt người; Thiên Huê Phật đường nhận
nấu cơm từ thiện cho Bệnh viện Châu Thành tỉnh Tiền Giang mỗi năm chi gần
50 triệu đồng. Tổng số kinh phí hoạt động từ thiện của Minh Sư đạo trong 5 năm
trên 6 tỷ đồng23.
Hoạt động từ thiện đã thực hiện đúng tinh thần “giáo hóa chúng sanh, tu
chơn giải thoát” giúp đỡ người đạo lúc khó khăn, hoạn nạn, đồng thời tích cực
góp phần cùng xã hội giúp nâng đỡ tinh thần và vật chất cho người nghèo. Giáo
hội Phật đường Nam Tông Minh Sư đạo là tổ chức tôn giáo mới được thành lập
lại, đời sống của chức sắc, tu sỹ còn hạn chế nhưng với tinh thần đạo đức của
người tu hành vẫn thực hiện tốt hoạt động từ thiện.
6.3. Những vấn đề cần quan tâm đối với Minh Sư đạo hiện nay phục
vụ công tác thông tin, tuyên truyền
- Chức sắc, tín đồ Minh Sư đạo chủ yếu tu tịnh nên không thạo công việc
hành chính đạo. Trong quá trình công tác tôn giáo cần tăng cường hướng dẫn về
thủ tục hành chính, phổ biến các quy định của pháp luật đối với chức sắc, tín đồ
Minh Sư đạo.
- Chức sắc, chức việc, tu sỹ của Minh Sư đạo mặc trang phục áo dài truyền
thống màu đen, đội mũ màu đen, để râu tóc, kiến trúc cơ sở tôn giáo (phật đường)
gần giống với Phật giáo. Để nhận diện Minh Sư đạo lưu ý trên ban thờ có vòng vô
cực thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế và thờ Diêu Trì Kim Mẫu, Tam giáo.
- Với các hoạt động tôn giáo ở cơ sở thường xuyên quan tâm, vận động
chức sắc, tín đồ thực hiện theo quy định của pháp luật đồng thời quan tâm
hướng dẫn làm theo quy định.
23 Giáo hội Phật đường Nam Tông Minh Sư đạo (2018), Báo cáo tổng kết Đại hội nhiệm kỳ (2013-2018).
199
7. MINH LÝ ĐẠO
7.1. Khái quát chung về Minh Lý đạo ở Việt Nam
7.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Minh Lý đạo
Đầu những năm 1920, một số công chức, tư sản người Việt có tâm nghiên cứu, tìm hiểu giáo lý của ba tôn giáo: Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo. Trong quá trình tìm hiểu, họ được các Đấng Thiêng liêng dùng huyền cơ diệu bút chỉ dẫn thành lập một tôn giáo mới.
Ngày 23/12/1924, Minh Lý đạo - Tam Tông Miếu được thành lập do các vị: Âu Kiệt Lâm, Nguyễn Văn Xưng, Nguyễn Văn Đề, Lê Văn Ngọc, Nguyễn Văn Miết, Võ Văn Thạnh sáng lập. Năm 1927, Minh Lý đạo đã hoàn chỉnh giáo lý, giáo luật, hệ thống tổ chức, kinh sách, xây dựng cơ sở thờ tự.
Một số vị lập đạo theo phong trào cầu cơ chấp bút, được Đức Diêu Trì Kim Mẫu giáng cơ xây dựng Tam Tông Miếu. Tam Tông Miếu được xây dựng vào ngày 09/9/1926.
Từ năm 1965 đến năm 1975, Minh Lý đạo hoàn chỉnh bộ kinh “Minh Lý chơn giải” để bổ túc cho cuốn “Minh Lý học thuyết”. Ông Định pháp Minh Thiện đã dung hoà, tổng hợp giáo lý của Minh Lý đạo, hướng dẫn môn sanh tu học và xây dựng Hội thánh theo đúng chơn truyền chánh pháp của nền Đạo. Ngày 17/8/2007, Ban Tôn giáo Chính phủ cấp đăng ký hoạt động tôn giáo cho Minh Lý đạo - Tam Tông Miếu. Ngày 01/3/2008, Minh Lý đạo tổ chức Đại hội Môn sanh bầu Hội đồng Hội thánh và Ban Quản trị Hội thánh, thông qua Đạo quy và chương trình hành đạo nhiệm kỳ 2008-2012. Ngày 01/10/2008, Ban Tôn giáo Chính phủ có Quyết định số 195/TGCP-CĐ công nhận về tổ chức tôn giáo của Minh Lý đạo - Tam Tông Miếu.
7.1.2. Đặc điểm cơ bản của Minh Lý đạo
Đây là tôn giáo ra đời ở Việt Nam do một số người là công chức, tư sản người Việt sáng lập. Dựa trên đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo của các tôn giáo như Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo để thành lập tôn giáo Minh Lý đạo. Một số kinh sách và lễ nghi của Minh Lý đạo được đạo Cao Đài sử dụng.
Ngay sau khi thành lập, Minh Lý đạo đã tập trung hoàn chỉnh hệ thống giáo lý, giáo luật khá chặt chẽ, phân định thứ tự chức sắc, quy định của bậc tu rõ ràng. Cơ bút là đặc điểm tạo thành Minh Lý đạo, được các Đấng Thiêng liêng thông qua cơ bút chỉ dạy về giáo lý, giáo luật, cách thức tu hành, tổ chức hành đạo và kinh sách trong đạo. Nên cơ bút là yếu tố quan trọng lập ra tôn giáo Minh Lý đạo. Minh Lý đạo xây dựng hệ thống tổ chức giáo hội gồm cấp Trung ương có Hội đồng Hội thánh và Ban Quản trị Hội thánh, cấp cơ sở là Chi đạo. Hoạt động
200
của Minh Lý đạo chủ yếu là tu tịnh tại cơ sở. Hàng năm, Minh Lý đạo có khóa tu
tại Bác Nhã Tịnh đường, chức sắc, tín đồ thuần tuý tu hành không phổ độ nên số
lượng tín đồ ít.
Minh Lý đạo không thờ thánh tượng mà thờ bài vị, kinh sách dùng Việt ngữ
không dùng Hán ngữ để thuận lợi trong việc tu học và truyền bá tư tưởng tôn giáo.
7.2. Tình hình Minh Lý đạo ở Việt Nam
7.2.1. Số lượng chức sắc, chức việc, tín đồ, cơ sở tôn giáo của Hội thánh
Minh Lý đạo - Tam Tông miếu
- Chức sắc: khoảng 100
- Chức việc: 100
- Tín đồ: trên 650 tín đồ24
- Cơ sở tôn giáo: 04
7.2.2. Cơ cấu tổ chức của Hội thánh Minh Lý đạo - Tam Tông miếu - Hội thánh Minh Lý Đạo Tam Tông Miếu xây dựng tổ chức theo hai cấp: + Cấp Trung ương: Hội đồng Hội thánh,Viện Bảo đạo, Viện Hành đạo,
Long Hoa Học viện, Ban Quản trị, Cửu vụ.
+ Cấp địa phương: Bác Nhã Tịnh đường, Long Hải ngoại, Chi đạo và các
Cơ sở đạo (nơi chưa đủ điều kiện thành lập Chi đạo mới).
- Hội đồng Hội thánh là tổ chức đại diện cho Minh Lý đạo Tam Tông Miếu
trong quan hệ với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức tôn giáo và tổ
chức xã hội khác. Hội đồng Hội thánh ủy quyền cho Ban Quản trị là tổ chức
thường trực của Viện Hành đạo thực hiện nhiệm vụ hành chánh của Hội thánh.
Thành viên của Hội đồng Hội thánh là các vị chức sắc:Định pháp, Tổng lý,
Hiệp lý, Chưởng lý, Chủ tịch nữ giới, Tịnh chủ Bác Nhã Tịnh đường, một số Vụ
trưởng, Vụ phó, Quản lý Chi đạo.Số lượng thành viên Hội đồng Hội thánh không
quá 15 người.Các vị trong Hội đồng Hội thánh tại vị suốt đời.
Ngoài ra, Hội đồng Hội thánh có các vị cố vấn giúp Hội đồng Hội thánh
trong các việc hành chánh, tu tịnh theo đạo pháp, được Viện Bảo đạo chấp thuận
bậc tu thất chính thức, có cấp đạo từ Thanh Tịnh sư/cô trở lên, có tuổi đời từ 60
tuổi và tuổi đạo từ 20 năm trở lên.
Hội đồng Hội thánh có nhiệm vụ: chủ trì các sinh hoạt tín ngưỡng và giữ
chơn truyền Đạo pháp; phê chuẩn những chủ trương, đề nghị hành Đạo trọng
yếu của Hội thánh theo Hiến chương; Quyết định việc thành thành lập cơ sở đào
tạo của Hội thánh theo đề nghị của Viện Bảo đạo và Viện Hành đạo theo quy
định của pháp luật. Cơ sở đào tạo của Hội thánh có tên là Long Hoa Học viện;
xét duyệt và giải quyết các vấn đề, chương trình nghị sự từ Viện Bảo đạo hoặc
24 Hội thánh Minh Lý đạo Tam Tông Miếu (2020), Báo cáo kết quả hoạt động tôn giáo năm 2020.
201
Viện Hành đạo trình lên, kể cả việc khen thưởng (nêu gương) và kỷ luật trong
Đạo; hướng dẫn toàn thể môn sanh trong việc hành đạo theo chương trình do
Đại hội Môn sanh thông qua; duyệt xét, phê chuẩn những vị chức sắc trong Viện
Bảo đạo, Viện Hành đạo và công cử chức sắc, môn sanh.
- Viện Bảo đạo được Hội đồng Hội thánh lập ra, gồm các vị chức sắc:
Định pháp, Tổng lý, Hiệp lý, Chưởng lý/Chủ tịch nữ giới, Tịnh chủ, Vụ trưởng
Giáo lý.Đứng đầu Viện Bảo đạo là vị Định pháp/Tổng lý.
Viện Bảo đạo có nhiệm vụ: sưu tập giáo lý, kết tinh thành một chương học
thuyết đạo Minh Lý và hoàn thành bộ sử; hướng dẫn và giám sát các hoạt động
của Đạo về mặt đạo pháp; quản lý việc tiến tu của môn sanh, hướng dẫn môn
sanh lập công tu học, hành theo Bát Chánh Đạo, duyệt xét Nội qui tu tịnh huyền
công tại Bác Nhã Tịnh đường để giác ngộ và giải thoát; tổ chức lớp đào tạo, bồi
dưỡng về tu tịnh Huyền công. Mở các khóa tu để các chức sắc tu tập tồn dưỡng
đạo tâm; phê chuẩn nhân sự Ban Giám đạo của Bác Nhã Tịnh đường; đề nghị
lên Hội đồng Hội thánh thăng thưởng và kỷ luật môn sanh các cấp.
- Viện Hành đạo được Hội đồng Hội thánh lập ra gồm các vị chức sắc:
Tổng lý, Hiệp lý, Chưởng lý/Chủ tịch nữ giới, Trưởng Ban Quản trị, một số Vụ
trưởng, Vụ phó các Vụ, Quản lý Chi đạo. Số lượng không quá 15 người; đứng
đầu Viện Hành đạo là vị Tổng lý/Hiệp lý.
Viện Hành đạo có nhiệm vụ: tổ chức chăm lo mọi việc về phương diện
hành chánh của Hội thánh; quản lý và điều hành các công việc của Ban Quản trị,
Cửu Vụ và các Chi đạo.
- Long Hoa Học viện được Hội đồng Hội thánh lập ra. Lãnh đạo Học Viện
là các vị chức sắc từ cấp Thanh Tịnh sư/cô trở lên, gồm: Viện trưởng, Viện phó
và các thành viên. Số lượng gồm 9 người.
Long Hoa Học viện có nhiệm vụ: xây dựngchương trình đào tạo, hướng
dẫnchức sắc, môn sanh, tín đồ trở thành tu sĩ, giáo sĩ, thừa phụng cơĐạo; tổ chức
đào tạo, tuyển sinh theo yêu cầu hành đạo của Hội thánh; xây dựng đội ngũ
giảng viên theo tiêu chí của Hội thánh đáp ứng khả năng giảng dạy và nghiên
cứu; đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, môn sanh, tín đồ học tập giáo lý, giáo luật,
kiến thức tôn giáo thuộc Hội thánh Minh Lý Đạo Tam Tông Miếu; đáp ứng nhu
cầu học tập kiến thức văn hóa, xã hội (ngoại ngữ, tin học phổ thông . . .), tôn
giáo của chức sắc, môn sanh, tín đồ và những người quan tâm, nghiên cứu, tìm
hiểu về đạo pháp và tôn giáo.
- Long Hải ngoại do Hội đồng Hội thánh lập ra. Lãnh đạo Long Hải Ngoại
gồm các vị chức sắc từ cấp Thanh Tịnh sư/cô trở lên, gồm: Quản lý, Phụ tá và
thành viên. Số lượng từ 5 người đến 9 người.
202
Long Hải ngoại là tổ chức thuộc Hội thánh có nhiệm vụ: quản lý về mặt đạo
pháp các Chi đạo ở hải ngoại; tiếp xúc với chính quyền sở tại về những việc liên
quan đến hoạt động tôn giáo của các Chi đạo tại hải ngoại; chịu trách nhiệm trước
Hội đồng Hội thánh về việc hướng dẫn chức sắc, môn sanh, tín đồ Minh Lý Đạo
tu hành tại hải ngoại theo quy định của Hội thánh và pháp luật tại nước sở tại.
- Ban Quản trị do Đại hội Môn sanh bầu ra. Nhiệm kỳ của Ban Quản trị là
5 năm. Ban Quản trị gồm 01 Trưởng ban, 02 Phó Trưởng ban (nam/nữ), 02 ủy
viên và 02 thành viên dự khuyết, 2 thành viên dự khuyết được quyền tham dự
các buổi họp của Ban Quản trị Hội thánh nhưng không được quyền biểu quyết.
Tất cả thành viên đều từ cấp Tâm tịnh sư/cô trở lên.
Ban Quản trị là tổ chức thường trực của Viện Hành đạo về hành chánh
giữa các kỳ hội nghị thường niên, có nhiệm vụ: tiếp xúc với các cấp chính quyền
trong nước để theo dõi và cập nhật các quyết định, chỉ thị có liên quan đến tôn
giáo nhằm đưa hoạt động Hội thánh theo đúng quy định của pháp luật; soạn thảo
và trình Hội Đồng Hội thánh phê duyệt những vấn đề liên quan đến hoạt động
và quyền lợi của Hội thánh; tham gia điều đình với các đối tác ngoài xã hội
nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền lợi chung của Hội thánh khi
được ủy nhiệm.
- Cửu vụ (09 Vụ) do Hội đồng Hội thánh lập ra. Lãnh đạo các Vụ là các vị
chức sắc từ cấp Thanh Tịnh sư/cô trở lên, gồm: Vụ trưởng, Vụ phó. Mỗi Vụ có
số lượng nhân sự từ 5 người đến 19 người.
Cửu vụ là các tổ chức chuyên môn thuộc Hội thánh có nhiệm vụ:
+ Lễ nhạc vụ: chăm lo các chương trình lễ cúng tại Thánh sở hay tại tư gia
các môn sanh khi hữu sự. Hướng dẫn Lễ bái, sinh hoạt tín ngưỡng cho các Chi
đạo theo đúng chơn truyền.
+ Thánh hóa vụ: sắp đặt chương trình cho các lớp học dạy nghề thuộc về
kỹ thuật, ngoại ngữ, công nghệ thông tin. Hướng dẫn, chăm sóc và khuyến học
con em bổn đạo, Thanh Thiếu Nhi Minh Lý, đào luyện nhân tài có ích cho Đạo
sau này.
+ Hòa giải vụ: giải quyết, hòa giải các thắc mắc, bất bình để giữ niềm hòa
ái giữa các môn sanh trong Đạo.
+ Tư dưỡng vụ: quản lý, tạo lập tài sản (gồm động sản và bất động sản),
mua sắm vật tư, vật dụng hành đạo, tu bổ, xây dựng bất động sản, phụ trách ẩm
thực ở Chùa. Chăm sóc, nuôi dưỡng con em bổn đạo, tập thể Thanh Thiếu Nhi
Minh Lý.
+ Nội chánh vụ: có nhiệm vụ quản lý toàn bộ Đạo sự về hành chánh và tín đồ,
môn sanh.
203
+ Giáo lý vụ: tổ chức các lớp lễ nghi, giáo lý để môn sanh tu học và thi lên cấp.
+ Phước thiện vụ: lo việc cứu trợ phước thiện xã hội trong và ngoài Đạo.
+ Ngoại giao vụ: tiếp xúc, liên giao với các tôn giáo bạn.
+ Tài Chánh vụ: quản lý các tài sản của Hội thánh (động sản và bất động sản).
Trong trường hợp do điều kiện khách quan không thể đạt được theo yêu
cầu của thành lập Cửu Vụ thì Hội đồng Hội thánh có thể ra quyết định tạm thời
quy định thành phần Cửu Vụ gồm ba (03) Vụ: Nội Chánh, Tư Dưỡng, Giáo Lý
và sáu (06) tiểu ban trực thuộc các Vụ trên.
- Chi đạo do Hội đồng Hội thánh thành lập. Lãnh đạo Chi đạo là vị chức
sắc từ cấp Thanh Tịnh sư/cô trở lên và do Viện Hành đạo đề nghị lên Hội đồng
Hội thánh quyết định. Lãnh đạo Chi đạo gồm: Quản lý Chi đạo, Phụ tá và các ủy
viên. Số lượng từ 5 người đến 9 người.
Chi đạo là tổ chức trực thuộc Viện Hành đạo có nhiệm vụ:1. quản lý nhân
sự hành đạo tại địa phương; hướng dẫn và theo dõi các cuộc sinh hoạt, lễ bái tại
Chi đạo; chủ trì các sinh hoạt tín ngưỡng tại Thánh miếu địa phương và giữ
chơn truyền Đạo pháp; phổ biến các chương trình hành đạo của Hội đồng Hội
thánh và Viện Hành đạo đến chức sắc, môn sanh, tín đồ thuộc Chi đạo; giúp
Viện Hành đạo nắm vững tình hình đạo sự và nguyện vọng của môn sanh tại địa
phương; tạo điều kiện cho các môn sanh tương trợ lẫn nhau.
- Cơ sở đạo do Hội đồng Hội thánh quyết định thành lập. Lãnh đạo Cơ sở
đạo là chức sắc từ cấp Tâm tịnh sư/cô trở lên và do Viện Hành đạo đề nghị lên
Hội đồng Hội thánh quyết định. Lãnh đạo Cơ sở đạo gồm có Trưởng Cơ sở đạo,
Phụ tá. Số lượng từ 3 người đến 5 người.
Cơ sở đạo có nhiệm vụ: tổ chức thực hiện chương trình hoạt động của Cơ
sở theo Hiến chương và giới luật của Hội thánh; quản lý chức sắc, môn sanh, tín
đồ sinh hoạt tại Cơ sở; chăm lo hoạt động tu học của chức sắc, tu sĩ tại Cơ sở
theo quy định của Minh Lý đạo và pháp luật Nhà nước.
7.2.3. Thực trạng hoạt động tôn giáo của Hội thánh Minh Lý đạo - Tam
Tông Miếu
Về nghi lễ, Minh Lý đạo thực hiện theo truyền thống và giữ gìn nền nếp
qua lễ bái, thờ phụng. Các buổi sinh hoạt nghi lễ đảm bảo theo chương trình,
quy định của Hội thánh, có sắp xếp phân công nhiệm vụ cho những người ở
trong cơ sở và bổn đạo ở gần mỗi ngày bốn thời dâng hương cầu nguyện, giữ
các thời tu tịnh Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Mỗi tháng, hai ngày Sóc - Vọng, thiết lễ
cúng cầu an cho bá tánh. Mỗi năm bốn mùa, tổ chức bốn khóa tu tịnh: Xuân
phân, Thu phân tại Thánh sở Tam Tông Miêu ở TP. Hồ Chí Minh và Hạ chí,
Đông chí tại Bác Nhã Tịnh Đường ở Long Hải, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Các lễ
204
cúng Thánh đản, kỷ niệm, tưởng niệm truyền thống thực hiện theo chương trình
hành đạo đã đăng ký với chính quyền các cấp.
Về tu học, Hội thánh thường xuyên tổ chức các lớp học giáo lý tại Thánh
sở Tam Tông Miếu nhằm giúp môn sanh Minh Lý đạo thấm nhuần tinh hoa giáo
lý của Tam giáo (Thích - Lão - Nho) để theo đó mà tu hành, độ mình, độ thế
(qui nguyên Tam giáo). Hiện nay, mỗi tuần có các lớp học với đề tài đa dạng
như: Giới luật, các bài giảng về kinh sách Minh Lý (Minh Lý yếu giải, Minh Lý
học thuyết, Minh Lý Chơn giải, Dưỡng Chơn tập, Đạo học, Dịch học, lý thuyết
tu tịnh, và kinh sách về Tam giáo,…). Lớp học buổi tối: tuần học ba buổi vào
thứ Hai, Tư, Sáu, Bảy từ 19 giờ 30 phút đến 21 giờ. Lớp học ban ngày: tuần học
một buổi vào ngày Chủ nhật từ 8 giờ đến 10 giờ.
Về hoạt động giáo dục Thanh thiếu nhi được Hội thánh Minh Lý đạo chú
trọng, đặc biệt là thế hệ trẻ (con em của môn sanh) được chăm lo về đời sống. tu
dưỡng đạo đức nhằm tạo môi trường sinh hoạt cộng đồng, biết sống có ích cho
xã hội, ý thức hiếu nghĩa với gia đình, ông bà, cha mẹ,… Từ những năm đầu
thành lập, Hội thánh đã có Đội Thanh thiếu niên Minh Lý đạo. Sau này, do khó
khăn về nhân lực nên hoạt động này bị gián đoạn. Đến nay, Hội thánh đang từng
bước khôi phục hoạt động giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ qua việc tập hợp các
em (con em của môn sanh, thiện tín) trong các cuộc vui chơi có tổ chức (như Tết
Trung thu, Tết Thiếu Nhi, trại hè,…) để hướng dẫn các em lối sống tập thể, kỹ
năng sinh hoạt, sống vì mọi người, qua đó giáo dục các em lòng nhân ái, sống có
đạo đức theo truyền thống tốt đẹp của cha ông,... Hiện nay, Minh Lý đạo đã tập
họp đưa vào sinh hoạt thường xuyên trên 40 em có độ tuổi từ 6 tuổi đến 17 tuổi.
Hội thánh quan tâm nâng cao chất lượng hoạt động của thư viện, tạo điều
kiện cho môn sanh, thiện tín nghiên cứu kinh sách Minh Lý Đạo và Tam giáo.
Tài liệu, kinh sách được sắp xếp, kết tập lại ngày một khoa học và từng bước vi
tính hóa. Ngoài ra, Hội thánh còn hợp tác với chương trình chung tay ấn tống
kinh sách giữa đạo Cao đài và Thánh sở Tam Tông Miếu tại TP. Hồ Chí Minh.
Về ngoại giao, thực hiện tinh thần bình đẳng, cộng tác, hòa ái, Hội thánh
Minh Lý đạo giữ mối giao hảo, trao đổi Đạo pháp với các tôn giáo bạn nhằm giữ
gìn và phát huy tinh hoa cội nguồn của Đạo (quy nguyên Tam giáo). Hội
thánhthường xuyên cử các đoàn đại biểu tham gia các cuộc lễ tại các cơ sở tôn
giáo bạn khi được mời. Đồng thời tham gia vào hoạt động giao lưu hành đạo của
các Hội thánh và tổ chức Cao Đài trong nền Đại Đạo, trở thành một trong những
thành viên của hoạt động giao lưu này.
Những năm tới Minh Lý đạo tiếp tục nâng cao chất lượng về tổ chức Hội
thánh đảm bảo việc điều hành, hoạt động theo hiến chương và qui định của pháp
205
luật; Tổ chức các khóa đào tạo chức sắc và tự học tập để nâng cao năng lực,
trình độ cho chức sắc Hội thánh; Giữ vững và phát huy các thành quả về nghi lễ,
tu học, tài chánh, ngoại giao theo đúng truyền thống của Minh Lý đạo; Củng cố
tổ chức tập thể Thanh thiếu niên Minh Lý đạo theo đúng chủ trương của Hội
đồng Hội thánh và khuôn khổ luật pháp Nhà nước nhằm giáo dục các em sống vì
mọi người, có lòng nhân ái, có đạo đức theo truyền thống tốt đẹp của dân tộc;
Về hoạt động phước thiện: Tiếp tục phát huy tinh thần nhân ái nhằm chia sẻ
những khó khăn của đồng bào, vận động môn sanh, thiện tín hưởng ứng các
cuộc vận động của Mặt trận Tổ quốc các cấp trong hoạt động từ thiện; Ban
Phước Xã, Phòng khám từ thiện hợp tác với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tôn
giáo bạn, thực hiện việc cứu tế và chữa trị cho bệnh nhân nghèo.
7.2.4. Hoạt động xã hội của Hội thánh Minh Lý đạo - Tam Tông Miếu
Với mục đích tu hành để tự độ, độ tha, công việc phước thiện của Minh
Lý đạo luôn được quan tâm và hoạt động tích cực. Hội thánh có lập Ban Phước
Xã để thực hiện các công việc liên quan đến hoạt động từ thiện25.
Năm 2011, Hội thánh đã khai trương Phòng khám từ thiện tại Thánh sở
Tam Tông Miếu, số 82 Cao Thắng, quận 3, TP. Hồ Chí Minh. Với mục đích tìm
bệnh, khám bệnh, chẩn đoán và trị liệu cho nhơn sanh không phân biệt đối tượng
và địa phương26. Bên cạnh đó, Phòng khám còn hỗ trợ Hội Từ thiện Chí Tâm,
khám chữa bệnh cho Chi hội Người cao tuổi “Ngôi nhà hạnh phúc”, hỗ trợ Hội
Từ thiện Phú Sơn, tỉnh Lâm Đồng và các chi hội khác về thuốc, dụng cụ y tế.
7.3. Những vấn đề cần quan tâm đối với Minh Lý đạo hiện nay phục
vụ công tác thông tin, tuyên truyền về tín ngưỡng, tôn giáo
25 Theo Hội thánh Minh Lý đạo Tam Tông Miếu (2018), Báo cáo tổng kết hoạt động nhiệm kỳ (2013-2018): Trong nhiệm kỳ (2013-2018), Hội thánh Minh Lý đạo đã tham gia và ủng hộ, quyên góp vào hoạt động từ thiện với tổng số tiền là: 2.158.128.000đồng, để chi cho một số việc như sau: Đóng góp tiền thông qua Ủy ban Mặt trận Tổ quốc quận 3, TP. Hồ Chí Minh số tiền 8.726.000 triệu đồng nhằm giúp đỡ nạn nhân chất độc màu da cam; Trợ giúp Trung tâm Bảo trợ Xã hội tỉnh Long An với nhiều lần đến thăm, tặng quà, tổ chức khám bệnh tại xã Lợi Bình Nhơn cho hơn 400 lượt người; Vận động môn sanh, thiện tín đóng góp 1.277.100.000 đồng nhằm cứu trợ, chia sẻ những khó khăn của đồng bào bị thiên tai, bão lụt,... tại miền Trung; Hàng năm tổ chức phát gạo, mì gói,… vào các dịp lễ Tết, Rằm tháng 7 cho đồng bào nghèo. Tổng số tiền chi cho nhiệm kỳ qua là trên
550.267.000 triệu đồng; Giúp đỡ 05 trẻ em nghèo bị bệnh tim bẩm sinh phải tiến hành mổ tim cấp cứu với số tiền là 246.950.000 triệu đồng; Tài trợ gia đình các môn sanh gặp khó khăn (bị đau ốm hay tai nạn), người già yếu neo đơn 46.385.000 đồng; Trợ cấp học phí cho con em bổn đạo học giỏi có hoàn cảnh khó khăn: 28.700.000 đồng.
26 Phòng khám mở cửa hoạt động từ 14 giờ đến 16 giờ mỗi chiều từ thứ hai đến thứ sáu trong tuần, với sự cộng tác của 7 vị bác sĩ, 4 dược sĩ, 7 lương y, 3 điều dưỡng và 10 thiện nguyện. Bằng nguồn tài trợ, đóng góp của các nhà hảo tâm, của tất cả môn sanh Minh Lý đạo và của tín đồ các tôn giáo bạn, tổng kết trong 2 năm hoạt động (2011-2013), Phòng khám đã chi 372.835.000 đồng để sửa chữa phòng khám và phát thuốc miễn phí cho 5.859 lượt bệnh nhân, châm cứu bấm huyệt cho 5.077 lượt bệnh nhân, đo ECG cho 103 người, độ loãng xương cho 310 người và siêu âm tổng quát cho 195 người. Ngoài ra, Phòng khám đã đến khám bệnh cho các bệnh nhân nghèo tại xã Lợi Bình Nhơn, thành phố Tân An, tỉnh Long An vào tháng 4-2012 cho 257 bệnh nhân. Tháng 7-2012, được sự tài trợ của Ngân hàng HSBC, Phòng khám lại tiếp tục đến xã Lợi Bình Nhơn khám cho 602 bệnh nhân.
206
- Hằng năm, chức sắc, tín đồ Minh Lý đạo về cơ sở tại Chi đạo ở Bác Nhã
Tịnh đường để tu tịnh, liên quan đến nhiều chức sắc thuộc Hội thánh. Đây là
hoạt động tôn giáo tại cơ sở nhưng có mối quan hệ với Hội thánh nên có đông
chức sắc, tín đồ về tu tịnh nên cần tạo điều kiện cho Minh Lý đạo hoạt động tôn
giáo theo quy định của Hiến chương.
- Minh Lý đạo là tôn giáo có phạm vi hoạt động ở 3 tỉnh, thành phố, số
lượng tín đồ không nhiều nhưng chức sắc có trình độ học vấn cao.
- Hiện nay, Minh Lý đạo đang tham gia hoạt động liên giao hành đạo giữa
các phái Cao Đài, là một hoạt động tôn giáo tiến bộ thể hiện tinh thần đoàn kết
tôn giáo hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Dương Ngọc Tấn, Trần Thị Minh Thu (đồng chủ biên) (2015), Nghiên
cứu Hồi giáo và Hồi giáo ở Việt Nam, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
- Đinh Văn Hạnh (1999), Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa của người Việt Nam bộ
(1867-1975), Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Hội đồng Tinh thần tôn giáo Baha’i Việt Nam (2012): Tôn giáo Baha’i -
Giới thiệu tổng quát, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
- Nguyễn Tấn Đắc (2001), Cộng đồng Hồi giáo (Islam) ở Thành phố Hồ
Chí Minh và mối quan hệ với khu vực Đông Nam Á, Nhà xuất bản Thành phố
Hồ Chí Minh.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Khi tiếp xúc với người Hồi giáo cần lưu ý những đặc điểm gì?
2. Hãy nêu những đặc điểm cần lưu ý trong tuyên truyền về yếu tố dân tộc
- tôn giáo trong cộng đồng Chăm Bà La Môn?
3. Những đặc điểm của tôn giáo Baha’i trong việc đảm bảo dân chủ, bình
đẳng giới cần quan tâm trong công tác tuyên truyền?
4. Những điểm nổi bật của Phật hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa trong các hoạt
động gắn bó, đóng góp đối với đất nước cần được tuyên truyền, lan tỏa?
207
Chuyên đề 9
KHÁI QUÁT VỀ TÍN NGƯỠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÍN NGƯỠNG
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm tín ngưỡng
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định: Tín ngưỡng là niềm tin của con
người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán
truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng.
1.1.2. Khái niệm liên quan đến tín ngưỡng
Theo Luật tín ngưỡng, tôn giáo, Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Di sản văn hóa, một số khái niệm liên quan đến tín
ngưỡng được quy định như sau:
Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thờ cúng tổ tiên, các biểu tượng linh
thiêng; tưởng niệm và tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng; các
lễ nghi dân gian tiêu biểu cho những giá trị lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội.
Lễ hội tín ngưỡng là hoạt động tín ngưỡng tập thể được tổ chức theo lễ
nghi truyền thống nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của cộng đồng.
Cơ sở tín ngưỡng là nơi thực hiện hoạt động tín ngưỡng của cộng đồng
như đình, đền, miếu, nhà thờ dòng họ và những cơ sở tương tự khác.
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc
cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được
lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình
diễn và các hình thức khác.
Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia.
Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học.
1.2. Một số đặc điểm của tín ngưỡng
1.2.1. Tín ngưỡng xuất hiện từ xa xưa
Từ thời cổ đại, các bậc hiền triết đã cho rằng sự may mắn hay rủi ro trong đời một con người luôn gắn liền với trời - vũ trụ bao la và đất - phương vị nhân bản “Thiên - Địa - Nhân” là tổng thể tuyệt đối trong quan hệ của con người với
208
thế giới xung quanh. Theo sự lý giải ấy, thì “Thiên” là số mệnh, do các bậc thần
linh cai quản và chi phối đời người. “Địa” là vận may, phụ thuộc vào quan hệ
nhân quả trong hành vi của con người, là phong thủy, gia cư. “ Nhân” là dù số
mệnh thế nào chăng nữa vẫn cần phải tôn kính thần linh và nỗ lực phấn đấu mới
phát huy được những phương diện tích cực của con người để đạt được thành
công. Chừng nào khoa học chưa chứng minh được một cách thuyết phục những
hiện tượng huyền bí của Thiên, của Địa thì chừng đó lý thuyết về “ Thiên - Địa-
Nhân” vẫn là một trong những yếu tố cơ bản duy trì sự tồn tại của tín ngưỡng
con người.
Tín ngưỡng của người Việt được hình thành rất sớm, nhiều loại hình tín
ngưỡng có từ hàng nghìn năm, trải qua nhiều chế độ xã hội Việt Nam, có lúc
thăng lúc trầm nhưng vẫn tồn tại và phát triển. Theo tín ngưỡng và tham gia hoạt
động tín ngưỡng là một trong những lựa chọn ưu tiên của hầu hết các tầng lớp
Nhân dân ta vì tham gia hoạt động tín ngưỡng vừa đáp ứng nhu cầu tâm linh
(thờ cúng tổ tiên, anh hùng dân tộc; thờ “ma” bảo hộ đời sống; thờ cúng thần
thánh phù trợ bản thân và gia đình; cầu cúng cho quốc thái dân an, mùa màng
tươi tốt, người người khỏe mạnh, là những nhu cầu chính đáng) vừa không bị
ràng buộc nặng nề, khắt khe bởi giáo lý, giáo luật, hệ thống tổ chức như hoạt
động tôn giáo.
1.2.2. Sự đa dạng của đối tượng thờ cúng
Hoạt động kinh tế của người Việt cổ chủ yếu là nông nghiệp lúa nước,
nên lao động, sản xuất lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên, do
đó, người Việt rất tôn trọng, sùng bái tự nhiên, dẫn đến thần thánh hóa các hiện
tượng tự nhiên như mây, mưa, sấm, chớp,... và thờ cúng các hiện tượng này như
các vị thần để cầu mong cho mưa thuận gió hòa và mùa màng bội thu, hệ thống
các nhiên thần được hình thành rất sớm.
Bên cạnh đó, nền kinh tế tiểu thương, kinh tế phụ gia đình như trồng dâu,
nuôi tằm, dệt lụa, thuê thùa, đan lát,... đều do người phụ nữ đảm trách, vai trò
của người phụ nữ trở nên rất quan trọng trong gia đình. Cùng với đó, trong tâm
thức của người Việt, cội nguồn của ba yếu tố Sinh - Dưỡng - Dục đều xuất phát
từ người Mẹ. Tâm lý coi trọng Mẹ, người Việt đi đến những triết lý sống thiên
về Mẹ mà giới nghiên cứu văn hoá gọi đó là Mẫu tính trong văn hoá và ý thức
mẫu hệ. Với khuynh hướng văn hóa xã hội thiên về “Mẫu tính” ấy, hệ quả tất
yếu của nó là hình thành một hệ thống các tín ngưỡng thờ Nữ thần mà trong đó
điển hình nhất là tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.
209
Đối tượng thờ cúng trong hệ thống các loại hình tín ngưỡng khá phong
phú, đa dạng và mang đậm nét dung hợp, hòa đồng, bình đẳng và phối thờ các
loại thần linh với nhau. Ở những nơi thờ tự của tín ngưỡng như đình, đền, miếu,
phủ, quán, từ đường, nhà thờ họ,…chúng ta đều thấy hiện tượng thờ phối đan
xen (tuy mức độ có khác nhau) như: ở Đền Ngọc Sơn thờ cả Quan Công lẫn Đức
Thánh Trần. Văn Miếu thờ Khổng Tử, nhưng còn thờ phối thêm Nhan Tử, Tăng
Tử, Tử Tư, Mạnh Tử (tứ phối ở hai bên tả, hữu). Phía sau còn thờ 72 học trò của
Khổng tử gọi là “thất thập nhị hiền”. Đến thế kỷ XIV, đời Trần Nghệ Tông đưa
thêm Trương Hán Siêu, Đỗ Tử Bình và Chu Văn An vào phối thờ tại Văn miếu
và không ít những người đỗ đạt cao được lưu danh, công trạng trong khuôn viên
thờ Khổng Tử. Hiện tượng phối thờ các loại thần linh đan xen không chỉ bao
gồm các thần thánh của loại hình tín ngưỡng mà cả các đối tượng thờ cúng của
các tôn giáo như Phật, Bồ tát, Chúa Kitô,...
Các đối tượng thần linh được thờ cúng trong các loại hình tín ngưỡng của
người Việt có cả phúc thần và hung thần. Phúc thần là những vị thần được Nhân
dân tôn thờ, đề cao bởi họ là những vị thần mang tính thiện, những anh hùng dân
tộc có công dẹp giặc, giữ nước, những vị khoa bảng đỗ đạt, những danh y cứu
người,… được triều đình sắc phong hoặc dân gian phong thần. Còn Hung thần là
những vị thần “bất hảo” thường được diễn tả bằng hình ảnh các vị thần có bộ
mặt xấu xí, hung ác, lạnh lùng, mang tính xấu hay quỷ dữ, gieo tai họa, phá hoại
mùa màng, làm chuyện ác để hại người, hành nghề không thiện như ăn trộm,
dâm thần, không được triều đình phong thần nhưng dân gian vẫn thờ cúng.
Các đối tượng thần linh được thờ cúng trong các loại hình tín ngưỡng của
người Việt có cả nhân thần và nhiên thần, giữa nhân thần và nhiên thần có sự
giao thoa, thâm nhập lẫn nhau hoặc nhân thần hóa và nhiên thần hóa diễn ra
song song. Có những vị thần thiên nhiên như thần sấm, thần mây, thần mưa, bà
thủy, bà hỏa, chúa sơn trang,… được nhân thần hóa để từ chỗ sùng bái một hiện
tượng tự nhiên chung chung thành sùng bái một cá thể với một nguồn gốc, tên
tuổi và lý lịch nhân thế rõ ràng. Còn các nhân thần thường là các nhân vật lịch
sử có thật như: hoàng thái hậu, hoàng hậu, công chúa và những người phụ nữ có
công với nước; các bậc anh hùng, liệt sĩ, kể cả các danh nhân văn hoá, các vĩ
nhân của thời đại, được tôn vinh và phụng thờ, và các vị nhân thần này đôi khi
được nhiên thần hóa theo mô thức tạo nên một huyền thoại thần bí về sự ra đời,
210
lúc tuổi nhỏ của họ và khi trưởng thành, lập công trạng xong thì “hóa” và “thăng
thiên”, để cho các vị thần đó trở nên linh thiêng hơn.
Tín đồ các tôn giáo hiện nay ở Việt Nam có khoảng 26 triệu người chiếm
27% dân số. Song, việc thực hành nghi thức thờ cúng và hướng đến tín ngưỡng
thì có ở hầu hết người Việt Nam (trên 95% dân số) trong đó, tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên là loại hình tín ngưỡng tồn tại phổ biến và lâu bền nhất, đã trở thành
một nét văn hóa chủ đạo của người Việt Nam. Nếu tôn giáo chỉ đáp ứng được
nhu cầu tâm linh của một bộ phận người dân là tín đồ của tôn giáo đó thì thờ
cúng tổ tiên đáp ứng nhu cầu tâm linh của đại đa số người Việt Nam. Thờ cúng
tổ tiên là một giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống, đã và đang có ảnh hưởng
tích cực tới việc củng cố khối đoàn kết dân tộc trong công cuộc bảo vệ và xây
dựng đất nước.
1.2.3. Đề cao yếu tố nữ trong sinh hoạt tín ngưỡng
Việc thờ nữ thần, thờ Mẫu không chỉ có ở Việt Nam mà là hiện tượng phổ
biến trong tín ngưỡng của nhân loại ngay từ thời kỳ thị tộc Mẫu hệ. Có Mẫu là
nhiên thần, có Mẫu là nhân thần, có Mẫu tạo dựng nên giống nòi, lại có Mẫu có
công dựng nước; có Mẫu xuất hiện từ huyền thoại nhưng lại có Mẫu là con
người lịch sử cụ thể. Có Mẫu xuất thân từ gia đình quyền quí, có Mẫu được tôn
vinh chỉ là người bình dân nghèo khổ, Mẫu thì lo đuổi giặc giúp dân, có Mẫu lại
chăm lo mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Tên gọi tục thờ Mẫu là điển
hình. Cai quản miền trời là mẫu Thượng thiên, miền rừng núi là Mẫu Thương
ngàn, miền sông nước là mẫu thoải và miền đất là Mẫu địa phủ. Mặc dù điện
thần thờ Mẫu được kết cấu theo hai dòng cân đối: một bên là nam thần và một
bên là nữ thần nhưng trung tâm của điện thần này bao giờ cũng là các Mẫu.
Trong khi tín ngưỡng phồn thực của nhiều dân tộc trên thế giới chỉ thờ
sinh thực khí nam thì tín ngưỡng phồn thực ở Việt Nam còn thờ cả sinh thực khí
nữ thậm chí có những nơi chỉ thờ sinh thực khí nữ không thờ sinh thực khí nam.
Điều đó phản ánh tâm thức trọng âm, nữ, mẹ của người Việt trong việc nhìn
nhận vai trò của người phụ nữ trong quá trình tái sản xuất ra con người. Trong
tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc cũng có khá nhiều thần là phụ nữ và hết sức đa
dạng và phong phú. Trước hết, đó là các vị nữ anh hùng kiệt xuất, tên tuổi, có
công trạng so sánh ngang hàng với các vị nam (như Hai Bà trưng, Bà Triệu và
các nữ tướng của các bà, như nguyên phi Ỷ Lan,…) nhưng cũng có đối tượng
thứ hai là các bà mẹ, người vợ của các vị anh hùng dân tộc,…
211
Như vậy, yếu tố âm, yếu tố nữ được thể hiện nhiều hình, nhiều vẻ trong
hệ thống tín ngưỡng ở Việt Nam. Có khi họ là nhiên thần: là mẹ đất, mẹ rừng,
mẹ biển, mẹ của sự sinh sôi nảy nở; nhưng có khi họ là những con người có thật
trong lịch sử,... Song dù là nhiên thần hay nhân thần thì tất cả họ đều được Nhân
dân ở mọi miền đất nước tôn kính thờ phụng. Ngày nay, đi bất cứ đâu trên đất
nước Việt Nam, chúng ta cũng bắt gặp những nơi thờ các vị thần thuộc giới nữ.
Ngay cả trong các chùa là nơi thờ Phật, người dân Việt Nam cũng không quên
dành một gian nhỏ để thờ Mẫu. Tất cả điều này đã tạo nên một bức tranh tín
ngưỡng ở Việt Nam mang đậm yếu tố nữ, đây là một đặc điểm nổi bật của tín
ngưỡng ở Việt Nam, khác với rất nhiều nước trên thế giới.
1.2.4. Sự gắn bó, ảnh hưởng đối với các tôn giáo ở Việt Nam
Tín ngưỡng và tôn giáo có mối quan hệ hữu cơ, đều là một thực thể biểu
hiện niềm tin vào “đấng thiêng liêng” chung của con người. Về bản chất, tín
ngưỡng “là tiền đề, là cốt lõi tinh thần của tôn giáo”. Về hình thức, tín ngưỡng
chính là “niềm tin tôn giáo”, khi tín ngưỡng phát triển đến một mức độ nào đó
có thể thành tôn giáo. Điểm khác ở chỗ, các tôn giáo hướng tới sự giải thoát ở
thế giới bên kia, còn tín ngưỡng thì cầu đạt mong muốn đời thường cho chính
cuộc sống hiện tại nơi trần thế của cá nhân, gia đình và cộng đồng.
Tín ngưỡng ở Việt Nam có ảnh hưởng rất lớn đến tôn giáo, nhất là đối với
các tôn giáo từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam như Phật giáo, Hồi giáo, Công
giáo,... Tín ngưỡng góp phần làm cho các tôn giáo này thay đổi để phù hợp với
đặc điểm văn hóa, tín ngưỡng của người Việt Nam.
1.3. Vai trò của tín ngưỡng đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội
1.3.1. Vai trò cố kết cộng đồng
Tín ngưỡng có khả năng liên kết những người cùng niềm tin. Họ có chung
một niềm tin, cùng bị ràng buộc bởi quy định của tín ngưỡng đó, cùng thực hiện
một số nghi thức và những điểm tương đồng khác. Sự liên kết giữa các cộng
đồng cùng tín ngưỡng khá chặt chẽ và lâu bền. Chức năng này là kết quả hiện
thực hoá vai trò “liên kết tinh thần” giữa những người có cùng một niềm tin nói
chung, có cùng một tín ngưỡng dân gian nói riêng. Con người là một sinh vật xã
hội, sự liên kết luôn là một đòi hỏi của một xã hội (kể cả ở tầm cỡ tổng quát nhất
như một dân làng, một chòm xóm, một gia đình) để có được một sức mạnh cần
thiết cho đời sống của cộng đồng. Chức năng liên kết của tín ngưỡng dân gian
được quyết định bởi sự thống nhất giữa những người có cùng một loại đối tượng
212
tin. Nói cách khác, những người có cùng đức tin vào lực lượng siêu nhiên bao
giờ cũng liên kết với nhau nhờ niềm tin chung vào lực lượng siêu nhiên đó.
Thực tế cho thấy một khi có cùng đối tượng tin, người ta có thể liên kết với nhau
đôi khi rất chặt chẽ trên nhiều phương diện ngay cả khi họ mâu thuẫn, xung đột
với nhau ở nhiều địa phương khác.
Trong hoạt động tín ngưỡng, con người có những quan hệ thân mật và sự
giao tiếp phóng khoáng; con người được tái sinh bằng sự tái hoà nhập cộng
đồng. Nhiều cung bậc tình cảm, như tình làng xóm, tình đồng bào, tình phường
hội, tình thân tộc và tình cảm bạn bè, nhờ vào không khí hoạt động tín ngưỡng,
cũng có thêm sắc thái mới. Khi cộng đồng cùng sinh hoạt tín ngưỡng, người
tham gia sẽ được trải nghiệm một không gian văn hoá vừa thân quen, vừa mới
mẻ. Cảm nhận đó sẽ mang lại cho người tham gia những tình cảm mới, một sự
cân bằng tâm lý, giúp họ hoàn thiện hơn nữa những phẩm chất tốt đẹp của con
người. Hoạt động tín ngưỡng không chỉ là dịp để con người truyền đạt tình cảm,
đạo lý và khát vọng cho nhau mà còn là dịp để con người giao hoà với quá khứ
và hiện tại, qua đó con người củng cố thêm sức mạnh cộng đồng và thể hiện sự
tôn kính của mình đối với tạo hoá và tổ tiên cội nguồn của mình.
Trong cuộc sống thường nhật, sự liên kết giữa những con người nhờ tín
ngưỡng dân gian có thể có ý nghĩa tích cực tạo nên sức mạnh giúp con người
vượt qua những khó khăn to lớn mà họ gặp phải, song nó cũng có thể gây ra
những hậu quả khôn lường khi tín ngưỡng đó phát triển “quá đà”, chuyển thành
mê tín dị đoan.
1.3.2. Vai trò an ủi tinh thần
Con người trong thế giới đời thường luôn bị sức ép của những sức mạnh
tự nhiên cũng như xã hội không tìm được lời giải thích chính xác về nguyên
nhân và biện pháp khắc phục nó, phải sống trong nỗi lo sợ, bất hạnh thì có thể
tìm thấy trong tín ngưỡng, tôn giáo những giải đáp làm nguôi ngoai đi những
khổ đau của thế giới hiện tại và ấp ủ một hy vọng vượt qua.
Với những quan niệm về niềm tin vào đấng siêu nhiên hoặc con người đã
được thần thánh hoá đó, tín ngưỡng cũng mang lại cho người tin một niềm an ủi,
động viên, một sự nâng đỡ tinh thần nhất định. Trong những lúc khó khăn, bất
lực của con người trước một tình huống nào đó, con người luôn khát khao, ước
mơ một sự cứu rỗi, một sự trợ giúp từ một sức mạnh siêu phàm mà họ vẫn xem
là có khả năng ủng hộ, giúp đỡ mình. Nhờ vậy, người ta có đủ dũng khí vượt
213
qua trở lực để tồn tại và phát triển. Khi đó, đối với họ, niềm tin vào lực lượng
siêu nhiên đã được “kiểm chứng”, sự hiện hữu của lực lượng siêu nhiên dường
như đã được khẳng định để bù đắp những khoảng trống mà thực tiễn không có
chỗ để nương tựa.
1.3.3. Vai trò thúc đẩy sự hướng thiện
Tín ngưỡng đã tạo nên hệ thống những chuẩn mực giá trị đạo đức, những
chuẩn mực ấy không chỉ duy trì trong quá trình thực hiện các nghi thức tôn giáo
mà còn điều chỉnh cả hành vi của con người trong đời sống thường nhật khi ứng
xử với con người trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Qua những điều cấm kỵ,
răn dạy đã điều chỉnh hành vi của mỗi người cho hài hoà với cộng đồng.
Thông qua việc thực hiện các hoạt động tín ngưỡng, chúng ta có thể thấy
ở tín ngưỡng có “nhân tố hợp lý” nhất định. Như trên đã đề cập, tuy không
thành một hệ chuẩn mang tính hệ thống và tương đối hoàn chỉnh như những tôn
giáo chính thống, tín ngưỡng dân gian mang trong mình một số quy ước, một số
quy phạm về cách ứng xử đòi hỏi chủ thể tin vào đối tượng tin đó phải có hành
động tương hợp. Những quan niệm đó biến thành động cơ chi phối hành vi của
chủ thể tin theo. Chẳng hạn, khi người ta tin rằng “đất có thổ công, sông có hà
bá” thì trong cuộc sống của mình, con người cần biết tôn trọng người có chức
việc trong thôn, xóm, bản, làng... nói rộng ra, trong phạm vi quốc gia, phải biết
tôn trọng chủ quyền dân tộc, chính quyền địa phương, luật pháp quốc gia.
Tuy quan niệm sống, cách ứng xử do tín ngưỡng dân gian đưa ra phần
nhiều không mang tính phổ biến như hệ chuẩn đạo đức của tôn giáo, nhưng ít
nhiều nó cũng thường mang mầu sắc thần bí. Ai không tuân thủ sẽ bị đối tượng
siêu nhiên trừng phạt. Lo sợ trước sự trừng phạt của thánh thần, siêu nhiên,
người có tín ngưỡng hướng vào tất cả sự chân thành, tự nguyện làm việc tốt của
mình nhằm hiện thực hoá những điều tốt đẹp nhất có thể cho cộng đồng, xã hội.
Bên cạnh loại đối tượng của tín ngưỡng dân gian mang trong mình đòi
hỏi tính hướng thiện, chuẩn mực sống cao đẹp, có tình thương yêu con người,
mang trong mình khát vọng trợ giúp con người trong những lúc nguy nan...
cũng có loại thuộc đối tượng tin lực lượng siêu nhiên chuyên mang lại khổ đau,
bất hạnh cho con người. Trong trường hợp đó, vai trò điều chỉnh hành vi của tín
ngưỡng lại được thực hiện bởi việc rèn luyện cho mình cuộc sống, bản tính biết
vượt lên tai ương, nghiệp trướng mà tồn tại. Xét trên ý nghĩa đó, ngay loại thứ
hai này cũng có giá trị định hướng mang tính tích cực cho chủ thể có niềm tin.
214
1.3.4. Vai trò nâng cao trách nhiệm của cá nhân và cộng đồng
Các tín ngưỡng bao giờ cũng có một hệ chuẩn quan niệm bất thành văn
đòi hỏi người có niềm tin vào cái đó phải thực hiện. Đó là những chuẩn mực
sống, ứng xử của nền đạo đức địa phương tương ứng. Những chuẩn mực của tín
ngưỡng không những có giá tri giáo dục to lớn đối với người có đức tin, mà
trong nhiều trường hợp, còn là những đòi hỏi, những chuẩn mực chung của toàn
xã hội.
Trong không ít trường hợp, tín ngưỡng không chỉ sản sinh ra các quan
niệm đạo đức, mà còn có khả năng điều hành việc thực hiện những chuẩn mực
đạo đức đó. Nếu các chuẩn mực đạo đức đòi hỏi mỗi công dân tự nguyện thực
hiện và dư luận xã hội đóng vai trò khuyến khích hoặc trừng phạt đối với những
vi phạm, thì tín ngưỡng lại thực hiện sự trừng phạt đó mang tính thần bí. Sự vi
phạm những răn dạy về đạo đức của đối tượng tin sẽ bị sự trừng phạt của thánh
thần, của thượng đế tối cao, của luật đền bù nhân quả. Chẳng kém gì tâm lý sợ
hãi khi bị xã hội lên án, nỗi lo sợ bị đối tượng tin trừng phạt đôi khi còn có ý
nghĩa to lớn hơn nhiều. Do vậy, tín ngưỡng có vai trò không nhỏ trong việc điều
chỉnh hành vi của mỗi cá nhân, đòi hỏi ở họ phải thực hiện nghĩa vụ đạo đức.
Nhờ thế, con người sống với nhau tốt hơn, cuộc sống của cộng đổng nhờ thế
cũng đẹp hơn.
Chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua thờ cúng tổ tiên và thờ thành hoàng -
hai hình thức phổ biến của tín ngưỡng ở Việt Nam. Đối với người Việt Nam,
chết chưa phải đã hết. Tổ tiên luôn luôn ở gần người sống, “thường tại” trên ban
thờ của mỗi gia đình; động viên, trợ giúp con cháu trong cuộc sống thường nhật.
Thờ cúng tổ tiên là việc làm hệ trọng. Thời gian cúng giỗ không chỉ diễn
ra đúng những ngày người đó trở về nơi vĩnh hằng, mà cả khi gia đình có lễ tết,
việc trọng. Thông qua nghi lễ thờ cúng tổ tiên, người Việt Nam biểu hiện tình
cảm biết ơn đối với tổ tiên. Trong gia đình, đạo thờ cúng tổ tiên dần dần trở
thành đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, thành “đạo hiếu” cái gốc của mỗi người.
Cho nên phải hiếu thảo với cha mẹ khi còn sống, thành kính, thương tiếc, biết
ơn khi cha mẹ khuất núi về với tổ tiên. Lòng hiếu thảo là nét đẹp trong đạo thờ
cúng tổ tiên. Tưởng nhớ tổ tiên, người Việt Nam khéo bảo nhau phải sống sao
cho xứng đáng với kỳ vọng của tổ tiên “Con hơn cha là nhà có phúc”. Có cuộc
sống ấm no, hạnh phúc để có thể tự hào kính báo với tổ tiên. Khi con cháu phấn
đấu thành đạt thì “Vinh quy bái tổ”.
215
1.3.5. Vai trò gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam
Với quan niệm con người là chủ thể của lịch sử, do vậy cần phải lưu trữ,
bảo tồn những giá trị của các thế hệ trước để lại. “Tính kế tục lịch sử” ở đây
được hiểu theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen, cả với nghĩa giá trị vật chất lẫn giá
trị tinh thần của khái niệm đó.
Trong các loại hình tín ngưỡng, tín ngưỡng phồn thực thuộc loại có liên
quan tới quan niệm về việc bảo đảm tính kế tục lịch sử theo nghĩa đen. Đó là việc
đề cao sản xuất ra chính con người, nhờ có con người mà các giá trị văn hóa được
con người đời sau tiếp nối, kế thừa, bảo lưu. Tín ngưỡng thành hoàng, thờ cúng tổ
tiên, anh hùng dân tộc tiêu biểu cho loại “tính kế tục lịch sử” theo nghĩa bóng. Đó
là những giá trị phi vật chất để cùng các giá trị vật chất tạo ra sự kế thừa lịch sử
mà chỉ trong xã hội phát triển đến mức độ nhất định mới có được.
Tín ngưỡng góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam với tư cách là một
bộ phận cấu thành của văn hóa, một mặt, tạo ra sự phong phú cho văn hóa, mặt
khác, góp phần lưu giữ, phát triển những giá trị tốt đẹp của văn hóa, tạo nên bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, hạn chế, ngăn chặn văn hóa ngoại lai. Tín
ngưỡng là cơ sở hình thành, phát triển tôn giáo nhưng ngược lại, tín ngưỡng ở
một mức độ nào đó, trong góc nhìn đề kháng của văn hóa là rào cản hạn chế sự
phát triển, xâm nhập của tôn giáo vào cộng đồng dân cư.
Tựu trung lại, “tín ngưỡng của người Việt Nam chỉ nhằm cho cuộc sống
hiện tại, hiện hữu nơi trần thế của cá nhân, gia đình và cộng đồng. Người Việt
theo tín ngưỡng không nhằm để tới và vì cuộc sống ở thế giới bên kia” 27(như
thiên đường hay niết bàn). Từ những vai trò chủ yếu trên của tín ngưỡng trong
đời sống cộng đồng người Việt, mục đích hướng tới chính là mong ước có được
sức khỏe, hạnh phúc, an vui; gia đình hòa thuận, xã hội thanh bình, con cháu đầy
đàn, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, quốc thái dân an.
1.4. Mối quan hệ giữa tín ngưỡng với tôn giáo và ảnh hưởng của tín
ngưỡng đối đối với tôn giáo
1.4.1. Mối quan hệ giữa tín ngưỡng với tôn giáo
Tín ngưỡng dùng để chỉ những hiện tượng, những hành vi cúng tế trong
dân gian, sùng bái nhiều thần linh; không có giáo chủ và hệ thống giáo lý, giáo
luật như tôn giáo mà chỉ có các huyền thoại, thần tích, truyền thuyết mang đậm
tính dân gian; nơi thờ cúng và nghi lễ còn phân tán và chưa thành quy ước chặt
27 Nguyễn Minh San (1998), Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam, NXB Văn hóa Dân tộc, tr.14
216
chẽ. Hoạt động tín ngưỡng gắn với cá nhân và cộng đồng làng xã, ít có sự liên
kết vùng, miền và người đi theo không bị ràng buộc về tổ chức. Tôn giáo có hệ
thống giáo lý, giáo luật, tổ chức giáo hội, hệ thống giáo chức khá chặt chẽ. Tín
ngưỡng hoà nhập giữa thế giới thần linh và con người, cầu đạt những mong
muốn đời thường cho chính cuộc sống hiện tại nơi trần thế của cá nhân, gia đình
và cộng đồng, trong khi phần lớn tôn giáo xuất hiện hình thức “cứu thế”, hướng
tới sự giải thoát của con người sau khi đã qua đời,...
Tín ngưỡng và tôn giáo có mối quan hệ hữu cơ, đều là vấn đề tâm linh.
Về hình thức, tín ngưỡng có cơ sở thờ tự, có các quy tắc thực hiện lễ nghi, một
số loại hình tín ngưỡng có đội ngũ người chuyên hoạt động tín ngưỡng. Tín
ngưỡng ở Việt Nam có ảnh hưởng rất lớn đến tôn giáo, qua hội nhập tín ngưỡng,
các tôn giáo hội nhập văn hóa của người Việt Nam tạo nên những đặc điểm
riêng của tôn giáo Việt Nam. Đồng thời, tín ngưỡng là một trong những rào cản
hạn chế sự phát triển, xâm nhập của văn hóa, tôn giáo không phù hợp với truyền
thống văn hóa của cộng đồng dân cư.
1.4.2. Ảnh hưởng của tín ngưỡng đối với tôn giáo
Các tôn giáo khi du nhập vào Việt Nam đều chịu ảnh hưởng của tín
ngưỡng bản địa và có tiếp thu biến đổi cho phù hợp. Biểu hiện trên điện thờ của
một số tôn giáo có sự hiện diện của một số vị thần, thánh, tiên, Phật,… của tín
ngưỡng, tôn giáo bản địa. Biểu hiện rõ nét nhất là ảnh hưởng của tín ngưỡng đối
với Phật giáo Việt Nam, thể hiện trong kiến trúc “Tiền Phật hậu thánh”, “Tiền
Phật hậu Mẫu” của các ngôi chùa Phật giáo ở miền Bắc. Đối với Công giáo, khi
mới vào Việt Nam, giáo hội Công giáo đã yêu cầu người theo đạo bỏ việc thờ
cúng tổ tiên, nhưng thấy không phù hợp với văn hóa người Việt, giáo hội Công
giáo đã chấp nhận cho tín đồ không những được thờ cúng tổ tiên mà còn lập bàn
thờ gia tiên (thấp hơn bàn thờ Chúa). Đối với đạo Tin lành, để tồn tại, đạo Tin
lành phải tìm cách thích ứng môi trường mới. Tin lành Báp-tít Nam Phương là
một ví dụ điển hình cho việc hình thành những hệ phái Tin lành gắn riêng cho
từng khu vực, dân tộc như đạo Tin lành của người Mông, người S’tiêng ở Việt
Nam. Đối với Hồi giáo, Hồi giáo được truyền vào người Chăm ở Việt Nam theo
con đường "hoà bình" nên tính cách Hồi giáo bị biến đổi, chịu sự chi phối bởi
bản sắc truyền thống văn hoá lâu đời của Bàlamôn giáo và hệ thống tín ngưỡng
bản địa với chế độ mẫu hệ. Bàlamôn giáo du nhập vào người Chăm cũng bị bản
địa hoá rõ nét. Giáo lý, giáo luật Chăm Bàlamôn không có hệ thống rõ ràng,
217
không còn giữ được nguyên vẹn những quy định của đạo Bàlamôn nguyên thuỷ
mà bị bản địa hóa và hoà quyện vào phong tục, tập quán của người Chăm.
Bàlamôn giáo là một tôn giáo đề cao phụ quyền, khi du nhập vào xã hội mẫu hệ
của người Chăm đã bị “Chăm hóa” với nhiều biến đổi. Các nghi lễ từ cưới hỏi,
tang ma cũng như các nghi thức cúng bái đều mang tính bản địa của xã hội
Chăm từ xa xưa.
Có thể thấy rằng, tín ngưỡng ở Việt Nam có ảnh hưởng mạnh đối với tôn
giáo. Tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hòa đồng, đan xen lẫn nhau là cơ sở để
các tôn giáo hội nhập, giao lưu, đoàn kết tránh xung đột tín ngưỡng, tôn giáo,
cùng nhau phát triển hài hòa vì mục tiêu phụng sự đạo, phụng sự Nhân dân, xây
dựng đất nước; vừa duy trì nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, đáp
ứng nhu cầu “dung hòa” đời sống tâm linh của người Việt.
2. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG TÍN NGƯỠNG Ở VIỆT NAM
2.1. Hoạt động của các loại hình tín ngưỡng
2.1.1. Hoạt động tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Trước Đổi mới, thờ cúng tổ tiên chủ yếu tập trung theo gia đình, dòng họ
(huyến thống gần) trong phạm vi làng xã, dòng họ xa không được đề cao. Phần
lớn nhà thờ họ, phần mộ của các gia đình đơn giản, quy mô nhỏ, trừ số ít những
gia đình có điều kiện kinh tế. Từ Đổi mới đến nay, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
trở nên sôi động, ngày càng được chú trọng hơn như: các hoạt động cúng lễ
được tổ chức trang trọng, quy mô lớn hơn; việc gìn giữ và xây dựng nhà thờ,
phần mộ của dòng tộc được đầu tư theo hướng khang trang, to đẹp hơn; sự liên
kết trong mỗi dòng họ ngày càng chặt chẽ, phạm vi càng mở rộng với sự ra đời của nhiều “Ban liên lạc”, “Ban chấp hành” dòng họ trong phạm vi vùng, miền, thậm chí cả nước cùng với nhiều hoạt động không chỉ thuần túy thờ cúng tổ tiên dòng họ mà còn có các hoạt động giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau,...
Đối với hoạt động thờ Vua Hùng, hiện nay, trên cả nước và ở nước ngoài
đã xây dựng trên 1.400 di tích thờ cúng các vua Hùng và vợ con, tướng lĩnh thời
Hùng Vương28, khẳng định tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là một di sản văn
hoá độc đáo, trường tồn cùng lịch sử dân tộc. Năm 2012, tín ngưỡng thờ Vua
Hùng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của
nhân loại. Khu di tích lịch sử Đền Hùng và nhiều di tích thờ cúng Hùng Vương
tiếp tục được tăng cường đầu tư tôn tạo. Một số nội dung về thực hành tín
28 Theo Hồ sơ di sản, tư liệu của Cục Di sản - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
218
ngưỡng cũng đã được nghiên cứu theo hướng khôi phục các giá trị nguyên bản,
tăng cường nguồn lực tu bổ, xây dựng bổ sung thiết chế văn hoá tại Di tích lịch
sử Đền Hùng nhằm phục vụ tốt hơn việc thực hành tín ngưỡng. Di tích lịch sử
Đền Hùng (Phú Thọ) là di tích lịch sử đặc biệt của quốc gia do vậy mô hình tổ
chức cũng như cách thức tổ chức hoạt động tín ngưỡng tại di tích được coi là
hình mẫu. Khu di tích lịch sử Đền Hùng là đơn vị thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh
Phú Thọ, có nhiệm vụ phối hợp với các cấp, các ngành liên quan quản lý, bảo vệ
các di sản văn hóa, các hoạt động văn hóa, lễ hội,… tại di tích. Hằng năm, Khu
di tích lịch sử Đền Hùng tổ chức tuyển chọn, quyết định công nhận và phân
công ông từ trông coi và hướng dẫn thực hành tín ngưỡng tại các đền thuộc Khu
di tích. Bên cạnh việc tổ chức lễ giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng với quy
mô cấp Nhà nước, cấp tỉnh đối với những năm chẵn, năm tròn, những năm gần
đây, người dân được tham gia nhiều hơn vào các hoạt động giỗ Tổ với nghi thức
trang nghiêm, thành kính, mang đậm nét dân gian truyền thống.
Do vậy, thờ cúng Hùng Vương nói riêng, thờ cúng tổ tiên nói chung là
một giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống, đã và đang có ảnh hưởng tích cực
tới việc củng cố khối đoàn kết dân tộc trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất
nước, cần được tiếp tục giữ gìn và phát huy.
Tuy nhiên, hoạt động thờ cúng tổ tiên có một số vấn đề đáng chú ý:
Trong thờ cúng tổ tiên theo truyền thống này thời gian gần đây xuất hiện
một số hiện tượng như huy động của cải vật chất lớn để xây dựng phần mộ dòng
họ, tổ chức lễ giỗ lớn, đôi khi lợi dụng vì lợi ích cá nhân, hoạt động mê tín dị
đoan. Xu thế ganh đua một cách thái quá trong việc xây dựng nhà thờ, phần mộ
của dòng tộc, gia đình, với tâm lý nhà thờ, phần mộ nhà mình, họ mình phải hơn
nhà khác, họ khác. Nhiều gia đình đã lâm vào tình trạng kinh tế khó khăn, anh
em bất đồng với những khoản đóng góp không nhỏ cho việc xây dựng như vậy.
Những mặt tiêu cực này cần vận động giáo dục thuyết phục Nhân dân thực hiện
nếp sống văn minh.
Hoạt động thờ cúng tổ tiên vượt ra khỏi truyền thống dân tộc có xu hướng
liên kết dòng họ trong phạm vi huyện, tỉnh, toàn quốc, mối quan hệ khá phức tạp
cùng họ nhưng chưa chắc cùng huyết thống hoặc quá xa so với quan niệm cũ (5
đời), không phân biệt được thứ bậc, bầu lên thành tổ chức (tuy lỏng lẻo) cấp
toàn quốc, cấp tỉnh, cấp huyện,… có kinh phí hoạt động (chủ yếu do tài trợ). Nội
dung hoạt động không thuần túy thờ cúng tổ tiên mà mở rộng nhiều loại hình
219
như khuyến học, giúp nhau làm kinh tế. Nghi thức thờ cúng khá rườm rà, ngày
một bài bản hình thành các nhà thờ dòng họ chung cho toàn quốc hoặc khu vực,
đầu tư xây dựng lớn, định kỳ hằng năm tổ chức các sinh hoạt chung. Đã có một
số người đề nghị công nhận thờ cúng tổ tiên của họ là tổ chức tôn giáo. Ngoài
ra, các dòng họ từ phạm vi hẹp đến rộng thường có xu hướng bảo vệ quyền lợi
cho thành viên dòng họ mình, thậm chí có tư tưởng cục bộ hẹp hòi, hình thành
các nhóm lợi ích nên dễ dẫn đến những xung đột giữa dòng họ này với dòng họ
khác, ảnh hưởng đến truyền thống đoàn kết dân tộc.
Hiện nay, có rất nhiều di tích lịch sử liên quan đến thờ cúng Vua Hùng,
các địa phương đều mong muốn mở rộng các hoạt động liên quan đến thờ cúng
Vua Hùng ở địa phương mình làm cho thờ cúng Vua Hùng bị phân tán, thậm chí
bị lợi dụng phô trương (các kỷ lục bánh dày, bánh trưng,…) cần phải quản lý,
đặc biệt xác định rõ quy mô hoạt động, nội dung hoạt động của các cơ sở liên
quan đến thờ cúng Vua Hùng.
2.1.2. Hoạt động tín ngưỡng thờ thần, thánh
Hoạt động thờ thần, thánh của người Việt Nam rất phong phú, đa dạng.
Tuy cùng một loại là thờ thần, nhưng không có một thần chủ chung, giáo đường
chung, giáo lý và nghi lễ chung như nhiều tôn giáo, mà mỗi anh hùng dân tộc
được tôn thờ trở thành một vị thần thánh cao nhất và duy nhất, được thờ phụng ở
các đền, miếu khắp mọi nơi, không có đội ngũ đệ tử riêng, mà người dân Việt
Nam nào cũng có thể đến thờ cúng các vị thần, thánh đó ở đền, miếu,… để tỏ
lòng ngưỡng vọng và cầu xin sự che chở.
Theo quan niệm của đồng bào thiểu số, con người không được khoẻ
mạnh, gặp rủi ro, bệnh tật đều quy về nguyên nhân là do con ma nào đó làm hại,
phải làm lễ cúng trừ khử ma tà, cứu sinh mạng con người. Từ đó, xuất hiện các
thuật phù phép của Phù thuỷ, thầy Tào, với các tầng lớp thầy cúng: Then, Mo,
Tào, Pụt ở vùng núi Đông Bắc, Mo, Một, Mỡi ở Tây Bắc,... Trong các tục cúng
ma của đồng bào thiểu số có nhiều nghi lễ rườm rà, hủ tục, lạc hậu cần loại bỏ,
song trong tục cúng ma có những điệu hát mang đậm nét văn hóa cổ truyền cần
được lưu giữ.
Trong các hoạt động tín ngưỡng thờ thần, thánh hiện nay nổi lên là hoạt
động thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Hiện nay, cả nước có khoảng hơn 7.000 đền,
phủ, miếu, đình, điện, chùa thờ Mẫu, với hàng vạn người tin theo. Hoạt động tín
ngưỡng thờ Mẫu với hình thức hát văn và hầu đồng hiện nay có biến đổi theo
220
chiều hướng bớt dần những yếu tố mang tính ma thuật, đi vào những khía cạnh
văn hóa, như hành hương du lịch, thưởng thức các khía cạnh văn hóa trong Hát
văn và hầu bóng nhằm nâng cao ý thức cho cộng đồng về trách nhiệm bảo vệ
các giá trị nhân văn trong thờ Mẫu. Nhiều cuộc liên hoan văn hóa tín ngưỡng
thờ Mẫu được tổ chức nhằm định hướng, điều chỉnh nghi lễ hầu đồng như đồ
mã, lễ phục, âm nhạc và lời hát văn,… theo hướng bám sát những nghi lễ vốn
có nhưng vẫn tôn trọng tính độc đáo địa phương và tính sáng tạo cá nhân. Nhiều
hình thức tập hợp các thanh đồng, cung văn thờ Mẫu được ra đời dưới dạng các
câu lạc bộ với mục đích tự quản, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, hạn chế những
tiêu cực trong thờ tự và hoạt động tín ngưỡng. Từ một tín ngưỡng thờ Mẫu và
hầu đồng bị cấm, bị coi là mê tín dị đoan, đến nay đã được xã hội và các cơ
quan nhà nước công nhận. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận nghi
lễ chầu văn của người Việt là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, trình hồ sơ tín
ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ của người Việt đề nghị UNESCO ghi danh là di sản
văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại.
Tuy nhiên, thời gian gần đây, hoạt động thờ Mẫu nảy sinh nhiều bất cập,
hạn chế như: hầu đồng, hát chầu văn ở một số nơi đã đưa ra ngoài không gian
tâm linh như đền, phủ, tình trạng sân khấu hóa hầu đồng diễn ra mạnh mẽ, ở cả
quán café, vỉa hè,... Nhiều nghi lễ bị biến dạng, lợi dụng tạo nên những nhận
thức méo mó về tín ngưỡng này trong các thanh đồng, thủ nhang. Xu hướng lợi
dụng tín ngưỡng để trục lợi còn tồn tại ở nhiều nơi, nhiều đơn vị, cá nhân không
có chức năng cũng đứng ra tổ chức các hình thức biểu diễn hầu đồng để thu
tiền. Nhiều người tự xây đền, phủ gia đình với quy mô lớn, hoạt động trục lợi cá
nhân gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Nhiều vấn đề cần quy định thống
nhất như: xây dựng tôn tạo đền phủ, bài trí, đốt vàng mã, trang phục, vũ đạo,
phán truyền, hát văn,…nhưng vẫn chưa có quy định cụ thể, chưa giao trách
nhiệm trực tiếp cho ngành nào quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng
thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Chính sự phân tán, tản mạn, thiếu sự quản lý nhà
nước đối với thờ Mẫu trong thời gian vừa qua đã tạo nên bộ mặt xô bồ, thậm chí
là hỗn loạn trong sinh hoạt tín ngưỡng, tạo điều kiện cho các hoạt động đi
ngược lại các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp vốn có của tín ngưỡng thờ Mẫu,
gây mất trật tự công cộng.
2.1.3. Hoạt động của các tín ngưỡng khác
221
- Về tín ngưỡng vòng đời người: Vòng đời người có ba giai đoạn quan
trọng là: sinh đẻ, hôn nhân và tang ma, do vậy, việc thực hành tín ngưỡng gắn
với ba giai đoạn này được nhiều người Việt Nam chú trọng. Ở nhiều gia đình
hiện nay khi sinh con ra vào giờ “không hợp mệnh”, “không được sao tốt” thì
cha mẹ, gia đình tiến hành hàng loạt các nghi lễ thờ cúng để mong sao có một
thế lực siêu nhiên (thần bản mệnh) che chở cho con của mình. Hơn thế nữa, khi
khoa học và đời sống xã hội phát triển đã có thể chọn năm sinh, ngày sinh, giờ
sinh để mong cho con sinh ra hợp bố, hợp mẹ và được may mắn.
Trước đây, với quan niệm “trong đời chỉ cưới một lần”, do vậy đám cưới
thường được tổ chức linh đình, tốn kém. Đặc biệt, nhiều gia đình còn coi việc
cưới là cơ hội thể hiện “đẳng cấp” nên đã tổ chức phô trương, xa hoa, lãng phí,
gây bức xúc trong dư luận xã hội. Tại nhiều địa bàn nông thôn, việc cưới còn chịu
cảnh “đất lề quê thói” hay “trả nợ miệng”, dẫn đến khủng hoảng kinh tế gia đình
sau khi tổ chức đám cưới. Nguyên nhân cốt yếu là do phong tục, tập quán lạc hậu
và tác động mặt trái của kinh tế thị trường ảnh hưởng đến tâm lý người dân.
Ma chay là hệ thống các nghi lễ tín ngưỡng liên quan tới người chết, là một
tín ngưỡng thuộc loại sớm nhất của con người. Hiện nay, tình trạng tổ chức tang
lễ rườm rà, kéo dài nhiều ngày, ăn uống tràn lan cùng các hủ tục trong tang lễ như
khóc mướn, chơi cờ bạc,… vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi. Đa số các gia đình có
người qua đời đều mời thày cúng với mong muốn linh hồn người chết được siêu
thoát với những nghi lễ rườm rà, gây tốn kém rất nhiều về công sức, tiền của.
Hiện tượng sử dụng nhiều vòng hoa viếng gây lãng phí, mở nhạc buồn lớn, làm
cản trở giao thông, rải tiền thật, tiền giả trên đường làm ô nhiễm môi trường.
- Về tín ngưỡng nghề nghiệp: Tổ nghề còn gọi là Tổ sư, Thánh sư, Nghệ
sư là người phát minh, sáng lập, gây dựng nên một nghề hoặc là người đầu tiên
đem nghề ở nơi khác truyền lại cho dân chúng trong làng hay miền nào đó, được
người đời sau tôn thờ như bậc thánh. Việc thờ Tổ nghề thể hiện lòng tri ân sâu
sắc với bậc tiền nhân, tương đồng với truyền thống tôn sư trọng đạo vì Tổ nghề
chính là người đem lại đời sống no ấm cho dân chúng. Lễ cúng Tổ nghề quan
trọng nhất là nhằm vào ngày giỗ của vị Tổ. Khi thờ phụng Tổ nghề, người ta cầu
mong được phù hộ cho công việc được thuận buồm xuôi gió, buôn may bán đắt
hoặc lúc đi xa tránh được mọi sự rủi ro. Tín ngưỡng thờ tổ nghề được coi là một
truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, thể hiện sự biết ơn những vị sáng
lập, mở mang tri thức ngành nghề cho nhân dân, nuôi dưỡng đạo lý "uống nước
222
nhớ nguồn", giáo dục tinh thần yêu lao động, phát triển kinh tế của mỗi cá nhân,
cộng đồng. Những năm qua, Việt Nam đã có những chính sách tôn vinh nghệ
nhân như tặng danh hiệu nghệ nhân cho các nghề, nổi bật là chương trình truyền
thông mang tên "Hành trình tìm kiếm tổ nghề Việt Nam" nhằm tôn vinh các
ngành nghề và tưởng nhớ, tri ân các vị Tổ nghề, người có công sáng lập và
truyền bá một nghề truyền thống của Việt Nam và thế giới.
Đối với người dân miền biển, tục thờ cá Ông (cá Voi) là một tín ngưỡng
lâu đời và có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần của ngư dân. Lễ hội cá
Ông là lễ hội lớn nhất của ngư dân miền biển để bày tỏ khát vọng được bình yên
trong cuộc sống của ngư dân luôn phải đối mặt với nhiều bất trắc khi lênh đênh
trên biển cả. Bởi cá Voi thường cứu giúp những ngư dân mỗi khi gặp nạn trên
biển, là biểu tượng an lành của ngư dân vùng biển.
2.2. Hoạt động tín ngưỡng tại các cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo
Trước thời kỳ Đổi mới, nhiều loại hình tín ngưỡng bị xếp vào loại “mê tín
dị đoan”, các hoạt động bị hạn chế, nhiều cơ sở tín ngưỡng bị phá hủy, số còn lại
không được trông coi bảo quản, ảnh hưởng của thiên tai nên xuống cấp, nhiều di
sản văn hóa cả vật thể và phi vật thể của các dân tộc bị phá hủy; đội ngũ người
chuyên hoạt động tín ngưỡng bị mai một. Vì hoạt động không công khai nên bộ
mặt của tín ngưỡng cũng bị biến dạng, dễ bị kẻ xấu lợi dụng. Từ sau Đổi mới
đến nay, đời sống tín ngưỡng đã được hồi phục một cách mạnh mẽ. Cùng với
đó, các công trình kiến trúc như đình, đến, miếu, phủ,… được giao lại cho cộng
đồng, được trùng tu tôn tạo. Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, tính
đến tháng 8/2021 trên cả nước có trên 50.000 cơ sở tín ngưỡng. Trong đó,
khoảng trên 35.000 cơ sở có mô hình tổ chức là các Ban quản lý, Ban Tế tự hoặc
cso người đại diện, còn gần 15.000 cơ sở chưa có người đại diện, ban quản lý
hoặc bỏ hoang.
2.2.1. Hoạt động tín ngưỡng tại các cơ sở tín ngưỡng là di tích lịch sử -
văn hóa
Hiện nay, các cơ sở tín ngưỡng được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa
theo các cấp độ: di tích quốc gia đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ ký quyết định
công nhận; di tích quốc gia do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ký
quyết định công nhận; di tích cấp tỉnh do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố ký quyết định công nhận. Tính đến tháng 8/2021, cả nước có trên 14.000 cơ
sở tín ngưỡng là di tích lịch sử - văn hóa hoặc được đưa vào danh mục kiểm kê
223
di tích. Trong đó, có hơn 2.900 di tích hoặc thành phần hợp thành cụm di tích là các cơ sở gắn với tôn giáo, tín ngưỡng được xếp hạng di tích cấp quốc gia 29.
Trong những năm qua, công tác bảo vệ, tôn tạo trùng tu các cơ sở tín
ngưỡng là di tích lịch sử, văn hóa đã nhận được sự đồng thuận của các ngành,
các cấp, các tầng lớp nhân dân và có xu hướng phục hồi mạnh. Phong trào xã
hội hóa các hoạt động tu bổ, tôn tạo các cơ sở tín ngưỡng là di tích đã được các
tầng lớp trong xã hội tham gia hưởng ứng, góp phần bảo tồn, phát huy giá trị của
di tích, bảo vệ di tích không bị xâm hại do hoạt động kinh tế, khai thác tài
nguyên gây ra, đồng thời đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng cư
dân địa phương.
Hiện nay, hầu hết các cơ sở tín ngưỡng được xếp hạng di tích lịch sử, văn
hóa đều có người trông coi thường xuyên là các vị thủ từ, các chức sắc, nhà tu
hành trụ trì, đại diện các tổ chức đoàn thể. Bộ máy tổ chức tại các di tích này là
Ban quản lý di tích, nhất là tại các cơ sở tín ngưỡng là di tích quốc gia đặc biệt,
cơ cấu tổ chức và quy chế hoạt động của Ban quản lý di tích khá chặt chẽ.
Thành viên các Ban quản lý di tích nhìn chung có tư tưởng chính trị, trình độ
học vấn và sự am hiểu về tín ngưỡng nhất định, được tham gia các lớp bồi
dưỡng, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Mặc dù vậy, đến nay, chưa có quy định nào của cơ quan chức năng về mô
hình tổ chức Ban quản lý di tích. Đối với các Ban quản lý di tích trực thuộc từ Ủy
ban nhân dân cấp huyện, quận, thị xã trở lên, thành viên của Ban được hưởng chế
độ lương như viên chức nhà nước. Đối với các Ban quản lý di tích ở cơ sở, thành
phần đa dạng hơn nhiều. Thông thường, với các Ban này, Trưởng Ban là Phó Chủ
tịch Ủy ban nhân dân xã (phường, thị trấn), các thành viên của Ban gồm cán bộ
phụ trách văn hóa xã (phường, thị trấn), cùng đại diện của thôn, làng có di tích
(thường là trưởng thôn), đại diện của các tổ chức, đoàn thể ở địa phương (Mặt
trận Tổ quốc, Hội người cao tuổi,…) và đại diện của cộng đồng tôn giáo, tín
ngưỡng gắn với di tích đó (các vị chức sắc Phật giáo, thủ từ, thủ nhang,…).
Trên thực tế, việc trực tiếp quản lý và tổ chức các hoạt động tín ngưỡng
tại các cơ sở tín ngưỡng là di tích lịch sử - văn hóa hết sức đa dạng và phức tạp.
Về cơ bản, việc trực tiếp bảo vệ, chăm sóc, duy trì các sinh hoạt tín ngưỡng
thường nhật tại di tích đều do thành viên của Ban quản lý di tích là người đại
diện của cộng đồng tín ngưỡng gắn với di tích đó cùng với một số con nhang, đệ
tử,… Các thành viên khác của Ban thường chỉ phải tổ chức các sinh hoạt tín
29Báo cáo của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch
224
ngưỡng lớn tại di tích và giải quyết các sự việc phát sinh liên quan đến an ninh,
trật tự, tu bổ di tích do những người trực tiếp trông nom di tích đề nghị.
Về quản lý và sử dụng các nguồn thu tại di tích: nguồn thu tại các di tích
thường bao gồm: nguồn kinh phí do ngân sách nhà nước cấp (qua Chương trình
mục tiêu quốc gia chống xuống cấp di tích); nguồn thu từ công đức, tài trợ cho
di tích của các tổ chức, cá nhân và các nguồn thu khác. Việc quản lý, sử dụng
nguồn kinh phí do ngân sách nhà nước cấp được quản lý và sử dụng theo quy
định của Luật Ngân sách nhà nước. Đối với các nguồn thu từ công đức, tài trợ
cho di tích của các tổ chức, cá nhân và các nguồn thu khác: Có di tích việc quản
lý và sử dụng nguồn thu này do Ban quản lý di tích thực hiện hoàn toàn, bằng
những quy định chặt chẽ, thống nhất, minh bạch; có di tích thì giữa Ban quản lý
di tích và vị chức sắc, nhà tu hành, trụ trì việc sinh hoạt tín ngưỡng tại di tích có
sự thỏa thuận phân chia việc quản lý và sử dụng các nguồn thu.
Những hạn chế, bất cập:
Việc phát triển các cơ sở thờ tự một cách nhanh chóng bên cạnh lợi ích
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của người dân còn gây nhiều khó
khăn phức tạp trong việc quản lý hoạt động tín ngưỡng tại các cơ sở này: Đã
xuất hiện việc xây mới, sửa chữa, nâng cấp, mở rộng khuôn viên không tuân thủ
theo quy hoạch, không xin phép cơ quan quản lý. Ở một số nơi, đã tự đặt ra luật
lệ quyên góp tiền với các mức độ khác nhau, không phù hợp với thuần phong
mỹ tục của dân tộc.
Việc cung tiến công đức cho tu bổ di tích và tổ chức lễ hội ngày một tăng
nhưng tình trạng xâm hại di tích, tuỳ tiện tu sửa, tôn tạo không xin phép cơ quan
quản lý đã làm phá vỡ yếu tố nguyên gốc của di tích hiện đang còn tồn tại.
Về tổ chức, hầu như chưa có di tích nào có Ban quản lý hoạt động tín
ngưỡng. Mạng lưới các Ban quản lý di tích ở các địa phương hết sức đa dạng,
chưa có sự thống nhất, tổ chức hoạt động hiệu quả chưa cao.
Do nguồn tiền công đức, tiền giọt dầu, phí thu từ di tích, lễ hội của các địa
phương do nhiều chủ thể cùng tham gia quản lý, dẫn tới việc khi sử dụng chính
những nguồn thu này phục vụ lại cho di tích theo Luật Di sản văn hóa còn gặp
khó khăn,… Những vụ việc phức tạp, thậm chí là sự tranh chấp giữa Ban quản
lý di tích và người trụ trì việc sinh hoạt tín ngưỡng thường nảy sinh từ việc quản
lý và sử dụng nguồn thu, do đó cần được quản lý bằng những quy định cụ thể.
2.2.2. Hoạt động tín ngưỡng tại các cơ sở tín ngưỡng chưa được công
nhận là di tích lịch sử - văn hóa
Hoạt động tín ngưỡng tại các các cơ sở tín ngưỡng chưa được công nhận
là di tích lịch sử - văn hóa diễn ra thường ở quy mô nhỏ hơn các di tích với sự
225
tham gia của cộng đồng địa phương sở tại là chính. Nhưng số lượng các cơ sở
này chiếm tỷ lệ không nhỏ trong tổng số cơ sở tín ngưỡng trên cả nước hiện nay.
Các cơ sở tín ngưỡng như đình, đền, miếu, phủ,… chưa có Ban quản lý thường
có người đại diện do cộng đồng cư dân cử ra. Việc bầu, cử người đại diện cơ sở
tín ngưỡng và đăng ký hoạt động tín ngưỡng hằng năm cơ bản tuân thủ quy định
của pháp luật. Mặc dù vậy, trong thời gian gần đây, hoạt động tín ngưỡng tại các
cơ sở chưa được công nhận là di tích phát sinh nhiều hạn chế, cụ thể là:
Hiện tượng phục dựng lại nhiều sinh hoạt tín ngưỡng, lễ hội với những
truyền thuyết dân gian được truyền miệng hoặc qua những giấy tờ chưa có căn
cứ để xác thực, dẫn đến tình trạng lạm dụng hoạt động tín ngưỡng và phát sinh
thêm các vấn đề xã hội xung quanh như hoạt động “buôn thần bán thánh”, lợi
dụng tín ngưỡng để trục lợi cá nhân; lập nhiều ban thờ, đặt nhiều hòm công đức
tràn lan và đĩa để tiền giọt dầu để thu hút tiền của du khách.
Tình trạng kinh doanh và đốt nhiều đồ mã không chỉ ảnh hưởng xấu đến
môi trường cảnh quan mà còn ảnh hưởng đến tâm lý của du khách. Khuôn viên
nhiều công trình tín ngưỡng bị lấn át bởi các hoạt động kinh doanh, dịch vụ tín
ngưỡng làm biến dạng cảnh quan môi trường, kéo theo nhiều tệ nạn như trộm
cắp, ăn xin, cờ bạc trá hình,...
Nhiều cơ sở tín ngưỡng chưa được xếp hạng di tích không được trùng tu,
sửa chữa trở thành phế tích hoặc người dân tự xây dựng một cách tự phát, chưa
có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, dẫn đến tình trạng xâm hại đến các công
trình tín ngưỡng, tranh chấp, khiếu kiện,...
Nhiều cơ sở tín ngưỡng được dựng lên, tổ chức nhiều hoạt động tín
ngưỡng để huy động “tấm lòng” của người dân,… dẫn đến xung đột lợi ích giữa
cộng đồng với người đại diện cơ sở tín ngưỡng. Ở một số nơi, niềm tin của cộng
đồng dân cư bị sụt giảm dẫn đến hiện tượng người dân địa phương ít tham gia
thờ cúng ở cơ sở tín ngưỡng tại cộng đồng dân cư đó, mà đa số là những người
dân từ các địa phương khác đến.
Những cơ sở tín ngưỡng chưa có Ban quản lý gặp nhiều khó khăn trong
việc điều hành, thường xảy ra mâu thuẫn nội bộ vì chưa có sự đồng thuận cao
trong thực hành nghi lễ tín ngưỡng hay trong việc quản lý tài sản, tài chính.
Người phụ trách các cơ sở tín ngưỡng này chủ yếu là những người chủ trì
các hoạt động tín ngưỡng nhưng đại đa số chưa qua khóa đào tạo chuyên hoạt
động tín ngưỡng mà họ chỉ thực hành nghi lễ tín ngưỡng qua việc truyền kinh
226
nghiệm, dẫn đến việc thực hành nghi lễ tín ngưỡng của một loại hình tín ngưỡng
ở nhiều nơi có sự khác nhau. Có những nghi lễ tín ngưỡng không tuân theo nghi
lễ truyền thống,… làm mất đi các giá trị của di sản truyền thống của dân tộc.
2.2.3. Hoạt động tín ngưỡng tại các cơ sở tôn giáo
Thực tế hiện nay cho thấy có khoảng 80% chùa Phật giáo ở miền Bắc có
gian thờ Mẫu, nhưng ở miền Nam con số này chỉ khoảng 5% và chỉ có ở chùa
Phật giáo Bắc Tông. Người Việt đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, Thành hoàng, Thổ
địa, đưa các anh hùng liệt sĩ,… vào thờ trong chùa, đa số các chùa còn có bát
hương cho linh hồn người đã qua đời,… Nhiều người vừa thờ cúng tổ tiên, vừa lễ
chùa cầu Phật, vừa thực hành giáo luật của tôn giáo nhưng vẫn tham gia cúng sao
giải hạn, làm lễ cầu an, thậm chí tham gia các hoạt động bói toán, hầu đồng.
Đối với Công giáo, tín đồ vừa thực hành lễ nghi Công giáo vừa thực
hành các phong tục tập quán bản địa nhất là trong các dịp lễ như tang ma, lễ hội
nhà mồ. Nhiều gia đình có người chết thì phải mời linh mục đến làm lễ "phép
xác", nhưng sau đó lại mời thày mo và tiến hành tang lễ theo phong tục truyền
thống. Với việc đưa các yếu tố tín ngưỡng truyền thống của người Việt vào sinh
hoạt tôn giáo, người dân khi theo Công giáo nhưng không cảm thấy lạ lẫm, xa lạ
đối với đời sống và phong tục tập quán của mình.
Bên cạnh việc thực hiện các lễ nghi của Hồi giáo chính thống, người
Chăm Hồi giáo còn thực hiện khá đầy đủ những tập tục, tín ngưỡng của dân tộc
mình, đặc biệt là cộng đồng Hồi giáo Chăm Bàni. Trong tâm thức tôn giáo của
người Chăm Bàni đã có những thay đổi khá căn bản: tín đồ không thực hiện 5
cốt đạo của Hồi giáo; thánh đường (chùa) của người Bà-ni chỉ mở cửa vào tháng
chay Ramadan mà họ gọi là tháng Ramưwan để chức sắc đến chùa thực hành
nhịn chay, không đi hành hương viếng thánh địa Mếc-ca; không tổ chức những
ngày lễ trọng như Hồi giáo chính thống mà thay vào đó là những lễ hội mang
đậm nét truyền thống văn hoá Chăm,... Ngay cả đối với người Chăm Islam, các
sinh hoạt tôn giáo cũng ảnh hưởng bởi tín ngưỡng Chăm như tục tảo mộ, tục đưa
rể trong đám cưới,...
2.3. Hoạt động lễ hội tín ngưỡng
Hiện nay, trên cả nước có 7.966 lễ hội30, được chia thành 4 loại: Lễ hội
truyền thống, lễ hội văn hóa, lễ hội ngành nghề, lễ hội có nguồn gốc từ nước
30 Thống kê năm 2009 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
227
ngoài. Dựa vào đặc điểm, tính chất của các loại lễ hội cho thấy chủ yếu các lễ
hội ở nước ta hiện nay là lễ hội tín ngưỡng (chiếm khoảng 90% tổng số lễ hội).
2.3.1. Những mặt tích cực
Thời gian qua, lễ hội tín ngưỡng đã có nhiều chuyển biến theo xu hướng
ngày càng tiến bộ: vừa giữ gìn phát triển những nét đẹp văn hoá truyền thống,
vừa kết hợp nhuần nhuyễn những yếu tố hiện đại, phát huy được tác dụng tích
cực của lễ hội, nêu cao ý nghĩa giáo dục truyền thống, lòng tự hào dân tộc, tình
yêu quê hương đất nước, đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, tăng cường và góp
phần làm phong phú, lành mạnh hơn đời sống văn hoá tinh thần của Nhân dân.
Việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng được thực hiện theo quy định của pháp
luật. Những lễ hội tín ngưỡng được tổ chức lần đầu hoặc được khôi phục lại sau
thời gian gián đoạn hoặc được tổ chức định kỳ nhưng thay đổi về nội dung, thời
gian, địa điểm so với trước đều được đăng ký và được sự chấp thuận của Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi diễn ra lễ hội.
Việc thực hiện nếp sống văn minh tại một số cơ sở tín ngưỡng và lễ hội
lớn như Đền Hùng, Chùa Hương, Yên Tử,... đã có chuyển biến tích cực, việc
đốt đồ mã khi hành lễ đã giảm, đặt tiền giọt dầu đúng theo quy định của Ban
quản lý; tình hình trật tự, vệ sinh môi trường có chuyển biến tốt hơn; nhận thức
của nhân dân khi tham gia lễ hội dần được nâng cao.
Nhận thức của xã hội về ý nghĩa, giá trị của lễ hội được nâng cao thêm một
bước. Ý thức bảo tồn và phát huy giá trị tốt đẹp của lễ hội tín ngưỡng được Nhà
nước và cộng đồng quan tâm. Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể gắn với
lễ hội tín ngưỡng đã được bảo tồn, phát huy giá trị. Một số lễ hội đã tạo được
thương hiệu, quảng bá di sản văn hóa Việt Nam, thu hút nhiều khách du lịch, góp
phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội và gìn giữ bản sắc văn hóa Việt Nam.
Lễ hội tín ngưỡng là một trong những nét sinh hoạt văn hóa được duy trì
từ hàng ngàn năm nhằm tôn vinh những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Lễ hội tín ngưỡng tạo môi trường quảng bá giá trị văn hóa, quảng bá hình ảnh
của Việt Nam với thế giới, là cầu nối để Việt Nam hội nhập quốc tế về văn hóa,
kinh tế,... Do đó, duy trì lễ hội tín ngưỡng góp phần giữ gìn, phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc.
2.3.2. Những hạn chế, bất cập
Hiện nay, đang có xu hướng mở hội nhiều, tần xuất cao cùng sự lãng phí
là ganh đua, phô trương thanh thế dòng họ, làng xã trong tổ chức lễ hội. Nhiều
228
địa phương mở lễ hội không cần “có tích”, nâng cấp lễ hội không cần tiêu chí,
đưa thêm vào nhiều yếu tố mới lạ làm biến dạng những nghi thức đã định hình
của lễ hội. Một số lễ hội được phục hồi nhưng mang yếu tố phản cảm như lễ hội
“chém lợn”, “đâm trâu”, “đập đầu trâu”,...
Do kinh tế và đời sống vật chất được cải thiện, nhu cầu về tâm linh, tín
ngưỡng có xu hướng tăng nên số người tham gia lễ hội và cầu xin thánh thần tài
lộc ngày càng đông, thậm chí đã trở thành “niềm tin” trong một số bộ phận nhân
dân, đang có xu hướng biến tín ngưỡng thành nhu cầu “cầu xin” thái quá. Vẫn
còn hiện tượng một số người cuồng tín, lợi dụng tâm linh, “buôn thần bán
thánh”, bói toán, xin xăm xóc thẻ,...
Những thay đổi tổ chức lễ hội tín ngưỡng hiện nay đã làm nảy sinh nhiều
hệ lụy đối với việc duy trì sức sống của lễ hội, nhiều khi đã biến người dân
thuộc cộng đồng chủ thể lễ hội chỉ còn là những người đi xem hội, không còn
giữ vai trò là chủ thể trực tiếp sáng tạo, tổ chức, đồng thời được trực tiếp thụ
hưởng những giá trị văn hóa do lễ hội tín ngưỡng mang lại.
Về việc cung ứng dịch vụ phục vụ: Lễ hội tín ngưỡng lớn được tổ chức
quy mô và cầu kỳ hơn trước song cơ sở vật chất, hệ thống hạ tầng đặc biệt là
hình thức dịch vụ chưa đáp ứng nhu cầu mật độ đông của du khách. Không gian
hội đang bị thu hẹp do tốc độ đô thị hoá, không gian thiêng của lễ và hội đang bị
không gian dịch vụ sinh lời lấn át. Hiện tượng cờ bạc trá hình, tệ bán hàng rong,
tranh giành thu tiền bán vé dịch vụ,... làm giảm đi tính tôn nghiêm và những nét
đẹp văn hoá trong hoạt động lễ hội. Hiện tượng khấn thuê, nâng giá, ép giá, lưu
hành ấn phẩm không được phép xuất bản, hành khất, đeo bám khách du lịch
chưa giảm ở một số lễ hội lớn.
2.4. Các hiện tượng tôn giáo mới phát sinh từ tín ngưỡng và hoạt
động lợi dụng tín ngưỡng
2.4.1. Hoạt động của các hiện tượng tôn giáo mới phát sinh từ tín
ngưỡng
Sự phục hồi và bùng phát các hiện tượng tín ngưỡng, bên cạnh việc đáp
ứng một phần nhu cầu đời sống tâm linh của Nhân dân thì một số tín ngưỡng
phát triển thành các hiện tượng tôn giáo mới, với một số biểu hiện cụ thể:
Về người đứng đầu: Tự cho mình là “Phật sống”, “Thánh sống”, có người
trước khi hoạt động tín ngưỡng mắc bệnh tâm thần lâu ngày, biểu hiện thần kinh
không bình thường, sau khi chữa khỏi bệnh thì tự nhận mình có khả năng kết nối
229
với người âm, nhận được sóng tâm linh,… tự cho mình có khả năng “chữa bệnh
tâm linh”.
Về “giáo lý”, “giáo luật” chủ yếu được chắp vá, pha tạp, cải biên từ một
số từ ngữ trong giáo lý, giáo luật của các tôn giáo truyền thống (chủ yếu từ Phật
giáo), nên đã có những lời khuyên, điều răn hướng thiện, thậm chí lấy danh
nghĩa của các vị anh hùng dân tộc, danh nhân để viết ra “kinh sách” nên được
nhiều người tin theo.
Về nghi lễ, hình thức nghi lễ thường vay mượn của các tôn giáo truyền
thống, tín ngưỡng dân gian: cầu xin, sám hối, ban ơn, bố thí,… mang nặng yếu
tố mê tín dị đoan, lừa bịp, phản khoa học như đốt quá nhiều đồ hàng mã, uống
nước lã đã đặt lên bàn thờ để chữa bệnh.
Về đối tượng tin theo, phần đông là những người gặp rủi ro, bế tắc, quẫn
bách trong cuộc sống, do ốm đau, bệnh tật, nghèo khó; những người có trình độ
văn hóa thấp, ở vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, cũng có một số cán bộ các cơ
quan chính quyền, công an, quân đội, cán bộ hưu trí,... tin theo.
Về đối tượng thờ phụng: Chủ yếu lấy các hình tượng trong truyền thuyết
dân gian, những người có công với cách mạng (lãnh tụ, anh hùng dân tộc,...),
danh nhân,…
Hiện nay có hàng chục hiện tượng tín ngưỡng mang tính chất tôn giáo
đang hoạt động thu hút hàng chục ngàn người theo, họ còn gửi đơn lên các cơ
quan quản lý nhà nước về tôn giáo yêu cầu được công nhận tổ chức và hoạt
động hợp pháp, nổi lên là các nhóm thờ Mẫu và các nhóm thờ cúng Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Một số nhóm thờ Mẫu ở các địa phương như Đà Nẵng, Bắc Ninh,
Tuyên Quang, TP. Hồ Chí Minh có nguyện vọng được Nhà nước cho thành lập
tổ chức. Liên quan đến thờ Bác Hồ có tới 14 tổ chức: “Ngọc Phật Hồ Chí
Minh”, “Long Hoa Di Lặc”, “đạo Hoàng Thiên Long”, “đạo bà Cẩm”, “đạo Bác
Hồ”,… Các nhóm tín ngưỡng này có hoạt động ngày càng phong phú, có sự liên
kết vùng, miền và đang dần hình thành một tôn giáo.
2.4.2. Hoạt động lợi dụng tín ngưỡng ảnh hưởng đến an ninh, trật tự,
an toàn xã hội
Thời gian qua, các hoạt động tín ngưỡng bị một số đối tượng lợi dụng
biểu hiện trong cách thức hoạt động mang tính phản văn hoá, phi đạo đức, ảnh
hưởng tới đời sống, sức khoẻ và nhân phẩm con người; tác động xấu tới tình
hình kinh tế, văn hoá, xã hội, cụ thể là: hình thành tổ chức một cách tự phát,
230
không đúng quy định, không được Nhà nước công nhận; tổ chức các hoạt động
tâm linh phản khoa học làm đảo lộn cuộc sống khu dân cư; tìm cách chống
người thi hành công vụ; tuyên truyền xuyên tạc đường lối chủ trương chính sách
của Đảng, Nhà nước về tín ngưỡng, kêu gọi nước ngoài can thiệp,...
Hoạt động lợi dụng tín ngưỡng để trục lợi cá nhân, tuyên truyền những
điều phản khoa học, phi đạo đức đang diễn ra ngày càng phức tạp ở hầu hết các
địa phương trên cả nước, kéo theo các tệ nạn xã hội gây mất an ninh trật tự, như:
các hoạt động mang tính khuyếch trương, hoạt động trái quy định của pháp luật;
mâu thuẫn và tranh giành sự ảnh hưởng tới các đệ tử, lợi ích vật chất dẫn đến
tình trạng thương mại hóa trong thờ Mẫu với mục đích lợi dụng kiếm tiền. Sự
nhiễu loạn biến tướng trong các nghi lễ của thờ Mẫu (dùng đồ hàng mã với số
lượng quá mức cần thiết trong hầu đồng),… Nhiều chủ đền, các ông đồng, bà
đồng đã lợi dụng lòng tin, lợi dụng các di tích đền, phủ, lợi dụng các sinh hoạt
nghi lễ và lễ hội không phải là để truyền bá những điều tốt đẹp mà chủ yếu là để
kiếm tiền, trục lợi cá nhân, đây đang là một thực tế phức tạp, khiến cho thờ Mẫu
ngày càng bị xói mòn những giá trị tốt đẹp.
Đáng chú ý trong thời gian qua, lợi dụng niềm tin, sự ngưỡng mộ, tôn
kính của Nhân dân đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, một số người đã ngụy tạo ra
sự liên hệ tâm linh với Bác Hồ mang yếu tố ngoại cảm chưa được khoa học công
nhận, tuyên truyền chữa bệnh phản khoa học. Các đối tượng này còn lợi dụng
một vài biểu hiện tiêu cực trong xã hội để phê phán, đả kích sự lãnh đạo, điều
hành của chính quyền địa phương, bài xích tôn giáo khác, gây tâm lý hoang
mang trong xã hội. Hoạt động của các tổ chức này tiềm ẩn nhiều yếu tố tiêu cực,
mang màu sắc chính trị, ảnh hưởng đến sự đoàn kết dân tộc và tình hình an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội.
3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM TRONG CÔNG TÁC
TUYÊN TRUYỀN VỀ TÍN NGƯỠNG
3.1. Công tác nghiên cứu, khảo sát tín ngưỡng
Nghiên cứu, khảo sát, nắm tình hình hoạt động tín ngưỡng, nhất là một số
hoạt động tín ngưỡng phổ biến như: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, vua Hùng, anh
hùng dân tộc, thờ Mẫu,...; một số tín ngưỡng có sự ảnh hưởng đến an ninh, chính
trị, an toàn xã hội; một số tín ngưỡng có đặc điểm gần với tôn giáo và các hiện
tượng tôn giáo mới phát sinh từ tín ngưỡng hiện nay. Trên cơ sở đó, xây dựng nội
dung, phương pháp tuyên truyền phù hợp với từng loại hình tín ngưỡng.
231
Rà soát, thống kê, phân loại lại toàn bộ các lễ hội tín ngưỡng trong cả
nước, các lễ hội tín ngưỡng du nhập từ nước ngoài để nắm chắc tính chất, đối
tượng, chủ thể thờ cúng của hoạt động tín ngưỡng.
Nghiên cứu tạo sự thống nhất về mô hình Ban quản lý đối với các cơ sở
tín ngưỡng, đặc biệt là các cơ sở tín ngưỡng đã được xếp hạng là di tích lịch sử -
văn hóa.
3.2. Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng
Đẩy mạnh việc triển khai Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản pháp
luật liên quan về công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tín ngưỡng
như: Đăng ký hoạt động tín ngưỡng tại cơ sở tín ngưỡng; bầu, cử người đại diện
hoặc thành viên ban quản lý cơ sở tín ngưỡng; tổ chức lễ hội tín ngưỡng; quyên
góp, quản lý và sử dụng tài sản của cơ sở tín ngưỡng; cải tạo, nâng cấp, xây
dựng mới, sửa chữa, di dời công trình tín ngưỡng; các hoạt động lợi dụng tín
ngưỡng vi phạm pháp luật.
Không để người dân xây dựng các điện, phủ tư nhân trái phép nhằm tổ
chức các hoạt động tín ngưỡng tập trung đông người gây mất trật tự xã hội; xử
lý nghiêm việc xây dựng trái phép các cơ sở tín ngưỡng và tổ chức những hoạt
động ảnh hưởng đến văn hóa đạo đức truyền thống và an ninh trật tự tại địa
phương.
Hướng dẫn, tuyên truyền để cộng đồng tín ngưỡng thực hiện nếp sống văn
minh tại các cơ sở tín ngưỡng theo quy định tại Thông tư số 04/2014/TTLT-
BVHTTDL - BNV ngày 30/5/2014 của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch và Bộ
Nội vụ về hướng dẫn thực hiện nếp sống văn minh tại cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo
và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần trong đó đảm bảo đời sống tín ngưỡng, tôn
giáo cho Nhân dân tại địa phương.
Tăng cường công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra việc tổ chức các hoạt
động tín ngưỡng, lễ hội tín ngưỡng, các hoạt động tại cơ sở tín ngưỡng và việc
thực thi các quy định của pháp luật liên quan.
3.3. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về tín ngưỡng
Tuyên truyền, phổ biến, cập nhật thông tin về chủ trương, chính sách pháp
luật của Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng cho những đối tượng thực hành tín
ngưỡng như người đại diện, ban quản lý các cơ sở tín ngưỡng, người chuyên
232
hoạt động tín ngưỡng (thủ nhang, thanh đồng, thầy cúng, thầy mo,...) để họ hiểu
và thực hiện đúng chủ trương, chính sách, pháp luật.
Đẩy mạnh công tác quản lý thông tin qua internet và các ấn phẩm; tuyên
truyền, phổ biến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tín
ngưỡng cho quần chúng Nhân dân; tuyên truyền những giá trị văn hóa, đạo đức
tốt đẹp của tín ngưỡng để Nhân dân giữ gìn và phát huy.
Thống nhất nội dung, định hướng tuyên truyền để đấu tranh với các hoạt
động lợi dụng tín ngưỡng vi phạm pháp luật. Phê phán các hoạt động lợi dụng
tín ngưỡng, tâm linh để vi phạm pháp luật; phê phán các nghi lễ, tín ngưỡng
mang tính hủ tục, tàn bạo, không còn phù hợp với đời sống hiện đại để nâng cao
cảnh giác, không tin theo và không tham gia những hoạt động lợi dụng tín
ngưỡng vi phạm pháp luật.
Không đưa các tin, bài, phóng sự về các hiện tượng “tâm linh”, “ngoại
cảm”, các hiện tượng chữa bệnh bằng các phương pháp không dùng thuốc dưới
danh nghĩa thiền, khí công,… khi chưa có kết luận khoa học, chưa rõ về bản
chất hoạt động để các cá nhân, tổ chức lợi dụng hoạt động khuếch trương thanh
thế gây hoang mang trong dư luận quần chúng Nhân dân trước tình hình dịch
bệnh và ô nhiễm môi trường đang gia tăng.
3.4. Công tác vận động quần chúng có tín ngưỡng
Tín ngưỡng ở nước ta có nhiều loại hình tổ chức và hoạt động rất phong
phú với sự tham gia của đông đảo quần chúng Nhân dân thuộc mọi thành phần
có ảnh hưởng lớn đối với xã hội, nhất là bản sắc văn hóa, đạo đức lối sống, an
ninh trật tự đòi hỏi phải vận động thực hiện đúng chủ trương, chính sách, pháp
luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
Tôn trọng sự tự quản của cộng đồng xã hội, khu dân cư để họ phát huy vai
trò chủ thể của hoạt động tín ngưỡng; tăng cường xã hội hóa quản lý hoạt động
tín ngưỡng, đảm bảo hoạt động tín ngưỡng nhằm giữ gìn, phát huy các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Hoạt động tín ngưỡng còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập cần tăng cường
công tác vận động, hướng dẫn người dân hoạt động tín ngưỡng lành mạnh, phù
hợp với phong tục truyền thống của người Việt, không bị lôi kéo vào các hoạt
động lợi dụng tín ngưỡng vi phạm pháp luật, loại bỏ những tập tục không còn
phù hợp, giữ lại những giá trị truyền thống tốt đẹp.
233
Một số hiện tượng tín ngưỡng biến dạng, bị một số kẻ xấu lợi dụng theo
chiều hướng dung tục hóa, phục vụ mục đích trục lợi, gây thiệt hại về tiền của,
sức khỏe con người; kích động, xúi giục số quần chúng cả tin, quá khích chống
đối chính quyền, đi ngược lại lợi ích chung của cộng đồng gây mất trật tự an
ninh, chính trị xã hội tại một số địa phương cần kiên quyết xóa bỏ. Trong quá
trình thực hiện cần làm tốt công tác vận động, giải thích để tránh tạo những phản
ứng tiêu cực.
Kịp thời biểu dương, khen thưởng những cá nhân, tổ chức có đóng góp
trong việc giữ gìn, phát huy những giá trị tốt đẹp của tín ngưỡng, góp phần xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nguyễn Thị Hiền (2004), “Nghiên cứu tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam
đương đại”, Sự biến đổi của tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất
bản Thế giới, Hà Nội.
- Mai Thanh Hải (2005), Tìm hiểu tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, Nhà
xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
- Chỉ thị số 41-CT/TW về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác quản lý và tổ chức lễ hội, Ban Chấp hành Trung ương, 05/02/2015.
- Công điện số 162/CĐ-TTg về công tác quản lý và tổ chức lễ hội, Thủ
tướng Chính phủ, 09/02/2011.
- Công điện số 229/CĐ-TTg về việc tăng cường công tác quản lý và tổ
chức lễ hội, Thủ tướng Chính phủ, 12/02/2015.
- Quyết định số 308/2005/QĐ-TTg về ban hành Quy chế thực hiện Nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, Thủ tướng Chính phủ,
25/11/2005.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Cần tuyên truyền những nội dung gì để phân biệt được giá trị truyền
thống của tín ngưỡng với mê tín, dị đoan?
2. Hãy nêu những giá trị tốt đẹp của tín ngưỡng cần được giữ gìn, phát
huy và lan tỏa trong cộng đồng xã hội?
3. Nêu những hoạt động lợi dụng tín ngưỡng ảnh hưởng xấu đến đời sống
văn hóa tinh thần của Nhân dân cần tuyên truyền để loại bỏ ra khỏi đời sống
xã hội?
234
Chuyên đề 10
HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO MỚI Ở
VIỆT NAM
1.1. Một số cách hiểu về hiện tượng tôn giáo mới
Các nhà nghiên cứu trên thế giới khi nghiên cứu về hiện tượng tôn giáo
mới thường dùng cụm từ hiện tượng tôn giáo mới, giáo phái, tôn giáo bồng bềnh
hay phong trào tôn giáo mới,… Họ cho rằng hiện tượng tôn giáo mới hay phong
trào tôn giáo mới là những nhóm phái xuất hiện từ nửa sau thế kỉ XX trở lại đây,
phản ánh những nét mới trong sự chuyển biến niềm tin và lựa chọn niềm tin tôn
giáo của nhân loại.
- Theo quan điểm GS. Francoise Champion - Trung tâm nghiên cứu
GSRL Sorbone - Pari, gọi hiện tượng tôn giáo mới là nhóm tôn giáo thiểu số,
nhóm tôn giáo bên lề, nhóm hỗn tạp chủng, nhóm bất tuân phục.
- Các học giả Mỹ - nơi có truyền thống đa nguyên tôn giáo, gọi hiện
tượng này là Phong trào tôn giáo mới. Gọi như vậy là để đối lập với tôn giáo
truyền thống. Nếu tôn giáo truyền thống như thường quan niệm là Kitô giáo, Do
Thái giáo, Islam giáo, Phật giáo, Ấn Độ giáo,... thì những nhóm tôn giáo kiểu
như Kỷ nguyên mới - xuất hiện phổ biến vào thập niên 60 - 70 (thế kỷ XX) trở
lại đây thì gọi là hiện tượng tôn giáo mới.
- ꢀ khu vực Đông Á, giới nghiên cứu Nhật Bản, Trung Quốc thường sử
dụng thuật ngữ tôn giáo mới, tân giáo, tân tôn giáo,… Đây là những hiện tượng
tôn giáo mới được xem là đối lập với tôn giáo truyền thống, xuất hiện sau tôn
giáo truyền thống và có một số hình thái, đặc điểm mới.
Như vậy, theo các nhà nghiên cứu thế giới, hiện tượng tôn giáo mới là
những hiện tượng có tính tôn giáo và mới xuất hiện trong những năm gần đây,
gọi hiện tượng tôn giáo mới là để đối lập với tôn giáo truyền thống. Nếu như tôn
giáo truyền thống là những tôn giáo vốn có lịch sử lâu đời, đã hình thành nên
một hệ thống ổn định, hoàn chỉnh về các phương diện giáo lý, cơ cấu tổ chức,
phương thức hoạt động, lễ nghi,... thì hiện tượng tôn giáo mới có lịch sử ngắn,
chỉ khoảng chục năm hoặc mấy chục năm gần đây.
Ở Việt Nam, vấn đề này được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và cũng
có nhiều tên gọi khác nhau như: giáo phái, hiện tượng tôn giáo mới, tạp giáo, tà
235
đạo, tà giáo, đạo lạ… tuy nhiên tất cả các tên gọi trên đều chỉ một hiện tượng có
tính tôn giáo mới xuất hiện trong thời gian gần đây, và với nhiều nhà nghiên cứu
thì họ thường nghiêng về thuật ngữ hiện tượng tôn giáo mới, đến nay thuật ngữ
này đã được dùng một cách rộng rãi bởi 4 lý do sau:
Một là, gọi đó là hiện tượng tôn giáo mới vì đây là những hiện tượng có
tính tôn giáo, xuất hiện trong thời gian gần đây nhằm tập hợp một số người xung
quanh một nhân vật tự xưng là "Đấng tiên tri", hóa thân của thần linh, siêu
nhiên, có những quyền năng phi thường đứng ra thành lập; có giáo lý riêng được
nhào nặn, lắp ghép từ nhiều nguồn sơ sài; có tổ chức lỏng lẻo; có nghi lễ riêng
hay cách thức thực hành nghi lễ nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ là những hiện
tượng có tính tôn giáo, chưa thể hiện với tư cách là một tôn giáo.
Hai là, gọi là tà đạo thì lại phải đặt trong mối quan hệ với chính đạo, vậy
lấy đạo nào làm chính đạo để phân biệt với tà đạo, đó chưa nói là một số hiện
tượng chưa hẳn đã là tà đạo.
Ba là, gọi là giáo phái thì đã khẳng định nó thuộc về một tôn giáo chủ lưu
nào đó tự tách ra thành một giáo phái độc lập.
Bốn là, nếu gọi là đạo lạ thì đây cũng chỉ là một phương diện (một nhóm)
nằm trong khái niệm hiện tượng tôn giáo mới và danh xưng "đạo lạ" khá trung
tính, dễ nhận được sự chấp nhận của người dân, cũng như cơ quan quản lý nhà
nước. Bởi lẽ, để chỉ hiện tượng này trong nhiều năm trước đã dùng các thuật
ngữ, "tà giáo", "giáo phái", "hệ phái" một cách chưa rõ ràng.
Khái niệm đạo lạ cũng là một phương diện (một nhóm) nằm trong khái
niệm hiện tượng tôn giáo mới và danh xưng đạo lạ khá trung tính, dễ nhận được
sự chấp nhận của giới bình dân cũng như cơ quan quản lý nhà nước. Bởi lẽ để
chỉ hiện tượng này trong nhiều năm trước, chúng ta hay dùng các thuật ngữ
như tà giáo, “giáo phái”, “hệ phái” một cách lẫn lộn, thiếu tường minh. Còn khái
niệm hiện tượng tôn giáo mới hiện nay khá hợp lý và những điều dẫn ra nói trên
có thể coi là những đặc điểm đề nhận diện các hiện tượng tôn giáo mới trong đời
sống thực tiễn.
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu bước đầu, khái niệm hiện tượng tôn
giáo mới được hiểu một cách chung nhất như sau:
- Theo nghĩa rộng, khái niệm hiện tượng tôn giáo mới để chỉ những hiện
tượng có tính tôn giáo, mới xuất hiện trong những năm gần đây do một người,
nhóm người tự xưng là “đấng tiên tri” khởi xướng trên cơ sở tổng hợp, vay
236
mượn giáo lý, lễ nghi của các tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống để hình thành
giáo lý riêng; có tổ chức riêng nhưng lỏng lẻo; có nghi lễ hay cách thức thực
hành nghi lễ riêng nhưng ở mức độ là những hiện tượng có tính tôn giáo, chưa
thể hiện với tư cách là một tôn giáo.
- Theo nghĩa hẹp, hiện tượng tôn giáo mới là niềm tin có tính chất tôn
giáo của một nhóm người trong xã hội, vay mượn từ các tôn giáo, tín ngưỡng
truyền thống để sáng tạo nên “nội dung mới”, khác với các tôn giáo, tín ngưỡng
truyền thống nhằm cầu xin về sức khỏe, tài lộc, chữa bệnh và những nhu cầu
thực tiễn của xã hội hiện tại.
- Hiện tượng tôn giáo mới nội sinh, là những hiện tượng tôn giáo mới ra
đời, hình thành ở trong nước.
- Hiện tượng tôn giáo mới ngoại nhập, là những hiện tượng tôn giáo mới
được du nhập từ nước ngoài vào Việt Nam.
1.2. Nguyên nhân hình thành và phát triển các hiện tượng tôn giáo
mới ở Việt Nam
1.2.1. Nguyên nhân khách quan
- Do mặt trái của sự chuyển đổi sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường ở Việt Nam là một trong những điều kiện
cho sự xuất hiện của các hiện tượng tôn giáo mới. Nền kinh tế thị trường cùng
với những quy luật cạnh tranh khắc nghiệt đã khiến cho một bộ phận người dân
trở nên kém tự tin vào đời sống hiện thực nên người ta tìm đến tôn giáo như một
nơi nương tựa tinh thần.
- Đặc biệt, một số người cho rằng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo cũng là
một “nghề”, nhưng để hoạt động trong các tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống thì
không có đủ khả năng, nên họ lập ra các hiện tượng tôn giáo mới để hành nghề.
- Do hậu quả của những bất ổn về tinh thần nhìn nhận sai lệch giá trị văn
hóa, đạo đức, tinh thần truyền thống, trong đó có giá trị tôn giáo.
- Thách thức của toàn cầu hoá và mặt trái của cơ chế thị trường là những
nguyên nhân chính khiến cho nhiều giá trị đạo đức, văn hoá, xã hội truyền thống
bị suy giảm. Bên cạnh đó còn phải kể đến một bộ phận người dân do trình độ
học vấn thấp, nhận thức kém dẫn đến nhận thức sai lệch, dễ tin, dễ theo và dễ bị
lừa, bị mê hoặc tìm đến các hiện tượng tôn giáo mới tin theo điều mê tín dị
đoan, tin theo những điều phản văn hóa đẫn đến các hành động cực đoan.
237
- Sự hạn chế trong việc đáp ứng nhu cầu văn hoá dẫn đến việc một bộ
phận người dân đã tìm đến những loại hình văn hoá khác, trong đó có các hiện
tượng tôn giáo mới để thỏa mãn nhu cầu giao lưu sinh hoạt văn hóa tinh thần mà
các hiện tượng tôn giáo mới bằng nhiều hình thức đã lợi dụng lỗ hổng đó để
xâm nhập, phát triển.
- Quá trình toàn cầu hóa, mở rộng hợp tác quốc tế khiến cho giao lưu giữa
các xã hội, giữa các nền văn hóa ngày càng được tăng cường mạnh mẽ, trong đó
có các hiện tượng mang tính tôn giáo (hiện tượng tôn giáo mới) đã tạo điều kiện
cho một số hiện tượng tôn giáo mới du nhập từ nước ngoài vào Việt Nam. Đồng
thời với quá trình đó là các thế lực thù địch luôn tạo điều kiện cho hiện tượng
tôn giáo mới xâm nhập và hoạt động ở Việt Nam.
- Ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam, tình trạng phân ly tôn
giáo, tín ngưỡng truyền thống đã và đang diễn ra, phản ánh sự đa dạng và phức
tạp của cuộc sống đương đại. Niềm tin vào các tôn giáo truyền thống bị suy
giảm do bị gò bó vào giáo luật khắt khe, nội dung cứng nhắc, lễ nghi rườm rà
với những thể chế lỗi thời so với cuộc sống hiện đại dẫn đến một bộ phận quần
chúng tìm đến những niềm tin mới để bù đắp vào chỗ vắng nội tâm, để có cơ hội
giao lưu với người khác và thổ lộ tâm tình, mong được chia sẻ giúp đỡ họ vượt
qua những điều không vui trong cuộc sống. Vì vậy, con người cũng dễ dàng
chấp nhận các hiện tượng tôn giáo mới.
- Sự xuất hiện nhanh chóng các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam trong
những năm qua một mặt thể hiện nhu cầu tâm linh, mặt khác đã phản ánh những
bất cập của tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống, nhất là các vấn đề suy thoái tư
tưởng, đạo đức lối sống trước tác động của nền kinh tế thị trường, thể hiện qua
những biểu hiện thương mại hoá và thế tục hóa tôn giáo, tín ngưỡng làm cho
tính “linh thiêng” bị giảm sút.
1.2.2. Nguyên nhân chủ quan
- Do một số cán bộ, công chức và chính quyền các cấp chưa nhận thức
đầy đủ, kịp thời về bản chất của các hiện tượng tôn giáo mới; một số địa phương
chưa làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức chính trị, xã
hội cho quần chúng. Nhận thức, quan điểm trong đấu tranh xử lý đối với những
tác động tiêu cực của hiện tượng tôn giáo mới ở một số địa phương nhiều mặt
chưa thống nhất, chưa có sự quan tâm đúng mức.
238
- Công tác quản lý xã hội của một số địa phương chưa hiệu quả, chưa coi
trọng công tác vận động quần chúng, đội ngũ cán bộ, công chức có nhiều hạn
chế đã tạo kẽ hở cho hiện tượng tôn giáo mới nảy sinh, xâm nhập và phát triển.
Bên cạnh đó, hiện nay chưa phân định rõ chức năng quản lý, giải quyết hiện
tượng tôn giáo mới giữa các cấp, các ngành và việc vận dụng khung pháp lý
hiện có như thế nào để giải quyết vấn đề hiện tượng tôn giáo mới cho chính xác
và hiệu quả.
- Công tác xây dựng nếp sống văn hóa mới, xây dựng quy ước, hương ước
ở địa bàn khu dân cư chưa được quan tâm đúng mức cũng là một nguyên nhân
cơ bản cho hiện tượng tôn giáo mới nảy sinh, phát triển ở nhiều địa phương.
1.3. Phân loại các hiện tượng tôn giáo mới
1.3.1. Căn cứ phân loại hiện tượng tôn giáo mới
Phân loại hiện tượng tôn giáo mới là một nội dung quan trọng nhằm xác
định giải pháp cho từng loại hình hiện tượng tôn giáo mới, nhưng việc phân loại
dựa trên những luận cứ nào là một vấn đề cần được xác định và chỉ có như vậy
việc đánh giá, phân loại hiện tượng tôn giáo mới mới đảm bảo tính khách quan,
khoa học.
Có rất nhiều cách phân loại khác nhau về hiện tượng tôn giáo mới, mỗi
cách đều có những ưu thế và dựa vào những tiêu chí nhất định để làm cơ sở
phân loại. Tuy nhiên, các cách phân loại nếu đặt rời rạc thì vẫn chưa thể nào đạt
được sự nhìn nhận tổng thể, khách quan về hiện tượng tôn giáo mới.
Ở Việt Nam, việc phân loại các hiện tượng tôn giáo mới cũng không dễ
dàng bởi tính đa dạng của các hiện tượng tôn giáo mới cũng như mức độ độc lập
và thống nhất của các yếu tố tôn giáo tạo nên loại hình “tôn giáo mới”.
1.3.1.1. Về cơ sở lý luận
- Căn cứ vào lý thuyết, tư tưởng của hiện tượng tôn giáo mới.
- Căn cứ vào mối quan hệ giữa tư tưởng của hiện tượng tôn giáo mới và
giáo lý của các tôn giáo truyền thống mà hiện tượng tôn giáo mới tiếp thu.
- Lý thuyết, tư tưởng của hiện tượng tôn giáo mới và hệ thống tư tưởng
chính thống. Chú ý có sự đồng thuận hay xung đột, hay vừa đồng thuận vừa xung
đột trên một số nội dung cụ thể trong lý thuyết của hiện tượng tôn giáo mới.
1.3.1.2. Về cơ sở thực tiễn
- Phương thức hoạt động và mục đích của hiện tượng tôn giáo mới.
- Ảnh hưởng của các hiện tượng tôn giáo mới đối với kinh tế - xã hội, an
239
ninh, trật tự.
- Thái độ của các tôn giáo truyền thống và các giai tầng xã hội đối với các
hiện tượng tôn giáo mới hiện nay.
1.3.2. Theo cách phân loại thứ nhất (căn cứ vào nguồn gốc hình thành,
nội dung, giáo lý)
- Loại có gốc từ một loại tôn giáo lớn (chủ yếu là Phật giáo).
Loại hình này bao gồm một số loại hiện tượng tôn giáo mới có tên: Long
hoa Di lặc, Chân không, Tiên thiên đại đạo, Đạo Thiên cơ, Phật Mẫu địa cầu,
Chân tu tâm kính, Chân tâm bảo vệ di tích, Tiên Phật nhất giáo, Đạo nghiệp
chướng, Thông thiên vận hội,...
- Loại có nguồn gốc từ tín ngưỡng dân gian.
Loại hình này bao gồm một số loại hiện tượng tôn giáo mới có tên: Đoàn
18 Phú Thọ, Đạo Trần Hưng Đạo, Lạc Hồng Âu cơ, Khổng Minh Thánh đạo
hội, Đạo Cội nguồn, Đạo Tiên, Quốc Tổ Lạc Hồng, Hội Thuyền phái Trúc lâm
Yên tử.
- Loại hỗn dung tư tưởng giáo lý của các hình thức tín ngưỡng, tôn giáo khác.
- Loại từ nước ngoài xâm nhập vào Việt Nam.
Trong các hiện tượng tôn giáo mới thì có một số hiện tượng tôn giáo mới
có nguồn gốc từ nước ngoài, bao gồm: Thanh Hải Vô Thượng sư (từ Đài Loan),
Tam tổ Thánh hiền (từ Đài Loan), Nhất quán đạo (từ Đài Loan),…
Khi phân loại hiện tượng tôn giáo mới theo các tiêu chí này, cần làm rõ
một số nội dung sau:
Thứ nhất, làm rõ được hình thức và hệ lý thuyết của từng loại hiện tượng
tôn giáo mới;
Thứ hai, thấy được sự đan xen, giao thoa các hình thức tín ngưỡng, tôn
giáo ở Việt Nam trong các loại hình hiện tượng tôn giáo mới;
Thứ ba, khẳng định được không có loại hình hiện tượng tôn giáo mới
mang tính độc tôn và loại hình hiện tượng tôn giáo mới mới xuất hiện mà không
có sự tiếp thu tư tưởng của các loại hình tín ngưỡng dân gian truyền thống.
Thứ tư, làm rõ được loại hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện ở trong nước
và loại hiện tượng tôn giáo mới từ nước ngoài xâm nhập vào Việt Nam.
Phân loại hiện tượng tôn giáo mới theo nội dung, giáo lý và nguồn gốc
còn là sự giải thích đầy đủ hơn đặc điểm của hiện tượng tôn giáo mới ở Việt
Nam, đồng thời là cơ sở để có thể phân loại hiện tượng tôn giáo mới theo tính
240
chất hoạt động nhằm xác định nguyên nhân xuất hiện hiện tượng tôn giáo mới
và đề ra được giải pháp đối với từng loại hình hiện tượng tôn giáo mới.
1.2.3. Theo cách phân loại thứ hai (phân loại theo tính chất hoạt động)
Đây là cách phân loại cơ bản nhất, có ý nghĩa trên cả hai phương diện lý
luận và thực tiễn nhằm hiểu chính xác thực chất mỗi loại hình hiện tượng tôn
giáo mới. Phân loại theo tính chất hoạt động là cơ sở quan trọng để xây dựng
được giải pháp chung cũng như giải pháp cụ thể đối với loại hình hiện tượng tôn
giáo mới đang hoạt động ở nước ta hiện nay.
Căn cứ vào các nội dung: tên gọi, xuất xứ hình thành, giáo chủ, quá trình
hình thành, phát triển; tóm tắt giáo lý; một số quy định, giáo lý tôn giáo được
hiện tượng tôn giáo mới tiếp thu; nghi thức thờ phụng, kinh sách; ảnh hưởng;
phân loại và đề xuất biện pháp giải quyết, có thể phân loại các hiện tượng tôn
giáo mới theo tính chất hoạt động thành:
- Loại hiện tượng tôn giáo mới có mầu sắc chính trị tiêu cực, nguy hiểm,
ảnh hưởng xấu đến nhân phẩm con người, bản sắc dân tộc.
- Loại hiện tượng tôn giáo mới tác động cả hai mặt tích cực và tiêu cực
đến đời sống xã hội.
- Loại hiện tượng tôn giáo mới đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy
định của pháp luật, hoạt động không vi phạm pháp luật.
Tuy vậy, sự phân loại chỉ là tương đối vì các hiện tượng tôn giáo mới đều
có những điểm chung, song mỗi hiện tượng tôn giáo mới đều có những đặc điểm
riêng được thể hiện trong quá trình hoạt động của nó và không đứng ngoài 3 loại
hình hiện tượng tôn giáo mới trên. Phân loại hiện tượng tôn giáo mới là phương
pháp cơ bản để xây dựng hệ giải pháp, trong đó phân loại theo tính chất hoạt
động là phương pháp phân loại có cơ sở thực tiễn vững chắc hơn cả nhằm nhận
diện đúng hơn về hiện tượng tôn giáo mới.
1.4. Một số đặc điểm của hiện tượng tôn giáo mới
1.4.1. Về nguồn gốc hình thành
Các hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện và hoạt động ở Việt Nam chủ yếu
dưới hai dạng:
- Nhóm hiện tượng tôn giáo mới từ nước ngoài: Chủ yếu du nhập vào Việt
Nam qua Việt kiều, người Việt Nam đi học tập và lao động ở nước ngoài, cũng
như người Việt lấy người nước ngoài rồi trở về nước truyền bá và tổ chức các
hoạt động, một số hiện tượng tôn giáo mới theo các doanh nhân nước ngoài vào
241
làm ăn kinh tế ở Việt Nam, điển hình là: Thanh Hải Vô Thượng sư, Nhất Quán
Đạo,… Địa bàn xuất hiện và hoạt động của các hiện tượng tôn giáo mới ngoại
nhập chủ yếu là những trung tâm kinh tế lớn của miền Bắc như: Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Hải Dương,…
- Nhóm hiện tượng tôn giáo mới hình thành từ trong nước: Địa bàn xuất
hiện được chia làm hai dạng cơ bản ở hai khu vực khá rõ rệt, tương ứng với hai
nhóm thành phần tộc người.
+ Một là, các hiện tượng tôn giáo mới ảnh hưởng, hỗn dung, cải sửa từ
Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo và các hình thức thờ cúng truyền thống. Dạng
này chủ yếu do người Kinh lập ra, hình thành và phát triển tập trung ở vùng
đồng bằng Bắc Bộ và những nơi có đông người Kinh sinh sống, như: Đạo tràng
niệm Phật, Long Hoa Di Lặc,...
+ Hai là, các hiện tượng tôn giáo mới có nguồn gốc gắn với Công giáo,
Tin lành và một số chưa xác định nguồn gốc.
1.4.2. Về tên gọi
Đa số các “hiện tượng tôn giáo mới” đều cố gắng tạo cho mình một tên
gọi riêng để tránh trùng với tên gọi của các tôn giáo hoặc các “hiện tượng tôn
giáo mới” khác, một số hiện tượng tôn giáo mới có xu hướng sử dụng lại hoặc
sử dụng chung những tên gọi đã trở nên quen thuộc. Điều này có thể do người
đứng đầu, người sáng lập ra các “hiện tượng tôn giáo mới” chủ động dùng
những tên gọi quen thuộc để hấp dẫn người tin theo, nhưng cũng có thể họ từng
là người tin theo những hiện tượng tôn giáo mới đã có, nay muốn tách ra thành
lập một nhóm riêng.
1.4.3. Người đề xướng (người sáng lập, người đứng đầu)
- Người khởi xướng (người sáng lập, người đứng đầu) các hiện tượng tôn
giáo mới ở Việt Nam thì phụ nữ chiếm tỷ lệ khá cao, họ là những người trải qua
nhiều biến động của xã hội, những biến cố trong cuộc sống, đặc biệt là những
bất hạnh của cá nhân và gia đình. Trong thời gian gần đây, xu hướng phụ nữ làm
chủ các hiện tượng tôn giáo mới (do phụ nữ khởi xướng) đang tăng lên đáng kể.
- Trình độ học vấn của đa số người đứng đầu các hiện tượng tôn giáo mới
khá thấp, thậm chí có người không biết chữ.
- Về độ tuổi của người đứng đầu các hiện tượng tôn giáo mới đa phần là
cao niên và trung niên,…
242
- Nghề nghiệp của người đứng đầu khá đa dạng, chủ yếu là công nhân,
nông dân và buôn bán nhỏ. Hầu hết người đứng đầu các hiện tượng tôn giáo mới
có khả năng thuyết giảng trước đông người, xuất khẩu thành thơ, nói năng lưu
loát hấp dẫn người nghe. Đặc biệt, họ đều tự cho rằng có khả năng chữa bệnh
không cần dùng thuốc,...
Người đứng đầu các hiện tượng tôn giáo mới thường tự cho mình là “Phật
sống”, “Thánh sống”, có người trước khi hoạt động tín ngưỡng mắc bệnh tâm
thần lâu ngày, biểu hiện thần kinh không bình thường, sau khi chữa khỏi bệnh
thì tự nhận mình có khả năng kết nối với người âm, nhận được sóng tâm linh,…
tự cho mình có khả năng “chữa bệnh tâm linh”.
1.4.4. Về người tin theo
Người tin theo các hiện tượng tôn giáo mới cũng chủ yếu là phụ nữ ở độ
tuổi trung niên và cao niên; nghề nghiệp chủ yếu là nông dân, công nhân, buôn
bán nhỏ; hầu hết thuộc nhóm trình độ học vấn trung bình,... Đáng chú ý hiện nay
là tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên, hưu trí và đương chức có tình trạng
những người có vị thế xã hội, có học vấn cao cũng tin theo các hiện tượng tôn
giáo mới. Người tin theo các hiện tượng tôn giáo mới phần đông là những người
gặp rủi ro, bế tắc trong cuộc sống; ốm đau, bệnh tật, nghèo khó31.
1.4.5. Về giáo lý, giáo luật, kinh sách
- Kinh sách của các hiện tượng tôn giáo mới hiện nay có thể chia thành ba
nhóm: (1) là sự kết hợp giữa kinh sách của một tôn giáo truyền thống với kinh
sách do người đứng đầu sáng tác (VD: Kinh sách của Long Hoa Di Lặc); (2)
Chiếm đa số, kinh sách thuần túy do người đứng đầu sáng tác (VD: Kinh sách
của Đạo Luật Ơn Nghĩa và Nhân Nghĩa); (3) Chiếm thiểu số, không viết ra
thành kinh sách cụ thể, mà chỉ là những lời thuyết giáo của người đứng đầu.
- Về giáo lý, giáo luật: Do sự hỗn tạp về nội dung, một cách tương đối, có
thể chia giáo lý của các hiện tượng tôn giáo mới hiện nay thành hai loại hình:
ảnh hưởng từ các tôn giáo truyền thống (Phật giáo, Công giáo, Tin Lành) và ảnh
hưởng từ các hình thức thờ cúng trong dân gian.
+ Trong loại hình ảnh hưởng từ các tôn giáo truyền thống, giáo lý của khá
nhiều hiện tượng tôn giáo mới được chắp vá, pha tạp, cải biên từ lý thuyết, giáo
31 VD. Người tin theo “Hội thánh của Đức Chúa Trời Mẹ” chủ yếu trong độ tuổi từ 18 đến 50, phần nhiều là sinh viên, người làm việc tự do trong lĩnh vực tư nhân. Một số phụ nữ làm nghề nội trợ chuyển từ “Thanh Hải Vô Thượng sư”, đạo “Hoàng Thiên Long” sang “Hội thánh của Đức Chúa Trời Mẹ”. Một số khác do làm ăn thua lỗ, ốm đau, cô đơn, cả tin. Lực lượng đi truyền giáo đa số là lực lượng trẻ, hoạt ngôn sắc xảo, có trình độ học vấn được huấn luyện kỹ năng thuyết giảng và được tổ chức
243
lý, giáo luật các tôn giáo truyền thống (chủ yếu là Phật giáo), nên đã có những
lời khuyên răn hướng thiện, an ủi người dân về mặt tinh thần trước những bất
hạnh, khó khăn trong cuộc sống (đây là điểm làm cho các hiện tượng tôn giáo
mới có thể tồn tại). Đối với nhóm hiện tượng tôn giáo mới có nguồn gốc/liên
quan đến đạo Tin lành, như: Hội thánh “Giê Sùa”, Đạo “Bà Cô Dợ”,... đều chưa
có giáo lý, giáo luật cụ thể; phần lớn dựa vào giáo lý của đạo Tin lành, có những
cải cách khác lạ so với đạo Tin lành truyền thống để thu hút mọi người tin theo.
+ Trong loại hình thức hai, giáo lý của khá nhiều hiện tượng tôn giáo mới
hiện nay ảnh hưởng chủ yếu từ các hình thức thờ cúng trong dân gian, đặc biệt là
thờ cúng Tổ tiên theo nghĩa rộng và thờ Mẫu, nhưng cũng được lý giải để tạo ra
rất khác biệt so với cách thức truyền thống, thậm chí lấy danh nghĩa của các vị
anh hùng dân tộc, danh nhân để viết ra “kinh sách” nên được nhiều người tin theo.
1.4.6. Về hệ thống tổ chức
Đa số các hiện tượng tôn giáo mới không có hệ thống tổ chức hoặc có tổ
chức nhưng lỏng lẻo, không rõ ràng, nửa công khai, nửa bí mật. Ngoài người đề
xướng (người đứng đầu), còn có một số người được phân công làm hội trưởng,
hội phó, thủ quỹ để quản lý số người theo từng địa bàn.
1.4.7. Về cơ sở thờ tự và đối tượng thờ tự
- Tất cả các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam hiện nay đều chưa được
Nhà nước cho phép hoạt động. Do vậy, cơ sở thờ tự chủ yếu nằm trong nhà
riêng của người đứng đầu hoặc xây cơ sở thờ tự trong khuôn viên gia đình. Một
số hiện tượng tôn giáo mới không lập cơ sở thờ tự chung, mà chỉ lập bàn thờ tại
nhà riêng tín đồ, tiêu biểu là nhóm Thanh Hải Vô Thượng sư. Một số hiện tượng
tôn giáo mới không thờ phụng tại gia đình, mà tụ tập đông người thực hành nghi
lễ tại một di tích nổi tiếng như: Đoàn 18 Phú Thọ thường hành lễ tại Đền Hùng.
- Đối tượng thờ tự của hầu hết các hiện tượng tôn giáo mới hiện nay là sự
hỗn dung nhiều tôn giáo và hình thức thờ cúng truyền thống. Đối tượng thờ tự
của đa phần hiện tượng tôn giáo mới hiện nay khá đa dạng, từ nhân vật lịch sử
đến nhân vật huyền thoại, từ thần linh ngoại lai đến thần linh bản địa.
1.4.8. Về phương thức hoạt động
Các hiện tượng tôn giáo mới thường tụ tập sinh hoạt không hợp pháp, lễ
nghi mang tính tập thể, sử dụng các kỹ thuật đa phương tiện hiện đại cũng như
các thủ pháp tâm lý để thu hút sự quan tâm của những “tín đồ" mới; thông qua
mạng internet và một số phần tử phản động về nước để xây dựng và phát triển
244
lực lượng theo hình thức các nhóm đi du lịch hoặc từ dưới miền xuôi lên thuê
nhà dưới hình thức đi làm ăn nhưng thực chất là đi tuyên truyền bất hợp pháp
các hiện tượng tôn giáo mới, “tà đạo”,... Họ sinh hoạt không cần cơ sở thờ tự,
chức sắc hướng dẫn việc đạo mà tụ tập ở gia đình người sáng lập, gia đình các
thành viên hay một địa điểm bìa rừng, bờ sông,… hoạt động lén lút, tuyên
truyền dưới nhiều hình thức. Họ thường xuyên thay đổi địa điểm tụ tập tuyên
truyền nhằm tránh sự phát hiện, xử lý của chính quyền, phát tán tài liệu ở những
nơi đông người, tập trung ở những vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, nơi người dân có trình độ nhận thức còn hạn chế.
2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC HIỆN TƯỢNG TÔN
GIÁO MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Số lượng, sự phân bố và thực trạng hoạt động của các hiện tượng
tôn giáo mới ở Việt Nam
Hiện nay trên cả nước có hoạt động của khoảng 83 “hiện tượng tôn giáo
mới” và một số hiện tượng liên quan đến tín ngưỡng, tâm linh. Các hiện tượng
tôn giáo mới xuất hiện dưới 2 dạng: hiện tượng tôn giáo mới từ nước ngoài du
nhập vào Việt Nam (hiện tượng tôn giáo mới ngoại nhập) và hiện tượng tôn giáo
mới hình thành từ trong nước (hiện tượng tôn giáo mới nội sinh).
Các hiện tượng tôn giáo mới đa phần gắn với hoặc gần với một tôn giáo
đã được Nhà nước công nhận, đặc biệt là các tôn giáo lớn như Phật giáo, Công
giáo Tin lành...
Các hiện tượng tôn giáo mới thường xuất hiện và phát triển mạnh ở vùng
nông thôn, vùng sâu xa, nhất là địa bàn khu vực đồng bằng sông Hồng, Tây Bắc,
Tây Nguyên và Tây Nam bộ, đã thu hút được một số lượng người tin theo, như:
- Nhóm Tâm linh liên quan đến lợi dụng danh xưng Chủ tịch Hồ Chí Minh
(với khoảng trên 20 tên gọi khác nhau: “Đạo Bà Điền”, Nguyễn Điền, Hoàng
Thiên Long, Ngọc Phật Hồ Chí Minh, “Đạo Bác”, “Đạo Bác Hồ”, Đạo Thanh
minh vì dân tộc, Văn hóa tâm linh vô sản Hồ Chí Minh, Đạo “Bà Cấm”, Đạo
“Bà Lương”, Đạo luật Ơn nghĩa và Nhân nghĩa,… hoạt động ở trên 30 tỉnh,
thành phố trong cả nước.
- Long Hoa Di Lặc (tên gọi khác: Long Hoa Chính pháp, Long Hoa Tam
muội, Long Hoa Tam hội, Hội Phật Tiên Long Hoa Di Lặc, Pháp môn Di Lặc ,
Đạo “Bà Ân”, Đạo Long Hoa,….) là một pháp tu được tiếp thu từ nhiều tôn giáo
để xây dựng lên như: Phật giáo, Công giáo, Cao đài, Bửu Sơn Kỳ hương, Phật
245
giáo Hòa Hảo,…Sau đó, Long hoa Di Lặc đã xuất hiện và hoạt động tại 31/63
tỉnh, thành phố trên cả nước. Hiện nay Long Hoa Di Lặc hoạt động chủ yếu ở
Hòa Bình, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Bắc Giang, Hà Nội, Quảng Ninh, Vĩnh
Phúc, Hải Dương, Thái Bình, Thanh Hóa, Lâm Đồng.
- Hội thánh của Đức Chúa Trời Mẹ, dù mới chỉ xuất hiện tại Việt Nam
chưa lâu, song, đã phát triển mạnh và hoạt động bất hợp pháp ở hơn 30 tỉnh,
thành phố với hàng nghìn người tham gia, nhất là ở Hải Phòng, Quảng Ninh,
Ninh Bình, Thái Bình, Thanh Hóa,…
2.2. Tác động của các hiện tượng tôn giáo mới đối với đời sống xã hội
Sự xuất hiện, hoạt động của các hiện tượng tôn giáo mới, hiện tượng liên
quan đến tín ngưỡng, tâm linh đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống
xã hội.
2.2.1. Về tác động tích cực
Một số hiện tượng tôn giáo mới có xu hướng tích cực đã phần nào đáp
ứng được nhu cầu tinh thần, bù đắp tâm lý và niềm tin trước những khó khăn
trong cuộc sống của một bộ phận Nhân dân; một số nhấn mạnh đến hình thức
sinh hoạt đơn giản, tiết kiệm, phù hợp với nhóm yếu thế trong xã hội. Một số
hiện tượng tôn giáo mới tập trung sinh hoạt dưới hình thức thiền với mong muốn
rèn luyện nâng cao sức khỏe, chữa bệnh bằng các bài thuốc đơn giản giảm chi
phí kinh tế, tạo ra hi vọng cho những người nghèo có niềm tin vào cuộc sống.
Nội dung kinh sách giáo lý, các buổi thuyết giảng của một số hiện tượng
tôn giáo mới cũng đã tập trung vào vấn đề chống tiêu cực xã hội như: phê phán
nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phê bình thói hư tật xấu của các chức sắc
tôn giáo lớn ở nước ta hiện nay, bài trừ những hoạt động mê tín trong đời sống
tôn giáo,… Những nội dung này ở một chừng mực nào đó có thể được coi là sự
phản biện xã hội.
Một số hiện tượng tôn giáo mới có nội dung sinh hoạt gắn với việc đề cao
những người anh hùng có công với đất nước, dân tộc, khuyên người tin theo bài
trừ mê tín dị đoan, sửa đổi tập tục tang ma, bỏ những tật xấu trong cuộc sống.
Đây là những yếu tố thuận lợi trong việc đảm bảo các mối quan hệ trong gia
đình và cộng đồng được tốt đẹp hơn.
Một số hiện tượng tôn giáo mới còn có những hoạt động thiết thực đóng
góp cho xã hội, tích cực tham gia các hoạt động an sinh xã hội ở địa phương như
246
đóng góp quỹ xóa đói giảm nghèo, xây dựng nhà tình nghĩa, hỗ trợ đồng bào bị
lũ lụt, tham gia bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu,…
Việc xuất hiện các hiện tượng tôn giáo mới làm cho các tín ngưỡng, tôn
giáo truyền thống phải tăng cường củng cố đức tin cho tín; điều chỉnh lễ nghi
phù hợp, kịp thời với những biến đổi của đời sống kinh tế, xã hội, đáp ứng tốt
hơn đời sống tâm linh cho tín đồ và nhân dân.
2.2.2. Về tác động tiêu cực
Một số hiện tượng tôn giáo mới trong quá trình tuyên truyền và phát triển
đã liên hệ đến mặt trái, tiêu cực trong đời sống xã hội để liên hệ sang vấn đề
chính trị. Nhận thức của những người theo hiện tượng tôn giáo mới đôi khi thái
quá và sai lệch, do đó họ dễ bị các thế lực xấu lợi dụng.
Hoạt động của các hiện tượng tôn giáo mới cũng gây ra những ảnh hưởng
nhất định về kinh tế. Trước hết là tổn thất về kinh tế cho chính bản thân những
“tín đồ” theo hiện tượng tôn giáo mới vì họ phải bỏ cả công ăn việc làm để tham
gia hoạt động “đạo”; một số người có sức khỏe yếu, bệnh tật hiểm nghèo tìm
đến với các hiện tượng tôn giáo mới để nuôi hy vọng chữa khỏi bệnh nên đã
phải bỏ ra kinh phí lớn. Nhiều người đứng đầu hoặc có vai trò chủ chốt trong
các hiện tượng tôn giáo mới thu tiền trái phép của “tín đồ”, dùng tiền của “tín
đồ” để tư lợi “vinh thân phì gia”, trái với lời rao giảng “xả phú cầu bần” của họ.
Một số hiện tượng tôn giáo mới tuyên truyền ‘tín đồ” theo “đạo” sẽ được sung
sướng, “không làm mà có ăn”, khiến “tín đồ” bê trễ sản xuất kinh doanh32. Việc
in ấn kinh sách, xây sửa nơi thờ tự, nghi lễ thờ cúng gây phiền hà, tốn kém công
sức, tiền bạc của nhân dân, việc tổ chức các cuộc viếng thăm, hành hương, tham
quan,… kết hợp với sinh hoạt tôn giáo trái phép ở nơi công cộng, gây tốn kém
tiền của, ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội.
Một số hiện tượng tôn giáo mới xuyên tạc lịch sử, phá hoại đạo đức và
thuần phong mỹ tục văn hoá của dân tộc, chống đối, nói xấu chế độ, tuyên
truyền làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; có biểu hiện
xâm phạm nhân phẩm, sức khỏe con người, gây ảnh hưởng tới các mối quan hệ
xã hội, làm thay đổi và xáo trộn về nếp sống, tập quán truyền thống của nhân
dân; tuyên truyền cách thức thực hành tín ngưỡng phản khoa học, phi đạo đức,
32 Người theo Hội thánh của Đức Chúa Trời Mẹ phải đóng 10% thu nhập cho người đứng đầu. Đạo Long Hoa Di
lặc yêu cầu tín đồ tu tại gia, không cần làm, chỉ cần cầu khấn là có ăn. Khi ốm không cần thuốc, chỉ uống rượu
pha nước lã đặt trên bàn thờ là khỏi, kể cả gia súc và cây cối.
247
văn hóa nhằm thu lợi bất chính; tuyên truyền và thực hành những hoạt động có
yếu tố mê tín dị đoan,…
Một số hiện tượng tôn giáo mới bài xích các tôn giáo truyền thống, đả
kích vào các vị giáo chủ của tôn giáo chính thống. Điều này đã gây bức xúc
trong chức sắc, nhà tu hành của các tôn giáo chính thống, chia rẽ khối đại đoàn
kết dân tộc, tiềm ẩn nguy cơ có sự xung đột về tôn giáo.
Một số các hiện tượng tôn giáo mới có xu hướng chống đối và bất hợp tác
với chính quyền, nhất là những đối tượng cầm đầu, cốt cán luôn tránh mặt không
tiếp xúc với cán bộ, các đoàn công tác; không nghiêm chỉnh thực hiện những chủ
trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Những hoạt động
lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng trái phép của các hiện tượng tôn giáo mới làm gia
tăng các “điểm nóng” về an ninh chính trị, trật tự xã hội.
Việc chuyển đổi từ những tôn giáo, tín ngưỡng chính thống sang các hiện
tượng tôn giáo mới đã có nhiều ảnh hưởng đa chiều, phức tạp đến xã hội, trong
đó có việc hình thành các cộng đồng dân cư cùng theo một hiện tượng tôn giáo
mới. Tính cố kết của những cộng đồng này có biểu hiện lấn át các hình thức cố
kết cộng đồng truyền thống theo dòng họ, theo cộng đồng cùng dân tộc trong địa
bàn cư trú và trong nội bộ tôn giáo dẫn đến hệ quả là một số ít chính sách phát
triển kinh tế - xã hội, chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo ở vùng có các
hiện tượng tôn giáo mới hoạt động mạnh bị tác động trực tiếp hay gián tiếp bởi
những tổ chức này.
2.4. Thực trạng công tác đối với các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt
Nam hiện nay
2.4.1. Những kết quả đạt được
- Ban Tôn giáo Chính phủ đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan tham
mưu cho Thủ tướng Chính phủ các chủ trương, công tác đối với các hiện tượng
tôn giáo mới; kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, đồng thời thực
hiện nghiêm túc ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ nhất là trong công tác
tuyên truyền, vận động và ổn định đời sống nhân dân vùng bị ảnh hưởng tiêu
cực của các hiện tượng tôn giáo mới, tà đạo, đạo lạ.
- Các cấp ủy đảng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp chính quyền, các
ban, ngành, đoàn thể ở địa phương làm tốt công tác tôn giáo; kiên quyết đấu
tranh đẩy lùi hoạt động trái phép của các hiện tượng tôn giáo mới, không để
những thế lực xấu lợi dụng hiện tượng tôn giáo mới thành những hoạt động
248
chính trị, đối lập với chính quyền nên đã hạn chế được phần nào sự phát triển
tràn lan và những tác động tiêu cực của các hiện tượng tôn giáo mới; quần chúng
nhân dân đã đồng tình với chủ trương, biện pháp đấu tranh, xử lý của chính
quyền đối với các hoạt động lợi dụng hiện tượng tôn giáo mới.
- Công tác quản lý nhà nước đối với hiện tượng tôn giáo mới đã có
chuyển biến theo hướng chủ động hơn, không để bị động chạy theo giải quyết
những vụ việc xảy ra. Các địa phương quan tâm giải quyết các nhu cầu, nguyện
vọng chính đáng của chức sắc, chức việc tín đồ các tôn giáo, phát huy tốt vai trò,
ảnh hưởng của các tôn giáo chính thống, góp phần gián tiếp làm giảm sự gia
tăng của các hiện tượng tôn giáo mới mang màu sắc cực đoan, tiêu cực.
- Các địa phương thường xuyên cung cấp thông tin rộng rãi để Nhân dân
biết và lựa chọn tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp; tuyên truyền, vận động Nhân dân
không nghe, tin theo các hiện tượng tôn giáo mới, đạo lạ, tà đạo mang màu sắc
cực đoan; vận động quần chúng nhân dân mạnh dạn tố giác, lên án các hành vi
vi phạm pháp luật của các hiện tượng tôn giáo mới, tà đạo, đồng thời tích cực
tham gia vào việc phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh xóa bỏ hoạt động tà đạo tại
các địa phương.
- Công tác nắm tình hình hoạt động của các hiện tượng tôn giáo mới luôn
được các địa phương quan tâm chú trọng, vì thế nhiều hoạt động trái pháp luật
của các hiện tượng tôn giáo mới, tà đạo, hoạt động của một tổ chức hội, nhóm
trái pháp luật mang danh nghĩa tôn giáo đã được phát hiện kịp thời, từ đó có
phương hướng, biện pháp giải quyết cụ thể.
- Theo chức năng, nhiệm vụ được giao, các sở, ngành và chính quyền cơ sở
các địa phương đã phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn và xử lý kịp thời đối với cá
nhân vi phạm liên quan đến các hiện tượng tôn giáo mới góp phần giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
- Công tác đối với các hiện tượng tôn giáo mới luôn có sự phối hợp thường
xuyên, chặt chẽ của các cơ quan chức năng. Nhiều địa phương đã ban hành quy
chế phối hợp để thống nhất phân công trách nhiệm, huy động sức mạnh của hệ
thống chính trị trong công tác tôn giáo nói chung, công tác đối với các hiện
tượng tôn giáo mới nói riêng.
- Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố đã phối hợp với các cơ quan báo chí ở
trung ương và địa phương cung cấp thông tin, đưa nhiều tin, bài về hoạt động
của các hiện tượng tôn giáo mới vi phạm pháp luật để quần chúng nhân dân
249
nhận diện, tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực;
hướng dẫn các tổ chức tôn giáo, chức sắc, chức việc lên tiếng một cách khách
quan để góp phần làm rõ và đấu tranh với những hành vi lợi dụng tôn giáo vi
phạm pháp luật của các hiện tượng tôn giáo mới, tà đạo.
2.4.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đối với các hiện tượng tôn
giáo mới thời gian qua còn một số tồn tại, hạn chế nhất định:
- Một số các cấp, ngành nhận thức chưa đầy đủ về hoạt động của các
hiện tượng tôn giáo mới nên công tác giải quyết còn lúng túng, thiếu thống nhất
Có địa phương cho đó là “tà đạo”, không coi đó là tôn giáo nên chủ quan,
cho rằng việc giải quyết chẳng mấy khó khăn; có địa phương giải quyết dè dặt,
thận trọng; có địa phương lại nôn nóng giải quyết, trong khi nguyên nhân ra đời,
tồn tại của nó chưa được quan tâm giải quyết. Từ đó, cách giải quyết không
giống nhau, không phù hợp, thậm chí không đúng với chủ trương, chính sách
tôn giáo chung của Nhà nước.
Công tác quản lý nhà nước đối với những hiện tượng này vừa lúng túng,
vừa bất cập
Thực tiễn trong những năm gần đây cho thấy nhiều lúc cơ quan chức năng
chưa xác định rõ được hiện tượng tôn giáo mới nào cần quản lý, nếu quản lý thì
mức độ và phạm vi quản lý đến đâu. Có địa phương chưa thực sự quan tâm đến
công tác quản lý đối với các hiện tượng tôn giáo mới, hoặc xem nhẹ sự ảnh
hưởng, tác động của hiện tượng tôn giáo mới đến đời sống xã hội; chưa thực sự
chú trọng công tác dự báo tình hình cũng như việc nắm bắt thông tin về hiện
tượng tôn giáo mới có khi chưa kịp thời.
- Công tác giải quyết đối với hoạt động của các hiện tượng tôn giáo mới chưa
thực sự phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, quan điểm giữa
các cấp, các ngành về việc xử lý hiện tượng tôn giáo mới chưa thống nhất
Cấp ủy, chính quyền cơ sở có lúc, có nơi chưa quan tâm đúng mức tới
công tác tôn giáo, xử lý các vấn đề liên quan đến tôn giáo còn thiếu kiến quyết,
né tránh. Một số cấp ủy và chính quyền cơ sở chưa thấy được trách nhiệm của
mình trong việc chỉ đạo công tác đối với hiện tượng tôn giáo mới tại địa phương.
Một số ban, ngành, đoàn thể ở cấp cơ sở chưa kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện
vọng của đoàn viên, hội viên, chưa thuyết phục có hiệu quả đối với người tin
theo các hiện tượng tôn giáo mới, đạo lạ, tà đạo.
250
Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở còn chưa nhận thức đầy đủ về các hiện
tượng tôn giáo mới; còn thụ động, lúng túng, thiếu kinh nghiệm trong quá trình
xử lý khi có vụ việc phức tạp phát sinh. Do đó, có những địa phương, mặc dù hoạt
động của một số tổ chức hội, nhóm trái pháp luật mang danh nghĩa tôn giáo diễn
ra công khai nhưng trong báo cáo về tình hình hiện tượng tôn giáo mới trên địa
bàn thì vẫn xác định “chưa phát hiện có hiện tượng tôn giáo mới” trên địa bàn.
- Công tác đấu tranh, ngăn chặn đối với các hiện tượng tôn giáo mới còn
gặp khó khăn; chủ yếu là tuyên truyền, vận động và thuyết phục là chính. Một số
chính quyền cơ sở chưa thật sự coi trọng công tác nắm tình hình, phát hiện các
hoạt động liên quan đến hiện tượng tôn giáo mới, nên các hoạt động này chỉ bị
nhắc nhở, tuyên truyền, đấu tranh khi đã có hoạt động công khai trên địa bàn.
- Đối với các hiện tượng tôn giáo mới hoặc các hoạt động của hiện tượng
tôn giáo mới được xem là phản văn hóa, có màu sắc chính trị, công tác đấu tranh
có việc còn chưa triệt để, thiếu cương quyết và chưa có biện pháp thích hợp. Mặt
khác, trong công tác đấu tranh đối với các hoạt động này còn chưa coi trọng
công tác vận động quần chúng, vì thế đã làm cho hoạt động của các hiện tượng
tôn giáo mới này ít có chiều hướng suy giảm mà còn chuyển hình thức hoạt
động tinh vi hơn, tiếp tục vi phạm pháp luật và để lại những hậu quả tiêu cực.
3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý ĐỐI VỚI HIỆN TƯỢNG TÔN
GIÁO MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY PHỤC VỤ CÔNG TÁC THÔNG
TIN, TUYÊN TRUYỀN
(1) Các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam vẫn tiếp tục hoạt động, tiềm
ẩn nhiều yếu tố gây mất an ninh trật tự, ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh
thần của một bộ phận quần chúng nhân dân; vẫn tiếp tục lợi dụng sự thiếu hiểu
biết của một bộ phận nhân dân để lôi kéo được nhiều người tham gia. Xu hướng
hoạt động của các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam trong thời gian tới sẽ
diễn ra khá phức tạp, vừa có sự tan rã lại vừa có sự nảy sinh mới, liên kết với
nhau. Điều đó cho thấy việc triển khai các giải pháp đối với các hiện tượng tôn
giáo mới ở Việt Nam đòi hỏi phải toàn diện, cả trước mắt và lâu dài, liên quan
đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực.
(2) Phải xác định rõ những hiện tượng tâm linh đã tồn tại hàng nghìn năm
nay, là những hiện tượng xảy ra trong đời sống hàng ngày và lưu truyền từ đời
này sang đời khác. Cần có thái độ nhìn nhận hiện tượng này một cách nghiêm
túc, khách quan và khoa học.
251
(3) Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, các địa phương và quần
chúng nhân dân về các hiện tượng tôn giáo mới. Trong đó, cần nâng cao nhận
thức người dân, làm cho người dân hiểu rõ về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
theo quy định của pháp luật; hiểu rõ tôn giáo hợp pháp được Nhà nước công
nhận; phân biệt nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng với việc lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo và tác hại của nó đối với đời sống xã hội.
(4) Các cơ quan thông tin đại chúng tích cực, kịp thời đưa tin, bài phản
ánh những tác động, ảnh hưởng tiêu cực tới xã hội, các hoạt động trái phép, vi
phạm pháp luật của những người, tổ chức đang tuyên truyền hiện tượng tôn giáo
mới cực đoan, tà đạo trái phép nhằm giúp cho quần chúng Nhân dân hiểu đúng
bản chất của từng loại hình hiện tượng tôn giáo mới phục vụ công tác đấu tranh,
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.
(5) Đẩy mạnh công tác quản lý thông tin qua internet và các ấn phẩm;
không đưa các tin, bài, phóng sự về các hiện tượng “tâm linh”, “ngoại cảm”
chưa có kết luận khoa học, chưa rõ về bản chất hoạt động gây tâm lý hoang
mang, để các cá nhân, tổ chức lợi dụng hoạt động khuếch trương thanh thế.
(6) Quan tâm phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
đồng bào có đạo. Tăng cường xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần phong phú,
lành mạnh cho người dân nhằm tạo “sức đề kháng”, “miễn dịch” mạnh mẽ trước
hoạt động của các hiện tượng tôn giáo mới mang mầu sắc cực đoan, phản văn hóa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nguyễn Phú Lợi (2015), “Nhận diện hiện tượng tôn giáo mới ở Việt
Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Thông tin khoa
học lý luận chính trị, số 6 (7).
- Nguyễn Văn Minh (2014), “Các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11/2014.
- Nguyễn Văn Minh (2009), “Tổng quan về tôn giáo mới trên thế giới và
Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, số 6.
- Nguyễn Văn Minh (2014), “Một số vấn đề về hiện tượng tôn giáo mới
trên thế giới”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 9/2014.
- Nguyễn Văn Minh (2014), “Các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11/2014.
- Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo, Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố. Hồ Chí Minh (2014), Chủ nghĩa hậu
252
hiện đại và phong trào tôn giáo mới ở Việt Nam và thế giới, Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Vụ Tôn giáo, Ban Dân Vận Trung ương (2015), Hỏi đáp một số vấn đề về
đạo lạ, tà đạo ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Mối quan hệ giữa “hiện tượng tôn giáo mới” với tín ngưỡng, tôn giáo
2. truyền thống như thế nào?
2. Cần phải lưu ý những điểm gì trong hoạt động thông tin, tuyên truyền
liên quan đến hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam hiện nay?
3. Khi xuất hiện một hiện tượng tôn giáo mới mà dư luận quan tâm, cần
trích/tìm nguồn thông tin ở đâu để tuyên truyền đảm bảo khách quan, chính sách
và phù hợp về mức độ?
4. Việc lợi dụng vấn đề “hiện tượng tôn giáo mới”, “đạo lạ”, “tà đạo” ở
nước ta của các thế lực xấu, thù địch có gì cần lưu ý?
253
PHẦN THỨ HAI
CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
Ở VIỆT NAM
Chuyên đề 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ NIN VÀ
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN GIÁO
1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ NIN VỀ TÔN GIÁO
1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về chức năng xã hội của tôn giáo
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tôn giáo là một hình thái ý thức
xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc xã hội, là một hiện tượng tinh thần, phản ánh
tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Do vậy, tôn giáo có quan
hệ mật thiết và chịu sự chi phối của tồn tại xã hội.
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, các giai cấp thống trị thường sử dụng tôn giáo
làm liều thuốc an thần để ru ngủ quần chúng, hòng thủ tiêu tinh thần đấu tranh
của họ. C.Mác chỉ rõ: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo
nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo
là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái
tim, cũng như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là
thuốc phiện của nhân dân”33. V. I Lênin cho rằng câu nói đó “là hòn đá tảng của
toàn bộ quan điểm của C.Mác về vấn đề tôn giáo”34 đồng thời nhấn mạnh “Tôn
giáo là thứ rượu tinh thần”, mà giai cấp thống trị dùng để mê hoặc quần chúng35.
Trong quan điểm đó C.Mác không chỉ thấy tính “ru ngủ” hay tiêu cực của
tôn giáo, mà còn nhấn mạnh đến sự tồn tại tất yếu của tôn giáo với tư cách một
thứ thuốc giảm đau được dùng để xoa dịu những nỗi đau trần thế. Quan điểm
trên của C.Mác đã được Fiden Cartro giải thích rõ: “Xét từ quan điểm chính trị,
tôn giáo tự nó không phải là thuốc phiện hoặc một phương thuốc diệu kỳ. Nó có
thể là thuốc phiện hoặc một phương thức diệu kỳ tùy theo người ta dùng nó hay
ứng dụng nó để bênh vực những kẻ áp bức, những kẻ bóc lột, hoặc để bảo vệ
những người bị áp bức và bị bóc lột, tùy theo cái cách người ta đề cập đến
33. C.Mác và Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.570. 34. V. I Lênin Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tập 17, tr.511. 35. V. I Lênin Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tập 12, tr.170.
254
những vấn đề chính trị, xã hội hay vật chất của con người, sinh ra và phải sống
trên đời này, không lệ thuộc vào thần học và niềm tin tôn giáo”36.
Cùng quan điểm trên các nhà nghiên cứu đã xét bối cảnh lịch sử khi ra đời
câu nói của C.Mác là lúc người dân cùng cực, bất công áp bức, người dân sống
trong đau khổ dưới nền quân chủ chuyên chế Đức, gắn với lực lượng bảo thủ là
Giáo hội Công giáo La Mã thì tôn giáo - thuốc phiện có tác dụng giảm đau, là
niềm tin, sự hy vọng, mong chờ của con người vào một thế giới, một tương lai
tốt đẹp hơn. Điều này cũng có nghĩa tôn giáo là nhu cầu tinh thần của nhân dân,
do con người tạo ra.
Nghiên cứu sự tồn tại và phát triển của tôn giáo trong lịch sử nhận loại, các
nhà kinh điển đã lưu ý đến chức năng xã hội của tôn giáo đó là chức năng phản
ánh, phản kháng của tôn giáo đối với hiện thực xã hội.
Với chức năng phản ánh, tôn giáo đã phản ánh sự nghèo nàn, sự khốn cùng
của xã hội hiện thực. Sự khốn cùng ấy chính là những bất hợp lý trong mối quan
hệ giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên, là vấn nạn của xã
hội, mặt trái xã hội, sự hạn chế của khoa học và nhận thức của con người đã tạo
ra khoảng trống trong đời sống tâm linh của con người nên họ cần đến tôn giáo
như một liều thuốc an thần để xoa dịu những nỗi đau, sự bất hạnh mà họ đang
phải chịu đựng. Khi nghiên cứu đạo Cơ Đốc sơ kỳ Ăngghen đã thừa nhận sự ra
đời của tôn giáo này như là sự phản ánh khát vọng của những người nô lệ và
trong bản thân nó có những điểm tương đồng với lý tưởng của chủ nghĩa xã hội.
Ông viết: “Trong lịch sử đạo Cơ Đốc sơ kỳ có những điểm giống đáng lưu ý với
phong trào công nhân hiện đại, đạo Cơ Đốc nảy sinh như là một phong trào của
những người bị áp bức; lúc đầu nó là tôn giáo của những người nô lệ và nô lệ đã
được tha, của người nghèo và người vô quyền, của các dân tộc bị La Mã chinh
phục hoặc đuổi đi tản mát. Cả đạo Cơ Đốc lẫn chủ nghĩa xã hội công nhân đều
tuyên truyền sự giải phóng con người trong tương lai khỏi cảnh nô lệ và nghèo
khổ”37.
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, tôn giáo vừa có chức năng phản ánh vừa
có chức năng phản kháng chống lại hiện thực xã hội, chống lại sự áp bức bất
công trong xã hội theo quan điểm: “Sự khốn cùng của tôn giáo vừa là biểu hiện
của sự khốn cùng hiện thực, vừa là sự phản kháng chống lại tình trạng khốn
36. Fiden và tôn giáo-những cuộc trao đổi với linh mục Freibetto, UBĐKCG TP. Hồ Chí Minh, 1986, tr.288-289. 37. C.Mác - Ph.Ăngghen Toàn tập, tr.22, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1995, tr.663.
255
cùng của hiện thực ấy”38. Sự phản kháng ấy tôn giáo nhằm chống lại những bất
cập của đời sống hiện thực. Đây là sự phản kháng mang tính tích cực để thúc
đẩy sự phát triển của xã hội, bởi đó cũng là chức năng thức tỉnh của tôn giáo như
C. Mác đã chỉ rõ: “thay vì tác động ru ngủ, thuốc phiện lại gây tác động thức
tỉnh”39.
Tuy vậy, đứng trên lập trường duy vật vô thần triệt để, chủ nghĩa Mác -
Lênin dù có thừa nhận những giá trị tích cực nhất định trong việc phản kháng
chống lại tình trạng tiêu cực, song vẫn phê phán tôn giáo ở khía cạnh hướng con
người vào một thế giới ảo tưởng, an ủi họ quên nỗi đau khổ ở cuộc sống hiện
thực và hứa hẹn sự đền bù cho họ ở một thế giới siêu nhiên thay vì phải hướng
con người đến khắc phục những khổ đau ở cuộc sống trần thế bằng nghị lực,
dũng cảm sáng tạo vượt qua nỗi đâu trong xã hội hiện thực.
Ăngghen đã chỉ ra điểm khác nhau căn bản giữa đạo Cơ Đốc và chủ nghĩa
xã hội, đó là: “Đạo Cơ Đốc tìm sự giải thoát ấy trong cuộc sống trên trời, ở thế
giới bên kia sau khi chết, còn chủ nghĩa xã hội thì tìm nó ở thế giới bên này, ở
việc tổ chức lại xã hội”40. Tuy nhiên, khi đánh giá ảnh hưởng của Công giáo, các
nhà kinh điển đã chỉ ra tính tích cực không chỉ thể hiện ở một thời điểm hay một
khu vực nào, mà gắn liền với lịch sử thế giới. Ph.Ănghen cho rằng: tôn giáo là
"hình thức cảm xúc trong quan hệ của con người đối với các lực lượng xa lạ, tự
nhiên và xã hội" và nó "có thể thích ứng được với tất cả mọi tình hình"41. Điều
đó cho thấy, tôn giáo có thể tiếp tục tồn tại lâu dài và ảnh hưởng đến đời sống
người dân. Trên cơ sở đó khi đánh giá về ảnh hưởng tích cực của Công giáo,
Ph.Ănghen cho rằng đó là tôn giáo mà người dân La Mã ưu thích vì nó đã đáp
ứng được đời sống tâm linh của họ. Lịch sử đã chứng minh rằng khi ra đời ở
phía Đông đế quốc La Mã cổ đại, Công giáo đã là chỗ dựa tinh thần cho người
dân, ban đầu là người nghèo, người bị áp bức bóc lột và dần trở thành một tôn
giáo có vị thế trong xã hội La Mã: một tôn giáo "được quần chúng nhân dân của
đế quốc La Mã ưa thích hơn tất cả các tôn giáo khác"42.
Như vậy, mặc dù còn hạn chế, nhưng xét trên quan điểm phát triển, sự phản
ánh, phản kháng chống lại hiện thực xã hội hay chức năng thức tỉnh của tôn
giáo là xu hướng tích cực, là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Về mặt chính
38. C. Mác-Ph. Ăngghen: toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, H.1995, tập 1, tr.570. 39. C. Mác-Ph. Ăngghen: toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, tập 15, tr.682. 40. C.Mác - Ph.Ăngghen Toàn tập, t.22, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1995, tr.663. 41 . C.Mác và Ph.Ăngghen, t.1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.438. 42 . C.Mác và Ph.Ăngghen, t.1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.436.
256
trị, nó có tính phản biện buộc các nhà nước, các thể chế chính trị phải thay đổi
lại chính sách để hạn chế những mặt tiêu cực, cải thiện cuộc sống người dân. Về
mặt xã hội, nó tạo ra sự đồng thuận, hài hòa giữa các giai tầng, các thành viên
trong xã hội. Về mặt văn hóa, nó dẫn đến sự hội nhập văn hóa tôn giáo vào các
nền văn hóa bản địa tạo nên tính đa dạng, phong phú của các nền văn hóa.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về sự tồn tại và biến đổi của
tôn giáo
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tôn giáo là một hình thái ý thức
xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc, có quan hệ mật thiết và chịu sự chi phối của
tồn tại xã hội. Bởi vậy, khi xem xét cơ sở tồn tại và biến đổi của tôn giáo, trước
hết phải tìm hiểu nguồn gốc sản sinh ra nó.
Khi xem xét nguồn gốc sản sinh ra tôn giáo, C.Mác đã khẳng định những
cơ sở trần tục gắn với tôn giáo chính là Nhà nước, là xã hội. Trong Nhà nước, xã
hội hiện thực có những kết cấu phức tạp bởi nhiều yếu tố và nhiều mối quan hệ
liên quan đến đời sống vật chất và tinh thần của con người. Trong đó, sản xuất
vật chất giữ vai trò quan trọng nhất, là cơ sở khách quan quyết định đến mọi
quan hệ, hiện tượng xã hội và tôn giáo. Theo C. Mác, căn nguyên sâu xa nhất
của sự tồn tại của tôn giáo là do những bất hợp lý trong các mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên, giữa con người với con người.
Theo C.Mác, tôn giáo chỉ thay đổi khi bản thân tồn tại xã hội được thay
đổi. Giải quyết vấn đề tôn giáo chỉ thực hiện được khi bản thân hiện thực nảy
sinh tôn giáo được thay đổi, cải tạo. Theo C.Mác, chỉ khi nào con người được
giải phóng, xây dựng được một xã hội đặt dưới sự kiểm soát một cách tự giác,
có kế hoạch, sản xuất phát triển tới trình độ cao và những điều kiện vật chất
khác để con người có thể làm chủ được tự nhiên, xã hội và bản thân mình, thì
khi đó tôn giáo mới mất đi. Nhưng đó phải là một quá trình phát triển rất lâu dài
và khó khăn, gian khổ.
Vì vậy, theo Mác - Lênin muốn khắc phục những ảnh hưởng xấu của tôn
giáo, giải phóng quần chúng khỏi ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải tạo lập
được một thế giới hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói, thất học…
Trong xã hội ấy người dân được sống ấm no, hạnh phúc, không còn kỳ vọng
trông chờ đến “sự đền bù hư ảo” của tôn giáo. Phải đấu tranh xóa bỏ thứ “thuốc
phiện”, “thứ rượu tinh thần” ấy và “đấu tranh chống tôn giáo là gián tiếp đấu
257
tranh chống cái thế giới mà lạc thú tinh thần của nó là tôn giáo”43 nghĩa là đấu
tranh xóa bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo để tôn giáo thực sự trở
thành nhu cầu tinh thần của nhân dân, chứ không phải là chống tôn giáo, chống
niềm tin của quần chúng nhân dân.
Theo Ph.Ăngghen, tôn giáo chỉ mất đi khi xóa bỏ chế độ tư hữu và thực
hiện chế độ chiếm hữu xã hội về tư liệu sản xuất; xã hội sử dụng tư liệu sản xuất
có kế hoạch; con người có thể tự quyết định được hành động của mình, “khi nào
con người không chỉ mưu sự, mà lại còn làm cho thành sự nữa, thì chỉ khi đó,
cái sức mạnh xa lạ cuối cùng hiện nay vẫn còn đang phản ánh vào tôn giáo mới
sẽ mất đi và cùng với nó bản thân sự phản ánh có tính chất tôn giáo cũng sẽ mất
đi, vì khi đó sẽ không có gì để phản ánh nữa”44.
Theo chủ nghĩa Mác, để thay đổi, cải tạo xã hội ấy, nguồn gốc làm nảy sinh
tôn giáo không thể là một sớm, một chiều, một giai đoạn mà phải là một quá
trình cách mạng lâu dài, gian khổ gắn liền với cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới. Cũng không thể làm điều đó bằng cách đánh tan, xóa bỏ những thành kiến
với tôn giáo bằng việc tuyên truyền, giáo dục hay mệnh lệnh hành chính đơn
thuần. Sự phát triển của tôn giáo trong xã hội hiện đại cho thấy, cơ sở tồn tại và
điều kiện mất đi của nó rất phức tạp. Vì con người ngày nay vẫn chưa xử lý
được một cách thỏa đáng và hợp lý mối quan hệ đối lập giữa cái chủ quan và
khách quan, giữa lý tưởng và hiện thực, giữa tất nhiên và ngẫu nhiên, giữa hữu
hạn và vô hạn, giữa đau khổ và vui sướng, giữa tình cảm và lý trí, giữa mục đích
và kết quả,… Ngày nay, con người vẫn phải đối mặt với những nỗi bất hạnh cá
nhân, những cảm giác trống rỗng, thiếu hụt và mất cân bằng về tâm lý trước dịch
bệnh hiểm nghèo, hiểm họa thiên tai, chiến tranh, sự chênh lệch giàu nghèo, rủi
ro, sự khác nhau về trình độ nhận thức. Đó là những cơ sở cho tôn giáo tiếp tục
tồn tại và phát triển.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội nên sự biến đổi của nó luôn gắn liền với
sự biến đổi của lịch sử nhân loại dựa trên những điều kiện kinh tế-xã hội nhất
định. C.Mác đã chỉ ra cơ sở tồn tại và biến đổi của tôn giáo theo nguyên tắc xã
hội nào tôn giáo ấy với luận điểm nổi tiếng Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra
tôn giáo. Đồng tình với quan điểm trên L.Phơibách cho rằng: “Con người sáng
tạo ra tôn giáo”, nhưng Mác đã bổ sung làm rõ cơ sở xã hội của nó. Theo Ông,
con người sáng tạo ra tôn giáo không phải là những con người trừu tượng mà là
43. C. Mác-Ph. Ăngghen: toàn tập, Sđd, Tập 1, tr.570.
44 C. Mác-Ph. Ăngghen: toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, tập 20, tr.438-439.
258
những con người của hiện thực “là thế giới những con người, là nhà nước, là xã
hội. Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo”45. Cái “Nhà nước ấy, xã hội
ấy” chính là những đặc điểm địa lý tự nhiên, truyền thống lịch sử, cơ sở kinh tế,
đặc trưng xã hội, văn hoá, phong tục, tập quán, tâm lý, lối sống của mỗi dân tộc,
quốc gia, khu vực sản sinh ra tôn giáo. Đây là vấn đề có tính phương pháp luận
quan trọng để lý giải về sự khác nhau giữa tôn giáo ở nơi này với tôn giáo ở nơi
khác, giữa tôn giáo phương Đông và tôn giáo phương Tây, tôn giáo của dân tộc
này với tôn giáo của dân tộc khác, tôn giáo của thời đại này với tôn giáo ở thời
đại khác,...
1.3. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề
tôn giáo
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng giải phóng quần chúng khỏi ảnh hưởng của
tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới. Do vậy, trong khi các nhà duy vật vô thần chỉ biết phê phán bản thân
tôn giáo thì C.Mác lại không phê phán tôn giáo mà phê phán chính cái hiện thực
đã làm nảy sinh tôn giáo, tức là phê phán sự áp bức, bất công, bạo lực… trong
xã hội đã làm cho con người phải tìm đến với tôn giáo. Muốn hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của tôn giáo đối với quần chúng Đảng Cộng sản và Nhà nước xã
hội chủ nghĩa phải có chủ trương, chính sách đúng đắn, phương pháp giải quyết
phải linh hoạt gắn liền với quá trình xây dựng xã hội mới. Trong xã hội mới đời
sống vật chất và tinh thần của người dân nói chung, đồng bào có đạo nói riêng
phải được đảm bảo, trình độ, nhận thức của người dân được nâng cao thì những
tiêu cực của tôn giáo sẽ bị hạn chế.
Cùng với xây dựng xã hội mới, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin khi
giải quyết vấn đề tôn giáo còn phải có quan điểm lịch sử cụ thể. Từ chỗ khẳng
định quan điểm duy vật lịch sử trong việc nhận thức vai trò của tôn giáo, theo
C.Mác ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định.
Do vậy, C.Mác đã chỉ ra phương thức ứng xử với tôn giáo trong từng thời kỳ
lịch sử, mà quan trọng nhất là muốn thay đổi ý thức xã hội thì trước hết phải
thay đổi tồn tại xã hội. Mặc dù có tính độc lập tương đối nhưng mọi hiện tượng
trong đời sống tinh thần, xét đến cùng, đều có nguồn gốc từ đời sống vật chất.
Để chống cái tiêu cực của tôn giáo, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin
đã chỉ rõ, những người mácxít và nhà nước XHCN cần phải hiểu rõ tôn giáo và
45 C. Mác-Ph. Ăngghen: toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, tập 1, tr.569.
259
ứng xử đúng với tôn giáo trong tiến trình xây dựng CNXH. Điều đó cũng có
nghĩa là giải quyết tôn giáo trong bối cảnh lịch sử cụ thể. Phải căn cứ vào tình
hình thế giới, trong nước, từng vùng và đặc điểm của từng tôn giáo trong từng
giai đoạn lịch sử nhất định để đề ra chính sách và giải pháp phù hợp, nhưng phải
tuân theo quan điểm chung là "Không thể đả kích vào tôn giáo dưới mọi hình
thức thù địch cũng như dưới hình thức khinh bạo chung cũng như riêng, nghĩa là
nói chung không được đả kích tôn giáo"46.
Khi giải quyết vấn đề tôn giáo, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin là lưu
ý phân biệt rõ hai mặt tư tưởng và chính trị, nghĩa là giải quyết mối quan hệ giữa
tôn giáo và chính trị theo nguyên tắc giải phóng chính trị khỏi tôn giáo. C.Mác
và Ph. Ăngghen lưu ý, mặt tư tưởng trong tôn giáo là thể hiện nhu cầu, tình cảm
của người dân. Vì vậy, Đảng của giai cấp công nhân phải tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng của quần chúng, không được xúc phạm đến đức tin tôn giáo của nhân
dân, vì xúc phạm niềm tin tôn giáo là nguyên cớ làm kích động thêm sự chú ý
của người dân đối với tôn giáo. Vì là nhu cầu tinh thần của con người như mọi
nhu cầu khác nên cần tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
Quyền ấy không chỉ thể hiện về mặt pháp lý mà còn được thể hiện trên thực tiễn
thường xuyên và lâu dài của Đảng và Nhà nước XHCN.
Mặt chính trị của tôn giáo chính là phản ánh việc các thế lực cực đoan lợi
dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Do vậy, giải phóng chính trị khỏi tôn giáo, trước hết là “giải phóng nhà nước
khỏi tôn giáo”, nhà nước và tôn giáo phân ly “không phải là giải phóng con
người hiện thực khỏi tôn giáo”47. Sự giải phóng ấy nhằm xóa bỏ sự lợi dụng tôn
giáo trong đời sống xã hội, nghĩa là “giải phóng chính trị khỏi tôn giáo vẫn để
cho tôn giáo có hiệu lực, mặc dù không ở dưới dạng một tôn giáo có đặc
quyền”48. Sự giải phóng ấy “không thủ tiêu tính tôn giáo hiện thực của con
người cũng như nó không mong muốn thủ tiêu tính tôn giáo đó”49. Điều đó cũng
có nghĩa vai trò tôn giáo trong con người vẫn tồn tại và tính hướng thiện của tôn
giáo vẫn được nhìn nhận trong xã hội.
Kế thừa và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin nêu rõ lập
trường, quan điểm, phương pháp ứng xử đối với tôn giáo trong thời kỳ CNXH
là: (1) Tôn giáo sẽ còn tồn tại trong thời kỳ xây dựng CNXH; (2) Nhà nước
46. C.Mác và Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.23. 47. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, H.1995, t.1, tr.546 48. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, H.1995, t.1, tr.546 49. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, H.1995, t.1, tr.539
260
XHCN công nhận quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Bất kì ai cũng được hoàn toàn tự do theo tôn giáo mình thích hoặc không thừa
nhận một tôn giáo nào. Người có hay không có tín ngưỡng, tôn giáo đều bình
đẳng về quyền lợi, mọi sự phân biệt quyền lợi giữa những công dân có tín
ngưỡng, tôn giáo khác nhau đều hoàn toàn không thể dung thứ được”50; (3)
Quan điểm, chính sách đối với tôn giáo của Nhà nước XHCN phải tuân thủ
nguyên tắc: Đảng Cộng sản không xóa bỏ tín ngưỡng, tôn giáo; Không xúc
phạm đến niềm tin tôn giáo; Không đồng nhất tôn giáo với thế lực xấu lợi dụng
tôn giáo chống để CNXH; Phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề
tôn giáo.
Tôn giáo phải được xem là việc tư nhân đối với nhà nước, nhưng không phải
là việc tư nhân đối với các Đảng cầm quyền. Công tác tôn giáo là công tác vận
động quần chúng, phải coi tín đồ các tôn giáo là một lực lượng của cách mạng. Vì
vậy, cần phải tập hợp, đoàn kết họ lại trong cuộc đấu tranh cách mạng không phân
biệt tín ngưỡng, tôn giáo; chỉ rõ sự lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nguồn gốc, cơ sở tồn tại và biến
đổi của tôn giáo, có thể rút ra một số vấn đề quan tâm trong nhận thức về tôn
giáo ở Việt Nam như sau:
Một là, sự hình thành và phát triển của tôn giáo ở Việt Nam gắn liền với lịch
sử dân tộc, có ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội, do vậy tôn giáo tồn
tại, phát triển dựa trên những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa
nhất định. Việt Nam đang trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước, trong đó
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh mở cửa hội nhập
quốc tế trong bối cảnh của toàn cầu hóa, hiện đại hóa. Trong bối cảnh đó nhìn lại
tình hình tôn giáo trong giai đoạn đối mới đất nước cho thấy tôn giáo phát triển về
mọi mặt ở hầu hết các chỉ số: Tính đến hết tháng 11/2020, Nhà nước ta đã công
nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 41 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau; với
trên 26 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số cả nước, trong đó có trên 58 nghìn chức
sắc, khoảng 148 nghìn chức việc; có trên 29 nghìn cơ sở thờ tự. So với năm 2019,
số lượng tín đồ tăng trên 15 nghìn người; chức sắc tăng gần 700 người; chức việc
tăng trên 1 nghìn người; cơ sở thờ tự tăng trên 140 cơ sở. Điều này cho thấy cơ sở
xã hội hiện nay đang là điều kiện để tôn giáo phát triển.
50. V. I Lênin Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tập 12, tr.171.
261
Các tôn giáo ở Việt Nam không chỉ ảnh hưởng sâu trong đời sống của một
bộ phận người dân (27% dân số), mà một số tôn giáo còn có hệ thống tổ chức
bền vững và mang tính quốc tế rõ nét. Do vậy, Việt Nam cần hoàn thiện tốt hơn
cơ chế, chính sách để tôn giáo ổn định, phát triển phù hợp với bối cảnh đất nước,
đồng thời thúc đẩy tôn giáo đóng góp nguồn lực vào phát triển của đất nước.
Hai là, tôn giáo ở Việt Nam luôn vận động cùng với sự biến đổi, phát
triển của đất nước. Điều này thể hiện rất rõ không chỉ phát triển ở các chỉ số về
tổ chức, tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, mà còn mở rộng phạm vi địa
bàn (63/63 tỉnh, thành phố) và phạm vi hoạt động. Tôn giáo ngày càng tham gia
sâu hơn vào hoạt động xã hội, tham gia làm thành viên của các tổ chức chính trị,
xã hội (đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp). Điều đó cũng
có nghĩa tôn giáo có thể thích ứng được với các bối cảnh xã hội, tự điều chỉnh để
phù hợp với tồn tại xã hội, phù hợp với môi trường mới của đất nước. Do vậy,
Nhà nước cần có những cơ chế, chính sách tốt hơn tạo điều kiện cho tôn giáo
thích ứng với xã hội mới và gắn bó, đồng hành cùng dân tộc trong quá trình xây
dựng CNXH.
Như vậy, quan điểm của chủ nghĩa Mác, Lênin về vấn đề tôn giáo, về sự
tồn tại, biến đổi của tôn giáo chính là quan điểm nền tảng mà Đảng, Nhà nước
kiên định trong xây dựng chủ trương, chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo ở
Viêt Nam. Phương pháp ứng xử với tôn giáo của các nhà kinh điển chính là cơ
sở lý luận, phương pháp luận để Đảng và Nhà nước giải quyết tốt vấn đề tôn
giáo, thúc đẩy tôn giáo gắn bó, đồng hành cùng dân tộc trong các giai đoạn cách
mạng cũng như quá trình xây dựng CNXH.
2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN GIÁO
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của người dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xem tự do tôn giáo, tín ngưỡng là quyền căn
bản của con người, nhưng quyền đó phải gắn chặt và đồng hành cùng với lợi ích
của quốc gia - của dân tộc Việt Nam. Do vậy, quyền ấy chỉ có giá trị đích thực
khi nó gắn với độc lập dân tộc, nước không được độc lập thì tôn giáo không
được tự do51. Người dân chỉ thực sự được thực hiện và thực hiện một cách trọn vẹn quyền ấy khi đất nước không còn chiến tranh, đất nước không còn chế độ thực dân, đế quốc, Tổ quốc được hòa bình. Chỉ trong môi trường đó tổ chức tôn
51. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia. H. 2000, tập 5, tr.333
262
giáo mới có điều kiện để chăm lo quyền lợi cho tín đồ, tín đồ mới được tự do
bảy tỏa đức tin tôn giáo, tín ngưỡng mà mình tin theo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, đấu tranh cho độc lập dân tộc chính là đấu
tranh cho quyền độc lập của các tôn giáo, của tín đồ, chức sắc tôn giáo; giải
phóng dân tộc chính là giải phóng tôn giáo. Chính vì vậy, đấu tranh giành độc
lập cho nước nhà cũng là trách nhiệm của cá nhân và tổ chức tôn giáo. Trong
thư gửi cho tăng, ni và tín đồ Phật giáo Người đã viết “Hiến pháp ta luôn tôn
trọng tự do tín ngưỡng, thì Phật giáo cũng phải phát triển một cách thuận tiện.
Nước có độc lập thì đạo Phật mới được mở mang... Nay đồng bào ta đại đoàn
kết, hy sinh cả xương máu, kháng chiến đến cùng, để đánh tan thực dân phản
động, để cứu quốc dân khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống nhất và độc lập của Tổ
quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại từ, đại bi của Đức Phật Thích ca kháng
chiến để đưa giống nòi ra khỏi các khổ ải nô lệ”52.
Theo Chủ tich Hồ Chí Minh quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân
cần phải được tôn trọng và bảo đảm dựa trên cơ sở tôn trọng đức tin tôn giáo của
mỗi người và không có ai được xâm phạm quyền, ép buộc, cản trở quyền đó. Do
đó, dù thế giới quan khác nhau, niềm tin khác nhau, thế giới quan cộng sản khác
với thế giới quan tôn giáo, song không vì thế mà đối đầu, nghi kỵ, ngược lại phải
tôn trọng niềm tin của mỗi người53. Trong đó, Người lấy điểm tương đồng, mẫu
số chung để thực hiện, đấy chính là lý do mà ngay phiên họp đầu tiên của Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 03/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề
nghị Chính phủ tuyên bố “Tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết”. Tư tưởng này
vừa là lời cam kết của người đứng đầu nhà nước với người dân về quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, vừa trở thành quan điểm xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt
Nam về tôn giáo, tín ngưỡng, vừa bác bỏ luận điệu vu khống người Cộng sản đàn
áp tôn giáo. Tư tưởng này cũng là định hướng cho cán bộ làm công tác tôn giáo,
chấn chỉnh những sai lầm tả khuynh đối với tôn giáo đang diễn ra ở một số địa
phương trong thời điểm lúc bầy giờ và cả sau này.
Tư tưởng tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn gắn liền với việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của tín đồ tôn giáo.
Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên và chính quyền phải chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào có đạo, làm cho họ phần xác no ấm,
phần hồn thong dong. Phải tích cực tăng gia sản xuất, nâng cao đời sống, ra sức
52. Dẫn theo, Trần Tam Tỉnh: Thập giá và lưỡi gương, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 1988, tr. 78. 53. Xem Trần Tam Tỉnh: Thập giá và Lưỡi gương, Nxb Trẻ TP. Hồ Chí Minh, 1988, tr.73.
263
củng cố hợp tác xã, phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho xã viên, đồng thời
phải đảm bảo tín ngưỡng tự do. Nhưng hoạt động tôn giáo không được cản trở
đến sản xuất, không trái với chính sách, pháp luật của nhà nước. Tự do tín
ngưỡng phải trong khuôn khổ luật pháp, chứ không phải là tự do vô chính phủ54.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải được thể hiện nhất quán trong luật pháp
và thực thi trong thực tiễn.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tôn trọng niềm tin tôn giáo đã tạo
tiền đề để các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam xây dựng tôn chỉ mục đích, đường
hướng hành đạo gắn bó đồng hành cùng dân tộc, đậm chất nhân văn như: Đạo
Pháp Dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội (Phật giáo); Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc
để phục vụ hạnh phúc của đồng bào” (Công giáo); “Sống Phúc âm phụng sự
Thiên Chúa, phục sự Tổ quốc và Dân tộc” (Tin lành); “Nước vinh đạo sáng”
(Cao đài); “Chấn hưng nền đạo gắn bó với dân tộc; phù hợp với chính sách và
pháp luật của Nhà nước góp phần tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Phật
giáo Hòa hảo)... Điều đó khẳng định tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
thẩm thấu trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo, đoàn kết tôn giáo dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo, đoàn kết toàn dân theo tinh
thần “Đoàn kết Lương - Giáo”55. Tư tưởng đoàn kết tôn giáo đã được các nhà
cách mạng tiền bối nêu lên, nhưng họ mới chỉ dừng lại ở sự mong muốn xóa bỏ
sự bất hòa giữa những người theo tôn giáo và người không theo tôn giáo vào
thời điểm đó. Chỉ đến Hồ Chí Minh, nội hàm của khái niệm đoàn kết người theo
tôn giáo và người không theo tôn giáo mới mang ý nghĩa sâu sắc, đó còn là đoàn
kết dân tộc, đoàn kết toàn dân. Người luôn xem đồng bào các tôn giáo là một
thành phần không thể tách rời của cộng đồng dân tộc và là một lực lượng quan
trọng của cách mạng. Sự khẳng định người có tôn giáo là một bộ phận của dân
tộc và là chủ thể của cách mạng56 đã đưa nội hàm khái niệm đoàn kết lương -
giáo lên một tầm cao mới dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Điều đó
không chỉ có tác dụng khuyến khích đồng bào các tôn giáo tích cực tham gia
cách mạng mà còn đập tan những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc gây chia rẽ
tôn giáo, chia rẽ đoàn kết dân tộc.
54. Trần Tam Tỉnh, Thiên chúa và Hoàng đế, Uỷ ban đoàn kết Công giáo yêu nước, TP. Hồ Chí Minh, tr.65 55. Lương ở đây chỉ người không theo tôn giáo, Giáo chỉ những người theo tôn giáo.
56. Nhà Nguyễn và các Văn thân xem người Công giáo là “đối tượng” của cách mạng, còn các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu cũng chỉ xem người Công giáo là một trong “mười hạng đồng tâm” mà thôi.
264
Để thực hiện đoàn kết tôn giáo, Người luôn cố gắng làm cho đồng bào hiểu
rằng, đức tin tôn giáo và lý tưởng cộng sản không mâu thuẫn, mà có nhiều điểm
tương đồng và vạch rõ âm mưu của kẻ thù gây chia rẽ dân tộc với tôn giáo, nhất
là giữa Cộng sản với người Công giáo: “Mục đích Chính phủ ta theo đuổi là
chiến đấu vì nền độc lập và đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Song, để đạt tới
hạnh phúc đó cho mọi người thì cần phải xây dựng CNXH. Nếu Đức Chúa
Giêsu sinh ra vào thời đại chúng ta và phải đặt mình trước những nỗi khổ đau
của người đương thời, chắc Ngài sẽ là một người XHCN đi theo con đường cứu
khổ loài người”57. Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết lương giáo phải dựa trên cơ sở
lấy mục tiêu độc lập dân tộc làm mẫu số chung. Đoàn kết không những phải rộng
rãi, mà còn lâu dài. Đó là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn
chính trị. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân
dân thì phải đoàn kết với họ58. Người luôn tìm những điểm tương đồng, những
giá trị đạo đức, văn hóa và triết lý của tôn giáo để vận động, đoàn kết đồng bào
tôn giáo đi theo cách mạng, giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước.
Mặc dù không sử dụng thuật ngữ tôn giáo đồng hành cùng dân tộc, nhưng
tinh thần của Người lại thể hiện rất rõ tinh thần đó kính Chúa yêu nước - với
phương châm Phụng sự Thiên Chúa, Phụng sự Tổ quốc. Cũng chính Chủ tịch
Hồ Chí Minh là người đưa tinh thần này vào thực tiễn trong công tác đối với tôn
giáo. Người đã nâng cao sự nhận thức về đoàn kết dân tộc trong đồng bào tôn
giáo khi đưa mối quan hệ biện chứng giữa kính Chúa, yêu nước dựa trên tinh
thần của Kinh thánh, rồi chuyển tải nó cho phù hợp với thời đại và niềm tin tôn
giáo của người tín đồ, chức sắc Việt Nam. Tư tưởng ấy của Hồ Chí Minh đơn
giản nhưng lại có tính thuyết phục, không cần lý luận nhiều, mà đi vào thực tế,
đời sống và niềm tin tôn giáo của một bộ phận nhân dân. Quan điểm có thực
mới vực được đạo, nhân dân có được no cơm ấm áo, thì mới có dịp phụng thờ,
chăm lo cho tôn giáo của mình. Muốn làm được điều đó thì tín đồ tôn giáo
không thể tách rời nhiệm vụ với đất nước và nhiệm vụ với tôn giáo. Do vậy,
Kính Chúa - Yêu nước có mối quan hệ biện chứng, gắn bó mật thiết với nhau
dựa trên mục tiêu chung là độc lập dân tộc và tự do tôn giáo.
2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhìn nhận vai trò của hàng giáo sĩ tôn giáo
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn
giáo vào hoàn cảnh xã hội Việt Nam, nhằm mục tiêu dân tộc độc lập và tôn giáo
57. Dẫn theo, Trần Tam Tỉnh: Thập giá và lưỡi gương, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 1988, tr.74. 58. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 1996, t.7, tr.438
265
tự do khi chỉ ra sự tương đồng trong lý tưởng của chức sắc tôn giáo với lý
tưởng của cách mạng, đó là miêu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Mục tiêu của
các tôn giáo là xây dựng Thiên đàng, Niết bàn ngay trên trần thế, song Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chủ động khai thác yếu tố hợp lý trong các tôn giáo, dẹp bỏ
những dị biệt nhỏ, giữ lại những yếu tố tương đồng lớn nhằm phát huy sức
mạnh của khối đại đoàn kết hướng đến mục tiêu phụng sự lợi ích của Tổ quốc
và hạnh phúc của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Mục đích cao cả của Phật Thích ca và
Chúa Giê-su đều giống nhau. Phật Thích ca và Chúa Giê-su đều muốn mọi
người có cơm ăn, áo mặc, bình đẳng, tự do và thế giới đại đồng. Lý tưởng đó rất
tương đồng với lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Người đã sớm có nhận thức về
vai trò của đạo đức tôn giáo đối với một bộ phận người dân, đặt biệt là Người
luôn kính trọng và ca ngợi những vị chức sắc tôn giáo: "Chúa Giêsu dạy: đạo
đức là bác ái, Phật Thích ca dạy: đạo đức là từ bi, Khổng tử dạy: đạo đức là nhân
nghĩa", "Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những điểm chung đó
sao ? họ đều muốn mưu phúc lợi cho loài người, mưu hạnh phúc cho xã hội…
Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy"59.
Năm 1946 trong lần gặp với đại biểu là chức sắc, tín đồ Phật giáo, Công
giáo Cao đài Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao vai trò của tôn giáo trong công
cuộc giải phóng dân tộc, Người đã nói dân tộc giải phóng thì tôn giáo mới được
giải phóng, lúc này chỉ có quốc gia mà không phân biệt tôn giáo nữa, mỗi người
đều là công dân của nước Việt Nam có nhiệm vụ chiến đấu cho nền độc lập
hoàn toàn của Tổ quốc.
Đối với chức sắc tôn giáo Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy được vai trò
lãnh tụ tinh thần của họ đối với tín đồ, do vậy theo Người cần củng cố tinh thần
yêu nước của các tầng lớp đó, đưa các nhân sĩ, chức sắc tôn giáo cùng gánh
trách nhiệm kháng chiến cứu nước, tạo nên một bầu không khí tin cậy, đoàn kết
vì mục tiêu chung. Đặt biệt người quan tâm đến đời sống của các vị chức sắc tôn
giáo với cả tình cảm chân thành. Với tư tưởng đó người đã tập hợp được đông
đảo tín đồ, chức sắc tham gia cách mạng, đóng góp quan trọng vào công cuộc
giải phóng dân tộc. Hòa thượng Thích Đôn Hậu đã phát biểu: “Tôi đã hiểu vì
sao Người là một lãnh tụ sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam mà Người đã thu
hút được tất cả các thành phần khác trong xã hội để đứng xung quanh mình làm
59. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 225.
266
việc lớn cho đất nước… Tôi là một tu sĩ có tham gia cách mạng, tôi nguyện suốt
đời đi theo con đường yêu nước, yêu dân mà Chủ tịch đã vạch ra… Nhớ ơn
Người, không có gì quý hơn thực hiện lời dạy bảo của Người”60.
Kế thừa và vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đưa
việc vận động chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo trở thành
quan điểm xuyên suốt trong công tác tôn giáo qua các thời kỳ cách mạng và
công cuộc xây dựng đất nước.
3. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO
3.1. Công tác vận động đối với chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ
tôn giáo trong sự nghiệp giải phóng dân tộc
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng bào tôn giáo là một bộ phận không
thể tách rời của dân tộc. Người coi công tác vận động chức sắc, tín đồ là một
công tác trọng yếu trong công tác dân vận. Người chỉ rõ cần tranh thủ sự ủng hộ
của hàng giáo sĩ, mời họ tham gia cách mạng với một thái độ thực sự cầu thị,
chân tình, tin cậy lẫn nhau; tạo điều kiện để các giáo sĩ vừa hoàn thành nhiệm vụ
với giáo hội, tín đồ vừa hoàn thành nghĩa vụ của người công dân, khơi dậy tinh
thần dân tộc, yêu nước của chức sắc, tín đồ tôn giáo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lấy lợi ích chung của dân tộc và tôn giáo để
vận động chức sắc, tín đồ tôn giáo theo cách mạng. Người luôn cố gắng làm cho
chức sắc và tín đồ tôn giáo hiểu đức tin tôn giáo và lý tưởng cộng sản không hề
mâu thuẫn và chỉ ra âm mưu của kẻ thù luôn tìm cách để chia rẽ đoàn kết tôn
giáo, dân tộc. Cơ sở để đoàn kết tôn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh là sự đồng
thuận với nhau vì mục tiêu độc lập dân tộc. Người cho rằng, đồng bào có tôn
giáo hay không có tôn giáo đều là con Lạc cháu Hồng, đều là người lao động, sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp lớn, lâu dài. Vì thế người có
đạo và người không có đạo phải đoàn kết, toàn dân tộc phải đoàn kết thì cách
mạng mới thành công.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa tinh thần vì Dân tộc, vì Đạo pháp, Kính Chúa,
Yêu nước trong công tác vận động chức sắc tôn giáo, để trở thành phương châm
hành động, đường lối sống đạo của các tôn giáo ở Việt Nam. Hai sứ mệnh đó đều
ngang nhau, tín đồ, chức sắc tôn giáo cần thiết phải thực hiện cả hai sứ mệnh đó,
bởi họ vừa là tín đồ vừa là công dân, họ đóng vai trò kép trong xã hội. Theo
Người, lòng yêu nước và đức tin tôn giáo không mâu thuẫn nhau, trái lại gắn bó
60. Dẫn theo, Nguyễn Thanh Xuân (2018), Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Tôn giáo đồng hành cùng dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, Tạp Chí Công tác tôn giáo, số 5, trang 7.
267
chặt chẽ với nhau trên tinh thần Thượng đế và Tổ quốc muôn năm. Yêu nước phải
thể hiện ở những hành động cụ thể, nghĩa là phải tham gia kháng chiến, kiến
quốc, lao động sản xuất nâng cao đời sống vật chất thì mới có thể Kính Chúa một
cách trọn vẹn. Kính Chúa mà không biết yêu Nước, không thể hiện bằng hành
động vì mục tiêu chung thì chưa biết Kính Chúa. Với Người hai nhiệm vụ đó của
chức sắc, tín đồ tôn giáo rất thiêng liêng, cao cả. Người mong đồng bào tôn giáo
hết lòng hết sức cùng toàn dân kiên quyết đấu tranh cho nước nhà thống nhất,
giữ vừng hòa bình; mong chức sắc tôn giáo hướng dẫn và tổ chức cho tín đồ
thực hiện nghĩa vụ công dân, cùng dân tộc thực hiện mục tiêu cao cả là giải
phóng dân tộc, cũng là giải phóng tôn giáo. Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đồng bào tôn giáo là một phần không thể thiếu của dân tộc, tổ chức tôn
giáo là một bộ phận của xã hội, ai lầm đường lạc lối thì hướng dẫn, giải thích để
đưa họ trở về chính đạo.
Để tư tưởng trên đi vào cuộc sống một cách thiết thực, có thể lôi cuốn được
đông đảo chức sắc, tín đồ tham gia Người đặc biệt coi trọng công tác vận động
các chức sắc và các nhân sĩ, trí thức tôn giáo yêu nước. Với tinh thần cầu thị,
thái độ chân thành và nghệ thuật ứng xử tuyệt vời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảm
hóa, tập hợp được nhiều nhân sĩ, trí thức tham gia kháng chiến, ủng hộ cách như
các ông: Nguyễn Mạnh Hà, Ngô Tử Hạ, Vũ Đình Tụng, Hồ Đắc Ghi, Nguyễn
Thành Vĩnh, các linh mục Phạm Bá Trực, Nguyễn Bá Luật, đặc biệt các giám
mục Lê Hữu Từ, Hồ Ngọc Cẩn,... có tác dụng to lớn trong việc động viên, khích
lệ tín đồ tham gia kháng chiến, kiến quốc và hạn chế việc lợi dụng tôn giáo phá
hoại cách mạng. Trong cách mạng giải phóng miền Nam thống nhất đất nước
hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội Thánh Tin lành Bắc Bộ
đã gửi thư động viên tín đồ miền Nam như sau “Trải một năm qua, anh em đã bị
đau khổ bởi nạn chiến tranh xẩy ra trên đất nước chúng ta. Trong giai đoạn khó
khăn chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ luôn luôn tin tưởng vào tiền đồ Tổ quốc và
nhiệt liệt ủng hộ Chính phủ ta, chúng ta cần phải sẵn sàng sáng suốt không để
mất cơ hội. Chúng tôi mong Anh em cương quyết và khôn ngoan để được xứng
đáng làm một người công dân của Tổ quốc, về phần chúng tôi ghi nhớ Anh em
và cùng cầu nguyện thêm cho anh em”; Hội thánh Cao đài Trung Bắc Việt Nam
gửi tín đồ Cao đài Nam Bộ “Đạo Cao đài nhất là ở Nam bộ đã từng ghi được
nhiều thành tích vẻ vang trong công cuộc tranh đấu khiến chúng tôi phấn chấn
hân hạnh hoan hô tinh thần chiến đấu của quý đạo hữu. Chúng tôi tin rằng rằng
268
dưới sự tranh đấu của suốt của Hội thánh Nam Bộ, toàn thể quý đạo hữu đã thắt
chặt tinh thần đoàn kết với toàn dân, giúp Chính phủ Việt Nam đạt trọn mục
đích: Hoàn toàn độc lập. Nam Bộ là đất Việt Nam”61.
Phương pháp vận động chức sắc, tín đồ đi theo cách mạng của Người hết sức
phong phú. Vận động chức sắc, trí thức tôn giáo tham gia vào các đoàn thể kháng
chiến, Ban Chấp hành Liên Việt ủng hộ kháng chiến. Dùng những tài liệu xác
thực về việc giặc tàn sát người dân, tín đồ, phá hoại nhà thờ đền, chùa để tuyên
truyền để đồng bào tôn giáo thấy được sự tàn ác của kẻ địch. Lấy điều răn, giới
cấm, đạo đức tôn giáo để khích lệ tinh thần yêu nước của tín đồ; đề nghị chức sắc,
nhà tu hành đứng ra kêu gọi tín đồ đoàn kết chống giặc, bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ
niềm tin tôn giáo; nêu gương những người tôn giáo yêu nước. Tuyệt đối không
được tỏ thái độ bài xích tôn giáo, trái lại tôn trọng niềm tin tôn giáo và gần gũi với
tín đồ tôn giáo. Tổ chức các hội nghị cán bộ vận động Công giáo, Cao đài,... để
trao đổi kinh nghiệm. Mở những cuộc hội họp mời các chức sắc, người có uy tín
tôn giáo tham gia đóng góp ý kiến, tổ chức ra những hội tôn giáo kháng chiến, hội
ủng hộ kháng chiến. Giúp đỡ họ có phương tiện làm việc, tiền, đồ dùng văn
phòng. Vận động họ trong những buổi hội họp ra tuyên ngôn đoàn kết kháng
chiến để động viên tinh thần tín đồ. Chỉ cho tín đồ thấy chỉ có kháng chiến thì
mới giành được độc lập, nước nhà mới hòa bình, tôn giáo mới tự do.
Trong công tác vận động chức sắc, tín đồ tôn giáo Chủ tịch Hồ Chí Minh
không chỉ tôn trọng mà còn quan tâm đến niềm tin tôn giáo: Mùa xuân năm
1941, người đã vẽ ảnh Phật treo trên vách đá để tín đồ Phật giáo thể hiện lòng
thành kính. Khi cách mạng vừa thành công, nước nhà vừa độc lập Người đã đến
thăm Chùa Quán Sứ, chùa Bà Đá. Năm 1960, Người đi thăm Chùa Hương trực
tiếp chỉ thị cho chính quyền địa phương bến Đục làng Yến Vĩ phải sửa lại những
con thuyền, làm thêm cầu phao và đắp một đường mới và đưa khách và các tăng
ni, Phật tử đi lại được tự do an toàn... Những cuộc viếng thăm trên chính là thể
hiện tình cảm, sự tôn trọng niềm tin, quan tâm đến đời sống tôn giáo của tín đồ
Phật giáo. Đấy cũng chính là điểm gặp gỡ giữa “Đạo pháp và Dân tộc” một chủ
nghĩa nhân văn đích thực của một danh nhân văn hóa.
3.2. Nhìn nhận và phát huy giá trị đạo đức, văn hóa của các tôn giáo
Trong ứng xử với tôn giáo Người luôn nhìn nhận và phát huy những giá
trị tích cực của các tôn giáo và lấy đó làm điểm chung để đoàn kết tôn giáo,
61. Báo Cứu Quốc số 357 ngày 26/9/1946.
269
dân tộc. Người đã chỉ rõ mặc dù thế giới quan của những người cách mạng
khác với thế giới quan của tôn giáo, song không vì thế mà đối đầu, nghi kỵ,
ngược lại phải tôn trọng niềm tin của mỗi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh không
khai thác những khác biệt, trái ngược về thế giới quan giữa chủ nghĩa duy vật
và tôn giáo mà đi tìm những giá trị nhân văn nơi các tôn giáo để cổ vũ, khích lệ
chức sắc và đồng bào các tôn giáo phát huy những giá trị đó vào xây dựng đạo
đức xã hội.
Đặc biệt Người đánh giá cao lòng bác ái, đức hy sinh của những vị sáng lập
ra các tôn giáo, sáng lập chân thiện mỹ trong các triết lý của các tôn giáo. Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho rằng mỗi học thuyết tôn giáo đều có giá trị của nó. Nếu
như học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân thì tôn
giáo của Chúa Giê-su lại có ưu điểm là lòng bác ái cao cả, Chủ nghĩa Mác có ưu
điểm phương pháp làm việc một cách biện chứng thì chủ nghĩa Tôn Dật Tiên lại
có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với xã hội Việt Nam đương thời. Họ
đều có ưu điểm chung là đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho xã hội.
Người cho rằng lòng yêu nước và đức tin tôn giáo không mâu thuẫn nhau,
trái lại gắn bó chặt chẽ với nhau trên tinh thần Thượng đế và Tổ quốc muôn
năm. Hồ Chí Minh coi việc Phụng sự Đức Chúa Phụng sự Tổ quốc là nhiệm vụ
thiêng liêng của tín. Không những coi trọng giá trị đạo đức tôn giáo, mà Người
coi các biểu tượng tôn giáo chính là văn hóa, là niềm tin của tín đồ. Trong kháng
chiến, các cơ sở tôn giáo được Người rất quan tâm chỉ đạo không nên vì tiêu thổ
kháng chiến mà phá gác chuông nhà thờ, trừ khi tín đồ nhận rõ việc đó là bảo vệ
địa phương và đồng ý. Trước khi làm việc ấy phải làm lễ rước thánh giá đi nơi
khác cho trọng thể.
Để công tác vận động chức sắc, tín đồ tôn giáo một cách thuận lợi và bền
vững, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có sáng kiến thiết lập các tổ chức tôn giáo yêu
nước nhằm thu hút những tín đồ tự nguyện đứng vào hàng ngũ Việt Minh kháng
chiến, kiến quốc. Cụ thể: Ủy ban Liên hiệp tôn giáo, Hội Công giáo cứu quốc và
Liên đoàn Công giáo Việt Nam lập năm 1945, Hội Phật tử Cứu quốc Liên khu 3,
Công giáo kháng chiến Nam bộ, Hội Phật giáo Cứu quốc Bắc Bộ, Ủy ban Liên
lạc Công giáo kháng chiến Liên khu III, IV, Tả Ngạn, rồi Ủy ban Liên lạc Công
giáo Việt Nam (1955). Tất cả các tổ chức trên đề nằm trong Mặt trận Việt Minh,
Liên Việt và sau này là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Qua hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ các mô hình tổ chức trên đã đáp ứng được nguyện
270
vọng của những chức sắc, tín đồ tôn giáo yêu nước, trở thành nơi quy tụ đông
đảo người có tôn giáo tham gia Mặt trận Việt Minh, kháng chiến cứu quốc, ủng
hộ chính sách của chính phủ.
3.3. Kiên quyết chống việc lợi dụng tôn giáo để phá hoại sự nghiệp
cách mạng của nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân,
tôn trọng những giá trị nhân văn của các tôn giáo, tôn trọng những đóng góp của tôn
giao cho cách mạng, nhưng Người cũng kiên quyết chống lại việc lợi dụng tôn giáo,
lợi dụng lòng tin của tín đồ để phá hoại sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc Việt Nam.
Người nhận thức rõ các thế lực thực dân, đế quốc luôn tìm cách chia rẽ khối đoàn
kết tôn giáo, lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng dưới nhiều hình thức
khác nhau, lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, tuyên truyền
xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tranh thủ và lôi kéo
chức sắc, tín đồ quay lưng và chống lại sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Trước âm mưu đó, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải làm cho
quần chúng hiểu rõ Đảng và Nhà nước Việt Nam không chống tôn giáo, mà chỉ
chống những cá nhân, tổ chức lợi dụng tôn giáo xâm hại lợi ích nhân dân, dân
tộc. Người luôn giáo dục cán bộ rằng bản chất của tín đồ là tốt, nếu có ai đó
thiếu kiên định không đi cùng dân tộc, thì chỉ là do bọn xấu lôi kéo nên phải có
thái độ khoan hồng, độ lượng với những người lầm đường lạc lối.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất rõ ràng trong ứng xử với chức sắc, tín đồ tôn
giáo cố ý đi ngược lại lợi ích dân tộc, xuyên tạc chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước thì nghiêm trị và giải thích rõ cho tín đồ hiểu chính quyền xử lý
những người phản quốc, hại dân không phải vì tôn giáo và để chính đồng bào
tôn giáo giúp chính phủ chống lại bọn phản quốc.
Đối với một số chức sắc tôn giáo còn thành kiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
đạo cán bộ phải xóa bỏ đi thành kiến của họ với cách mạng. Theo Người họ
phần nhiều là yêu nước, nhưng do sự phản tuyên truyền của địch, hiểu lầm Việt
Minh đàn áp tôn giáo nên họ sợ cộng tác, tỏ thái độ thờ ơ với Chính phủ. Phải
chỉ rõ cho họ thấy âm mưu của địch, chỉ rõ tính chất và mục đích của Việt Minh
và Chính phủ là giải phóng đất nước, mang lại lợi ích cho nhân dân. Theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh đấu tranh vạch rõ âm mưu lợi dụng tôn giáo vào mục đích
chính trị xấu không phải là xúc phạm tôn giáo, mà là gạt bỏ những yếu tố tiêu
cực làm ảnh hưởng đến giá trị thiêng liêng của tôn giáo.
271
Người luôn phê phán hành vi buôn thần bán thánh, kiên quyết đấu tranh với
bọn phản động biến tôn giáo thành công cụ thực hiện ý đồ chính trị. Người lên án
nghiêm khắc việc lợi dụng tôn giáo gây chia rẽ, dụ dỗ cưỡng ép đồng bào di cư
“Chính phủ sẽ nghiêm trị những kẻ lừa bịp cưỡng bức đồng bào phải lìa bỏ quê
hương, sa vào một đời sống tối tăm cực khổ về phần xác cũng như phần hồn”62.
Đồng thời luôn ân cần thăm hỏi, quan tâm động viên đồng bào. Trong thư gửi
đồng bào tôn giáo di cư năm 1954, Người đã dùng lời lẽ rất chia sẻ, cảm thông
nỗi đau cùng với họ khi bị lợi dụng, phải bỏ quê hương đi xa và sẵn sàng hoan
nghênh đón tiếp nếu họ muốn trở về “Số phận của những giáo hữu ấy khiến tôi rất
đau lòng và chắc đồng bào cũng thương xót. Tôi rất mong đồng bào cầu Chúa phù
hộ những giáo hữu ấy đủ sức đấu tranh, đòi trở về quê cha đất tổ”63.
Trong công tác đấu tranh với những biểu hiện sai trái của tôn giáo, Người
luôn căn dặn cán bộ phải kiên trì, sát dân, hiểu dân để vận động dân. Phải giải
thích để đồng bào hiểu âm mưu thâm độc của kẻ thù lợi dụng tôn giáo, lợi dụng
niềm tin của người dân để phản nước, hại dân, làm hại tôn giáo. Chỉ có cách
mạng mới là con đường giải phóng nhân dân khỏi áp bức, bóc lột, trừng trị
những kẻ lợi dụng tôn giáo phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tư tưởng trên của Người là cơ sở lý luận để Đảng Cộng sản Việt Nam xây
dựng quan điểm về chống địch lợi dụng tôn giáo trong các giai đoạn cách mạng
và xây dựng đất nước.
Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh là kết tinh của tinh thần dân tộc – tôn
giáo, Người không chỉ là chiến sĩ cách mạng kiệt xuất mà còn hội đủ các đức từ
bi của Phật, lòng bái ái của Chúa, tình nhân nghĩa của Khổng Tử, phương pháp
làm việc biện chứng của Mác và tinh thần cách mạng của Lênin. Nói về tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tôn giáo Hòa thượng Thích Thiện Châu trụ trì
Trúc lâm Thiền Viện ở Paris Pháp khi về tham dự Đại hội Phật giáo Toàn quốc
lần thứ IV đã nói “Có thể nói Việt Nam ta có Vua Bụt Trần Nhân Tông, thống
nhất các hệ phái trong nước… Trong tôi Bác Hồ là Bồ Tát, là vị La Hán bởi
người đã dành tất cả cho mọi người không giữ gì cho riêng mình cả. Cuộc đời và
sự nghiệp của Bác Hồ như đón sen giữa rừng hoa dân tộc Việt Nam, hội tụ tài
đức của đất nước”64.
62 . GS.TS Lê Hữu Nghĩa và PGS.TS Nguyễn Đức Lữ (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, NXB Tôn giáo, Trang 111 Sđd.
63 . GS.TS Lê Hữu Nghĩa và PGS.TS Nguyễn Đức Lữ (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, NXB Tôn giáo, Trang 113 Sđd.
64. GS.TS Lê Hữu Nghĩa và PGS.TS Nguyễn Đức Lữ (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, NXB Tôn giáo, Trang 76 Sđd.
272
4. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO CÔNG TÁC TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là kim chỉ nam để qua các giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước Việt Nam đề ra chủ trương, chính sách đối với tôn giáo, tín ngưỡng phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Chủ trương, chính sách về tôn giáo thời kỳ sau luôn có sự kế thừa thời kỳ trước và luôn có những đổi mới để phù hợp với tình hình thực tế cũng như ngày một đáp ứng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, đưa hoạt động tôn giáo vào quản lý theo luật. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là cơ sở phương pháp luận để quán triệt và phát triển nhận thức trong công tác tôn giáo ở Việt Nam, cụ thể: Một là, tôn giáo tồn tại, phát triển dựa trên những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa nhất định. Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở cửa hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng... Bối cảnh đất nước đã và đang tác động đến sự vận động phát triển của các tôn giáo cả trên phương diện tổ chức các hoạt động tôn giáo và gia tăng ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Các tôn giáo tồn tại ở Việt Nam hàng trăm năm, luôn biến đổi cùng với sự biến đổi, phát triển của từng vùng, của đất nước. Là một hiện tượng xã hội tôn giáo có thể thích ứng với các điều kiện xã hội, có sự điều chỉnh để phù hợp với môi trường mới của đất nước và tiếp tục phát huy ảnh hưởng đến một bộ phận nhân dân. Giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo có nhiều yếu tố phù hợp với đạo đức xã hội, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái đạo đức xã hội đối với người dân. Do vậy, tôn giáo sẽ còn ảnh hưởng đến sự phát triển đất nước theo cả hai chiều: tích cực và tiêu cực. Trong công tác tôn giáo phải nhìn thấu đáo cả hai chiều tác động này để có giải pháp phù hợp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực trong đời sống xã hội.
Hai là, tôn giáo luôn có chức năng phản biện xã hội nhằm chỉ ra những hạn chế bất cập của đời sống hiện thực. Đây là sự phản biện mang tính tích cực để thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Một mặt nó kiểm chứng tính đúng đắn, tính phù hợp của các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đã triển khai để tiếp tục thực hiện; mặc khác thúc đẩy chính quyền các cấp cần xem xét, điều chỉnh những chủ trương, chính sách chưa phù hợp nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn cuộc sống của người dân, tạo sự đồng thuận, hài hòa giữa các thành viên trong xã hội.
Ba là, để phát huy ảnh hưởng tích cực của tôn giáo trong phát triển bền vững cần khai thác những mặt tương đồng giữa chủ nghĩa xã hội với giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo, nhằm phát huy các giá trị tốt đẹp của giáo lý tôn giáo
273
trong đời sống xã hội, chủ động đối thoại và hợp tác với tổ chức tôn giáo để xây dựng và thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, sống tốt đời, đẹp đạo. Quán triệt quan điểm trên Đảng, Nhà nước đã nhìn nhận tôn giáo là một nguồn lực xã hội góp phần vào phát triển bền vững đất nước. Do vậy, cần có cơ chế, chính sách tạo điều kiện để tôn giáo đóng góp nguồn lực cho phát triển đất nước. Xem xét để gỡ bỏ những vướng mắc về luật pháp tạo hành lang pháp lý nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực của tôn giáo trong việc đóng góp vào hoạt động kinh tế, xã hội, nhất là trong công tác xã hội hóa giáo dục, y tế, từ thiện như các tổ chức xã hội khác.
Bốn là, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh các thế lực thù địch thường sử dụng tôn giáo chống phá chế độ, phá hoại khối đoàn kết tôn giáo, dân tộc; sử dụng tôn giáo vào mục đích chính trị. Để hạn chế vấn đề này, công tác tôn giáo cần phải xóa bỏ việc lợi dụng tôn giáo của các phần tử cực đoan vào các hoạt động, ảnh hưởng tiêu cực đến đồng thuận xã hội và đoàn kết dân tộc. Coi trọng công tác vận động chức sắc, tín đồ tôn giáo nâng cao cảnh giá, chủ động trong công tác phòng chống việc lợi dụng tôn giáo để phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân trong đó có đồng bào các tôn giáo./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Tôn giáo và Tín ngưỡng, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội.
- Lê Hữu Nghĩa, Nguyễn Đức Lữ (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
- Nguyễn Thanh Xuân (2018), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Tôn giáo đồng hành cùng dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 5. - Nguyễn Thanh Xuân (2020), “Tiếp cận và thực hiện quan điểm Mác Lê- nin về tôn giáo của một số nước xã hội chủ nghĩa và Việt Nam trước đây”, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 3.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Nhìn nhận những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo trong giai đoạn hiện nay?
2. Nhìn nhận nguyên tắc “cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới” trong giải quyết vấn đề tôn giáo theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam hiện nay?
3. Việc thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhìn nhận vai trò của hàng giáo sĩ tôn giáo trong công tác tôn giáo ở Việt Nam hiện nay như thế nào?
274
Chuyên đề 2
QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG, CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT
CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
Phần 1
QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC
VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
1. QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG, CHÍNH SÁCH,
PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO TRƯỚC
THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.1. Quan điểm, chính sách tôn giáo giai đoạn 1945-1975
1.1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1975
Giai đoạn 1945-1975 là thời kỳ lịch sử đặc biệt mà dân tộc ta phải tiến
hành đồng thời hai cuộc cách mạng: Cách mạng giải phóng dân tộc và cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Một mặt, đây là giai đoạn chịu những ảnh hưởng rất lớn
bởi những nhận thức cực đoan đối với tôn giáo trên thế giới và trong nước từ
trước những năm 1945. Mặt khác, đây còn là thời kỳ mà các hoạt động lợi dụng
tôn giáo của các thế lực phản động để chống phá cách mạng Việt Nam diễn ra
rất gay gắt trong cả nước.
1.1.2. Quan điểm, chính sách tôn giáo giai đoạn 1945-1975
Chủ trương, chính sách tôn giáo giai đoạn này được thể hiện ở 6 nội dung
mang tính chiến lược:
Một là, khẳng định quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo là quyền của nhân dân.
Hai là, khẳng định tín đồ tôn giáo là lực lượng cách mạng (lực lượng
quần chúng đông đảo).
Ba là, khẳng định Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do
thờ cúng của nhân dân. Không ai được xâm phạm đến quyền tự do ấy.
Bốn là, chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo.
Năm là, nghiêm trị những phần tử lợi dụng tôn giáo chống phá đất nước.
Các quan điểm trên được thể hiện ở một số văn bản:
Ngày 3/9/1945, chỉ một ngày sau Tuyên ngôn Độc lập tại quảng trường
Ba Đình, ngay phiên họp đầu tiên của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Thực dân và phong kiến tìm cách chia rẽ
275
đồng bào lương với đồng bào giáo để cai trị, tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố
tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết”.
Trong Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam cũng
đã khẳng định quyền tự do tín ngưỡng là một trong năm quyền cơ bản của công
dân: Điều 7 Hiến pháp 1946: “Quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ
chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại trong nước và đi ra nước ngoài”.
Với việc tuyên bố tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của công dân, Hiến pháp
năm 1946 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chính sách đối với tôn giáo
trong phạm vi cả nước.
Năm 1951, trước âm mưu chia rẽ “đạo đời” của các thế lực thù địch,
Đảng ta đã nhanh chóng tuyên bố chủ trương lương - giáo đoàn kết. Điều đó
được thể hiện rõ trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (1951):
“Đoàn kết dân tộc, lập thành Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, gồm tất cả
mọi lực lượng chống đế quốc và bọn phản quốc, không phân biệt chủng tộc,
giai cấp, tôn giáo, khuynh hướng chính trị. Mặt trận đó phải dựa trên cơ sở liên
minh công nông”65.
Ngày 31 tháng 12 năm 1959, Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1959.
Trong đó quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân được ghi rõ: “Công dân nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào”.
Cùng với việc khẳng định những nguyên tắc cơ bản đối với tôn giáo trong
Hiến pháp, Nhà nước đã thể chế hoá quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo qua
những văn bản quy phạm pháp luật như Sắc lệnh số 234/SL, ngày 14 tháng 6
năm 1955 - Sắc lệnh của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà về vấn đề tôn
giáo do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành. Trong chương I, mang tính nguyên
tắc - Đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, Sắc lệnh 234 nêu rõ:
“Điều 1. Chính phủ đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng của
nhân dân. Không ai được sâm phạm đến quyền tự do ấy. Mỗi người Việt Nam
đều có quyền tự do theo một tôn giáo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Các nhà tu hành được tự do giảng đạo tại các cơ quan tôn giáo (như nhà
thờ, chùa, thánh thất, trường giáo lý...”.
Khi truyền bá tôn giáo, các nhà tu hành có nhiệm vụ giáo dục cho tín đồ
có lòng yêu nước, nghĩa vụ của người công dân, ý thức tôn trọng chính quyền
dân chủ và pháp luật của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
65 Đảng cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H, 2001, tr. 56.
276
Điều 2. Các nhà tu hành và các tín đồ đều được hưởng mọi quyền lợi của
người công dân và phải làm mọi nghĩa vụ của người dân.
Điều 3. Các nhà tu hành người ngoại quốc mà Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà cho phép, thì được giảng đạo như các nhà tu hành Việt Nam và
phải tuân theo pháp luật của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, như các ngoại
kiều khác...
Có thể nói Sắc lệnh số 234 là văn bản quy phạm pháp luật riêng cho tôn giáo
sớm nhất ở Việt Nam. Đặc biệt, có nhiều điểm mà sau này đến thời kỳ đổi mới vẫn
còn nguyên giá trị, đúng hơn đến khi đổi mới mới có điều kiện để thực hiện.
Như vậy, giai đoạn 1945 - 1975 đất nước liên tục chiến tranh, đời sống
nhân dân gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp, các cơ quan bảo vệ pháp luật
mới hình thành, nhưng Đảng, Nhà nước Việt Nam đã đề ra chủ trương, chính
sách cơ bản về quyền tự do tôn giáo của nhân dân.
Chủ trương, chính sách về tôn giáo thời kỳ này đã đáp ứng cơ bản nhu
cầu tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân, đoàn kết được đồng bào các tôn giáo
trong lực lượng kháng chiến, hạn chế các phần tử cực đoan lợi dụng tôn giáo
chống phá cách mạng, tạo niềm tin của phần lớn chức sắc, tín đồ các tôn giáo
vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và đặt nền tảng cho việc hoàn thiện chủ
trương chính sách về tôn giáo lâu dài của Việt Nam.
1.2. Quan điểm, chính sách tôn giáo giai đoạn 1976 - 1990
1.2.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam giai đoạn 1976 - 1990
Giai đoạn 1976 - 1990 không phải là một giai đoạn dài nhưng đầy khó
khăn. Đất nước thống nhất, chuyển từ cách mạng dân tộc dân chủ sang cách
mạng xã hội chủ nghĩa trên quy mô cả nước với vô vàn thách thức: trải qua các
cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội do hậu quả của chính sách kinh tế quan liêu
bao cấp; chiến tranh biên giới liên tiếp nổ ra, đời sống nhân dân nghèo và lạc
hậu. Đến năm 1986, bắt đầu bước vào công cuộc đổi mới đất nước thì lại vấp
phải sự sụp đổ của hệ thống chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu,
khiến Đảng, Nhà nước Việt Nam phải chống đỡ, chèo lái để đưa đất nước ra
khỏi khủng hoảng và tiếp tục con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các thế lực
thù địch trong và ngoài nước luôn tìm cách phá hoại thành quả cách mạng của
nhân dân ta, lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để thực hiện kế hoạch hậu chiến
chống Việt Nam.
277
1.2.2. Quan điểm, chính sách tôn giáo giai đoạn 1976 - 1990
Tiếp tục kế thừa quan điểm nhất quán về tôn giáo giai đoạn trước là: tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đoàn kết đồng bào theo
các tôn giáo; nghiêm trị những kẻ lợi dụng tôn giáo chống Nhà nước.
Năm 1976 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Đại hội đầu tiên sau
khi đất nước thống nhất, Đảng ta đã khẳng định: “Chính sách của Đảng về vấn
đề tôn giáo là tôn trọng tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng của nhân
dân, đoàn kết tất cả những người yêu nước và tiến bộ trong các tôn giáo, đoàn
kết đồng bào có đạo và không có đạo, để cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất
nước, xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc, chống những hoạt động làm hại
đến lợi ích của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội”66.
Năm 1977 Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị quyết số 297-NQ-HĐBT
ngày 11 tháng 11 năm 1977 về một số chính sách đối với tôn giáo. Từ đây các
tôn giáo ở hai miền Nam - Bắc đều được quản lý thống nhất theo một văn bản
pháp quy chung trên phạm vi cả nước. Đây là một Nghị quyết rất quan trọng tạo
ra khung pháp lý điều chỉnh các hoạt động tôn giáo ở nước ta và 5 nguyên tắc
trong Nghị quyết sau này đã trở thành 5 nguyên tắc cơ bản trong chính sách tôn
giáo hiện nay:
1. Chính phủ đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín
ngưỡng của nhân dân.
2. Các nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo đều được hưởng mọi quyền lợi
và phải làm mọi nghĩa vụ của người công dân.
3. Các tôn giáo và mọi công dân theo đạo hoặc không theo đạo đều bình
đẳng trước pháp luật.
4. Các tôn giáo phải tuân theo Hiến pháp, pháp luật và chủ trương, chính
sách, thể lệ của Nhà nước trong lĩnh vực hoạt động của mình.
5. Những kẻ lợi dụng tôn giáo để phá hoại nền độc lập của Tổ quốc,
chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, ngăn
cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, chống lại các chính sách và pháp luật của
Nhà nước sẽ bị pháp luật nghiêm trị.
Ở giai đoạn này, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục được thể hiện
trong Hiến pháp năm 1980 “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc
66 Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, toàn tập, tập.37,NxbCTQG, H;2004, tr. 1035.
278
không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp
luật và chính sách của Nhà nước”.
Năm 1986, Đại hội VI mở đầu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước,
trước hết là đổi mới tư duy. Tuy nhiên, so với các lĩnh vực khác của đời sống xã
hội, đổi mới trên lĩnh vực tôn giáo diễn ra chậm hơn. Các văn kiện Đại hội VI
chỉ thể hiện ở mức độ nhất định trong cách tiếp cận mới về vấn đề tôn giáo và
điều đó đã thể hiện: “Trong việc phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ
con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động, cần có kế hoạch chủ động
xây dựng cơ cấu giai cấp cho xã hội mới, cụ thể hoá và thực hiện đúng chính
sách dân tộc và chính sách tự do tín ngưỡng”.
2. QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG, CHÍNH SÁCH,
PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. Quan điểm, chính sách tôn giáo giai đoạn 1990 - 2002
2.1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam giai đoạn 1990-2002
Vào thập niên 80 của thế kỷ XX, sau sự kiện CNXH ở Liên Xô và Đông
Âu sụp đổ, nhiều nước XHCN khác trên thế giới rơi vào khủng hoảng. Việt
Nam cũng lâm vào thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài. Trước tình
hình đó, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đổi mới tư duy, Đảng ta đã tiến
hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986).
Đại hội Đảng VI được xem là bước ngoặt quan trọng đối với vận mệnh đất
nước, Đại hội đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội. Trên tinh thần đổi mới
toàn diện đó và sau gần 5 năm đổi mới, Đảng ta đã đặt ra vấn đề đổi mới tư duy,
nhận thức về vấn đề tôn giáo.
2.1.2. Quan điểm, chính sách tôn giáo giai đoạn 1990 - 2002
Kế thừa và rút kinh nghiệm về công tác tôn giáo thời kỳ trước, giai đoạn
này chủ trương, chính sách về tôn giáo đã có bước phát triển về nhận thức một
cách sâu sắc, thể hiện:
Một là, khẳng định tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân.
Hai là, tôn giáo có những giá trị văn hóa, đạo đức phù hợp với chế độ mới.
Ba là, khuyến khích chức sắc, nhà tu hành và tín đồ hoạt động từ thiện
nhân đạo và tham gia các chương trình phát triển kinh tế, xã hội.
279
Điều 70, Hiến pháp năm 1992: “ Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, các tôn giáo đều bình đẳng trước
pháp luật...”
Từ nhận thức mới tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đặt ra 3 nội dung cơ bản trên phương diện
quản lý hoạt động tôn giáo:
1. Phải đồng thời quan tâm giải quyết một cách hợp lý nhu cầu tín
ngưỡng của quần chúng, vừa cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu thủ đoạn
lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
2. Cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, công
tác với con người.
3. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị
do Đảng lãnh đạo.
Các quan điểm trên đã được Bộ Chính trị chỉ đạo “Khuyến khích chức
sắc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo hoạt động nhân đạo, từ thiện trong khuôn
khổ các chủ trương chung, tham gia vào việc thực hiện các chương trình kinh tế
- xã hội, các phong trào của mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các tổ chức xã
hội”. “Những hoạt động của tôn giáo ích nước lợi dân, phù hợp với nguyện vọng
và lợi ích chính đáng, hợp pháp của tín đồ được bảo đảm, những giá trị văn hóa,
đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy. Tôn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng,
tôn giáo của công dân”. Mọi công dân đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ
trước pháp luật, không phân biệt người theo đạo và người không theo đạo, cũng
như giữa các tôn giáo khác nhau.
2.2. Quan điểm, chính sách tôn giáo giai đoạn 2003 đến nay
Gần đây nhất Hiến pháp năm 2013 đã thay cụm từ "quyền công dân"
bằng "Quyền con người". Điều đó khẳng định quyền con người là quyền tự
nhiên, Nhà nước phải thừa nhận, tôn trọng và cam kết bảo đảm, bảo vệ quyền
con người đúng như công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Trong lĩnh
vực tôn giáo, Điều 70 Hiến pháp năm 1992 được thay bằng Điều 24 trong Hiến
pháp 2013, với nội dung: Công dân được thay bằng Mọi người có quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo; những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp
luật bảo hộ được thay bằng Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo. Với quy định này Nhà nước đã mở rộng quyền tự do tín
280
ngưỡng, tôn giáo của các thành phần trong xã hội (cả thành phần đã mất quyền
công dân); đồng thời nhìn nhận giá trị văn hóa của các cơ sở tôn giáo.
Điều 24 Hiến pháp 2013 ghi nhận:
“1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
Trong thời kỳ này chủ trương, chính sách về tôn giáo được thể hiện trong
văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, XII, XIII.
Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản
Việt Nam (4/2006) ghi rõ:“Chúng ta thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và
đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân,
quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo
các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn
giáo. Đấu tranh ngăn chặn các hành vi lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng,
tôn giáo để hoạt động trái pháp luật, kích động, chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân
tộc, tôn giáo, làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước”67.
Về mặt nội dung, đoạn trích trên của văn kiện đề cập đến ba vấn đề chính:
Một là, Đảng ta khẳng định và đưa ra một chính sách nhất quán từ trước qua các
kỳ Đại hội đó là chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn
giáo của công dân; Hai là, tiếp tục khẳng định chủ trương đoàn kết tôn giáo,
đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng
bào không theo tôn giáo trong chủ trương đại đoàn kết dân tộc; Ba là, đấu tranh
chống các hành vi lợi dụng các vấn đề dân tộc và tôn giáo làm phương hại đến
lợi ích chung của đất nước.
Ba vấn đề trên mặc dù chưa bao hàm hết mọi phương diện của vấn đề tôn
giáo và quan điểm chính sách pháp luật về tôn giáo song trước hết cho thấy,
Đảng cộng sản Việt Nam dành sự quan tâm nhiều đến vấn đề tôn giáo, tín
ngưỡng qua chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo, chủ trương về đại đoàn kết
tôn giáo và đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo và dân tộc.
67 Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, HN-2006, trang 42-43
281
Như vậy những vấn đề về tôn giáo, tín ngưỡng và quan điểm chính sách
tôn giáo theo tinh thần Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam bao gồm 8 nội dung
chủ yếu sau:
1) Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo
tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật.
2) Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân
tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và
đồng bào không theo tôn giáo.
3) Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo.
4) Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống
“tốt đời, đẹp đạo”.
5) Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp
luật bảo hộ.
6) Thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời
sống vật chất, văn hoá của đồng bào các tôn giáo.
7) Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo.
8) Đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan, các hành vi lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo.
Những nhận thức và chủ trương, chính sách nói trên đã góp phần quan trọng
vào việc giải quyết tốt vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo những năm qua.
Tiếp tục các quan điểm, chủ trương, chính sách tôn giáo của Đại hội X,
quan điểm chính sách tôn giáo của Đại hội XI Đảng cộng sản Việt Nam
(01/2011) không chỉ được đề cập đến trong Báo cáo Chính trị của Đại hội mà
còn được thể hiện ở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ xung, phát triển năm 2011).
Nhìn một cách tổng thể cả Cương lĩnh và Báo cáo Chính trị đã đề cập đến
6 vấn đề cơ bản về tôn giáo sau:
1) Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật.
2) Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức, tốt đẹp của các tôn giáo.
3) Động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo,
tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
282
4) Quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo
hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã đựơc Nhà nước công nhận,
đúng quy định của pháp luật.
5) Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc.
6) Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù
hợp với quan điểm của Đảng.
Từ 8 vấn đề cơ bản của Báo cáo Chính trị Đại hội X và 6 vấn đề của Báo
cáo Chính trị Đại hội XI (gồm cả Cương lĩnh - bổ sung và phát triển), chúng ta
thấy cho rằng có 5 nội dung chung, khá nhất quán đó là: Tôn trọng và đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân; Phát huy những giá trị văn hóa,
đạo đức, tốt đẹp của các tôn giáo; Động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín
đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và
được pháp luật bảo hộ (gọi chung là vấn đề các tổ chức tôn giáo); Đấu tranh
chống các hành vi lợi dụng các vấn đề dân tộc và tôn giáo. Thực ra trên cả 5 vấn
đề này mặc dù thống nhất về nội dung tư tưởng, quan điểm chính sách pháp luật
song cách diễn đạt ít nhiều có sự khác nhau. Riêng vấn đề đấu tranh chống các
hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo ở cả hai Báo cáo Chính trị Đại hội X và XI
đều đề cập đến, song ở Đại hội XI còn có sự bổ sung mới đó là tư tưởng về “chủ
động phòng ngừa” và “kiên quyết đấu tranh” với những hành vi lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc. Từ tổng
kết thực tiễn những vụ việc phức tạp trong tôn giáo, những điểm nóng tôn giáo
trong cả nước thời gian qua Đảng ta đã chỉ ra rằng trong đấu tranh giải quyết vấn
đề tôn giáo không thể bị động đối phó để đến khi vụ việc phức tạp diễn ra rồi
mới giải quyết mà phải “chủ động phòng ngừa” để các vụ việc ấy không diễn
ra, các thế lực thù địch không có cớ để lợi dụng chống lại Đảng, nhà nước.
Tương tự như vậy là tư tưởng chỉ đạo trong việc đấu tranh “kiên quyết”, đấu
tranh mạnh mẽ, không khoan nhượng với các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo,
tín ngưỡng làm phương hại đến lợi ích của dân tộc và lợi ích của nhân dân. Sau
khi có Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo (2004) và Nghị định số 22/2005/NĐ- CP
hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Đảng ta
dành sự quan tâm nhiều hơn và ưu tiên trước hết đến việc “tiếp tục hoàn thiện
chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo” để thể chế hóa Pháp lệnh và lấy
283
đó làm cơ sở pháp lý cho việc nhận thức và giải quyết vấn đề tôn giáo, ban hành
các chính sách cụ thể đối với lĩnh vực tín ngưỡng và tôn giáo trong những năm
tới. Như vậy từ quan điểm này, Đảng cũng đã chỉ rõ sự cần thiết cấp bách cả
trong việc hoàn thiện về “luật pháp” và cả trong việc hoàn thiện về “chính
sách” đối với tín ngưỡng, tôn giáo.
Một vấn đề mới được bổ sung khác trong 5 nội dung nói trên chính là việc
Đảng ta đã bổ sung và dành cho “các tổ chức tôn giáo” một sự quan tâm hơn.
Nếu như Báo cáo Chính trị Đại hội X mới chỉ dừng lại ở việc nêu: “Các tổ chức
tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ”, thì ở
Báo cáo Chính trị Đại hội XI bổ sung. Đó là “động viên các tổ chức tôn giáo”
và hơn thế nữa là “quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo”
hoạt động không chỉ theo quy định của pháp luật mà còn theo hiến chương và điều
lệ của các tổ chức tôn giáo ấy.
Những thành tựu của của việc giải quyết vấn đề tôn giáo từ Đại hội X đến
Đại hội XI thời gian qua cho thấy đời sống tâm linh, tinh thần của đồng bào các
tôn giáo vận hành theo tinh thần của 6 nội dung cơ bản nói trên đang khởi sắc.
Đại hội XII (2016) của Đảng khẳng định: Tiếp tục hoàn thiện chính sách,
pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt
đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh
hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công
nhận, theo quy định của pháp luật. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết
đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại
khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy
định của pháp luật.
Một bước tiến quan trọng và thể hiện nỗ lực trong công tác thể chế hóa
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước thành văn bản pháp pháp luật về tôn
giáo đó là sự ra đời Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 có hiệu lực từ ngày
01/01/2018 và Chính phủ đã ban hành Nghị định số 162/2017/NĐ-CP, ngày
30/12/2017 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng
tôn giáo. Đây là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị cao nhất điều chỉnh trực
tiếp lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, tạo hành lang pháp lý ổn định. Như vậy, có
thể khẳng định văn bản pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo cơ bản đã hoàn thiện,
về nội dung Luật có nhiều điểm mới, tiến bộ, thể hiện tính công khai, dân chủ,
minh bạch, cụ thể hoá quyền con người theo đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013.
284
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021), Đảng
Cộng sản Việt Nam đề cập trực tiếp các nội dung về tôn giáo và công tác tôn
giáo một cách toàn diện, có trọng điểm. Trong 10 văn bản trình bày ở 02 tập của
văn kiện, có 04 văn bản đề cập trực tiếp các nội dung liên quan đến tôn giáo:
Trong văn kiện Đại hội XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiều nội dung
bổ sung, cập nhật, kế thừa, tiếp thu những ý kiến đóng góp quý báu của các nhà
lãnh đạo, quản lý, quản trị về tôn giáo, các nhà khoa học và tín đồ, chức sắc của
các tôn giáo, cụ thể như sau:
Một là, quan điểm tiếp tục phát huy vai trò, tác động tích cực của tôn giáo
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó, Đảng ta nhấn mạnh yếu
tố văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng ghi rõ: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo
đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước”68.
Các quan niệm về các nguồn lực của các tôn giáo đều thống nhất ở những
điểm sau: khẳng định vai trò của tôn giáo, coi những tác động tích cực của các
tôn giáo là một trong những nguồn lực quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; đều thừa nhận các nguồn lực của các tôn giáo ở hai phương
diện: nguồn lực tinh thần và nguồn lực vật chất, trong đó nhấn mạnh nhiều hơn
ở nguồn lực tinh thần - đó là các giá trị về văn hóa, đạo đức tôn giáo; các nguồn
lực của các tôn giáo đã tham gia vào tất cả các quá trình, lĩnh vực trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó ưu thế, đóng góp tiêu biểu ở các lĩnh vực giáo
dục, y tế, an sinh xã hội, từ thiện nhân đạo.
Quan điểm của Đảng về “các nguồn lực của các tôn giáo” xác định là
những nguồn lực của các tôn giáo, tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận
nêu trên. Các nguồn lực của các tôn giáo rất đa dạng: nguồn lực con người có
tôn giáo; nguồn lực từ cơ sở vật chất, nguồn vốn, khả năng vận động; những giá
trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo.... Những nguồn lực này được sử dụng
vào việc “Đời”, ích nước, lợi dân thì đó là một trong những nguồn lực cần phát
huy trong phát triển đất nước.
Tại Đại hội lần này, Đảng ta tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh đến những
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Phát huy những “nhân tố tích
cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng”, “giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp
của tôn giáo” vào giữ gìn và nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng
68 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 2, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021. Tr. 171
285
đời sống văn hóa ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội, phê
phán và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan.
Hai là, thực hiện đoàn kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đây là mục tiêu trong thực hiện công tác tôn giáo. Đoàn kết là truyền
thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, chính tinh thần đoàn kết
để dựng nước và giữ nước, người có đạo khác nhau, giữa người có đạo và không
có đạo ở Việt Nam luôn có sự tôn trọng, chung sống hòa hợp. Thế nên, Đảng ta
đặt mục tiêu của công tác tôn giáo là đoàn kết tôn giáo trong mục tiêu chung đại
đoàn kết toàn dân tộc là phù hợp, kế thừa, phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, phản ánh đúng ý chí, khát vọng của người Việt Nam hiện nay, trong
đó có đồng bào có đạo.
Ba là, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho mọi người
Đây là sự khái quát đầy đủ chủ trương nhất quán của Đảng ta đối với vấn
đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo. Bảo đảm ở đây bao
hàm cả sự tôn trọng, quan tâm, tạo điều kiện về mặt pháp lý lẫn thực tế đối với
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người. Đối tượng bảo đảm ở đây được
mở rộng là “con người”, không những là tổ chức, “nhân dân”, “công dân” ở
trong nước mà còn là tổ chức, cá nhân người nước ngoài có tôn giáo khi họ sinh
sống, học tập, làm việc ở Việt Nam cũng như người Việt ở nước ngoài khi về
quê hương.
Bốn là, sự chủ động trong tiến hành công tác tôn giáo
Chủ động lắng nghe, giải quyết kịp thời nguyện vọng chính đáng của nhân
dân là quan điểm, thực tiễn sinh động khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội
chủ nghĩa, vai trò lãnh đạo đất nước không thể thay thế được của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Công tác tôn giáo cũng vậy, cần có sự chủ động để kịp thời phát huy
những tác động tích cực, hạn chế, phê phán, đấu tranh, xử lý các biểu hiện tiêu
cực liên quan đến tôn giáo.
Trong văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định sự chủ động nhằm giải
quyết đồng thời hai nhiệm vụ: Giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn
giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng; Phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh
với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Hai nhiệm vụ này cần được tiến hành song song, đề cao
tính chủ động của hệ thống chính trị, nhất là các cơ quan chức năng là hết sức
cần thiết.
286
Như vậy, những nội dung liên quan đến tôn giáo, công tác tôn giáo được
đề cập trong văn kiện Đại hội XIII thể hiện Đảng ta đã kế thừa, bổ sung, tiếp thu
những đóng góp quý báu từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, nhất là
nguyện vọng của đồng bào có đạo, phù hợp với thực tiễn sinh động của đời sống
tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta. Đây là cơ sở định hướng trong nhận thức và thực
hiện có hiệu quả công tác tôn giáo, tiếp tục phát huy “các nguồn lực của các tôn
giáo” cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đồng thời
đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản
động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta.
Hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta có nhiều đổi mới về
kinh tế, chính trị, xã hội, trong đó có đổi mới tư duy về tôn giáo đó là: “Tín
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận đang và sẽ tồn tại cùng
dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta”.
* Về nhận thức, quan điểm: Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà
nước ta qua 13 kỳ Đại hội Đảng (trong đó có 8 kỳ Đại hội của thời kỳ đổi mới) là:
Một là: Xác định tôn giáo, tín ngưỡng là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận quần chúng nhân dân. Tôn giáo sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do không tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo qui định của pháp luật.
Hai là: Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với hành vi xâm
phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo, cũng như
hoạt động lợi dụng, sử dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại
khối đại đoàn kết dân tộc, phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Ba là: Tôn trọng, phát huy các giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của tôn
giáo.
Bốn là: Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Bản
chất của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, bởi vì quần chúng
cách mạng có một bộ phận không nhỏ theo các tôn giáo và có tín ngưỡng. Do
vậy, phải động viên các chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, tham gia đóng góp
tích cực cho khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Năm là: Quan tâm tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo
Hiến chương, Điều lệ của mình đã được Nhà nước công nhận.
287
Sáu là: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về tín ngưỡng,
tôn giáo phù hợp với đường lối, quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới. Đồng
thời, phải xây dựng được tổ chức và lực lượng làm công tác tôn giáo nói chung
và quản lý Nhà nước về tôn giáo nói riêng ở các cấp đáp ứng được nhu cầu cách
mạng và tình hình mới.
II. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO HIỆN NAY
Ngày 18/11/2016, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã thông qua Luật tín ngưỡng, tôn giáo (Luật); ngày 30/12/2017, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 162/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo (Nghị định số 162). Ngày 01/01/2018,
Luật và Nghị định số 162 đồng thời có hiệu lực thi hành. Đây là các văn bản
pháp luật điều chỉnh trực tiếp lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta hiện nay.
Ngoài ra, còn có các văn bản pháp luật chuyên ngành ở những góc độ khác nhau
cũng có các quy phạm pháp luật điều chỉnh một số nội dung liên quan đến tín
ngưỡng, tôn giáo. Chuyên đề pháp luật Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo; pháp
luật đất đai, xây dựng liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay sẽ tập trung
giải quyết các nội dung của pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động tín ngưỡng,
hoạt động tôn giáo, đất đai, xây dựng ở nước ta hiện nay.
1. Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng và các chủ thể của quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo
1.1. Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
a) Phạm vi điều chỉnh
Pháp luật Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay quy định phạm vi
điều chỉnh bao gồm: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng,
hoạt động tôn giáo; tổ chức tôn giáo; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo69.
b) Đối tượng áp dụng
Đối tượng áp dụng của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam là
các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo.
1.2. Các chủ thể của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
a) Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người
69 Điều 1 Luật tín ngưỡng, tôn giáo; Điều 1 Nghị định số 162.
288
- Trải qua mỗi giai đoạn lịch sử của dân tộc, pháp luật của Nhà nước Việt
Nam nói chung, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng đều có những quy
định cụ thể phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, lịch sử của đất nước. Việc
quy định này đều bắt nguồn từ văn bản gốc đó chính là các bản Hiến pháp, để
sau đó trên cơ sở của các bản Hiến pháp, nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành
sẽ cụ thể hoá, làm căn cứ pháp lý thực hiện trên thực tiễn. Ở lĩnh vực tín
ngưỡng, tôn giáo cũng không nằm ngoài ngoại lệ đó. Trong tất cả các bản Hiến
pháp từ Hiến pháp năm 1946 đến nay, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
công dân đều được Nhà nước quan tâm, ghi nhận. Quyền cơ bản của công dân
trong đó có quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở các bản Hiến
pháp sau bao giờ cũng tiến bộ và tiệm cận với các Điều ước quốc tế về quyền
con người mà Việt Nam là thành viên. Đặc biệt các bản Hiến pháp gần đây, nội
dung này được minh chứng cụ thể hơn. Hiến pháp năm 2013 quy định: "1. Mọi
người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo
hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín
ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật"70.
Hiến pháp năm 1992 quy định “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào”71. Như vậy, có thể thấy chủ thể của
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo quy định tại Hiến pháp năm 1992 là “công
dân” đã thay đổi sang chủ thể là “mọi người” trong Hiến pháp năm 2013. Chủ
thể của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được mở rộng không chỉ cho những
ai là công dân Việt Nam mà còn cho nhiều chủ thể khác như công dân Việt Nam
bị hạn chế quyền công dân, người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam và
cả người không quốc tịch đang ở Việt Nam. Và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
là quyền của tất cả mọi người, quyền này không bị giới hạn bởi quốc tịch, giới
tính, độ tuổi. Việc quy định này thể hiện đúng bản chất quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo là quyền con người.
Để cụ thể hóa quyền này tại Hiến pháp năm 2013, khoản 1 Điều 6 của
Luật đã quy định chủ thể thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo chính là
“Mọi người”72.
70 Xem Điều 24 Hiến pháp năm 2013. 71 Xem Điều 70 Hiến pháp năm 1992. 72 Điều 6, Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
289
- Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo cũng quy định mỗi người (mỗi cá
nhân) có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín
ngưỡng, tôn giáo; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo; quyền vào tu
tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng về tôn giáo.
- Đối với người chưa thành niên khi vào tu tại cơ sở tôn giáo hoặc học tại
cơ sở đào tạo tôn giáo phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Việc giám
hộ cho người chưa thành niên sẽ thực hiện theo quy định của pháp luật dân sự.
- Đối với chức sắc, chức việc, nhà tu hành còn có các quyền như thực hiện lễ
nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác.
- Đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật
về tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện
bắt buộc (người bị quản lý, giam giữ) có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm
tin tín ngưỡng, tôn giáo73. Đây là một quy định mới của Luật, thể hiện tính nhân
văn sâu sắc cũng như trách nhiệm của Nhà nước Việt Nam trong việc công nhận,
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người.
Để có căn cứ thực hiện nội dung này, Quốc hội đã giao cho Chính phủ quy định
chi tiết quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo của người
bị quản lý, giam giữ.
Thực hiện quy định này, Điều 4 Nghị định số 162 đã quy định về nội dung
này và giao cho các bộ, ngành liên quan có trách nhiệm hướng dẫn cách thức
quản lý kinh sách, thời gian, địa điểm sử dụng kinh sách và bày tỏ niềm tin tín
ngưỡng, tôn giáo cho người bị quản lý, giam giữ tại cơ sở quản lý, giam giữ.
b) Quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc
Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo quy định mang tính nguyên tắc về các
quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc. Các quyền này bao
gồm74: Hoạt động tôn giáo theo hiến chương, điều lệ và văn bản có nội dung
tương tự của tổ chức tôn giáo; tổ chức sinh hoạt tôn giáo; xuất bản kinh sách và
xuất bản phẩm khác về tôn giáo; sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm
tôn giáo, đồ dùng tôn giáo; cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới cơ sở tôn giáo; nhận
tài sản hợp pháp do tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài
tự nguyện tặng cho; các quyền khác theo quy định của Luật tín ngưỡng, tôn giáo
và quy định khác của pháp luật có liên quan.
73 Khoản 5, Điều 6, Luật tín ngưỡng, tôn giáo; Điều 4 Nghị định số 162. 74 Điều 7 Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
290
c) Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài cư trú hợp
pháp tại Việt Nam
Các quyền của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam bao gồm75:
Được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo;
sinh hoạt tôn giáo, tham gia hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; sử dụng
địa điểm hợp pháp để sinh hoạt tôn giáo tập trung; mời chức sắc, chức việc, nhà
tu hành là người Việt Nam thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo; mời chức sắc,
nhà tu hành là người nước ngoài giảng đạo; vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ
sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng về tôn giáo của tổ chức tôn giáo ở Việt Nam;
mang theo xuất bản phẩm tôn giáo, đồ dùng tôn giáo để phục vụ nhu cầu sinh
hoạt tôn giáo theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Đối với chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt
Nam được giảng đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác ở Việt Nam.
d) Nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo
Bên cạnh việc thực hiện các quyền nêu trên, các tổ chức, cá nhân trong
thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng có những nghĩa vụ phải thực
hiện, đó là tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo
phải tuân thủ Hiến pháp, Luật tín ngưỡng, tôn giáo và các quy định khác của
pháp luật có liên quan76.
Đối với chức sắc, chức việc, nhà tu hành, người đại diện, ban quản lý cơ
sở tín ngưỡng có trách nhiệm hướng dẫn tín đồ, người tham gia hoạt động tín
ngưỡng, hoạt động tôn giáo thực hiện hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo
đúng quy định của pháp luật.
1.3. Các hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo
Theo thông lệ, mỗi một lĩnh vực của đời sống, kinh tế, văn hoá, xã hội
đều có các quy định của pháp luật điều chỉnh và trong các pháp luật ấy đều có
các quy định cụ thể các quyền, nghĩa vụ của người tham gia cũng như các hành
vi bị nghiêm cấm hay nói cách khác là giới hạn của các quyền ở lĩnh vực đó
được thực hiện những gì và những gì không được thực hiện và những nội dung
nào nếu chạm vào thì bị nghiêm cấm. Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo hiện
nay cũng quy định không ngoài ngoại lệ đó. Về nội dung này, pháp luật về tín
75 Điều 8 Luật tín ngưỡng, tôn giáo 76 Điều 9 Luật tín ngưỡng, tôn giáo
291
ngưỡng, tôn giáo77 quy định các hành vi bị nghiêm cấm bao gồm không được
phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; ép buộc, mua chuộc hoặc
cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; xúc phạm tín
ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo: Xâm phạm quốc
phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; xâm
hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm
danh dự, nhân phẩm của người khác; cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
công dân; chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn
giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín
ngưỡng, tôn giáo khác nhau; lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo
để trục lợi.
2. Hoạt động tín ngưỡng
2.1. Hoạt động tín ngưỡng
a) Nguyên tắc tổ chức hoạt động tín ngưỡng
Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo đã đưa ra nguyên tắc tổ chức hoạt động
tín ngưỡng đó là: Hoạt động tín ngưỡng, lễ hội tín ngưỡng khi thực hiện phải
đảm bảo nguyên tắc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp
của dân tộc; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, tiết kiệm, bảo vệ môi
trường. Việc tổ chức hoạt động tín ngưỡng, lễ hội tín ngưỡng phải bảo đảm an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, tiết kiệm và bảo vệ môi trường78.
b) Người đại diện, ban quản lý cơ sở tín ngưỡng
Cơ sở tín ngưỡng là nơi thực hiện hoạt động tín ngưỡng của cộng đồng
như đình, đền, miếu, nhà thờ dòng họ và những cơ sở tương tự khác.79
Cơ sở tín ngưỡng phải có người đại diện hoặc ban quản lý để chịu trách
nhiệm trước pháp luật về các hoạt động diễn ra tại cơ sở80. Người đại diện hoặc
thành viên ban quản lý cơ sở tín ngưỡng phải đáp ứng các điều kiện như: Công
dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có uy
tín trong cộng đồng dân cư.
Việc bầu, cử người đại diện hoặc thành viên ban quản lý cơ sở tín ngưỡng
do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có cơ sở tín ngưỡng phối hợp với Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc cùng cấp tổ chức để cộng đồng dân cư bầu, cử. Căn cứ vào kết quả
77 Điều 5 Luật tín ngưỡng, tôn giáo. 78 Điều 10 Luật tín ngưỡng, tôn giáo 79 Khoản 4 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo. 80 Điều 11 Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
292
bầu, cử, Ủy ban nhân dân cấp xã có văn bản công nhận người đại diện hoặc
thành viên ban quản lý trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày bầu, cử.
Đối với cơ sở tín ngưỡng đã được xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa,
danh lam thắng cảnh, việc bầu, cử người đại diện hoặc thành lập ban quản lý cơ
sở tín ngưỡng thực hiện theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa. Việc bầu,
cử người đại diện hoặc thành lập ban quản lý nhà thờ dòng họ là công việc nội
bộ của dòng họ vì vậy không phải áp dụng theo các quy định nêu trên.
c) Đăng ký hoạt động tín ngưỡng
Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thờ cúng tổ tiên, các biểu tượng linh
thiêng; tưởng niệm và tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng; các
lễ nghi dân gian tiêu biểu cho những giá trị lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội81.
Về nguyên tắc hoạt động tín ngưỡng của cơ sở tín ngưỡng phải đăng ký
trừ cơ sở tín ngưỡng là nhà thờ dòng họ. Đối với các cơ sở tín ngưỡng khác phải
đăng ký hoạt động tín ngưỡng, cụ thể82:
- Việc đăng ký hoạt động tín ngưỡng của cơ sở tín ngưỡng phải thực hiện
đăng ký chậm nhất là 30 ngày trước ngày cơ sở tín ngưỡng bắt đầu hoạt động tín
ngưỡng, trừ trường hợp tổ chức lễ hội tín ngưỡng lần đầu, lễ hội tín ngưỡng
được khôi phục hoặc lễ hội tín ngưỡng định kỳ nhưng có thay đổi quy định83.
- Đối với cơ sở tín ngưỡng đã thông báo hoạt động tín ngưỡng hằng năm
trước ngày 01/01/2018, chậm nhất là 30 ngày kể từ 01/01/2018, người đại diện
hoặc ban quản lý cơ sở tín ngưỡng có trách nhiệm đăng ký hoạt động tín ngưỡng
với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có cơ sở. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
nhận được văn bản đăng ký hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm trả
lời bằng văn bản; trường hợp từ chối đăng ký phải nêu rõ lý do. Đối với các hoạt
động tín ngưỡng không có trong văn bản đăng ký đã được chấp thuận thì người
đại diện hoặc ban quản lý cơ sở tín ngưỡng có trách nhiệm đăng ký bổ sung.
Như vậy, có thể nhận thấy việc đăng ký hoạt động tín ngưỡng thay đổi
theo hướng chỉ đăng ký lần đầu với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, những nội
dung không có trong văn bản đăng ký sẽ đăng ký bổ sung. Đây là quy định mới,
tiến bộ, phù hợp với xu hướng cải cách hành chính hiện nay ở Việt Nam.
2.2. Tổ chức lễ hội tín ngưỡng
a) Lễ hội tín ngưỡng định kỳ
81 Khoản 2 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo. 82 Điều 12 và khoản 6 Điều 67 Luật tín ngưỡng, tôn giáo. 83 Điều 14 Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
293
Lễ hội tín ngưỡng là hoạt động tín ngưỡng tập thể được tổ chức theo lễ
nghi truyền thống nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của cộng đồng84.
Tùy theo quy mô tổ chức lễ hội, người đại diện, ban quản lý cơ sở tín
ngưỡng có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về việc tổ chức lễ hội tín
ngưỡng định kỳ chậm nhất là 20 ngày trước ngày tổ chức lễ hội đến Ủy ban
nhân dân cấp xã, Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh85.
Việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng định kỳ tại cơ sở tín ngưỡng là di tích lịch
sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng thực hiện theo quy định
của pháp luật về di sản văn hóa.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban nhân
dân cấp huyện hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tùy quy mô tổ chức của lễ hội) có
trách nhiệm bảo đảm về việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng theo nội dung thông báo.
b) Lễ hội tín ngưỡng lần đầu, lễ hội tín ngưỡng được khôi phục hoặc lễ
hội tín ngưỡng định kỳ nhưng có thay đổi
Trước khi tổ chức lễ hội tín ngưỡng lần đầu, lễ hội tín ngưỡng được khôi
phục hoặc lễ hội tín ngưỡng định kỳ nhưng có thay đổi về quy mô, nội dung,
thời gian, địa điểm86 thì người đại diện hoặc ban quản lý cơ sở tín ngưỡng có
trách nhiệm gửi văn bản đăng ký đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi tổ chức lễ
hội. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký, Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản; trường hợp từ chối đăng
ký phải nêu rõ lý do.
3. Đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung
3.1. Đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung
Sinh hoạt tôn giáo là việc bày tỏ niềm tin tôn giáo, thực hành giáo lý, giáo
luật, lễ nghi tôn giáo87.
Sinh hoạt tôn giáo của mỗi cá nhân tại cơ sở tôn giáo, địa điểm hợp pháp
hoặc tại tư gia là quyền của mỗi người và không phải đăng ký. Nhưng khi tập trung
đông người để sinh hoạt tôn giáo thì phải đăng ký theo quy định của pháp luật.
a) Chủ thể được thực hiện đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung
Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo quy định về chủ thể được đăng ký sinh
hoạt tôn giáo tập trung gồm88:
84 Khoản 3 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo. 85 Điều 13 Luật tín ngưỡng, tôn giáo. 86 Điều 14 Luật tín ngưỡng, tôn giáo. 87 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo 88 Điều 16 Luật tín ngưỡng, tôn giáo
294
- Tổ chức tôn giáo đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung cho tín đồ của tổ
chức tại những nơi chưa đủ điều kiện thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc;
- Tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo đăng ký sinh
hoạt tôn giáo tập trung cho những người thuộc tổ chức;
- Những người theo tôn giáo nhưng chưa có tổ chức được cấp chứng nhận
đăng ký hoạt động tôn giáo hoặc công nhận là tổ chức tôn giáo.
b) Về điều kiện đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung
Nhóm tín đồ, nhóm người theo tôn giáo phải đáp ứng các điều kiện theo
quy định của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, cụ thể89:
- Đối với tổ chức tôn giáo đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung cho tín đồ
tại những nơi chưa đủ điều kiện thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc; tổ chức
được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập
trung cho những người thuộc tổ chức khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
+ Có địa điểm hợp pháp để sinh hoạt tôn giáo;
+ Nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung có người đại diện là công dân Việt
Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong
thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn
giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định
của pháp luật về tố tụng hình sự;
+ Nội dung sinh hoạt tôn giáo không thuộc trường hợp quy định tại Điều 5
của Luật.
- Những người theo tôn giáo không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1
Điều 16 được đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung khi đáp ứng đủ các điều kiện
nêu trên và các điều kiện sau đây:
+ Có giáo lý, giáo luật;
+ Tên của nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung không trùng với tên tổ chức
tôn giáo hoặc tổ chức đã được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, tên tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hoặc tên danh nhân, anh hùng dân tộc.
c) Trình tự thủ tục, thẩm quyền chấp thuận đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập
trung
Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo quy định cụ thể về trình tự, thủ tục,
thẩm quyền chấp thuận đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung. Theo đó tổ chức
tôn giáo, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo hoặc người
89 Điều 17 Luật tín ngưỡng, tôn giáo
295
đại diện của nhóm người theo tôn giáo trong trường hợp quy định tại khoản 2
Điều 16 của Luật gửi hồ sơ đăng ký đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có địa điểm
hợp pháp để sinh hoạt tôn giáo. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ
sơ đăng ký hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm trả lời bằng văn bản;
trường hợp từ chối đăng ký phải nêu rõ lý do.
Về hồ sơ, thẩm quyền, thời hạn trả lời đăng ký được quy định cụ thể tại
khoản 2 Điều 17 của Luật, cụ thể:
- Hồ sơ đăng ký gồm:
+ Văn bản đăng ký nêu rõ tên tổ chức đăng ký; tên tôn giáo; họ và tên, nơi
cư trú của người đại diện; nội dung, địa điểm, thời gian sinh hoạt tôn giáo, số
lượng người tham gia;
+ Giấy tờ chứng minh có địa điểm hợp pháp để làm nơi sinh hoạt tôn giáo;
+ Sơ yếu lý lịch của người đại diện nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung;
+ Bản tóm tắt giáo lý, giáo luật đối với việc đăng ký quy định tại khoản 2
Điều 16 của Luật.
Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời
hạn 20 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đăng ký hợp lệ; trường hợp từ chối đăng
ký phải nêu rõ lý do.
3.2. Thay đổi người đại diện, địa điểm sinh hoạt tôn giáo tập trung
Trong quá trình sinh hoạt tôn giáo tập trung, nhóm sinh hoạt tôn giáo vì
nhiều lý do, điều kiện (khách quan hoặc chủ quan) sẽ có sự thay đổi về người
đại diện, địa điểm sinh hoạt tôn giáo. Để các hoạt động này được đảm bảo thực
hiện trong thực tiễn, một mặt tạo điều kiện cho nhóm sinh hoạt tôn giáo khi có
nhu cầu thay đổi có căn cứ pháp lý để thực hiện, mặt khác cũng là cơ sở để các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện trách nhiệm đảm bảo nhu cầu sinh
hoạt tôn giáo tập trung cho mọi người, Điều 5, 6 của Nghị định số 162 đã quy
định về việc thay đổi người đại diện, thay đổi địa điểm sinh hoạt tôn giáo tập
trung. Đây chính là biện pháp của Chính phủ để thực hiện hiệu quả các quy định
của Luật trong thực tiễn.
a) Về việc thay đổi người đại diện
Điều 5 của Nghị định số 162/2017/NĐ-CP quy định nếu nhóm sinh hoạt
tôn giáo tập trung có nhu cầu thay đổi người đại diện thì trước khi thay đổi có
trách nhiệm gửi hồ sơ đăng ký đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có địa điểm sinh
hoạt tôn giáo tập trung. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đăng
296
ký hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm trả lời bằng văn bản, trường
hợp từ chối đăng ký phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
b) Về việc thay đổi địa điểm sinh hoạt tôn giáo tập trung
Điều 6 Nghị định số 162 quy định hai trường hợp thay đổi địa điểm sinh
hoạt tôn giáo tập trung, đó là thay đổi trong địa bàn một xã và thay đổi địa bàn
từ xã này đến địa bàn xã khác.
Trường hợp thay đổi trong địa bàn một xã thì trước khi thay đổi địa điểm,
người đại diện của nhóm có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị đến Ủy ban nhân dân
cấp xã. Trường hợp thay đổi đến địa bàn xã khác thì trước khi thay đổi địa điểm,
người đại diện của nhóm có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị đến Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi có địa điểm mới.
Trong thời hạn 15 ngày (đối với trường hợp thay đổi trong địa bàn một xã)
và 20 ngày (đối với trường hợp thay đổi đến địa bàn xã khác) kể từ ngày nhận
đủ hồ sơ đề nghị hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm trả lời bằng văn
bản, trường hợp không chấp thuận phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày được chấp thuận địa điểm mới, nhóm sinh hoạt
tôn giáo tập trung phải chấm dứt sinh hoạt tôn giáo tại địa điểm cũ và có trách
nhiệm thông báo bằng văn bản đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có địa điểm sinh
hoạt tôn giáo tập trung cũ. Trường hợp nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung chuyển
địa điểm sinh hoạt tôn giáo đến địa bàn xã khác, người đại diện của nhóm còn có
trách nhiệm gửi kèm theo bản sao có chứng thực văn bản chấp thuận của Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi có địa điểm sinh hoạt tôn giáo tập trung mới đến Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi có địa điểm sinh hoạt tôn giáo tập trung cũ.
Về hồ sơ đăng ký thay đổi người đại diện, hồ sơ đề nghị thay đổi địa điểm
sinh hoạt tôn giáo tập trung đã được Điều 5, 6 của Nghị định số 162 quy định cụ thể.
4. Đăng ký hoạt động tôn giáo
Hoạt động tôn giáo là hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo và
quản lý tổ chức của tôn giáo90.
Đăng ký hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp luật về tín ngưỡng,
tôn giáo là quy định mới so với quy định của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
trước đây.
a) Điều kiện đăng ký hoạt động tôn giáo
90 Khoản 11 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
297
Để được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo, tổ chức phải đáp ứng đủ các
điều kiện91, đó là:
- Có giáo lý, giáo luật, lễ nghi;
- Có tôn chỉ, mục đích, quy chế hoạt động không trái với quy định của
pháp luật;
- Tên của tổ chức không trùng với tên tổ chức tôn giáo hoặc tổ chức đã
được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, tên tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội hoặc tên danh nhân, anh hùng dân tộc;
- Người đại diện, người lãnh đạo tổ chức là công dân Việt Nam thường trú
tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong thời gian bị áp
dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có
án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về
tố tụng hình sự;
- Có địa điểm hợp pháp để đặt trụ sở;
- Nội dung hoạt động tôn giáo không thuộc trường hợp quy định tại Điều
5 của Luật.
b) Thẩm quyền, thời hạn đăng ký hoạt động tôn giáo
Tùy thuộc vào địa bàn hoạt động, trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận
đủ hồ sơ đăng ký hợp lệ, cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh
cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo đối với tổ chức có địa bàn hoạt động
ở một tỉnh hoặc cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương
cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo đối với tổ chức có địa bàn hoạt động
ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Sau khi được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, tổ chức được
thực hiện các hoạt động như tổ chức các cuộc lễ tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo,
giảng đạo, bồi dưỡng giáo lý; bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức việc; sửa chữa, cải
tạo trụ sở; tham gia hoạt động từ thiện, nhân đạo; tổ chức đại hội thông qua hiến
chương.
Khi thực hiện các hoạt động nêu trên, tổ chức phải tuân thủ các quy định của
Luật, quy định khác của pháp luật có liên quan.
5. Tổ chức tôn giáo
Tổ chức tôn giáo là tập hợp tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành của
một tôn giáo được tổ chức theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước công nhận
nhằm thực hiện các hoạt động tôn giáo92.
91 Điều 18 Luật tín ngưỡng, tôn giáo. 92 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo
298
5.1. Công nhận tổ chức tôn giáo
a) Điều kiện công nhận tổ chức tôn giáo
Một trong những điều kiện tiên quyết để một tổ chức được công nhận là tổ
chức tôn giáo đó là tổ chức phải hoạt động tôn giáo ổn định, liên tục từ đủ 05
năm trở lên kể từ ngày được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo. Ngoài
ra tổ chức còn phải đáp ứng các điều kiện khác như:
- Có hiến chương theo quy định tại Điều 23 của Luật;
- Người đại diện, người lãnh đạo tổ chức là công dân Việt Nam thường trú
tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong thời gian bị áp
dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có
án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về
tố tụng hình sự;
- Có cơ cấu tổ chức theo hiến chương;
- Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng
tài sản của mình;
- Nhân danh tổ chức tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Như vậy, nếu pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo trước đây quy định điều
kiện về thời gian để một tổ chức từ khi được đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập
trung đến khi được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo và cuối cùng là
công nhận tổ chức tôn giáo là 23 năm thì hiện nay Luật quy định thời điểm này
bắt đầu từ khi tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo đến
công nhận tổ chức tôn giáo là từ đủ 05 năm hoạt động ổn định, liên tục trở lên
(đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung không còn là một điều kiện để tiến tới
được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo và sau đó là công nhận tổ chức
tôn giáo). Đây là quy định rất mới, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức sau
một thời gian hoạt động được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo có đủ
các điều kiện theo luật định để đề nghị công nhận tổ chức tôn giáo.
b) Thẩm quyền, thời hạn công nhận
Luật quy định tùy thuộc vào địa bàn hoạt động, trong thời hạn 60 ngày kể
từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định công
nhận tổ chức tôn giáo đối với tổ chức có địa bàn hoạt động trong một tỉnh hoặc
Bộ Nội vụ quyết định công nhận tổ chức tôn giáo đối với tổ chức có địa bàn hoạt
động ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
5.2. Hiến chương và sửa đổi hiến chương của tổ chức tôn giáo
Theo quy định của Luật, hiến chương của tổ chức tôn giáo phải đảm bảo
các nội dung cơ bản theo quy định tại Điều 23 của Luật, cụ thể:
299
- Tên của tổ chức;
- Tôn chỉ, mục đích, nguyên tắc hoạt động;
- Địa bàn hoạt động, trụ sở chính;
- Tài chính, tài sản;
- Người đại diện theo pháp luật, mẫu con dấu;
- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của tổ chức tôn giáo,
tổ chức tôn giáo trực thuộc;
- Nhiệm vụ, quyền hạn của ban lãnh đạo tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo
trực thuộc;
- Điều kiện, tiêu chuẩn, thẩm quyền, cách thức phong phẩm, bổ nhiệm, bầu
cử, suy cử, thuyên chuyển, cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc, nhà tu hành;
- Điều kiện, thẩm quyền, cách thức giải thể tổ chức tôn giáo; thành lập,
chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc;
- Việc tổ chức hội nghị, đại hội; thể thức thông qua quyết định, sửa đổi, bổ
sung hiến chương; nguyên tắc, phương thức giải quyết tranh chấp nội bộ của tổ
chức;
- Quan hệ giữa tổ chức tôn giáo với tổ chức tôn giáo trực thuộc, giữa tổ
chức tôn giáo với tổ chức, cá nhân khác có liên quan.
Tổ chức tôn giáo khi sửa đổi hiến chương, tùy thuộc vào địa bàn hoạt
động của tổ chức sẽ đăng ký với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nếu tổ chức có địa
bàn hoạt động trong một tỉnh hoặc cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn
giáo ở trung ương nếu tổ chức có địa bàn hoạt động trong phạm vi nhiều tỉnh.
5.3. Tên, trụ sở của tổ chức tôn giáo
a) Về tên, trụ sở của tổ chức tôn giáo93
Tổ chức phải có tên bằng tiếng Việt; không được trùng với với tên tổ chức
tôn giáo khác hoặc tổ chức khác đã được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn
giáo, tên tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hoặc tên danh nhân, anh
hùng dân tộc.
Tên của tổ chức tôn giáo được sử dụng trong quan hệ với tổ chức, cá nhân
khác và được pháp luật bảo vệ. Tổ chức tôn giáo thay đổi tên, trụ sở phải được
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn
giáo ở trung ương chấp thuận. Luật chưa có quy định về trình tự, thủ tục thay
đổi tên, trụ sở của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc.
93 Điều 25, Điều 26 Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
300
Để đảm bảo thực hiện nội dung này trong thực tiễn, Nghị định số 162 đã
quy định về trình tự, thủ tục thay đổi tên, thay đổi trụ sở của tổ chức tôn giáo, tổ
chức tôn giáo trực thuộc.
b) Trình tự, thủ tục thay đổi tên, trụ sở của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn
giáo trực thuộc
Điều 7 và 8 của Nghị định số 162 đã quy định về trình tự, thủ tục thay đổi
tên, thay đổi trụ sở của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, cụ thể:
- Đối với việc thay đổi tên của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực
thuộc94:
Trước khi thay đổi tên, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có
trách nhiệm gửi văn bản đề nghị đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh hoặc Bộ Nội vụ). Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận
được văn bản đề nghị hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Bộ Nội vụ có trách
nhiệm trả lời bằng văn bản, trường hợp không chấp thuận phải trả lời bằng văn
bản và nêu rõ lý do.
- Đối với việc thay đổi trụ sở của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực
thuộc95:
Điều 8 Nghị định số 162 quy định việc thay đổi trụ sở của tổ chức tôn
giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được chia làm hai trường hợp đó là việc thay
đổi trụ sở của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động
ở nhiều tỉnh và việc thay đổi trụ sở của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực
thuộc có địa bàn hoạt động ở một tỉnh. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận
đủ hồ sơ đề nghị hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi đặt trụ sở mới có trách
nhiệm trả lời bằng văn bản, trường hợp không chấp thuận phải trả lời bằng văn
bản và nêu rõ lý do.
Chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày chuyển đến trụ sở mới, tổ chức tôn giáo,
tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động ở nhiều tỉnh có trách nhiệm
thông báo bằng văn bản về việc thay đổi trụ sở đến Bộ Nội vụ và Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh nơi đặt trụ sở cũ.
5.4. Tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo
Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo quy định về vấn đề pháp nhân của tổ
chức tôn giáo, theo đó đối với tổ chức được công nhận là tổ chức tôn giáo sau
ngày Luật có hiệu lực, thời điểm tổ chức được công nhận là pháp nhân phi
94 Điều 7, Nghị định số 162. 95 Điều 8, Nghị định số 162.
301
thương mại chính là thời điểm tổ chức được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
công nhận về tổ chức.
Đối với các tổ chức được công nhận trước ngày Luật có hiệu lực, thời
điểm tổ chức trở thành pháp nhân phi thương mại là thời điểm Luật có hiệu lực.
Các tổ chức tôn giáo có trách nhiệm điều chỉnh hiến chương tại đại hội gần nhất
theo quy định tại Điều 23 và đăng ký hiến chương sửa đổi theo quy định tại
Điều 24 của Luật.
5.5. Giải thể tổ chức tôn giáo
a) Các trường hợp giải thể
Luật đưa ra các quy định mang tính nguyên tắc về giải thể tổ chức tôn
giáo (giải thể về cơ cấu tổ chức) mà chưa có các quy định về trình tự, thủ tục
giải thể tổ chức tôn giáo. Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo quy định tổ chức tôn
giáo giải thể trong các trường hợp96:
- Theo quy định của hiến chương;
- Không hoạt động tôn giáo trong thời gian 01 năm kể từ ngày được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền công nhận; ngừng hoạt động tôn giáo trong thời
gian 01 năm liên tục;
- Hết thời hạn bị đình chỉ toàn bộ hoạt động tôn giáo mà không khắc phục
được nguyên nhân dẫn đến việc bị đình chỉ.
b) Về cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải thể hoặc đề nghị giải thể
Theo quy định của pháp luật, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải thể
hoặc đề nghị giải thể tổ chức tôn giáo gồm:
- Tổ chức tôn giáo đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép tự
giải thể theo quy định của hiến chương của tổ chức;
- Cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận tổ chức tôn giáo có quyền
giải thể tổ chức tôn giáo.
Trước khi giải thể, tổ chức tôn giáo phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về
tài sản. Tài sản của tổ chức bị giải thể được giải quyết theo quy định của pháp
luật về dân sự.
5.6. Trình tự, thủ tục giải thể
Nghị định số 162 đã quy định chi tiết về trình tự, thủ tục giải thể tổ chức
tôn giáo, cụ thể:
96 Điều 31 Luật tín ngưỡng, tôn giáo
302
a) Trình tự, thủ tục giải thể tổ chức tôn giáo theo quy định của hiến
chương97:
Tổ chức tôn giáo tự giải thể theo quy định của hiến chương có trách nhiệm
gửi hồ sơ đề nghị đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hồ sơ đề nghị gồm:
- Văn bản đề nghị nêu rõ tên, trụ sở của tổ chức đề nghị; lý do và dự kiến
thời điểm giải thể;
- Bản kê khai tài sản, tài chính;
- Phương thức xử lý tài sản, tài chính và thời hạn thanh toán các khoản nợ
(nếu có);
Tổ chức tôn giáo tự giải thể có trách nhiệm thông báo thời hạn thanh toán
các khoản nợ (nếu có) cho các tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định của
pháp luật trên năm số báo viết hoặc báo điện tử liên tiếp ở trung ương đối với tổ
chức tôn giáo có địa bàn hoạt động ở nhiều tỉnh, ở địa phương đối với tổ chức
tôn giáo có địa bàn hoạt động ở một tỉnh.
Thẩm quyền chấp thuận giải thể: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chấp thuận việc
giải thể tổ chức tôn giáo có địa bàn hoạt động ở một tỉnh trong thời hạn 45 ngày
kể từ ngày hết thời hạn thanh toán các khoản nợ (nếu có) và thanh lý tài sản, tài
chính ghi trong thông báo của tổ chức mà không có khiếu nại; trường hợp không
chấp thuận phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do; Bộ Nội vụ chấp thuận việc
giải thể tổ chức tôn giáo có địa bàn hoạt động ở nhiều tỉnh trong thời hạn 45
ngày kể từ ngày hết thời hạn thanh toán các khoản nợ (nếu có) và thanh lý tài
sản, tài chính ghi trong thông báo của tổ chức mà không có khiếu nại; trường
hợp không chấp thuận phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
- Đối với tổ chức tôn giáo tự giải thể, thời điểm cơ quan nhà nước có thẩm
quyền chấp thuận cho tổ chức giải thể là thời điểm tổ chức phải nộp lại bản
chính quyết định công nhận tổ chức tôn giáo; giấy chứng nhận của cơ quan công
an về việc tổ chức đã nộp, hủy con dấu theo quy định.
b) Trình tự, thủ tục giải thể tổ chức tôn giáo theo quy định tại điểm b, điểm
c khoản 1 Điều 31 của Luật98
- Trước 60 ngày dự kiến giải thể tổ chức tôn giáo theo quy định tại điểm b,
điểm c khoản 1 Điều 31 của Luật, Bộ Nội vụ có trách nhiệm thông báo bằng văn
bản về việc giải thể tổ chức tôn giáo có địa bàn hoạt động ở nhiều tỉnh; Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về việc giải thể tổ
97 Điều 10 Nghị định số 162.
98 Điều 11 Nghị định số 162/2012/NĐ-CP.
303
chức tôn giáo có địa bàn hoạt động ở một tỉnh cho tổ chức tôn giáo dự kiến bị
giải thể.
Văn bản thông báo nêu rõ tên, trụ sở, họ và tên người đại diện của tổ chức
tôn giáo bị giải thể; cơ quan nhà nước có thẩm quyền chịu trách nhiệm giải thể;
lý do, dự kiến thời điểm giải thể kèm theo kết luận của cơ quan nhà nước có
chức năng thanh tra về tín ngưỡng, tôn giáo về việc tổ chức không khắc phục
được nguyên nhân dẫn đến bị đình chỉ toàn bộ hoạt động tôn giáo.
- Trong thời hạn 50 ngày kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thông báo về việc giải thể, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm gửi văn bản giải trình
đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 11 của Nghị
định số 162.
Sau 10 ngày kể từ ngày hết thời hạn giải trình, nếu tổ chức tôn giáo không
khắc phục được nguyên nhân dẫn đến việc bị giải thể thì cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ra quyết định giải thể tổ chức tôn giáo.
- Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thông báo về việc giải thể đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều
31 của Luật, tổ chức tôn giáo bị giải thể có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các
nghĩa vụ về tài sản theo quy định của pháp luật về dân sự. Hết thời hạn trên, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định giải thể tổ chức tôn giáo.
- Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định giải thể tổ chức tôn giáo;
bãi bỏ và thu hồi các văn bản sau đây: Quyết định công nhận tổ chức tôn giáo;
danh sách tổ chức tôn giáo trực thuộc.
Bên cạnh đó, Nghị định số 162 cũng quy định trách nhiệm công bố trên
các phương tiện thông tin đại chúng về việc giải thể tổ chức tôn giáo; chấm dứt
hoạt động, quyền khiếu nại của tổ chức tôn giáo.
5.7. Tổ chức tôn giáo trực thuộc
a) Thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc
Tổ chức tôn giáo trực thuộc là tổ chức thuộc tổ chức tôn giáo, được thành
lập theo hiến chương, điều lệ, quy định của tổ chức tôn giáo.
Liên quan đến tổ chức tôn giáo trực thuộc cần lưu ý một số nội dung sau:
* Thống nhất cách hiểu về thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ
chức tôn giáo trực thuộc99:
99 Điều 27 Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
304
Luật quy định tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được thành lập
tổ chức tôn giáo trực thuộc; chia, tách tổ chức tôn giáo trực thuộc thành nhiều tổ
chức tôn giáo trực thuộc mới; sáp nhập tổ chức tôn giáo trực thuộc vào một tổ
chức tôn giáo trực thuộc khác; hợp nhất các tổ chức tôn giáo trực thuộc thành
một tổ chức tôn giáo trực thuộc mới.
- Sau khi chia, tổ chức tôn giáo trực thuộc bị chia chấm dứt tồn tại; quyền,
nghĩa vụ của tổ chức tôn giáo trực thuộc bị chia được chuyển giao cho các tổ
chức tôn giáo trực thuộc mới;
- Sau khi tách, tổ chức tôn giáo trực thuộc bị tách và tổ chức tôn giáo trực
thuộc được tách thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình phù hợp với mục đích hoạt
động;
- Sau khi sáp nhập, tổ chức tôn giáo trực thuộc bị sáp nhập chấm dứt tồn
tại; quyền và nghĩa vụ của tổ chức tôn giáo trực thuộc bị sáp nhập được chuyển
giao cho tổ chức tôn giáo trực thuộc mà tổ chức đó được sáp nhập vào;
- Sau khi hợp nhất, các tổ chức tôn giáo trực thuộc cũ chấm dứt tồn tại kể
từ thời điểm tổ chức tôn giáo trực thuộc mới được thành lập; quyền và nghĩa vụ
của tổ chức tôn giáo trực thuộc cũ được chuyển giao cho tổ chức tôn giáo trực
thuộc mới.
* Điều kiện thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc
Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được thành lập, chia, tách,
sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc khi đáp ứng các điều kiện được
quy định tại Điều 28 của Luật, cụ thể:
- Hiến chương của tổ chức tôn giáo có quy định về việc thành lập, chia,
tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc;
- Hoạt động của tổ chức tôn giáo trực thuộc trước khi chia, tách, sáp nhập,
hợp nhất không thuộc trường hợp quy định tại Điều 5 của Luật;
- Có địa điểm hợp pháp để đặt trụ sở.
* Thẩm quyền, thời hạn chấp thuận việc thành lập, chia, tách, sáp nhập,
hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc
Luật quy định trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị
hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản về việc
thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc có
địa bàn hoạt động ở một tỉnh; cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo
ở trung ương có trách nhiệm trả lời bằng văn bản về việc thành lập, chia, tách,
305
sáp nhập, hợp nhất đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động ở
nhiều tỉnh.
b) Tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo trực thuộc
Đối với các tổ chức tôn giáo trực thuộc, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
quy định tổ chức tôn giáo đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp đăng ký
pháp nhân phi thương mại cho tổ chức tôn giáo trực thuộc khi đáp ứng các điều
kiện sau đây:
- Có cơ cấu tổ chức theo hiến chương;
- Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng
tài sản của mình;
- Nhân danh tổ chức tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Như vậy, các tổ chức tôn giáo trực thuộc sau khi được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền có văn bản chấp thuận cho thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp
nhất, tổ chức tôn giáo sẽ có văn bản thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ
chức tôn giáo trực thuộc.
Để tổ chức tôn giáo trực thuộc trở thành pháp nhân phi thương mại, tổ
chức tôn giáo phải thực hiện đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật, cụ thể:
Tổ chức tôn giáo đề nghị cấp đăng ký pháp nhân phi thương mại cho tổ
chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị đến cơ quan nhà nước
có thẩm quyền (Bộ Nội vụ đối với tổ chức có địa bàn hoạt động ở nhiều tỉnh,
thành; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với tổ chức có địa bàn hoạt động ở một
tỉnh, thành) và quy định cụ thể hồ sơ gồm các văn bản, giấy tờ cần thiết.
Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị hợp lệ, cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp đăng ký pháp nhân phi thương mại cho tổ chức tôn
giáo trực thuộc; trường hợp từ chối cấp đăng ký phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ
lý do.
c) Giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc
Tương tự như tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc bị giải thể
trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 31 của Luật.
Về thẩm quyền giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc: Tổ chức tôn giáo, tổ
chức tôn giáo trực thuộc có quyền giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc; cơ quan
nhà nước có thẩm quyền chấp thuận thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ
306
chức tôn giáo trực thuộc có quyền giải thể hoặc yêu cầu tổ chức tôn giáo, tổ
chức tôn giáo trực thuộc giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc.
Các trường hợp giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc bao gồm:
- Giải thể theo hiến chương;
- Không hoạt động tôn giáo trong thời gian 01 năm kể từ ngày được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận việc thành lập, chia, tách, sáp nhập,
hợp nhất; ngừng hoạt động tôn giáo trong thời gian 01 năm liên tục;
- Hết thời hạn bị đình chỉ toàn bộ hoạt động tôn giáo mà không khắc phục
được nguyên nhân dẫn đến việc bị đình chỉ.
Trước khi giải thể, tổ chức tôn giáo trực thuộc phải thực hiện đầy đủ các
nghĩa vụ về tài sản. Tài sản của tổ chức tôn giáo trực thuộc bị giải thể được giải
quyết theo quy định của pháp luật về dân sự. Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo
trực thuộc có trách nhiệm thông báo về việc giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc
đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày tổ chức
tôn giáo trực thuộc bị giải thể.
Về trình tự, thủ tục giải thể, Điều 10, 11 Nghị định số 162 đã quy định cụ
thể. Bên cạnh đó, Nghị định cũng quy định về trách nhiệm công bố trên các
phương tiện thông tin đại chúng về việc giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc;
chấm dứt hoạt động, quyền khiếu nại của tổ chức tôn giáo trực thuộc.
5.8. Phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển, cách chức,
bãi nhiệm chức sắc, chức việc
a) Phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển, cách chức, bãi
nhiệm chức sắc, chức việc trong tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc
* Điều kiện phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức sắc, chức việc
Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc thực hiện việc phong phẩm,
bổ nhiệm, bầu cử, suy cử theo hiến chương của tổ chức tôn giáo. Người được
phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử phải đáp ứng điều kiện như:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
- Không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh
vực tín ngưỡng, tôn giáo;
- Không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy
định của pháp luật về tố tụng hình sự.
* Phong phẩm hoặc suy cử làm chức sắc; bổ nhiệm, bầu cử, suy cử làm
chức việc
307
Vấn đề phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức sắc, chức việc đã được
quy định tại Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, văn bản này chưa có sự
phân biệt rõ ràng thế nào là chức sắc, thế nào là chức việc, trong cách giải thích về
chức sắc có cả chức việc vì vậy cả hai nội dung này được đưa vào điều chỉnh trong
cùng một điều luật. Quá trình xây dựng Luật, hai nội dung này đã được phân biệt,
làm rõ nội hàm và quy định tại hai điều với hai cách thực hiện khác nhau, cụ thể:
Về phong phẩm hoặc suy cử làm chức sắc100: Điều 33 của Luật quy định,
tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về kết quả phong phẩm
hoặc suy cử đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 1, khoản 2
Điều 33 của Luật chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày phong phẩm hoặc suy cử.
Như vậy, đối với phong phẩm hoặc suy cử chức sắc: Chỉ có tổ chức tôn
giáo có quyền thực hiện; phong phẩm hoặc suy cử chức sắc là công việc nội bộ
của tổ chức vì vậy tổ chức tự thực hiện (sau khi đối chiếu với điều kiện theo quy
định của Luật) và sau khi có kết quả thì thông báo cho cơ quan nhà nước có
thẩm quyền theo quy định tại Điều 33 của Luật.
Về bổ nhiệm, bầu cử, suy cử làm chức việc: Điều 34 quy định tổ chức tôn
giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt
động tôn giáo trước khi bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức việc có trách nhiệm gửi
hồ sơ đăng ký đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sau khi có kết quả người
được bổ nhiệm, bầu cử, suy cử làm chức việc, các tổ chức này có trách nhiệm
thông báo bằng văn bản đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định.
Như vậy, đối với bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức việc quy trình đã có sự thay
đổi so với quy trình phong phẩm hoặc suy cử chức sắc. Ở đây có ba chủ thể được
thực hiện quyền này gồm có tổ chức tôn giáo; tổ chức tôn giáo trực thuộc và tổ
chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo. Mặt khác, trước khi thực
hiện bổ nhiệm, bầu cử, suy cử các tổ chức phải gửi hồ sơ đăng ký của người dự
kiến lãnh đạo tổ chức đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền; sau khi hồ sơ được
chấp thuận, những người dự kiến đó sẽ được các tổ chức thực hiện bổ nhiệm, bầu
cử, suy cử và khi có kết quả sẽ phải thông báo cho các cơ quan liên quan.
b) Thuyên chuyển chức sắc, chức việc, nhà tu hành
Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo quy định về việc thuyên chuyển chức
sắc, chức việc, nhà tu hành. Tuy nhiên nội hàm của vấn đề này đã được làm mới
100 Điều 33 Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
308
từ thẩm quyền, văn bản thông báo đến thời hạn cũng như việc thuyên chuyển đối
với các trường hợp đặc biệt.
Điều 35 của Luật quy định tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc
trước khi thuyên chuyển chức sắc, chức việc, nhà tu hành có trách nhiệm thông
báo bằng văn bản đến cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh (Sở
Nội vụ) nơi đi và nơi đến chậm nhất là 20 ngày.
Đối với chức sắc, chức việc, nhà tu hành là người đang bị buộc tội hoặc
chưa được xóa án tích, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc trước khi
thuyên chuyển có trách nhiệm gửi văn bản đăng ký đến Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh nơi dự kiến thuyên chuyển đến. Sau khi được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
chấp thuận, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc mới được tiếp tục thực
hiện việc thuyên chuyển theo quy định.
c) Cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc
Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo quy định: Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn
giáo trực thuộc cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc phải theo hiến chương
của tổ chức để tránh sự tùy tiện khi thực hiện. Chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày
có văn bản về việc cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc, tổ chức tôn giáo,
tổ chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan
nhà nước có thẩm quyền về việc cách chức, bãi nhiệm.
Đối với tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo khi
cách chức, bãi nhiệm chức việc sẽ thực hiện theo quy định của tổ chức và có
trách nhiệm thông báo bằng văn bản theo quy định tại khoản 2 Điều 36 của Luật
đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
5.9. Cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng về tôn giáo
a) Cơ sở đào tạo tôn giáo
- Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và bổ sung làm mới các quy định về cơ
sở đào tạo tôn giáo, Luật đã có nhiều sự thay đổi đối với nội dung này như: Đổi
tên gọi từ “Trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo” thành “Cơ
sở đào tạo tôn giáo”; bổ sung điều kiện thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo; thẩm
quyền chấp thuận thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo; sửa đổi quy chế tổ chức và
hoạt động, quy chế tuyển sinh phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền; khẳng định cơ sở đào tạo tôn giáo không thuộc hệ thống giáo dục quốc
dân và giao cho cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư pháp để hướng dẫn chương trình, nội dung môn học về lịch sử Việt Nam và pháp luật Việt Nam.
309
Điều 37, 38, 39 và 40 của Luật đã quy định cụ thể từ điều kiện; trình tự, thủ
tục, thẩm quyền; hoạt động của cơ sở đào tạo; hướng dẫn chương trình, nội dung
môn học về lịch sử Việt Nam, pháp luật Việt Nam dành cho các cơ sở đào tạo tôn
giáo. Hiện nay, các cơ sở đào tạo tôn giáo đang tích cực thực hiện hai môn học này.
- Về giải thể cơ sở đào tạo tôn giáo
Cơ sở đào tạo tôn giáo giải thể trong trường hợp, cụ thể:
+ Theo quyết định của tổ chức tôn giáo;
+ Hết thời hạn 03 năm kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
chấp thuận việc thành lập, cơ sở đào tạo tôn giáo không tổ chức được hoạt động
đào tạo;
+ Hết thời hạn bị đình chỉ hoạt động đào tạo tôn giáo mà không khắc phục
được nguyên nhân dẫn đến việc bị đình chỉ.
Tổ chức tôn giáo có quyền giải thể cơ sở đào tạo tôn giáo. Cơ quan quản
lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương có quyền giải thể hoặc yêu cầu
tổ chức tôn giáo giải thể cơ sở đào tạo tôn giáo trong trường hợp quy định tại
điểm b và điểm c khoản 1 Điều 42 của Luật.
Tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo về việc giải thể cơ sở đào tạo
tôn giáo đến Bộ Nội vụ chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày giải thể.
Về trình tự, thủ tục giải thể cơ sở đào tạo tôn giáo; trách nhiệm công bố
trên các phương tiện thông tin đại chúng về việc giải thể cơ sở đào tạo tôn giáo;
chấm dứt hoạt động, quyền khiếu nại của cơ sở đào tạo tôn giáo: Điều 12, 13 của
Nghị định số 162 đã quy định cụ thể.
b) Lớp bồi dưỡng về tôn giáo
Việc mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo được quy định, cụ thể:
- Nếu là mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo cho người chuyên hoạt động tôn giáo
thì tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm gửi văn bản đăng ký
đến cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh nơi mở lớp (Sở Nội vụ).
- Nếu là mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo cho đối tượng khác thì tổ chức tôn
giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến Ủy
ban nhân dân cấp huyện nơi mở lớp.
6. Hoạt động tôn giáo, hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế, bảo trợ xã
hội, từ thiện, nhân đạo của tổ chức tôn giáo
6.1. Về hoạt động tôn giáo
a) Thông báo danh mục hoạt động tôn giáo
Luật quy định tất cả các tổ chức từ tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực
thuộc, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo đều phải thông
310
báo danh mục hoạt động tôn giáo diễn ra hằng năm đến cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật (tùy thuộc vào địa bàn hoạt
động tôn giáo của tổ chức) chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày được công nhận,
chấp thuận hoặc được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo.
Đối với tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức đã được cấp
chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo trước ngày 01/01/2018, chậm nhất là 30
ngày kể từ ngày 01/01/2018 các tổ chức có trách nhiệm thông báo danh mục
hoạt động tôn giáo theo quy định tại khoản 2 Điều 43 của Luật đến cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Việc thông báo danh mục hoạt động tôn giáo chỉ thực hiện một lần. Đối
với hoạt động tôn giáo không có trong danh mục đã thông báo thì người đại diện
tổ chức có trách nhiệm thông báo bổ sung.
Đây là quy định mới, tạo điều kiện thuận lợi cho cả cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cũng như cho các tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc và tổ
chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo khi thực hiện thông báo
danh mục hoạt động tôn giáo.
b) Hội nghị, đại hội của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc
Luật đã tách hội nghị thường niên và đại hội để điều chỉnh ở các điều luật
khác nhau. Nếu là hội nghị thường niên thì tổ chức chỉ cần thông báo với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền chậm nhất là 20 ngày trước ngày tổ chức hội nghị;
Nếu là đại hội, tổ chức phải được sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trước khi tổ chức. Luật bổ sung thêm đối tượng được tổ chức đại hội
là tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo.
Bên cạnh đó, Luật bổ sung quy định về việc tổ chức hội nghị liên tôn
giáo, hội nghị có yếu tố nước ngoài về tôn giáo của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn
giáo trực thuộc. Đối với các hội nghị này, trước khi thực hiện các tổ chức có
trách nhiệm gửi văn bản đề nghị đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng,
tôn giáo ở trung ương (Bộ Nội vụ).
Về thời hạn cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời đề
nghị tổ chức đại hội được nâng lên 25, 30, 45 ngày tùy thuộc vào chủ thể đứng
ra đề nghị. Việc nâng thời hạn xem xét dài hơn cũng là để các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền có thời gian phối hợp nghiên cứu, thẩm định các hồ sơ, văn bản.
c) Cuộc lễ, giảng đạo ngoài cơ sở tôn giáo, địa điểm hợp pháp
Luật đã gộp cả hai nội dung cuộc lễ, giảng đạo để điều chỉnh trong cùng
một điều luật với hai khoản khác nhau, bổ sung quy định nếu giảng đạo ngoài
311
địa bàn phụ trách, cơ sở tôn giáo, địa điểm hợp pháp đã đăng ký, chức sắc, chức
việc, nhà tu hành phải được sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Về thẩm quyền chấp thuận cuộc lễ, giảng đạo: Thay vì phải được sự chấp
thuận của một trong hai cơ quan là Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, thì hiện nay thẩm quyền này Luật giao cho Ủy ban nhân dân
cấp huyện hoặc Sở Nội vụ.
Về thời hạn cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời tổ
chức tôn giáo khi tổ chức cuộc lễ; trả lời chức sắc, chức việc, nhà tu hành khi
thực hiện giảng đạo được nâng lên 25 hoặc 30 ngày tùy thuộc vào thẩm quyền
chấp thuận là của Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Sở Nội vụ. Ngoài ra, Luật
cũng quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi tổ chức
cuộc lễ, giảng đạo có trách nhiệm hỗ trợ bảo đảm an ninh, trật tự cho cuộc lễ,
giảng đạo.
d) Hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài
Đây là một trong những mục quy định có nhiều nội dung mới, được các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước đánh giá là điểm sáng, tiến bộ của Luật. Trên cơ
sở kế thừa các quy định còn phù hợp của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Luật đã có
nhiều đổi mới, bổ sung, cụ thể:
- Sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam
Điều 47 của Luật quy định người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam có
nhu cầu sinh hoạt tôn giáo tập trung có thể sinh hoạt tại cơ sở tôn giáo hoặc tại địa
điểm hợp pháp khác. Để thực hiện nhu cầu này, người đại diện có trách nhiệm gửi hồ
sơ đề nghị đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm dự kiến
sinh hoạt tôn giáo tập trung. Như vậy, người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt
Nam không chỉ được sinh hoạt tôn giáo tập trung tại cơ sở tôn giáo mà còn được
thuê, mượn địa điểm hợp pháp để thực hiện quyền này.
- Hoạt động tôn giáo, hoạt động quan hệ quốc tế về tôn giáo của tổ chức,
cá nhân nước ngoài tại Việt Nam
Chủ thể được mời tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam để thực hiện
các hoạt động tôn giáo, hoạt động quan hệ quốc tế về tôn giáo là tổ chức tôn
giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc. Ngoài ra, tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt
Nam còn được thực hiện “hoạt động tôn giáo”. Để tránh các cá nhân mạo danh
chức sắc tôn giáo nước ngoài, Luật quy định thành phần hồ sơ bổ sung“Văn bản
chứng minh chức danh hoạt động tôn giáo của người được mời”.
Về thẩm quyền chấp thuận được giao cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nếu
mời tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam để thực hiện các hoạt động tôn
312
giáo ở một tỉnh; Bộ Nội vụ nếu mời tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam
để thực hiện hoạt động tôn giáo ở nhiều tỉnh hoặc hoạt động quan hệ quốc tế về
tôn giáo.
- Việc mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài đến giảng đạo của
tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo
Luật cũng quy định tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo
được mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài đến giảng đạo. Tuy nhiên,
khi thực hiện quyền này, tổ chức phải tuân thủ các quy định tại khoản 2, 3 và
chức sắc, nhà tu hành phải tuân thủ quy định tại khoản 6 Điều 48 của Luật.
- Việc mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài đến giảng đạo của
nhóm người nước ngoài sinh hoạt tôn giáo tập trung
Khác với quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Luật quy định
nhóm người nước ngoài sinh hoạt tôn giáo tập trung được trực tiếp mời chức
sắc, nhà tu hành là người nước ngoài đến giảng đạo khi có nhu cầu. Khi thực
hiện quyền này, nhóm người nước ngoài có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị theo
quy định tại khoản 2 Điều 48 của Luật đến Bộ Nội vụ. Chức sắc, nhà tu hành là
người nước ngoài khi giảng đạo cho nhóm người nước ngoài sinh hoạt tôn giáo
tập trung phải tuân thủ quy định tại khoản 6 Điều 48 của Luật.
- Người nước ngoài học tại cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam
Trên cơ sở các quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Luật quy
định người nước ngoài có thể gửi hồ sơ đăng ký học tại các cơ sở đào tạo tôn
giáo ở Việt Nam. Tuy nhiên, khi đã vào học người nước ngoài phải là người cư
trú hợp pháp ở Việt Nam, tuân thủ pháp luật Việt Nam, tự nguyện đăng ký học
và được cơ sở đào tạo tôn giáo đề nghị với Bộ Nội vụ.
- Tham gia hoạt động tôn giáo, đào tạo tôn giáo ở nước ngoài
Luật quy định tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc trước khi cử
chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ tham gia hoạt động tôn giáo, đào tạo tôn
giáo ở nước ngoài có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị. Quy định này nhằm đảm
bảo được sự quản lý thống nhất, có tổ chức cho tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn
giáo trực thuộc. Điều 50 của Luật cũng quy định cụ thể về hồ sơ, thời hạn trả lời
tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc khi các tổ chức này cử chức sắc,
chức việc, nhà tu hành, tín đồ tham gia các hoạt động.
- Phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài
Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo quy định các trường hợp phong phẩm,
bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài bao gồm tổ chức tôn giáo Việt
Nam phong phẩm hoặc suy cử phẩm vị cho người nước ngoài cư trú hợp pháp
313
tại Việt Nam; tổ chức tôn giáo nước ngoài phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy
cử cho công dân Việt Nam ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, Luật cũng quy định điều kiện của người được phong phẩm,
bổ nhiệm, bầu cử, suy cử; trách nhiệm của tổ chức tôn giáo có người được
phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử hoặc phong phẩm, suy cử phẩm vị cho
người nước ngoài; trách nhiệm đăng ký của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo
trực thuộc đối với trường hợp công dân Việt Nam được tổ chức tôn giáo nước
ngoài phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử ở nước ngoài khi về Việt Nam làm
chức sắc, chức việc. Các nội dung này đã được Điều 17, 18 của Nghị định số
162 quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện.
- Hoạt động quan hệ quốc tế của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực
thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ
Luật quy định quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc,
chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ được thực hiện các hoạt động quan hệ
quốc tế nhưng phải theo hiến chương của tổ chức tôn giáo và phù hợp với pháp
luật Việt Nam; khi thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế phải tuân thủ pháp
luật Việt Nam và pháp luật của quốc gia có liên quan.
- Gia nhập tổ chức tôn giáo nước ngoài
Đây là quy định mới của Luật, mặc dù trong thực tiễn hoạt động của các tổ
chức tôn giáo đã xuất hiện các hoạt động này nhưng Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo
trước đây chưa quy định. Để phù hợp với tình hình thực tiễn, Luật quy định trước
khi gia nhập tổ chức tôn giáo nước ngoài, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm gửi hồ sơ
đề nghị đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.
Bên cạnh đó, Luật cũng quy định khi chấm dứt gia nhập tổ chức tôn giáo
nước ngoài, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ
quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương chậm nhất là 20
ngày kể từ ngày chấm dứt.
6.2. Hoạt động trong lĩnh vực xuất bản, giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ
thiện, nhân đạo
a) Hoạt động xuất bản, sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm
Luật quy định, tổ chức tôn giáo được thực hiện hoạt động xuất bản kinh
sách và xuất bản phẩm khác về tín ngưỡng, tôn giáo; sản xuất, xuất khẩu, nhập
khẩu văn hóa phẩm tín ngưỡng, tôn giáo, đồ dùng tôn giáo theo quy định của
pháp luật về xuất bản và quy định khác của pháp luật.
b) Hoạt động giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo
314
Điều 55 của Luật quy định tổ chức tôn giáo được tham gia các hoạt động
giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo theo quy định của pháp
luật có liên quan.
7. Tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo; quản lý nhà nước và
xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo
7.1. Tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo
a) Việc quản lý, sử dụng tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo
Đây là quy định mới của Luật nhằm cụ thể tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tổ
chức tôn giáo gồm tài sản được hình thành từ các nguồn nào. Theo quy định tại
Điều 56 của Luật quy định tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo bao
gồm tài sản được hình thành từ đóng góp của thành viên tổ chức, từ quyên góp,
tặng cho của tổ chức, cá nhân hoặc các nguồn khác theo quy định của pháp luật.
Các tài sản này phải được quản lý, sử dụng đúng mục đích và phù hợp với quy
định của pháp luật.
Luật cũng quy định cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo được hình thành theo
tập quán, do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp, quyên góp,
được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp
luật nhằm phục vụ nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của cộng đồng là tài sản thuộc
sở hữu chung của cộng đồng.
Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, thế chấp, góp vốn
tài sản bằng quyền sử dụng đất thực hiện theo quy định của pháp luật có liên
quan. Như vậy, việc chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, thế chấp,
góp vốn tài sản bằng quyền sử dụng đất sẽ phải thực hiện theo quy định của
pháp luật về đất đai. Hiện nay, pháp luật đất đai không cho phép cơ sở tôn giáo
được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho quyền sử dụng đất; không
được thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất101 cũng như không được nhận
tặng cho, chuyển nhượng, chuyển đổi quyền sử dụng đất.
b) Hoạt động quyên góp, tài trợ
- Hoạt động quyên góp: Đây là hoạt động mà trên thực tế các cơ sở tín
ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc thường xuyên thực hiện.
Để đảm bảo hoạt động này của các cơ sở, tổ chức được thuận lợi, Điều 19 của
Nghị định số 162 quy định:
Cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc tổ chức
quyên góp để thực hiện hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo và từ thiện xã
101 Điều 181 Luật Đất đai năm 2013.
315
hội trên cơ sở tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong nước theo quy định của pháp
luật có liên quan.
Cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc tùy địa
bàn quyên góp có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến Ủy ban nhân dân các
cấp về việc tổ chức quyên góp, trong đó nêu rõ mục đích, địa bàn, cách thức,
thời gian quyên góp; phương thức quản lý và sử dụng tài sản được quyên góp.
Hoạt động quyên góp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn
giáo trực thuộc phải có sổ sách thu, chi bảo đảm công khai, minh bạch. Tài sản
được quyên góp phải được quản lý, sử dụng đúng mục đích đã thông báo, phục
vụ cho hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo và từ thiện xã hội. Không được
lợi dụng danh nghĩa cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực
thuộc để quyên góp nhằm trục lợi hoặc trái mục đích quyên góp.
- Việc tiếp nhận và quản lý các khoản tài trợ của tổ chức, cá nhân nước
ngoài: Đây là hoạt động thường xuyên của các tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo
trực thuộc. Khoản 5 Điều 56 của Luật giao cho Chính phủ quy định chi tiết việc
tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc tiếp nhận và quản lý các khoản tài
trợ của tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Thực hiện quy định này, Điều 23 của Nghị định quy định: Tổ chức tôn
giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc tiếp nhận tài trợ của tổ chức, cá nhân nước
ngoài để hỗ trợ hoạt động đào tạo, bồi dưỡng về tôn giáo cho người chuyên hoạt
động tôn giáo; sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới cơ sở tôn giáo; tổ chức
cuộc lễ tôn giáo; xuất bản, nhập khẩu kinh sách, đồ dùng tôn giáo thì thực hiện
theo quy định của Chính phủ về quản lý, sử dụng viện trợ không hoàn lại.
c) Đất cơ sở tín ngưỡng, đất cơ sở tôn giáo
Để đảm bảo phù hợp với pháp luật chuyên ngành, Luật quy định đất cơ sở
tín ngưỡng, đất cơ sở tôn giáo được quản lý và sử dụng theo quy định của pháp
luật về đất đai.
d) Cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình tín ngưỡng, công trình tôn
giáo, công trình phụ trợ
Luật quy định việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình tín ngưỡng,
công trình tôn giáo được thực hiện theo quy định của pháp luật về xây dựng.
Việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình phụ trợ thuộc cơ sở tín ngưỡng,
cơ sở tôn giáo thực hiện như quy định của pháp luật về xây dựng đối với các
công trình, nhà ở riêng lẻ xây dựng trong đô thị, trung tâm cụm xã, trong khu
316
bảo tồn, khu di tích lịch sử - văn hóa, cách mạng. Việc tu bổ, phục hồi cơ sở tín
ngưỡng, cơ sở tôn giáo là di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền xếp hạng. Việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng
mới công trình phụ trợ thuộc các cơ sở này thực hiện theo quy định của pháp
luật về di sản văn hóa và pháp luật về xây dựng.
Điều 16 Nghị định số 162 quy định đối với việc cải tạo, nâng cấp, xây
dựng mới công trình phụ trợ thực hiện theo quy định tại khoản 2 và khoản 3
Điều 58 của Luật. Việc cải tạo, lắp đặt thiết bị bên trong công trình tín ngưỡng,
công trình tôn giáo không phải là di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh
đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xếp hạng mà không làm thay đổi kết
cấu chịu lực, không làm thay đổi công năng sử dụng, không làm ảnh hưởng tới
môi trường, an toàn công trình thì được miễn giấy phép xây dựng.
Nhằm giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận diện về công trình tín
ngưỡng, công trình tôn giáo, công trình phụ trợ và thực hiện được các quy định
này, Nghị định số 162 đã dành một điều để giải thích các từ ngữ này.
đ) Di dời công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo
Việc di dời công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo vì mục đích quốc
phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng thực
hiện theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật về xây dựng.
7.2. Quản lý nhà nước và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tín
ngưỡng, tôn giáo
a) Nội dung quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo
Điều 60 của Luật quy định về nội dung quản lý nhà nước về tín ngưỡng,
tôn giáo bao gồm: Xây dựng chính sách, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
về tín ngưỡng, tôn giáo; quy định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo; tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo; phổ biến, giáo dục pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; nghiên cứu trong lĩnh
vực tín ngưỡng, tôn giáo; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức làm
công tác tín ngưỡng, tôn giáo; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
xử lý vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo và quan hệ quốc tế trong lĩnh
vực tín ngưỡng, tôn giáo.
b) Trách nhiệm quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo
Luật đã quy định cụ thể về trách nhiệm của Chính phủ, các bộ, ngành liên quan trong quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo102, cụ thể:
102 Điều 61 Luật tín ngưỡng, tôn giáo và Điều 22 Nghị định số 162/2012/NĐ-CP.
317
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo trong
phạm vi cả nước;
- Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương chịu
trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về tôn giáo;
các hoạt động tín ngưỡng và các cơ sở tín ngưỡng chưa được xếp hạng là di tích
lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh hoặc chưa được Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh đưa vào danh mục kiểm kê di tích của địa phương.
- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong
việc quản lý nhà nước về lễ hội tín ngưỡng và các cơ sở tín ngưỡng là di tích
lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng hoặc đã được Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh đưa vào danh mục kiểm kê di tích của địa phương.
- Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giúp Chính phủ trong việc thực hiện
quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.
Bên cạnh đó, Điều 22 của Nghị định số 162 đã duy danh Bộ Nội vụ là cơ quan
quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương (không phải Ban Tôn giáo
Chính phủ).
Đặc biệt, Điều này còn quy định cụ thể, rõ ràng về việc thực hiện các quy định
của Luật và Nghị định, những trường hợp thuộc thẩm quyền của Bộ Nội vụ, Ban
Tôn giáo Chính phủ (Bộ Nội vụ) có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ, chủ trì, phối hợp
với các bộ, ngành, địa phương liên quan tham mưu trình Bộ trưởng Bộ Nội vụ quyết
định. Những trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân các cấp,
cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cùng cấp có trách nhiệm tiếp nhận hồ
sơ, chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tham mưu trình Ủy ban nhân dân
quyết định trừ việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng; quản lý, sử dụng khoản thu từ việc tổ
chức lễ hội tín ngưỡng được quy định tại các Điều 13, 14 và Điều 15 của Luật.
c) Thanh tra chuyên ngành, khiếu nại, tố cáo, khởi kiện, xử lý vi phạm trong
lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo
Để bảo đảm có đầy đủ công cụ pháp lý nhằm thực hiện hiệu quả quản lý nhà
nước đối với lĩnh vực này, đồng thời bảo đảm quyền phản ánh, kiến nghị, khiếu nại,
tố cáo của tổ chức, cá nhân đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước trong lĩnh
vực tín ngưỡng, tôn giáo, Luật quy định về thanh tra chuyên ngành tôn giáo; khiếu
nại, tố cáo, khởi kiện; xử lý vi phạm trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo và một số
biện pháp chế tài khác như đình chỉ, giải thể.
318
III. PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI, XÂY DỰNG LIÊN QUAN ĐẾN TÍN
NGƯỠNG, TÔN GIÁO
1. Pháp luật đất đai liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo
1. 1. Khái quát về đất cơ sở tôn giáo, cơ sở tín ngưỡng
Đất cơ sở tôn giáo, đất cơ sở tín ngưỡng thuộc nhóm đất phi nông nghiệp.
1.1.1. Đất cơ sở tôn giáo
- Đất cơ sở tôn giáo gồm đất thuộc chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất,
thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của
tổ chức tôn giáo, các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động.
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào chính sách tôn giáo của Nhà nước,
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt quyết định diện tích đất giao cho cơ sở tôn giáo.
1.1.2. Đất cơ sở tín ngưỡng
- Đất tín ngưỡng bao gồm đất có công trình đình, đền, miếu, am, từ đường,
nhà thờ họ.
- Việc sử dụng đất tín ngưỡng phải đúng mục đích, phù hợp với quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân
cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
- Việc xây dựng, mở rộng các công trình đình, đền, miếu, am, từ đường,
nhà thờ họ của cộng đồng phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
1.2. Quy định pháp luật về đất đai liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo
Luật Đất đai năm 2013, ngoài việc điều chỉnh quy định về chế độ sở hữu
đất đai, quyền hạn và trách nhiệm của Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về
đất đai và thống nhất quản lý về đất đai, chế độ quản lý và sử dụng đất đai,
quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất,… còn có các điều khoản quy định về
đất đai liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.
- Theo quy định tại khoản 4 Điều 5 Luật Đất đai năm 2013 quy định người
sử dụng đất gồm có nhiều đối tượng, trong đó có cơ sở tôn giáo: Cơ sở tôn giáo
gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu
viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và các cơ sở
khác của tôn giáo.
Như vậy, cơ sở tôn giáo được xác định là một trong những đối tượng được
sử dụng đất. Người đứng đầu cơ sở tôn giáo chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với việc sử dụng đất đã giao cho cơ sở tôn giáo103.
103 Khoản 4 Điều 7 Luật Đất đai năm 2013.
319
- Về người chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với việc sử dụng đất tín
ngưỡng, tôn giáo: Điều 7 Luật Đất đai năm 2013 quy định người đại diện cho
cộng đồng dân cư là trưởng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố
hoặc người được cộng đồng dân cư thỏa thuận cử ra đối với việc sử dụng đất đã
giao, công nhận cho cộng đồng dân cư.
Đối với việc sử dụng đất đã giao cho cơ sở tôn giáo, người đứng đầu cơ sở
tôn giáo sẽ chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với việc sử dụng đất của cơ sở
tôn giáo.
- Đất của cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo thuộc nhóm đất phi nông
nghiệp104 và cơ sở tôn giáo sử dụng đất phi nông nghiệp khi Nhà nước giao đất
không phải trả tiền sử dụng đất105.
- Với mục đích đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, góp phần tăng
cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai, Điều 12, Luật đất đai năm
2013 quy định bổ sung các hành vi bị nghiêm cấm: Lấn, chiếm, hủy hoại đất đai;
vi phạm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được công bố; không sử dụng đất,
sử dụng đất không đúng mục đích; không thực hiện đúng quy định của pháp luật
khi thực hiện quyền của người sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất
nông nghiệp vượt hạn mức đối với hộ gia đình, cá nhân theo quy định của Luật
này; sử dụng đất, thực hiện giao dịch về quyền sử dụng đất mà không đăng ký
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền; không thực hiện hoặc thực hiện không đầy
đủ nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm trái
quy định về quản lý đất đai; không cung cấp hoặc cung cấp thông tin về đất đai
không chính xác theo quy định của pháp luật; cản trở, gây khó khăn đối với việc
thực hiện quyền của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền quyết định giao đất và thu hồi
đất đối với cơ sở tôn giáo106.
- Tại khoản 2 Điều 75 Luật Đất đai năm 2013 quy định về điều kiện được
bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh;
phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng: Cộng đồng dân cư, cơ
sở tôn giáo, tín ngưỡng đang sử dụng đất mà không phải là đất do Nhà nước
giao, cho thuê và có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
104 Điểm g khoản 4 Điều 10 Luật Đất đai năm 2013. 105 Khoả n 5 Điề u 54 Luậ t Đấ t đ ai nă m 2013.
106 Điểm b khoản 1 Điều 59; điểm a khoản 1 Điều 66 Luật Đất đai năm 2013.
320
đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp. So với Luật đất đai năm 2003
thì quy định mới này giúp địa phương tháo gỡ những vướng mắc trong công
tác bồi thường, hỗ trợ đất đối với đất do cơ sở tôn giáo đang sử dụng vào mục
đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, kinh doanh phi nông nghiệp; cơ sở hoạt
động từ thiện; không phải là đất do được Nhà nước giao mà có nguồn
gốc do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho hợp pháp hoặc khai hoang trước
ngày 01/7/2004.
- Tại khoản 4 Điều 102 Luật Đất đai năm 2013 quy định việc cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất cho cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất: Cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất khi có đủ các điều kiện sau đây:
+ Được Nhà nước cho phép hoạt động;
+ Không có tranh chấp;
+ Không phải là đất nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho sau ngày
01/7/2004.
So với Luật Đất đai năm 2003 thì Luật Đất đai năm 2013 bỏ 2 điều kiện là
“có văn bản đề nghị của tổ chức tôn giáo có cơ sở tôn giáo, có xác nhận của Ủy
ban nhân dân cấp xã về nhu cầu sử dụng đất của cơ sở tôn giáo” và bổ sung
thêm điều kiện không tranh chấp.
- Đối với quy định về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại khoản 1
Điều 105 Luật Đất đai năm 2013 thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất cho cơ sở tôn giáo. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được ủy quyền cho cơ
quan tài nguyên và môi trường cùng cấp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
- Về thời hạn sử dụng đất: Điều 125 Luật Đất đai năm 2013 quy định về
đất sử dụng ổn định lâu dài trong các trường hợp đó là đất cơ sở tôn giáo quy
định tại Điều 159 của Luật Đất đai và đất tín ngưỡng.
Theo quy định tại Điều 159, Luật Đất đai năm 2013 quy định về đất cơ sở
tôn giáo gồm: Đất thuộc chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường,
niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức
tôn giáo, các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động. Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào chính sách tôn giáo của Nhà nước, quy hoạch,
321
kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt quyết
định diện tích đất giao cho cơ sở tôn giáo; thuộc loại đất sử dụng ổn định lâu
dài và cơ sở tôn giáo nhận quyền sử dụng đất thông qua việc Nhà nước giao đất.
- Về nhận quyền sử dụng đất:
Điều 169 Luật Đất đai năm 2013 quy định người nhận quyền sử dụng đất
được quy định gồm nhiều đối tượng, trong đó có:
+ Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài được nhận quyền sử dụng đất thông qua việc
Nhà nước giao đất.
+ Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo được
nhận quyền sử dụng đất thông qua việc Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất
đối với đất đang được sử dụng ổn định.
+ Cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo được nhận quyền sử dụng đất theo:
Kết quả hòa giải thành về tranh chấp đất đai được Ủy ban nhân dân cấp có thẩm
quyền công nhận; quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giải quyết
tranh chấp đất đai, khiếu nại, tố cáo về đất đai; quyết định hoặc bản án của Tòa
án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án đã được thi hành.
- Tại Điều 170 Luật Đất đai năm 2013 quy định về nghĩa vụ chung của
người sử dụng đất, trong đó có các cơ sở tôn giáo: Sử dụng đất đúng mục đích,
đúng ranh giới thửa đất, đúng quy định về sử dụng độ sâu trong lòng đất và
chiều cao trên không, bảo vệ các công trình công cộng trong lòng đất và tuân
theo các quy định khác của pháp luật có liên quan; thực hiện kê khai đăng ký đất
đai; làm đầy đủ thủ tục khi chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại,
thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất
theo quy định của pháp luật; thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp
luật; thực hiện các biện pháp bảo vệ đất; tuân theo các quy định về bảo vệ môi
trường, không làm tổn hại đến lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất có liên
quan; tuân theo các quy định của pháp luật về việc tìm thấy vật trong lòng đất;
giao lại đất khi Nhà nước có quyết định thu hồi đất, khi hết thời hạn sử dụng đất
mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền gia hạn sử dụng”.
- Về quyền và nghĩa vụ của tổ chức được Nhà nước giao đất không thu
tiền sử dụng đất.
322
Khoản 2 Điều 173 Luật Đất đai quy định: Tổ chức được Nhà nước giao
đất không thu tiền sử dụng đất có quyền và nghĩa vụ chung quy định tại Điều
166 và Điều 170 của Luật Đất đai.
Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất không có quyền
chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê quyền sử dụng đất; thế chấp, góp vốn
bằng quyền sử dụng đất; không được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất.
- Tại Điều 181 và Điều 191 Luật Đất đai năm 2013 quy định cơ sở tôn
giáo có quyền và nghĩa vụ chung quy định tại Điều 166 và Điều 170 của Luật
đất đai 2013; không được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho quyền
sử dụng đất; không được thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
2. Pháp luật về xây dựng liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo
2. 1. Một số khái niệm
- Cơ sở tín ngưỡng là nơi thực hiện hoạt động tín ngưỡng của cộng đồng
như đình, đền, miếu, nhà thờ dòng họ và những cơ sở tương tự khác.
- Cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường,
trụ sở của tổ chức tôn giáo, cơ sở hợp pháp khác của tổ chức tôn giáo.
- Về công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo, công trình phụ trợ, Điều
3 Nghị định 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo (Nghị định số
162/2017/NĐ-CP) quy định:
+ Công trình tín ngưỡng là công trình xây dựng để làm cơ sở tín ngưỡng.
+ Công trình tôn giáo là công trình xây dựng để làm cơ sở tôn giáo, tượng
đài, bia và tháp tôn giáo.
+ Công trình phụ trợ là công trình không sử dụng cho việc thờ tự của cơ sở
tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo gồm nhà ở, nhà khách, nhà ăn, nhà bếp, tường rào khuôn
viên thuộc cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo và các công trình tương tự khác.
- Về cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình tín ngưỡng, công trình
tôn giáo, công trình phụ trợ, Điều 16 Nghị định 162/2017/NĐ-CP quy định:
+ Việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình phụ trợ thực hiện theo
quy định tại khoản 2 và khoản 3, Điều 58 của Luật tín ngưỡng, tôn giáo;
+ Khi cải tạo, lắp đặt thiết bị bên trong công trình tín ngưỡng, công trình
tôn giáo không phải là di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xếp hạng mà không làm thay đổi kết cấu chịu lực,
323
không làm thay đổi công năng sử dụng, không làm ảnh hưởng tới môi trường, an
toàn công trình thì được miễn giấy phép xây dựng.
- Về tượng đài, công trình mỹ thuật ngoài trời sẽ thực hiện theo quy định
tại Thông tư số 01/2018/TT-BVHTTDL ngày 18/01/2018 của Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch quy định chi tiết thi hành một số điều tại Nghị định số
113/2013/NĐ-CP ngày 02/10/2013 của Chính phủ về hoạt động mỹ thuật.
- Về di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, Điều 4 Luật Di sản Văn
hóa (Văn bản hợp nhất số 10/VBHN-VPQH ngày 23-7-2013 của Văn phòng
Quốc hội) quy định:
+ Di tích lịch sử văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học;
+ Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết
hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm
mỹ, khoa học.
2.2. Một số quy định cụ thể của pháp luật về xây dựng liên quan đến tín
ngưỡng, tôn giáo
a) Về lập dự án đầu tư xây dựng:
- Điều 52 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng năm 2020
quy định về lập dự án đầu tư xây dựng gồm nhiều công trình nhưng không có
công trình xây dựng sử dụng cho mục đích tôn giáo.
- Dự án đầu tư xây dựng chỉ cần lập Báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây
dựng trong các trường hợp sau:
+ Công trình xây dựng sử dụng cho mục đích tôn giáo;
+ Công trình xây dựng quy mô nhỏ và công trình khác do Chính phủ quy định.
- Nhà ở riêng lẻ của hộ gia đình, cá nhân khi xây dựng không phải lập
Báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng hoặc Báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu
tư xây dựng.
b) Về hồ sơ đề nghị cấp phép xây dựng mới
Điều 95 Luật xây dựng 2014 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Xây dựng năm 2020 quy định cụ thể như sau:
- Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng mới đối với nhà ở riêng lẻ gồm:
+ Đơn đề nghị cấp giấy phép xây dựng;
+ Bản sao một trong những giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất theo
quy định của pháp luật về đất đai;
324
+ Bản vẽ thiết kế xây dựng;
+ Đối với công trình xây dựng có công trình liền kề phải có bản cam kết
bảo đảm an toàn đối với công trình liền kề.
- Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng đối với công trình không theo tuyến
gồm:
+ Đơn đề nghị cấp giấy phép xây dựng;
+ Bản sao một trong những giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất theo
quy định của pháp luật về đất đai;
+ Bản sao quyết định phê duyệt dự án, quyết định đầu tư;
+ Bản vẽ thiết kế xây dựng;
+ Bản sao hoặc mã số chứng chỉ hành nghề của tổ chức thiết kế, thẩm tra
thiết kế xây dựng, chứng chỉ hành nghề của chủ nhiệm, chủ trì thiết kế, thẩm tra
thiết kế xây dựng công trình được cấp theo quy định107.
- Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng đối với xây dựng công trình theo
tuyến gồm:
+ Các tài liệu quy định gồm: Đơn đề nghị cấp giấy phép xây dựng; bản
sao quyết định phê duyệt dự án, quyết định đầu tư; bản vẽ thiết kế xây dựng; bản
sao hoặc mã số chứng chỉ hành nghề của tổ chức thiết kế, thẩm tra thiết kế xây
dựng, chứng chỉ hành nghề của chủ nhiệm, chủ trì thiết kế, thẩm tra thiết kế xây
dựng công trình được cấp theo quy định;
+ Văn bản chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về sự phù
hợp với vị trí và phương án tuyến;
+ Quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật về đất đai.
- Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng đối với xây dựng công trình tôn
giáo gồm:
+ Các tài liệu: Đơn đề nghị cấp giấy phép xây dựng; bản sao một trong
những giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất
đai; bản sao quyết định phê duyệt dự án, quyết định đầu tư; bản vẽ thiết kế xây
dựng; bản sao hoặc mã số chứng chỉ hành nghề của tổ chức thiết kế, thẩm tra
thiết kế xây dựng, chứng chỉ hành nghề của chủ nhiệm, chủ trì thiết kế, thẩm tra
thiết kế xây dựng công trình được cấp theo quy định;
107 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng 2020.
325
+ Văn bản có ý kiến về sự cần thiết xây dựng và quy mô công trình của cơ
quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh108.
Ngoài ra Điều 43 Nghị định số 15/2021/NĐ-CP ngày 03/3/2021 của
Chính phủ quy định chi tiết một số nội dung về quản lý dự án đầu tư xây dựng
còn quy định hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng công trình tôn giáo gồm các
tài liệu quy định tại khoản 1 Điều 43 của Nghị định này và văn bản chấp thuận
về sự cần thiết xây dựng và quy mô công trình của cơ quan chuyên môn về tín
ngưỡng, tôn giáo thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng công trình tượng đài, tranh
hoành tráng gồm:
+ Các tài liệu: Đơn đề nghị cấp giấy phép xây dựng; bản sao một trong
những giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất
đai; bản sao quyết định phê duyệt dự án, quyết định đầu tư; bản vẽ thiết kế xây
dựng; bản sao hoặc mã số chứng chỉ hành nghề của tổ chức thiết kế, thẩm tra
thiết kế xây dựng, chứng chỉ hành nghề của chủ nhiệm, chủ trì thiết kế, thẩm tra
thiết kế xây dựng công trình được cấp theo quy định;
+ Bản sao giấy phép hoặc văn bản chấp thuận về sự cần thiết xây dựng và
quy mô công trình của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về quảng cáo.
c) Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng đối với trường hợp sửa chữa,
cải tạo công trình
Điều 96 Luật xây dựng năm 2014 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Xây dựng năm 2020 quy định cụ thể như sau:
- Đơn đề nghị cấp giấy phép sửa chữa, cải tạo công trình;
- Bản sao một trong những giấy tờ chứng minh về quyền sở hữu, quản lý,
sử dụng công trình, nhà ở theo quy định của pháp luật;
- Bản vẽ, ảnh chụp hiện trạng của bộ phận, hạng mục công trình, nhà ở
riêng lẻ đề nghị được cải tạo;
- Đối với công trình di tích lịch sử - văn hóa và danh lam, thắng cảnh đã
được xếp hạng thì phải có văn bản chấp thuận về sự cần thiết xây dựng và quy
mô công trình của cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa109.
d) Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng đối với trường hợp di dời công trình
Điều 97 Luật xây dựng năm 2014 quy định cụ thể như sau:
- Đơn đề nghị cấp giấy phép di dời công trình;
108 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng 2020. 109 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng 2020.
326
- Bản sao giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất nơi công trình sẽ di dời
đến và giấy tờ hợp pháp về sở hữu công trình theo quy định của pháp luật;
- Bản vẽ hoàn công công trình (nếu có) hoặc bản vẽ thiết kế mô tả thực
trạng công trình được di dời, gồm mặt bằng, mặt cắt móng và bản vẽ kết cấu
chịu lực chính; bản vẽ tổng mặt bằng địa điểm công trình sẽ được di dời tới; bản
vẽ mặt bằng, mặt cắt móng tại địa điểm công trình sẽ di dời đến;
- Báo cáo kết quả khảo sát đánh giá chất lượng hiện trạng của công trình
do tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện năng lực thực hiện;
- Phương án di dời do tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện năng lực thực
hiện gồm:
+ Phần thuyết minh về hiện trạng công trình và khu vực công trình sẽ
được di dời đến; giải pháp di dời, phương án bố trí sử dụng phương tiện, thiết bị,
nhân lực; giải pháp bảo đảm an toàn cho công trình, người, máy móc, thiết bị và
công trình lân cận; bảo đảm vệ sinh môi trường; tiến độ di dời; tổ chức, cá nhân
thực hiện di dời công trình;
+ Phần bản vẽ biện pháp thi công di dời công trình.
đ) Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng đối với công trình tín ngưỡng
Điều 43 Nghị định số 15/2021/NĐ-CP ngày 03/3/2021 của Chính phủ quy
định chi tiết một số nội dung về quản lý dự án đầu tư xây dựng quy định hồ sơ
đề nghị cấp giấy phép xây dựng công trình tín ngưỡng gồm:
- Đơn đề nghị cấp giấy phép xây dựng theo quy định tại Mẫu số 01 Phụ
lục II Nghị định này;
- Một trong những giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất theo quy định
của pháp luật về đất đai;
- 02 bộ bản vẽ thiết kế xây dựng kèm theo Giấy chứng nhận thẩm duyệt
thiết kế về phòng cháy, chữa cháy kèm theo bản vẽ thẩm duyệt trong trường hợp
pháp luật về phòng cháy và chữa cháy có yêu cầu; báo cáo kết quả thẩm tra thiết
kế xây dựng trong trường hợp pháp luật về xây dựng có yêu cầu, gồm:
+ Bản vẽ mặt bằng công trình trên lô đất kèm theo sơ đồ vị trí công trình;
+ Bản vẽ mặt bằng các tầng, các mặt đứng và mặt cắt chính của công trình;
+ Bản vẽ mặt bằng móng và mặt cắt móng kèm theo sơ đồ đấu nối hệ
thống hạ tầng kỹ thuật bên ngoài công trình gồm cấp nước, thoát nước, cấp điện;
+ Đối với công trình xây dựng có công trình liền kề phải có bản cam kết
bảo đảm an toàn đối với công trình liền kề.
327
- Căn cứ điều kiện thực tế tại địa phương và khoản 3 Điều này Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh công bố mẫu bản vẽ thiết kế để hộ gia đình, cá nhân tham
khảo khi tự lập thiết kế xây dựng theo quy định tại điểm b khoản 7 Điều 79 của
Luật Xây dựng năm 2014. Và ý kiến của cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng,
tôn giáo thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (trường hợp pháp luật về tín ngưỡng,
tôn giáo có quy định); báo cáo kết quả thẩm tra thiết kế xây dựng đối với các
công trình tín ngưỡng ảnh hưởng lớn đến an toàn, lợi ích công đồng.
g) Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng công trình tín ngưỡng, tôn giáo
thuộc dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh
Đối với các công trình này, hồ sơ đề nghị ngoài các tài liệu quy định như hồ sơ đề
nghị cấp giấy phép xây dựng công trình tôn giáo, công trình tín ngưỡng còn phải
bổ sung văn bản về sự cần thiết xây dựng và quy mô công trình của cơ quan
quản lý nhà nước về văn hoá theo quy định của pháp luật về văn hoá.
2.3. Về thẩm quyền cấp, điều chỉnh, gia hạn, cấp lại và thu hồi giấy
phép xây dựng
Điều 103 Luật Xây dựng năm 2014 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Xây dựng năm 2020 quy định:
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp giấy phép xây dựng đối với công trình thuộc
đối tượng có yêu cầu phải cấp giấy phép xây dựng trên địa bàn tỉnh, trừ công trình
quy định thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện. Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh phân cấp, ủy quyền cho Sở Xây dựng, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp giấy phép
xây dựng thuộc chức năng và phạm vi quản lý của cơ quan này110;
- Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp giấy phép xây dựng đối với công trình
cấp III, cấp IV và nhà ở riêng lẻ trên địa bàn do mình quản lý111;
- Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng là cơ quan có thẩm
quyền điều chỉnh, gia hạn, cấp lại và thu hồi giấy phép xây dựng do mình cấp;
- Trường hợp cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng không thu
hồi giấy phép xây dựng đã cấp không đúng quy định thì Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh trực tiếp quyết định thu hồi giấy phép xây dựng.
2.4. Về quyền và nghĩa vụ của người đề nghị cấp giấy phép xây dựng
Điều 106 Luật Xây dựng quy định:
- Tổ chức, cá nhân đề nghị cấp giấy phép xây dựng có các quyền sau:
110 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng 2020. 111 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng 2020.
328
+ Yêu cầu cơ quan cấp giấy phép xây dựng giải thích, hướng dẫn và thực
hiện đúng các quy định về cấp giấy phép xây dựng;
+ Khiếu nại, khởi kiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc cấp
giấy phép xây dựng;
+ Được khởi công xây dựng công trình theo quy định của Luật này.
- Tổ chức, cá nhân đề nghị cấp giấy phép xây dựng có các nghĩa vụ sau:
+ Nộp đầy đủ hồ sơ và lệ phí cấp giấy phép xây dựng;
+ Chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của nội dung hồ sơ đề
nghị cấp giấy phép xây dựng;
+ Thông báo ngày khởi công xây dựng bằng văn bản cho cơ quan quản lý
nhà nước về xây dựng tại địa phương trước thời điểm khởi công xây dựng ít
nhất là 03 ngày làm việc112.
+ Thực hiện đúng nội dung của giấy phép xây dựng./.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Nhìn nhận quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người?
2. Những vấn đề cần quan tâm trong công tác thông tin, tuyên truyền về
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam?
3. Những điểm mới của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay so với
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo?
4. Hãy cho biết tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức được
cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo có được bổ nhiệm, bầu cử, suy cử
làm chức việc cho người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam không?
5. Tổ chức tôn giáo trực thuộc trở thành pháp nhân phi thương mại khi
nào?
6. Đối với người sử dụng đất được Nhà nước giao đất không thu tiền sử
dụng đất sẽ bị hạn chế các quyền gì theo quy định của pháp luật về đất đai hiện
nay?
112 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng 2020.
329
Chuyên đề 3
HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM GÓP PHẦN
THÚC ĐẨY NGOẠI GIAO NHÂN DÂN VÀ ĐẤU TRANH NHÂN QUYỀN
1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1. Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân
Đối ngoại Đảng là mối quan hệ của Đảng ta với các đảng phái, các tổ
chức chính trị ở các nước trên thế giới; cũng đồng thời là mối quan hệ giữa các
lãnh đạo Đảng ta với lãnh đạo các đảng, các chính khách, các tổ chức chính trị
của các nước. Đối ngoại Đảng do lãnh đạo Đảng, lãnh đạo các ban của Đảng,
của các tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương tiến hành trong quan
hệ song phương với các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc tại các diễn đàn, tổ
chức chính trị đa phương.
Ngoại giao Nhà nước là mối quan hệ giữa Nhà nước ta với các nhà nước
khác; giữa lãnh đạo của Nhà nước ta với lãnh đạo các nước, các tổ chức chính
thức của các nước, các tổ chức quốc tế, các diễn đàn đa phương; là hoạt động
chính thức của người đứng đầu Nhà nước, Chính phủ, Bộ Ngoại giao, các cơ
quan đại diện ngoại giao và các cơ quan quan hệ đối ngoại khác.
Đối ngoại nhân dân là hoạt động đối ngoại có sự tham gia rộng rãi của các
đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp; các cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị ở các cấp không
nhân danh Đảng, Nhà nước và Chính phủ; của các nhân sĩ, trí thức, các nhà khoa
học, các văn nghệ sĩ, nhà báo, đồng bào các tôn giáo, các dân tộc, các doanh
nhân thuộc các thành phần kinh tế; của các tổ chức từ thiện, nhân đạo, bảo vệ
môi trường; của nhân dân trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân có nhiệm vụ
chung là triển khai đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng; hoạt động dưới sự
lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng. Mục tiêu chung là vì lợi ích
quốc gia - dân tộc, duy trì môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho sự
nghiệp phát triển, bảo vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ,
giữ gìn ổn định chính trị, an ninh và an toàn cho nhân dân, nâng cao vị thế của
đất nước trên trường quốc tế. Từ góc độ của mình, cả ba kênh đối ngoại này đều
thực hiện các chức năng: nghiên cứu, kiến nghị và triển khai đường lối, chính
330
sách đối ngoại; tạo dựng và phát triển mối quan hệ hữu nghị, cùng có lợi với các
đối tác; tổ chức thông tin đối ngoại, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới,
đấu tranh với các âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch.
Tuy nhiên, mỗi kênh đối ngoại có những thế mạnh và đặc thù của mình.
Đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân có tính ổn định, lâu dài của Đảng ta và
nhân dân ta với các chính đảng và nhân dân các nước, các vùng lãnh thổ, có nội
dung phong phú, đa dạng, có phương thức hoạt động đặc thù, không gò bó,
không lễ nghi, công thức mà ngoại giao Nhà nước không có điều kiện để làm,
hoặc nếu làm thì không thuận lợi bằng. Đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân
tạo nên nền tảng vững chắc để ngoại giao Nhà nước thực hiện các chức năng đặc
thù của mình là: đàm phán, ký kết, gia nhập, thực hiện các điều ước quốc tế về
hòa bình, an ninh, biên giới, lãnh thổ, chủ quyền quốc gia; hợp tác quốc tế và
hội nhập kinh tế, chính trị, xã hội và các lĩnh vực khác; đồng thời, là kênh chính
thức đấu tranh bảo vệ chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ ổn
định chính trị và sự nghiệp phát triển đất nước trong quan hệ với các nước và tại
các tổ chức, diễn đàn quốc tế.
1.2. Hoạt động quan hệ quốc tế của các tôn giáo
Các tôn giáo trong xã hội hiện đại có có quy mô tổ chức lớn, có mối quan
hệ quốc tế rộng rãi (như có hàng tỷ tín đồ, hàng triệu giáo sỹ và những người
chuyên hoạt động tôn giáo, có hàng chục vạn cơ sở thờ tự,…) nên như một lẽ tự
nhiên, ngoài những mối quan hệ trong nội bộ, quốc gia mà các tôn giáo đang
hiện diện, các tôn giáo còn có một mối quan hệ quốc tế đa dạng, phong phú.
Công cuộc truyền giáo của các tôn giáo từ môi trường địa lý, môi trường văn
hóa này sang các môi trường địa lý và văn hóa khác càng làm cho quan hệ quốc
tế các tôn giáo thêm có ý nghĩa, không chỉ có tính chất giao lưu đơn thuần mà
còn hỗ trợ lẫn nhau về tinh thần, vật chất, thần học và chia sẻ với nhau về ứng
xử với những vấn đề lớn, nhỏ của xã hội.
Hiện nay chưa có khái niệm “hoạt động quan hệ quốc tế của các tổ chức
tôn giáo”. Theo Luật tín ngưỡng, tôn giáo, hoạt động quan hệ quốc tế được quy
định tại mục 2, chương VI“Hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài”. Do đó, có
thể hiểu: “Hoạt động quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo là hoạt động tôn
giáo có liên quan đến yếu tố nước ngoài”.
Hoạt động quan hệ quốc tế các tổ chức tôn giáo được thực hiện chủ yếu
dưới 3 hình thức:
331
(1) Hoạt động “thuần túy tôn giáo”: là những hoạt động mang tính chất
giao lưu giữa các tôn giáo, bao gồm các hoạt động như: trao đổi đoàn thăm
viếng lẫn nhau; thảo luận về giáo lý, giáo luật, lễ nghi phụng tự, về phương thức
sinh hoạt tôn giáo, về đào tạo, trao đổi về thần học và kinh sách; các hoạt động
duy trì cơ cấu tổ chức giáo hội và liên đới cộng đồng tôn giáo.
(2) Hoạt động xã hội của các cá nhân, tổ chức tôn giáo: chủ yếu tập trung
vào các hoạt động bác ái, từ thiện, viện trợ; các hoạt động tại các diễn đàn quốc
tế với các chủ đề hòa bình, bình đẳng, tiến bộ xã hội, dân số và gia đình, môi
trường và kinh tế, đạo đức xã hội và nghèo đói do các tổ chức chính trị - xã hội,
Liên Hiệp Quốc,… tổ chức.
(3) Hoạt động tôn giáo chứa đựng nội dung chính trị hoặc hoạt động chính
trị mang màu sắc tôn giáo: Thông qua các hình thức hoạt động trên, ngoài hoạt
động giao lưu vốn có, các tôn giáo muốn tăng cường thêm lực lượng, củng cố
đội ngũ, đề cao uy tín và ảnh hưởng, thâm nhập ngày một sâu hơn vào đời sống
xã hội, đẩy mạnh công cuộc truyền giảng, can thiệp vào các công việc Nhà nước
và sự kiện quốc tế.
1.3. Đối ngoại tôn giáo
Tất cả các hoạt động quốc tế nói trên của các tôn giáo diễn ra có thể khác
nhau về quy mô, về địa bàn, về lĩnh vực và về lực lượng, nhưng nó đều được
định hướng một cách cụ thể bởi nhiều thành phần khác nhau trong các định chế
khác nhau: tổ chức giáo hội, quốc gia, Liên Hợp quốc. Dưới góc độ quản lý Nhà
nước, những định hướng cho hoạt động quốc tế các tôn giáo được cho là Đối
ngoại tôn giáo hay nói một cách khác Đối ngoại tôn giáo là hoạt động quốc tế
các tôn giáo và liên quan đến tôn giáo có định hướng cụ thể. Hoạt động quốc tế
các tôn giáo gồm 3 nhóm chính như đã trình bày trên, còn “liên quan đến tôn
giáo” gồm hoạt động của các chính khách các Nhà nước, các tổ chức quốc tế,
Liên hợp quốc có liên quan đến tôn giáo (như gặp gỡ, tiếp xúc giữa các chính
khách, đại diện các Nhà nước, các tổ chức quốc tế với các tổ chức tôn giáo,
những người đứng đầu các tôn giáo để thăm viếng hữu nghị, tăng cường hiểu
biết giữa Đạo và Đời, giữa Thế quyền và Giáo quyền, tìm tiếng nói chung về
một vấn đề chính trị - xã hội nào đó…).
2. CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI TÔN GIÁO
2.1. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới
332
Đường lối đối ngoại đổi mới của Nhà nước ta được khởi xướng từ Đại hội
VI, năm 1986. Qua các kỳ Đại hội Đảng, đường lối đối ngoại tiếp tục được phát
triển cho phù hợp với tình hình mới.
Nghị quyết Đại hội VII ghi: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Đại hội IX đã kiểm điểm quá trình thực hiện đường lối đối ngoại do Đại
hội VIII đề ra một lần nữa khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Một trong những điểm mới trong
chủ trương đối ngoại được nêu trong Văn kiện Đại hội IX là thay câu “Việt Nam
muốn làm bạn với các nước trong cộng đồng quốc tế” thành “Việt Nam sẵn sàng
là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển”. Điều này vừa khẳng định vị thế lớn mạnh, sự phát
triển không ngừng của Đảng và Nhà nước ta; vừa thể hiện thái độ, trách nhiệm
cao trong quan hệ với các nước; sẵn sàng là đối tác tin cậy của các nước, nghiêm
chỉnh thực hiện mọi luật lệ và cam kết chung khi thiết lập quan hệ đối tác.
Trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị hội nhập sâu rộng, đường lối đối ngoại
của Đại hội XI đã có một số phát triển mới, quan trọng để phù hợp với nhiệm vụ
và tình hình mới. Một trong các điểm mới đó là: Lợi ích quốc gia - dân tộc vừa
là mục tiêu vừa là nguyên tắc cao nhất của các hoạt động đối ngoại; từ chủ
trương “là bạn và đối tác tin cậy” của Đại hội IX, Đại hội XI bổ sung thêm “Việt
Nam là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Báo cáo chính trị
của Đại hội XI cũng đề ra các định hướng cụ thể và một trong những định hướng
đó là “tiếp tục coi trọng và nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao nhân dân”.
Kế thừa quan điểm chỉ đạo về đối ngoại của các kỳ Đại hội trước đây, Đại
hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra chủ trương có tính bước ngoặt về
đường lối đối ngoại trong điều kiện mới. Về mục tiêu và nhiệm vụ của đối ngoại,
Đại hội XII đã xác định mục tiêu tối thượng là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân
tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng
có lợi. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định phương châm và định hướng
lớn của hoạt động đối ngoại là “Đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối
ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành
viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế” và đề ra các định hướng lớn trong
công tác đối ngoại trong 5 năm tới. Một trong các định hướng mà Đại hội XII đề
ra là “mở rộng, làm sâu sắc hơn và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại Đảng,
333
ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân” và “tăng cường sự phối hợp giữa
đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân, giữa ngoại giao
chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; giữa đối ngoại với quốc
phòng, an ninh”.
Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh “Việt Nam sẽ
tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương
hóa” và khẳng định lại cam kết của Việt Nam “tiếp tục là bạn, là đối tác tin cậy
và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Những
nguyên tắc mang tính định hướng này không những không thay đổi từ Đại hội
XII mà còn bổ sung nhiều sắc thái cho việc triển khai chính sách đối ngoại trong
5 năm tới. Đặt trong bối cảnh rộng lớn đó, kỳ Đại hội XIII có nhiều bước phát
triển mới đáng chú ý liên quan đến chính sách đối ngoại. Điểm đầu tiên và đáng
chú ý nhất là sự nhấn mạnh đến vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để
phát triển, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Thứ hai là nhấn mạnh nhu cầu
xây dựng một nền ngoại giao “toàn diện, hiện đại” - bao gồm 3 trụ cột là đối
ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân cũng như sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa những trụ cột trên. Thứ ba, nâng tầm đối ngoại đa phương
của Việt Nam, nhấn mạnh đến vai trò và sự tham gia của Việt Nam trong Asean,
Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mekong và các khuôn khổ hợp tác khu
vực và quốc tế khác.
Để đáp ứng được nhiệm vụ trong giai đoạn mới, nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác đối ngoại nhân dân, Ban Bí thư đã ban hành chỉ thị
số 04-CT/TW, ngày 06/7/2011 về tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả công
tác đối ngoại nhân dân trong tình hình mới với quan điểm “Đối ngoại nhân dân
là bộ phận cấu thành của công tác đối ngoại chung của Đảng và Nhà nước ta.
Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân dân là nhiệm vụ của cả
hệ thống chính trị và của toàn dân mà nòng cốt là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, các đoàn thể và các tổ chức nhân
dân”. Chỉ thị số 04-CT/TW đề ra nhiệm vụ: “Huy động sự tham gia của các tổ
chức và tầng lớp nhân dân vào các hoạt động chống lợi dụng các vấn đề dân
chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực
thù địch, đấu tranh bảo vệ độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đất nước”.
334
Hoạt động đối ngoại của các tổ chức, cá nhân tôn giáo cũng là một kênh
trong hoạt động đối ngoại nhân dân. Việc hướng dẫn các tổ chức, cá nhân tôn
giáo thực hiện tốt hoạt động đối ngoại sẽ góp phần vào việc đẩy mạnh đối ngoại
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2.2. Chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động
đối ngoại tôn giáo
Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với hoạt động đối
ngoại tôn giáo được thể hiện rất rõ trong các Nghị quyết của Đảng, văn bản quy
phạm pháp luật của Nhà nước liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.
Ngay từ Sắc lệnh đầu tiên về Tôn giáo (Sắc lệnh số 234/SL) do Chủ tịch
Hồ Chí Minh ký và ban hành ngày 14-6-1955, tại Điều 3 đã ghi rõ: “Các nhà tu
hành ngoại quốc mà Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cho phép, thì được
giảng đạo như các nhà tu hành Việt Nam và phải tuân theo luật pháp của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà như các ngoại kiều khác”.
Sau ngày thống nhất đất nước, Hội đồng Chính phủ (nay là Chính phủ) đã
ban hành Nghị quyết số 297/CP ngày 11-11-1977 về một số chính sách đối với
tôn giáo thay thế Sắc lệnh 234/SL ngày 14-6-1955. Nghị quyết 297/CP được
ban hành nhằm cụ thể hóa quan điểm của Đảng về tôn giáo trong giai đoạn này
là chính sách nhất quán tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của nhân dân; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo
làm phương hại đến lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Nghị quyết 297/CP quy
định về hoạt động quan hệ quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo như sau:
(1) Các tổ chức tôn giáo hoặc người hoạt động tôn giáo trong nước muốn
quan hệ với các tổ chức tôn giáo hoặc các tổ chức khác hoặc với người nước
ngoài thì phải tuân theo những quy định của Nhà nước về quan hệ với người
nước ngoài.
(2) Giáo hội Thiên chúa được quan hệ với Vatican về mặt tôn giáo, nhưng
phải tôn trọng chủ quyền quốc gia và pháp luật của Nhà nước Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam. Khi một giáo sĩ Việt Nam được Vatican lựa chọn phong từ
chức giám mục trở lên thì giáo hội Công giáo phải báo cáo để được chấp thuận
trước của Chính phủ nước ta.
Trong thời kì đổi mới, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách về công tác tôn giáo. Nghị quyết 25-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX về công tác tôn giáo đã đề ra nhiệm vụ đối với hoạt động
335
đối ngoại tôn giáo như sau: “Hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối
ngoại phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh thông
tin, tuyên truyền về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước; đấu tranh làm
thất bại những luận điệu, tuyên truyền xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù
địch bên ngoài đối với tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo ở nước ta”.
Nhằm cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng trong thời kỳ đổi mới,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XI đã ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo ngày 18/6/2004 khẳng định một nguyên tắc nhất quán: “Quan hệ giữa Nhà
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam với các quốc gia, tổ chức quốc tế về
vấn đề có liên quan đến tôn giáo phải dựa trên những nguyên tắc tôn trọng độc
lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, các
bên cùng có lợi, phù hợp với pháp luật mỗi bên, pháp luật và thông lệ quốc tế”.
Chương V về “Quan hệ quốc tế của tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức
sắc” của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo quy định cụ thể về các yếu tố liên quan
đến các hoạt động quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo: mời tổ chức, người
nước ngoài vào Việt Nam hoặc triển khai chủ trương của tổ chức tôn giáo nước
ngoài ở Việt Nam; tham gia hoạt động tôn giáo, cử người tham gia khóa đào tạo
về tôn giáo ở nước ngoài; mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài giảng
đạo tại cơ sở tôn giáo của Việt Nam.
Trong Luật tín ngưỡng, tôn giáo đã được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 02 thông qua ngày 18/11/2016 và có
hiệu lực ngày 01/01/2018, hoạt động quan hệ quốc tế của các tổ chức, cá nhân
tôn giáo được quy định tại chương VI “Hoạt động tôn giáo có yếu tố nước
ngoài”. Đây là một trong những mục quy định có nhiều nội dung mới, được các
tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đánh giá là điểm sáng, tiến bộ của Luật.
Trên cơ sở kế thừa các quy định còn phù hợp của Pháp lệnh, Luật tín ngưỡng,
tôn giáo có nhiều đổi mới, bổ sung các quyền cụ thể:
- Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được sinh hoạt tôn giáo
tập trung tại địa điểm hợp pháp; mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài
giảng đạo.
- Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được mời tổ chức, cá nhân
nước ngoài vào Việt Nam để thực hiện các hoạt động tôn giáo, hoạt động quan
hệ quốc tế về tôn giáo; tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo
được mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài đến giảng đạo.
336
- Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được cử chức sắc, chức việc,
nhà tu hành, tín đồ tham gia hoạt động tôn giáo, đào tạo tôn giáo ở nước ngoài.
- Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà
tu hành, tín đồ được thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế theo hiến chương
của tổ chức tôn giáo phù hợp với pháp luật Việt Nam; khi thực hiện các hoạt
động quan hệ quốc tế phải tuân thủ pháp luật Việt Nam và pháp luật của quốc
gia có liên quan.
- Luật quy định các trường hợp phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có
yếu tố nước ngoài bao gồm tổ chức tôn giáo Việt Nam phong phẩm hoặc suy cử
phẩm vị cho người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam; tổ chức tôn giáo
nước ngoài phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử cho công dân Việt Nam ở
Việt Nam; việc tổ chức tôn giáo gia nhập tổ chức tôn giáo nước ngoài.
Các hồ sơ đề nghị tham gia hoạt động quan hệ quốc tế của các tổ chức, cá
nhân tôn giáo được thực hiện theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo
điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo được mở rộng, giao lưu,
hợp tác với các tổ chức, cá nhân tôn giáo nước ngoài.
Như vậy có thể thấy rằng những quy định liên quan đến hoạt động quan
hệ quốc tế của các tổ chức, chức sắc, chức việc, nhà tu hành các tôn giáo tại các
văn bản quy phạm pháp luật đã từng bước được cải tiến phù hợp với tiến trình
đổi mới, góp phần tích cực trong việc thực hiện đường lối đối ngoại và chính
sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt trong xu thế mở cửa hiện nay,
với chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ trong hoạt động đối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta thì việc giao lưu, mở rộng mối quan hệ giữa các
tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước với các tổ chức tương ứng ở nước ngoài
là hoạt động cần thiết trong kênh đối ngoại nhân dân.
3. HOẠT ĐỘNG QUỐC TẾ CỦA CÁC TỔ CHỨC, CÁ NHÂN TÔN
GIÁO ĐÓNG GÓP VÀO ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN
3.1. Quan hệ quốc tế của các tôn giáo Việt Nam
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, trong đó có một số tôn giáo ra đời do sự
du nhập từ bên ngoài: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, Baha’i và một số
tôn giáo nội sinh: Cao đài, Phật giáo Hòa hảo…. Dù ra đời do sự du nhập từ bên
ngoài vào hay là tôn giáo nội sinh nhưng trong quá trình tồn tại và phát triển các
tôn giáo Việt Nam ít nhiều đều có mối quan hệ quốc tế.
337
3.1.1. Quan hệ quốc tế của Phật giáo Việt Nam
Phật giáo được truyền vào Việt Nam từ những năm đầu Công nguyên.
Trong quá trình phát triển, Phật giáo Việt Nam có nhiều mối quan hệ với Phật
giáo các nước trên thế giới, nhất là ở khu vực Châu Á và Đông Nam Á, trong đó
phải kể đến Trung Quốc, Lào, Campuchia, Srilanca, Miến Điện, Thái Lan, Ấn
Độ, Nhật Bản…. Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Phật giáo các nước thường
xuyên trao đổi đoàn thăm viếng lẫn nhau, trao đổi học thuật, đào tạo tăng tài,
phối hợp tổ chức hội nghị, hội thảo về Phật giáo nhằm thắt chặt mối quan hệ hợp
tác. Giáo hội Phật giáo Việt Nam là thành viên sáng lập của Hội Liên hữu Phật
giáo thế giới, Liên minh Phật giáo toàn cầu; là thành viên của Tổ chức Phật giáo
châu Á vì hòa bình, Ủy ban tổ chức quốc tế Đại lễ VESAK, Liên Hợp quốc,…
Phật giáo Việt Nam còn có các quan hệ cá nhân hoặc trong nội bộ sơn
môn, pháp phái với tăng ni, phật tử người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài.
Trong những năm qua, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã cử nhiều đoàn thăm
viếng, thuyết giảng Phật pháp cho bà con Việt Kiều; xây dựng cơ sở thờ tự, cử
sư trụ trì nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của kiều bào; thành lập các
Hội Phật tử Việt Nam tại nơi có nhiều đồng bào Việt Nam sinh sống nhằm gìn
giữ truyền thống văn hóa dân tộc, duy trì tiếng Việt cho các thế hệ con cháu sinh
ra tại các nước và hướng đồng bào về quê hương, đất nước.
3.1.2. Quan hệ quốc tế của Công giáo Việt Nam
Trong cơ cấu của hệ thống Công giáo hoàn vũ, Giáo hội Công giáo Việt
Nam có mối quan hệ chặt chẽ với Tòa thánh Vatican; chịu sự chỉ đạo của
Vatican trong các hoạt động tôn giáo; các chức sắc như Tổng giám mục, Hồng
y, Giám mục, Giám mục phụ tá, Giám quản Việt Nam do Giáo hoàng phong và
bổ nhiệm. Với tư cách là Giáo hội địa phương, Giáo hội Công giáo Việt Nam
hoạt động theo đường hướng mục vụ của Vatican, hàng năm đều có tường trình
với Tòa thánh về tình hình giáo hội địa phương. Theo Giáo luật, cứ 5 năm 1 lần,
các giám mục Việt Nam đều phải đi Roma để viếng mộ hai Thánh tông đồ
Phêrô, Phaolô và yết kiến Giáo hoàng để báo cáo tình hình giáo hội địa phương
(Adlimina). Bên cạnh đó, Giáo hội Công giáo Việt Nam thường xuyên tham gia
sinh hoạt tôn giáo với Hội thánh toàn cầu như tham dự Thượng Hội đồng giám
mục Thế giới hay châu lục, hoặc họp với các Ủy ban của Giáo hoàng.
Giáo hội Công giáo Việt Nam còn có mối quan hệ với Giáo hội Công giáo
các nước châu Âu (Giáo hội Công giáo Pháp); với khu vực Bắc Mỹ, nhất là với
338
Hội đồng giám mục Hoa Kỳ; với Giáo hội Công giáo ở châu Á như Philippin,
Hàn Quốc…Giáo hội Công giáo Việt Nam có mối quan hệ đặc biệt với Giáo hội
Công giáo Pháp do xuất phát từ nguồn gốc lịch sử, từ quá trình truyền bá và phát
triển đạo Công giáo ở Việt Nam. Hiện nay, nhiều dòng tu, nhiều cá nhân giáo sỹ
Việt Nam vẫn chịu ảnh hưởng của các dòng tu, giáo sỹ Pháp theo hệ thống và
lợi ích tổ chức, tinh thần tôn giáo và tình cảm cá nhân.
Cộng đồng người Việt Nam theo đạo Công giáo ở nước ngoài khá đông và
thường xuyên trợ giúp cho các giáo phận, giáo xứ Công giáo ở trong nước xây
sửa cơ sở thờ tự, tổ chức các sinh hoạt, hoạt động tôn giáo, hoạt động từ thiện, xã
hội; tham gia giảng dạy trong các đại chủng viện, tu viện; tham gia các hội nghị,
hội thảo do giáo hội trong nước tổ chức. Giáo hội Công giáo Việt Nam cũng
thường xuyên cử các giáo sỹ trong nước tham dự các sinh hoạt tôn giáo, hướng
dẫn mục vụ cho các giáo dân, cộng đồng Công giáo Việt Nam ở nước ngoài.
3.1.3. Quan hệ quốc tế của Tin Lành Việt Nam
Tin lành ở Việt Nam do tổ chức Liên hiệp Phúc Âm Truyền giáo (The
Christian and Missionary Alliance - CMA) truyền vào Việt Nam khoảng cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Sau năm 1954, ra đời 02 tổ chức Tin lành Việt
Nam: Tổng hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) và Tổng Liên hội Hội
thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam). Ngoài ra, trong thời gian trước năm 1975,
rất nhiều hệ phái Tin lành được hình thành từ các hệ phái Tin lành Mỹ.
Là tôn giáo ngoại nhập, cùng với quá trình ra đời, hình thành và phát
triển, đạo Tin lành Việt Nam có mối quan hệ với các trung tâm Tin lành lớn ở
Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ. Trong đó, Tin lành Mỹ có quan hệ chi phối và đa
chiều nhất với Tin lành Việt Nam; hầu hết các hệ phái Tin lành Việt Nam đều có
“mẫu hội” ở Mỹ. Đạo Tin lành còn có mối quan hệ với Tin lành ở khu vực châu
Á, Thái Bình Dương, mà trước hết là Tin lành Hàn Quốc (40% dân số Hàn Quốc
theo đạo Tin lành với khoảng 46 triệu tín đồ). Trong quá trình chủ động hội
nhập nền kinh tế quốc tế, nhất là việc mở rộng liên doanh với Hàn Quốc, không
ít chức sắc Tin lành Hàn Quốc đến Việt Nam để truyền đạo, phát triển tín đồ.
Mối quan hệ quốc tế rộng rãi của đạo Tin lành thể hiện rõ trên các phương
diện chủ yếu sau: Một là, hoạt động “thuần túy tôn giáo” mang tính chất giao
lưu giữa các tổ chức đạo Tin lành (như: trao đổi đoàn thăm viếng lẫn nhau; thảo
luận về giáo lý, giáo luật, lễ nghi phụng tự, phương thức sinh hoạt tôn giáo; trao
đổi về đào tạo, kinh sách,…); Hai là, hoạt động xã hội của các cá nhân, tổ chức
339
đạo Tin lành (chủ yếu tập trung vào các hoạt động bác ái, từ thiện, viện trợ; các
hoạt động tại các diễn đàn quốc tế với các chủ đề hòa bình, bình đẳng, tiến bộ xã
hội, dân số và gia đình, môi trường và kinh tế, đạo đức xã hội và nghèo đói do
các tổ chức chính trị - xã hội, Liên Hợp quốc tổ chức); Ba là, hoạt động tôn giáo
chứa đựng nội dung chính trị hoặc hoạt động chính trị mang màu sắc tôn giáo.
Trong những năm gần đây, các thế lực thù địch đã tìm mọi cách thông qua các
đạo luật, “quốc tế hóa” vấn đề Tin lành để can thiệp, chống phá Việt Nam.
Chúng hỗ trợ và chỉ đạo một số phần tử cực đoan, phản động liên quan đến đạo
Tin lành chống chế độ, gây ra các vụ bạo loạn chính trị và các điểm nóng tôn
giáo như vụ bạo loạn chính trị ở Tây Nguyên và Tây Bắc thời gian qua.
3.1.4. Quan hệ quốc tế của Hồi giáo Việt Nam
Hồi giáo ở Việt Nam có khoảng 80 ngàn tín đồ, gồm 02 dòng: Chăm Bàni
và Chăm Islam. Mối quan hệ quốc tế của Hồi giáo ở Việt Nam chủ yếu được xác
lập thông qua khối Chăm Islam.
Cộng đồng Chăm Hồi giáo Việt Nam có mối quan hệ gần gũi với Cộng
đồng Hồi giáo ở các nước Đông Nam Á. Những mối quan hệ này rất đa dạng.
Có mối quan hệ đã có từ thời xa xưa do quan hệ huyết thống, dòng tộc như mối
quan hệ với cộng đồng Hồi giáo ở Campuchia. Có mối quan hệ được hình thành
do cùng tôn giáo hòa lẫn với quan hệ dòng tộc như quan hệ với cộng đồng Hồi
giáo ở Malaysia,... Hiện nay, mối quan hệ giữa cộng đồng Hồi giáo Việt Nam
với Cộng đồng Hồi giáo các nước Đông Nam Á vẫn được duy trì và ngày càng
phát triển. Chính phủ các nước Malaysia, Indonesia, Brunei, Thái Lan nhiều lần
mời tín đồ Hồi giáo Việt Nam tham dự các cuộc thi đọc Kinh Koran của khu
vực và thế giới. Đại sứ quán Malaysia, Indonesia tại Việt Nam thông qua “Ngân
hàng Phát triển Hồi giáo” (Islam Development Bank - IDB) tài trợ các xuất học
bổng cho các sinh viên là tín đồ Hồi giáo đi học về tôn giáo và các môn học kỹ
thuật khác tại các nước này. Hội nghị Bộ trưởng phụ trách Hồi giáo các nước
ASEAN đã được tổ chức để bàn về vấn đề Hồi giáo trong khối, có mời Việt
Nam tham gia…
Cộng đồng Hồi giáo Việt Nam ngày càng nhận được sự quan tâm từ
Chính phủ, các tổ chức Hồi giáo trên thế giới. Đại sứ quán các nước Hồi giáo tại
Việt Nam (Libi, Ả rập Xê-út, Ai cập, Indonesia,...) có nhiều hoạt động quan tâm
đến Hồi giáo Việt Nam, như: Sứ quán Libi đã từng có lần gợi ý giúp xây dựng
một vài thánh đường Hồi giáo ở Việt Nam; cộng đồng Chăm Hồi giáo Việt Nam
340
đã tổ chức nhiều đoàn đi hành hương tại Thánh địa Mecca (Ả rập Xê - út) và do
tổ chức Hồi giáo thế giới tài trợ; hàng năm, nhân tháng Ramadan, Chính phủ,
một số tổ chức Hồi giáo đã tài trợ bằng hiện vật, cử chức sắc Hồi giáo sang để
hỗ trợ và hướng dẫn Cộng đồng Hồi giáo Việt Nam,...
Tóm lại, mối quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam rất đa
dạng và phong phú. Có thể nói mối quan hệ ấy ngày càng được vươn rộng ra
khắp thế giới, tới hầu hết các trung tâm tôn giáo ở khu vực và thế giới, được hỗ
trợ bởi xu thế toàn cầu hóa trong các hoạt động tôn giáo của các tôn giáo trên thế
giới và phương thức “đa dạng, thâm nhập” trong hoạt động quốc tế của các tôn
giáo nước ngoài. Ngay trong lòng ASEAN, là thành viên ASEAN, Việt Nam đã
đang và sẽ là đối tác với các nước có tỉ lệ người theo tôn giáo rất cao (như Thái
Lan 97% theo Phật giáo, Indonesia 87 % theo Hồi giáo, Philippin 85% theo
Công giáo, Malaysia, Brunei đa số theo Hồi giáo; Lào, Myanmar là những nước
mà Phật giáo là tôn giáo truyền thống và áp đảo về tỷ lệ. Đó sẽ là tiền đề cho
những mối quan hệ tôn giáo giữa Việt Nam với những nước trong khối ASEAN.
3.2. Đóng góp của hoạt động quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo
đối với công tác đối ngoại nhân dân
Hoạt động quốc tế của các tổ chức tôn giáo góp phần thực hiện chính sách
đối ngoại rộng mở của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong công cuộc đổi mới và
hội nhập quốc tế theo tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Quan hệ quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo thể hiện rõ nhất trong việc
trao đổi đoàn thăm viếng lẫn nhau; chức sắc, nhà tu hành, tín đồ tham dự hội
nghị, hội thảo, đối thoại về tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ngoài; đón các đoàn, tổ
chức tôn giáo nước ngoài vào Việt Nam hoạt động tôn giáo; phối hợp thực hiện
các dự án tại Việt Nam do các tổ chức phi chính phủ (NGOs) có nguồn gốc tôn
giáo hoặc liên quan đến tôn giáo tài trợ.
3.2.1. Tổ chức, cá nhân tôn giáo Việt Nam tham gia hoạt động tôn giáo
ở nước ngoài
Thời gian qua, với chính sách tôn giáo ngày càng cởi mở và được sự quan
tâm, hỗ trợ, giúp đỡ, tạo điều kiện của Nhà nước, hoạt động quốc tế của các tôn
giáo Việt Nam ngày càng đa dạng, phong phú cả về cấp độ, số lượng và phạm vi
hoạt động. Kể từ năm 2011 đến năm nay, đã có khoảng gần 2.000 lượt cá nhân
341
tôn giáo xuất cảnh tham gia khóa đào tạo ở nước ngoài, tham dự hội nghị, hội
thảo quốc tế liên quan đến tôn giáo, thi đọc kinh Quran…
Hiện nay có khoảng 300 tăng ni sinh Phật giáo đang du học tại Ấn Độ, Nhật
Bản, Srilanca, Trung Quốc, Pháp, Thái Lan, Myanmar, Mỹ, Đài Loan (Trung
Quốc), nhiều tăng ni sinh tốt nghiệp tiến sỹ Phật học đã về nước và tham gia công
tác tại các Ban chuyên môn, Viện Nghiên cứu Phật học của Trung ương Giáo hội
và các Tỉnh, Thành hội Phật giáo....; 250 linh mục, tu sỹ được đào tạo tại các nước
Pháp, Italia, Philipin, Úc, Thụy Sỹ, Áo, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha; nhiều mục sư thuộc
các hệ phái Tin lành được đào tạo tại Hoa Kỳ, Hồng Kông,…
Các tổ chức tôn giáo thường xuyên cử đoàn, cá nhân tham dự hội nghị,
hội thảo, giao lưu, tăng cường các mối quan hệ với các tổ chức tôn giáo trên thế
giới. Giáo hội Phật giáo Việt Nam cử đoàn đi giao lưu, thăm viếng Phật giáo các
nước Lào, Campuchia, Trung Quốc, Myanmar, Ấn Độ,...; tham dự Hội nghị
Thượng đỉnh Phật giáo thế giới tại Thái Lan, Nhật Bản, Trung Quốc; tham dự
Đại lễ Phật đản được tổ chức tại trụ sở Liên Hợp quốc; cử đoàn đi hoằng pháp
tại một số nước ở châu Âu (Nga, Ucraina, Ba Lan, Séc, Đức, Hungary,….) vào
các ngày lễ lớn như Lễ Phật đản, Lễ Vu lan, Tết Nguyên đán,... Giáo hội Công
giáo cử đoàn tham dự hội nghị, đại hội hoặc các sự kiện tôn giáo do Tòa thánh
Vatican tổ chức, các tu sỹ thuộc các tỉnh dòng Việt Nam tham dự đại hội, hội
nghị, hoạt động tôn giáo của dòng quốc tế,...Các hệ phái Tin lành cử đoàn đi
nước ngoài tham dự các hội nghị, hội thảo, đại hội của nhiều tổ chức tin lành thế
giới, như: Đại hội Bap-tít châu Á Thái Bình Dương tại Malaysia, Hội thảo
Menonite Thế giới tại Kenya, Hội đồng Bồi linh Liên hiệp Tin lành Việt Nam,
Hội đồng Empower21 và Phục Hưng Liên hiệp Toàn cầu tại Indonesia, Hội nghị
Truyền giáo Quốc tế,... Tín đồ Hồi giáo tham dự các cuộc thi đọc Kinh Quran
quốc tế tại Brunei, Malaysia, Thái Lan, Indonesia; chức sắc Hồi giáo tham dự
Hội nghị, hội thảo quốc tế,…
Các tổ chức tôn giáo Việt Nam tích cực cử đoàn tham dự hội nghị, diễn
đàn tôn giáo ở khu vực và trên thế giới. Từ năm 2005 đến nay, Nhà nước Việt
Nam đã tạo điều kiện cho Đoàn chức sắc tôn giáo Việt Nam 05 lần tham dự Hội
nghị “Đối thoại Liên tín ngưỡng khu vực Á - Âu” (ASEM), 06 lần tham dự Hội
nghị “Đối thoại Liên tín ngưỡng khu vực châu Á - Thái Bình Dương”. Ngoài ra,
các tổ chức tôn giáo còn cử đại diện tham dự các hội nghị, đối thoại: Diễn đàn
Thanh niên Liên tín ngưỡng châu Á - Thái Bình Dương, Hội nghị Thượng đỉnh
342
các nữ lãnh đạo trẻ của các tôn giáo, Hội nghị ASEM về đối thoại tín ngưỡng và
văn hóa của các nhà lãnh đạo tôn giáo....Việc tham dự hội nghị, hội thảo quốc tế
là dịp tốt để chức sắc, tín đồ các tôn giáo trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về kiến
thức, thực tiễn trong hoạt động tôn giáo, thông tin về đời sống tín ngưỡng, tôn
giáo ở Việt Nam, góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam, tranh thủ sự ủng hộ
của bạn bè quốc tế đối với Việt Nam.
3.2.2. Tổ chức, cá nhân tôn giáo Việt Nam mời tổ chức tôn giáo nước
ngoài vào Việt Nam để hoạt động tôn giáo
Cùng với việc cử các đoàn, cá nhân ra nước ngoài tham dự các hoạt động tôn
giáo quốc tế, các tổ chức tôn giáo Việt Nam cũng đã đón nhiều đoàn, cá nhân, tổ
chức tôn giáo và liên quan đến tôn giáo vào Việt Nam để trao đổi, giao lưu, hướng
dẫn đạo tại cơ sở tôn giáo ở Việt Nam, địa điểm sinh hoạt tôn giáo tập trung của
người nước ngoài, tham dự các sự kiện tôn giáo do các tổ chức tôn giáo Việt Nam
tổ chức,…. Từ năm 2011 đến nay, các cơ quan chức năng Việt Nam đã tạo điều
kiện cho các tổ chức tôn giáo ở trong nước đón gần 500 đoàn khách nước ngoài với
hơn 3.000 lượt người vào Việt Nam để hoạt động tôn giáo.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam đón đoàn Phật giáo các nước Lào,
Campuchia, Ấn Độ, Myanmar, Sri Lanca,…vào Việt Nam để thăm viếng giao
lưu, hướng dẫn tu thiền cho tăng ni, phật tử, tham dự hội nghị, hội thảo,... Giáo
hội Công giáo Việt Nam đón các đoàn khách nước ngoài vào Việt Nam để hoạt
động mục vụ, thăm viếng giao lưu; Bề trên, Cố vấn Bề trên Tổng quyền, các tu
sỹ nước ngoài thuộc các dòng quốc tế thăm các dòng tương ứng và tham gia
các hoạt động tôn giáo ở Việt Nam,...Mục sư Tin lành nước ngoài vào Việt
Nam để tham dự các hoạt động tôn giáo do các hệ phái Tin lành Việt Nam tổ
chức: tham dự đại hội, hội nghị, giảng kinh thánh tại các khóa bồi dưỡng giáo
lý, tham dự lễ kỷ niệm (100 năm Tin lành truyền vào Việt Nam, 500
năm Ngày Cải Chánh giáo hội),…
Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, mối quan hệ quốc tế của các tổ
chức tôn giáo trong nước ngày càng mở rộng, uy tín của các tổ chức tôn giáo
trong nước được nâng cao trên trường quốc tế, các tổ chức tôn giáo ở trong nước
đã đăng cai và tổ chức thành công nhiều hoạt động quốc tế tôn giáo lớn tại Việt
Nam, như: Hội nghị Liên Hội đồng giám mục Á Châu do Hội đồng Giám mục
Việt Nam đăng cai tổ chức với sự có mặt 122 đại biểu gồm Hồng y, Tổng Giám
mục, Giám mục và đại biểu thuộc Hội đồng Giám mục các nước châu Á, một số
343
châu lục và đại diện Tòa thánh Vatican; Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc VESAK
năm 2019 với sự tham dự của 3.000 đại biểu, trong đó có 1.650 đại biểu khách
quốc tế đến từ 112 quốc gia và vùng lãnh thổ, 250 kiều bào là tăng ni từ 40 quốc
gia, trên dưới 20.000 lượt tăng ni, phật tử tham dự các hoạt động bên lề của đại
lễ; Tổng hội Dòng Đa minh được tổ chức tại Xuân Lộc, Đồng Nai với sự tham
dự của 142 đại biểu gồm bề trên tổng quyền, bề trên giám tỉnh và đại diện của
các tỉnh dòng trên thế giới, đây là lần đầu tiên một dòng tu quốc tế lớn tổ chức
Tổng tu hội tại Việt Nam…
3.2.3. Sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam
Với chủ trương hội nhập quốc tế rộng mở, Việt Nam ngày càng thu hút
nhiều doanh nhân, doanh nghiệp nước ngoài, người nước ngoài vào làm việc,
học tập và sinh sống, trong đó có một bộ phận là tín đồ tôn giáo. Người nước
ngoài có tín ngưỡng, tôn giáo nhìn chung đều có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo và
mong muốn được sinh hoạt tôn giáo theo cộng đồng. Xuất phát từ nhu cầu thực
tế, chính quyền địa phương đã tạo điều kiện cho người nước ngoài sinh hoạt tôn
giáo theo quy định của pháp luật Việt Nam. Tín đồ người nước ngoài được sinh
hoạt tôn giáo cùng với tín đồ Việt Nam hoặc tập trung thành nhóm tại địa điểm
hợp pháp để sinh hoạt tôn giáo. Ở TP. Hồ Chí Minh có gần 50 điểm nhóm sinh
hoạt tôn giáo tập trung của tín đồ Tin lành, Công giáo là người nước ngoài,
người nước ngoài là tín đồ Hồi giáo sinh hoạt tôn giáo cùng với tín đồ Việt
Nam tại các Thánh đường Hồi giáo. Ở TP. Hà Nội, tín đồ người nước ngoài
theo đạo Công giáo được tham dự thánh lễ hàng tuần (thứ bảy, chủ nhật) tại
nhà thờ Cửa Bắc; nhóm tín đồ Công giáo người Hàn Quốc dự thánh lễ hàng
tuần tại nhà nguyện Đức Mẹ Phartima trong khuôn viên trụ sở Tòa Tổng giám
mục Hà Nội; nhóm tín đồ người Hàn Quốc theo đạo Tin lành được sinh hoạt tôn
giáo tập trung tại nhà thờ Tin lành, số 2 Ngõ Trạm và tại một số địa điểm đã
được chính quyền TP. Hà Nội cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung; tín đồ
Hồi giáo là nhân viên đại sứ quán các nước Hồi giáo (Lybi, Malaysia, Pakistan,
Brunei, UAE,…) sinh hoạt tôn giáo tại Thánh đường 12 Hàng Lược. Tín đồ
người nước ngoài sống và làm việc tại các khu công nghiệp được chính quyền
địa phương tạo điều kiện tập trung thành nhóm để sinh hoạt tôn giáo: nhóm tín
đồ Tin lành người Hàn Quốc sinh sống và làm việc trên địa bàn tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu được sinh hoạt tôn giáo tại nhà thờ Chi hội Tin lành Vũng Tàu;
tín đồ Tin lành người Hàn Quốc làm việc tại khu kinh tế Dung Quất được sinh
344
hoạt tôn giáo tại nhà thờ Tin lành ở xã Bình Long, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi,… Các nhóm tín đồ người nước ngoài được phép mời chức sắc nước ngoài
vào Việt Nam hướng dẫn sinh hoạt tôn giáo tại địa điểm hợp pháp. Kể từ khi
thực hiện Luật tín ngưỡng, tôn giáo đến nay, đã có hơn 125 chức sắc người nước
ngoài được vào Việt Nam giảng Kinh thánh cho các nhóm tín đồ tại địa điểm
sinh hoạt tôn giáo tập trung.
3.2.4. Hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài (NGOs) có
nguồn gốc tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo tại Việt Nam
Trong số các tổ chức phi chính phủ nước ngoài (NGOs) đang hoạt động ở
Việt Nam, có nhiều tổ chức có nguồn gốc tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo.
Hoạt động của các tổ chức này là một mặt trong hoạt động quốc tế của các tổ
chức tôn giáo. Các NGOs có nguồn gốc tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo
ngoài tính chất là một tổ chức phi chính phủ, còn mang trong mình những đặc
điểm riêng như: do tổ chức giáo hội lập ra hoặc bảo trợ; kinh phí do tín đồ tôn
giáo đóng góp hoặc trích từ các quỹ tôn giáo; có xu hướng tài trợ thông qua các
tổ chức tôn giáo trong nước; mong muốn viện trợ riêng cho tôn giáo để phục vụ
mục đích tôn giáo.
Việt Nam có chủ trương trân trọng hoạt động viện trợ cho Việt Nam từ
cộng đồng quốc tế, trong đó có các NGOs tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo,
khuyến khích sự trợ giúp vật chất của họ cho việc phát triển kinh tế - xã hội của
Việt Nam, đồng thời đảm bảo nguyên tắc bảo vệ an ninh, chủ quyền đất nước,
đảm bảo thực hiện tốt chính sách tôn giáo. Nhà nước đã ban hành một số chính
sách, quy định liên quan đến hoạt động của các NGOs nói chung, trong đó có
các NGOs tôn giáo.
Về viện trợ phát triển, hiện nay, Việt Nam có quan hệ với khoảng 950 tổ
chức phi chính phủ nước ngoài, trong đó có gần 70 tổ chức có nguồn gốc tôn
giáo hoặc liên quan đến tôn giáo. Các NGOs có nguồn gốc tôn giáo hoặc liên
quan đến tôn giáo hoạt động tại Việt Nam đã có những đóng góp tích cực vào
công cuộc xóa đói giảm nghèo của Việt Nam thông qua các chương trình/dự án
trong nhiều lĩnh vực như y tế, giáo dục, giải quyết các vấn đề xã hội… phù hợp
với các ưu tiên, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Bên cạnh các hoạt động của các NGOs có nguồn gốc tôn giáo hoặc liên
quan đến tôn giáo đã có văn phòng đại diện tại Việt Nam, các cơ quan nhà nước
còn tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo Việt Nam được đón các đoàn vào
345
Việt Nam hoạt động từ thiện, như: Tổng hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền
Bắc) mời đoàn y, bác sỹ từ Úc sang khám chữa bệnh từ thiện cho đồng bào
nghèo tại các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Lạng Sơn; Ủy ban Bác ái xã hội -
Caritas Thanh Hóa đón và phối hợp với Hội trợ giúp làng quê Việt Nam ở Mỹ
và Canada thực hiện chương trình khám chữa bệnh và phát thuốc miễn phí cho
giáo xứ Mỹ Hưng và Yên Bình, tỉnh Yên Bái,…
Tất cả những hoạt động quốc tế nói trên luôn được Nhà nước tạo điều
kiện thuận lợi, làm cho các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam gần gũi hơn với bạn bè
đồng đạo quốc tế, thắt chặt tình hữu nghị giữa tín đồ các tôn giáo Việt Nam với
tín đồ các tôn giáo trên thế giới, góp phần giới thiệu hình ảnh và thành tựu công
cuộc đổi mới của Việt Nam với bạn bè quốc tế, đóng góp tích cực cho ngoại
giao Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế, và cùng với các biện pháp ứng xử
phù hợp của Nhà nước góp phần đấu tranh có hiệu quả với những hành động cực
đoan của một số lực lượng thiếu thiện chí với Việt Nam xuyên tạc chính sách
tôn giáo đúng đắn của Nhà nước Việt Nam nhằm gây chia rẽ dân tộc, tôn giáo,
cản trở công cuộc đổi mới của Việt Nam.
4. CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI TÔN GIÁO CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ
NƯỚC ĐÓNG GÓP TÍCH CỰC VÀO ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG, NHÀ
NƯỚC VÀ ĐẤU TRANH NHÂN QUYỀN
4.1. Hoạt động của Mỹ và một số nước phương Tây đối với lĩnh vực
nhân quyên, tôn giáo tại Việt Nam
- Mỹ tiếp tục quan tâm, gây sức ép với Việt Nam về vấn đề dân chủ, nhân
quyền, tự do tôn giáo. Nổi lên một số hoạt động đáng chú ý:
(1) Chính quyền Mỹ liên tiếp đưa ra các sáng kiến và chính sách về tự do
tôn giáo: Tổ chức “Hội nghị Bộ trưởng về tự do tôn giáo quốc tế” năm 2018 và
2019, 2020; thành lập “Liên minh tự do tôn giáo quốc tế” vào tháng 02/2020;
thành lập “Uỷ ban các quyền không thể thay đổi” vào tháng 7/2019, trong đó,
báo cáo công bố tháng 7/2020 của Uỷ ban này khẳng định quyền tự do tôn giáo
là “quyền không thể thay đổi và nền tảng của Mỹ”; ban hành Sắc lệnh hành pháp
thúc đẩy tự do tôn giáo quốc tế (tháng 6/2020) chỉ đạo toàn bộ hệ thống chính
phủ Mỹ đặt ưu tiên thúc đẩy tự do tôn giáo quốc tế, gắn vấn đề này với các
chương trình hỗ trợ phát triển, yêu cầu Đại sứ Mỹ tại các nước xây dựng kế
hoạch hành động nhằm thúc đẩy các nước liên quan đạt tiến bộ trong xoá bỏ vi
phạm tự do tôn giáo.
346
Tại buổi họp báo công bố Báo cáo nhân quyền thường niên năm 2020
ngày 30/3/2021 của Bộ Ngoại giao Mỹ, Ngoại trưởng Blinken tái khẳng định
Chính quyền Biden cam kết đưa nhân quyền trở lại là trọng tâm trong chính sách
đối ngoại của Mỹ và nhấn mạnh các biện pháp để thúc đẩy nhân quyền của Mỹ
(2) Tại các cơ chế báo cáo định kỳ của Uỷ ban Tự do tôn giáo Quốc tế Mỹ
(USCIRF), Bộ Ngoại giao Mỹ về tình hình nhân quyền, tự do tôn giáo, bên cạnh
việc ghi nhận tình hình tôn giáo Việt Nam có tiến triển tích cực, các báo cáo tiếp
tục nêu một số nội dung nhận định thiếu khách quan, sai lệch về tình hình tự do
tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam.
(3) Các cơ quan đại diện ngoại giao của Mỹ tại Việt Nam tăng cường các
hoạt động tiếp xúc, thu thập thông tin về tình hình về tín ngưỡng, tôn giáo tại
Việt Nam.
- Các nước phương Tây tiếp tục quan tâm đến tình hình tự do tôn giáo của
Việt Nam nhưng mức độ và cường độ ít hơn. Các nước phương Tây vẫn tiếp tục
quan tâm về tình hình nhân quyền Việt Nam; gắn việc phê chuẩn EVFTA,
EVIPA với việc ta thực hiện các cam kết quốc tế về nhân quyền và tự do tín
ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam.
4.2. Công tác đối ngoại tôn giáo của các cơ quan nhà nước đóng góp
tích cực vào công tác nhân quyền
4.2.1. Tăng cường mối quan hệ, hợp tác với Lào, Campuchia, Trung
Quốc góp phần ổn định an ninh khu vực
Việt Nam với Lào, Campuchia, Trung Quốc là những nước láng giềng có
mối quan hệ hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Việc
tăng cường hợp tác trên lĩnh vực tôn giáo với các nước láng giềng sẽ tạo điều kiện
cho các bên trao đổi thông tin, kinh nghiệm trong giải quyết các vấn đề tôn giáo
ảnh hưởng đến an ninh trật tự của mỗi nước như: hoạt động của Pháp luân công;
vấn đề di dịch cư tự do, truyền đạo trái phép, hoạt động tôn giáo liên quan đến
vùng đồng bào dân tộc ở khu vực biên giới Việt Nam với Lào, Campuchia…. Xác
định tầm quan trọng này, ta đã thiết lập kênh hợp tác với Cục sự vụ Tôn giáo
Quốc gia Trung Quốc thông qua hoạt động trao đổi đoàn, trao đổi kinh nghiệm về
công tác tôn giáo, kinh nghiệm trong việc xử lý vấn đề Pháp luân công. Ký Thỏa
thuận hợp tác với Ủy ban Trung ương Mặt trận Lào Xây dựng Đất nước, Bộ Lễ
nghi và Tôn giáo Campuchia, thường xuyên trao đổi đoàn cấp cao, tổ chức lớp tập
huấn về công tác tôn giáo cho Bạn, đặc biệt là tổ chức thành công Hội nghị trao
347
đổi kinh nghiệm về công tác tôn giáo giữa các tỉnh biên giới Việt Nam với Lào,
Campuchia. Tại Hội nghị này, các bên đã thống nhất phối hợp xử lý các vụ việc
phức tạp nảy sinh ở khu vực biên giới, phối hợp với Lào đấu tranh âm mưu lập
Vương quốc Mông, với Campuchia đấu tranh với tổ chức “Khmers Kampuchea
Krom” lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá Việt Nam, góp phần xây dựng
biên giới hòa bình, ổn định và phát triển.
4.2.2. Mở rộng hợp tác với các nước trên lĩnh vực tôn giáo, nhân quyền,
tạo sự ủng hộ của bạn bè quốc tế trên lĩnh vực tôn giáo
Đây là công tác trọng yếu, cốt lõi để triển khai chính sách, pháp luật về
tôn giáo của Việt Nam ra bên ngoài, qua hợp tác quốc tế để giải quyết vấn đề
trong nước, vận động bạn bè quốc tế ủng hộ Việt Nam, đáp ứng chiến lược an
ninh bảo vệ Tổ quốc từ xa. Với tinh thần tích cực chủ động, các chương trình
hợp tác trên lĩnh vực tôn giáo đã được triển khai tại nhiều nước trong khu vực và
thế giới, đối thoại với các chính khách, chuyên gia, học giả và đặc biệt là các
nhà lãnh đạo các tổ chức tôn giáo. Tập trung vào các hoạt động: triển khai Đề án
“Hỗ trợ cho các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài và tham gia các sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng trong nước” giúp đỡ cộng
đồng người Việt thực hành tâm linh, tín ngưỡng tôn giáo tại Đông Âu, Pháp,
Hungary, Úc và Niu-di-lân, kết quả đã phát huy được vai trò, trách nhiệm của các
tổ chức tôn giáo Việt Nam, các tín đồ, chức sắc trong và ngoài nước hoạt động tôn
giáo, đáp ứng được nhu cầu tâm linh của kiều bào, duy trì và phát huy giá trị văn hóa
Việt Nam, hạn chế việc thiếu thông tin để bị lôi kéo, kích động vào các cực đoan
chống đối; trao đổi kinh nghiệm về công tác quản lí trên lĩnh vực Công giáo,
Chính thống giáo tại Mehico, Cu Ba, Nga; nghiên cứu thực tế về đạo Tin Lành
tại Hàn Quốc và Hoa Kỳ; tổ chức đối thoại về vấn đề tôn giáo với cơ quan, các
tổ chức, cá nhân tại Hoa Kì, Bỉ và Thụy Sĩ; nghiên cứu về Hồi giáo và văn hóa
Hồi giáo tại Ai Cập, Iran, Ixrael, Thổ Nhĩ Kì, Kazakhstan; tìm kiếm cơ hội hợp
tác để xuất khẩu sản phẩm Halal của Việt Nam sang các nước Hồi giáo; thiết lập
quan hệ trên lĩnh vực tôn giáo với hầu hết các nước trong ASEAN như Lào,
Campuchia, Singapore, Malaysia, Myanmar, Philippine, Brunei, Thái Lan; quan
hệ với Vatican tiếp tục được duy trì và nâng cấp quan hệ. Ngoài ra Việt Nam
còn cử nhiều đoàn tham dự nhiều Hội nghị, Hội thảo và các Diễn đàn quốc tế
liên quan đến tôn giáo. Trong các chuyến nghiên cứu, tìm hiểu, trao đổi, giao
lưu, ta đều có các cuộc tiếp xúc với các cơ quan của Chính phủ, lãnh đạo các tôn
348
giáo. Đây là cơ hội tốt để thông tin về tình hình, chính sách tôn giáo Việt Nam,
thiết lập cơ chế đối thoại để bạn bè các nước hiểu và ủng hộ Việt Nam trên
trường quốc tế.
4.2.3. Thực hiện tốt chính sách chăm lo đời sống tâm linh cho cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài, vận động kiều bào hướng về xây dựng
đất nước
Việc đảm bảo các sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng không chỉ đáp ứng nhu
cầu tâm linh của bà con Việt Kiều mà còn góp phần củng cố đoàn kết cộng
đồng, giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc, hướng về quê hương đất tổ. Nhận
thức được tầm quan trọng của vấn đề này, nhiều đoàn được cử sang các nước
Đông Âu hoặc kết hợp những chuyến công tác nước ngoài khác để gặp gỡ cộng
đồng người Việt tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của bà con, trao đổi với chính
quyền sở tại đề nghị giúp đỡ cộng đồng người Việt được tự do sinh hoạt tôn
giáo, tâm linh. Nhiều ngôi chùa Việt Nam đã được xây dựng ở Đông Âu; có 07
Hội Phật tử Việt Nam tại Pháp, Nga, Đức, Séc, Ba Lan, Hungary, Ucraina; một
Ban đại diện tăng sinh du học ở Ấn Độ và gần đây Chính phủ Lào đã cho phép
thành lập Ban điều phối công tác phật sự tại Lào; Giáo hội Phật giáo Việt Nam
đã triển khai nhiều hoạt động Phật giáo tại 22 quốc gia và vùng lãnh thổ, cử
nhiều nhà sư ra nước ngoài hướng dẫn bà con Việt kiều sinh hoạt tôn giáo. Với
những địa bàn có vụ việc phức tạp, mâu thuẫn nội bộ, tập trung biện pháp vận
động kiều bào tiến bộ làm hạt nhân trong quá trình giải quyết xử lí và lên tiếng
phản bác không để thế lực xấu lợi dụng chống đối. Hàng năm, tổ chức gặp gỡ
kiều bào về Việt Nam đón Tết cổ truyền, thăm thân hoặc tham dự các sự kiện
tôn giáo, tín ngưỡng nhằm động viên, tạo sự phấn khởi, thêm gắn bó với quê
hương, đất nước.
4.2.4. Tăng cường tuyên truyền đối ngoại, từng bước làm thất bại luận
điệu chống Việt Nam trên lĩnh vực tôn giáo
Trong năm qua, ta đã tích cực, chủ động triển khai toàn diện công tác
thông tin, tuyên truyền đối ngoại tôn giáo với nhiều hình thức đa dạng, phong
phú. Hàng năm, các cơ quan chức năng của Việt Nam tiếp xúc với hàng chục
đoàn khách nước ngoài, cơ quan đại diện ngoại giao, các tổ chức quốc tế tại Việt
Nam. Qua các cuộc tiếp xúc, đối thoại, ta đều khẳng định chính sách nhất quán
tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo của Đảng nhà nước Việt nam, nêu bật những
thành tựu trên lĩnh vực tôn giáo ta đã đạt được, kiên quyết phê phán luận điệu
349
xuyên tạc, bóp méo tình hình thực tế khách quan về tôn giáo của các tổ chức cá
nhân thiếu thiện chí nước ngoài và hoạt động chống phá Việt Nam trên lĩnh vực
tôn giáo.
Một trong các hình thức tuyên truyền đạt hiệu quả cao là lập các diễn đàn
tuyên truyền đối ngoại về chủ trương, chính sách, thành tựu tín ngưỡng, tôn giáo
qua các phóng sự trên kênh truyền hình đối ngoại của VTV, trang thông tin điện
tử bằng tiếng Anh của Ban Tôn giáo Chính phủ, tổ chức hội nghị, hội thảo quốc
tế với sự tham dự của các giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.
Ban Tôn giáo Chính phủ đã từng phối hợp với Phái đoàn Liên minh châu Âu tại
Việt Nam tổ chức 04 cuộc hội thảo quốc tế về tôn giáo với sự tham dự của hàng
trăm đại biểu đại diện các cơ quan Trung ương, địa phương, các nhà nghiên cứu,
chức sắc các tôn giáo, các cơ quan ngoại giao ở Hà Nội; phối hợp với Viện Liên
kết toàn cầu (IGE) tổ chức hội thảo tại 03 miền Bắc, Trung, Nam. Sau khi Luật
tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực ngày 01/01/2018, Ban Tôn giáo Chính phủ đã
tổ chức thành công Hội nghị giới thiệu pháp luật liên quan đến tín ngưỡng, tôn
giáo cho các cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế tại Hà Nội, các chức sắc, đại
diện điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài tại Việt Nam.
Các hội thảo quốc tế về tôn giáo đã đạt kết quả tốt, góp phần tuyên truyền cho
bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn về tôn giáo và đời sống tôn giáo ở Việt Nam, khẳng
định những thành tựu của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện các chủ
trương, chính sách bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người.
Các Bộ, ngành của Việt Nam tăng cường phối hợp trao đổi thông tin,
tham gia hiệu quả các cuộc Đối thoại nhân quyền với Úc, Hoa Kì, Thụy Sĩ, Na
Uy, EU; đón làm việc với Báo cáo viên đặc biệt về tự do tôn giáo của Liên Hợp
quốc, Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Mỹ, Đại sứ lưu động về tự do tôn giáo
Mỹ; xây dựng và bảo vệ tại Liên hiệp quốc “Báo cáo quốc gia theo cơ chế kiểm
điểm định kì” (UPR) và “Báo cáo thực thi Công ước quốc tế về các quyền dân
sự và chính trị” (ICCPR), trả lời khuyến nghị của các cơ quan của Liên hiệp
quốc. Công tác phối hợp đã phát huy hiệu lực của cả hệ thống chính trị trong
công tác nhân quyền, nâng cao hiệu quả tuyên truyền đối ngoại, không để bị lợi
dụng can thiệp, thâm nhập “chuyển hóa”, “tự chuyển hóa” nội bộ.
5. DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG
TÁC TUYÊN TRUYỀN ĐỐI NGOẠI TÔN GIÁO
5.1. Dự báo tình hình trong thời gian tới
350
Thời gian tới đây tình hình thế giới sẽ có rất nhiều thay đổi.Thế giới đẩy
nhanh quá trình toàn cầu hóa, công nghiệp hóa và sự phát triển như vũ bão của
khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ, nhất là công nghệ thông tin giúp cho các
quốc gia gần nhau hơn.Thế giới đang có sự biến đổi nhanh chóng và sâu sắc trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có tôn giáo. Sự biến đổi của tôn giáo có
xu hướng chính trị hóa và tham gia tích cực vào đời sống chính trị của thế giới.
Tôn giáo đang diễn biến theo khuynh hướng đa dạng hoá với tình trạng:
bảo thủ và đổi mới, thoái trào và phục hưng, xung đột và hoà giải, liên hợp và
phân ly, cạnh tranh và hợp tác với nhiều loại, nhiều kiểu, nhiều hình thức, tính
chất, đặc điểm và nhiều cách thức tổ chức khác nhau. Là một hình thái ý thức xã
hội, tôn giáo luôn biến động, đổi thay theo tồn tại xã hội. Xu hướng đa dạng hoá
tôn giáo được thể hiện rõ ở xu hướng phân ly, tách biệt từ những tôn giáo lớn.
Trong những năm tới, các nước sẽ mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác trên
nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội; các luồng di cư ngày càng nhiều, chủ
yếu từ các quốc gia chậm phát triển đến các nước tiên tiến. Điều đó tạo ra sự đan
xen và hội nhập văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc. Trong điều kiện như vậy các
tôn giáo có cơ hội thâm nhập và lan tỏa đến khắp nơi và các mối quan hệ quốc tế
của các tôn giáo ở Việt Nam cũng ngày càng phát triển phong phú và đa dạng
hơn. Các tổ chức tôn giáo từ bên ngoài sẽ tìm mọi cách xâm nhập, tạo ảnh
hưởng vào trong nước ngày càng nhiều, theo đó các “hiện tượng tôn giáo mới”
sẽ tiếp tục lây lan, phát triển mạnh.
Tình hình trong nước thời gian tới sẽ cũng có nhiều thay đổi quan trọng.
Đất nước đi sâu vào trong quá trình đổi mới theo cơ chế thị trường và đẩy nhanh
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời chính sách mở rộng quan hệ
giao lưu, hợp tác quốc tế, Việt Nam càng có điều kiện hội nhập quốc tế trên tất
cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Điều đó đưa lại sự phát triển nhanh
chóng và mạnh mẽ của đất nước. Và đây cũng chính là tiền đề để các tổ chức
tôn giáo ở trong nước tăng cường mở rộng hơn nữa các mối quan hệ quốc tế.
Một số quốc gia và tổ chức quốc tế tiếp tục thực hiện âm mưu “chính trị
hóa tôn giáo”, chống Việt Nam về dân chủ, nhân quyền và tôn giáo; lợi dụng
vấn đề tôn giáo, những sơ hở thiếu sót của Việt Nam trong quá trình thực hiện
chính sách để kích động khiêu khích gây ra điểm nóng tôn giáo; phối hợp trong -
ngoài nuôi dưỡng bọn phản động lưu vong, số chống đối trong nước để chống
Việt Nam, sử dụng diễn đàn đa phương và đặt điều kiện trong quan hệ song
351
phương ép ta về nhân quyền và tôn giáo, vận động “luật hóa” các hoạt động
chống đối Việt Nam.
5.2. Một số yêu cầu đặt ra đối với công tác tuyên truyền đối ngoại tôn giáo
Tình hình thực tế đặt ra yêu cầu cấp thiết để nâng cao hiệu quả công tác đối
ngoại tôn giáo, coi trọng, chủ động và kịp thời tuyên truyền, vận động dư luận,
tranh thủ tối đa sự ủng hộ quốc tế, cần tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau:
Một là: Cần đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại
về chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam, kiên
quyết bảo vệ sự tôn nghiêm của pháp luật; các cơ quan truyền thông cần phối
hợp để tuyên truyền về những thành quả mà Việt Nam đã đạt được trong nhiều
năm qua, trong đó có vấn đề thực hiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam, làm cơ
sở phản bác lại luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, chống phá nước ta.
Hai là: Đổi mới công tác tuyên truyền đối nội cũng như đối ngoại để các
cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước hiểu đúng và đầy đủ về tình hình tôn giáo
Việt Nam, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta đối với
tôn giáo. Chủ động tuyên truyền qua các phương tiện phát thanh, truyền hình,
báo viết, báo điện tử, dựng phim tư liệu về đời sống tôn giáo Việt Nam; đưa tin
bài, hình ảnh về đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của cộng đồng bà con Việt Nam
sinh sống ở nước ngoài.
Ba là: Đổi mới phương thức, nâng cao tính chủ động trong đấu tranh
phòng, chống “diễn biến hòa bình”. Tổ chức đấu tranh có hiệu quả, dựa trên cơ sở
khoa học đối với các luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của các thế lực thù
địch. Thực tế, nhiều bài viết đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên các loại
hình báo chí thiếu sắc bén, tính thuyết phục chưa cao... Nguyên nhân vẫn do
chính người viết chưa nghiên cứu kĩ, chưa hiểu sâu sắc bản chất vấn đề, chưa chủ
động tiếp cận, thu thập đầy đủ và xử lý thông tin để có thể phản bác một cách
khoa học, có luận cứ đối với các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Bốn là: mở rộng phạm vi, nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối
ngoại. Công tác này hướng vào ba đối tượng: cộng đồng người Việt Nam định
cư ở nước ngoài, người nước ngoài định cư ở Việt Nam và nhân dân các nước
trên thế giới. Hiện nay có khoảng 5,3 triệu người Việt Nam sinh sống và làm
việc ở nước ngoài (80% kiều bào có tín ngưỡng, tôn giáo); khoảng 90.000 người
nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam. Đây là lực lượng đông đảo, là cầu nối
352
giúp thông tin về đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam để bạn bè trên thế
giới hiểu và ủng hộ Việt Nam trên trường quốc tế.
Năm là: Phát huy vai trò của Cơ quan đại diện ngoại giao và Đại diện
thường trú của báo, đài phát thanh, truyền hình của Việt Nam ở nước ngoài
trong việc tuyên truyền thành tựu tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, đấu tranh
phản bác các luận điệu sai trái, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, tôn giáo.
Sáu là: Đa dạng hóa công tác giáo dục, phổ biến, tuyên truyền với các
hình thức và sâu rộng ở nhiều cấp độ, bao gồm: thông qua giáo dục chính thức
(nhà trường) và giáo dục không chính thức (truyền thông, mạng xã hội,...), tập
huấn, bồi dưỡng ngắn hạn,...; đồng thời, tăng cường xã hội hóa các ấn phẩm
tuyên truyền về thành tựu bảo đảm trên lĩnh vực tôn giáo ở Việt Nam hiện nay,
giới thiệu các ấn phẩm này ra nước ngoài, tăng cường hội thảo, hội nghị quốc tế
ở các cấp nhằm vận động, tuyên truyền về chính sách, pháp luật về tôn giáo cho
chính giới và các nhà khoa học quốc tế. Đa dạng hóa các hình thức giáo dục và
tuyên truyền, nhất là tuyên truyền, đấu tranh qua hệ thống mạng xã hội./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nguyễn Thanh Xuân (2020), Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt
Nam, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
- Chỉ thị số 04-CT/TW về tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác
đối ngoại nhân dân trong tình hình mới, Bộ Chính trị, ngày 06/7/2011.
- Nghị quyết số 36-NQ/TW về công tác đối với người Việt Nam ở nước
ngoài, Bộ Chính trị, ngày 26/3/2004.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Hãy nêu vai trò, sự đóng góp của hoạt động quan hệ quốc tế của các tổ
chức, cá nhân tôn giáo ở Việt Nam đối với công tác đối ngoại nhân dân?
2. Hãy phân tích sự đóng góp tích cực của công tác đối ngoại tôn giáo
trong công tác đấu tranh nhân quyền?
3. Vị trí, vai trò của đối ngoại tôn giáo trong tình hình mới?
4. Những thuận lợi, thách thức của đối ngoại tôn giáo trong thời kỳ hội
nhập quốc tế?
353
PHẦN THỨ BA
KỸ NĂNG THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT
VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO VÀ CÔNG TÁC TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
Chuyên đề 1
KỸ NĂNG ĐỊNH HƯỚNG, TIẾP CẬN VÀ XỬ LÝ THÔNG TIN
TRONG LĨNH VỰC TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
1. KỸ NĂNG ĐỊNH HƯỚNG THÔNG TIN VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN
GIÁO PHỤC VỤ CÔNG TÁC THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN
1.1. Thông tin
1.1.1. Khái niệm
Từ điển Oxford English cho rằng thông tin là điều mà người ta đánh giá
hoặc nói đến; là tri thức, tin tức. Một số từ điển thì đơn giản đồng nhất thông tin
với kiến thức - Thông tin là điều mà người ta biết, hoặc thông tin là sự chuyển
giao tri thức làm tăng thêm sự hiểu biết của con người…
Khái niệm “Thông tin” được ghi nhận tại Điều 2, Luật Tiếp cận thông tin
2016 giải thích: “Thông tin là tin, dữ liệu được chứa đựng trong văn bản, hồ sơ,
tài liệu có sẵn, tồn tại dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ,
băng, đĩa, bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác do cơ quan nhà nước tạo ra”.
Vậy, khái niệm thông tin được hiểu: là việc truyền tin, báo tin cho người
khác biết; được thể hiện qua nhiều hình thức đa dạng và phong phú như: con số,
chữ viết, âm thanh, hình ảnh, ngôn ngữ,...
1.1.2. Vai trò của thông tin trong hoạt động thông tin, tuyên truyền
- Thông tin có vai trò quan trọng trong hoạt động thông tin, tuyên truyền.
Trong đời sống con người, nhu cầu thông tin là một nhu cầu rất cơ bản. Nhu cầu
đó không ngừng tăng lên cùng với sự gia tăng các mối quan hệ trong xã hội. Mỗi
người sử dụng thông tin lại tạo ra thông tin mới. Các thông tin đó lại được
truyền cho người khác trong quá trình thảo luận, truyền đạt mệnh lệnh, trong thư
từ và tài liệu, hoặc qua các phương tiện truyền thông khác. Thông tin được tổ
chức tuân theo một số quan hệ logic nhất định, trở thành một bộ phận của tri
thức, đòi hỏi phải được khai thác và nghiên cứu một cách hệ thống.
354
- Thông tin giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống hiện nay, bởi thông tin
là phương tiện để thống nhất mọi hoạt động của tổ chức nhằm đạt một mục tiêu
chung. Không có thông tin thì tổ chức đó không thực hiện được bất kỳ sự điều
phối hay thay đổi nào cả. Thông tin là cơ sở để các nhà quản lý đưa ra quyết
định phù hợp lưu trữ, chuyển giao thông tin thu nhận được. Thông tin còn giúp
các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với môi trường bên ngoài, gắn kết
giữa các cấp quản trị của doanh nghiệp. Với sự phát triển mạnh mẽ như hiện
nay, thông tin đã rút ngắn khoảng cách giữa các quốc gia, đơn vị tổ chức doanh
nghiệp, đem tới nhiều lợi ích cho con người.
- Hiện nay, thông tin là một trong các nhân tố quyết định sự tồn tại và
phát triển của mỗi quốc gia. Với khả năng thay thế các nguồn tài nguyên khác,
khả năng truyền với tốc độ rất cao, đem lại ưu thế cho người nắm giữ nó, thông
tin đã thực sự trở thành cơ sở cho nhiều hoạt động xã hội như nghiên cứu, giáo
dục, xuất bản, tiếp thị và cả hoạt động chính trị nữa. Mối quan tâm của xã hội
đối với việc sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin đã mở rộng từ
các lĩnh vực truyền thống như thư viện, lưu trữ sang các tổ chức, các cơ quan,
các ngành. Thông tin trong những năm gần đây đã trở thành hàng hóa. Điều đó
đã thúc đẩy hình thành một bộ phận mới trong nền kinh tế quốc dân, đó là khu
vực dịch vụ thông tin. Khu vực này ngày càng tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ
thông tin đa dạng đóng góp một tỷ trọng đáng kể trong nền kinh tế quốc dân.
1.2. Thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo
1.2.1. Khái niệm thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo
- Thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo là hoạt động thông tin, tuyên truyền có
mục đích của chủ thể nhằm phổ biến, giải thích rộng rãi để thuyết phục mọi
người hiểu, tán thành ủng hộ và làm theo những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo
nhân văn tốt đẹp trong xã hội và đúng pháp luật.
- Thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo có thể hiểu là tin, dữ liệu về tín
ngưỡng, tôn giáo được chứa đựng trong văn bản, hồ sơ, tài liệu có sẵn, tồn tại
dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ, băng, đĩa, bản ghi
hình, ghi âm hoặc các dạng khác do cơ quan nhà nước tạo ra trong quá trình cơ
quan nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của
pháp luật, được người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước đó ký, đóng dấu
hoặc xác nhận bằng văn bản.
355
1.2.2. Phân loại thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo
- Căn cứ vào cấp quản lý có 4 loại: (1) Thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo
từ trên xuống: là do cấp trên thông tin về tình hình tín ngưỡng, tôn giáo xuống
cấp dưới trong tổ chức có phân cấp; (2) Thông tin báo cáo về tín ngưỡng, tôn
giáo của cấp dưới lên; (3) Thông tin trao đổi giữa bộ, ngành và địa phương trong
thực hiện chức năng nhiệm vụ công tác tín ngưỡng, tôn giáo; (4) Thông tin từ tổ
chức tôn giáo và từ người đại diện, ban quản lý các cơ sở tín ngưỡng.
- Phân loại theo tính chất đặc điểm sử dụng có 2 loại: (1) Thông tin tra
cứu về tín ngưỡng, tôn giáo: đưa đến cho người nhận những nội dung có tính
chất quy ước, những căn cứ để ra các quyết định; (2) Thông tin thông báo về tín
ngưỡng, tôn giáo: mang đến cho người tiếp nhận sự xác nhận, hiểu biết về vấn
đề tín ngưỡng, tôn giáo để chủ động đề xuất biện pháp quản lý.
- Căn cứ vào tính chất pháp lý có 3 loại: (1) Thông tin chính thức về tín
ngưỡng, tôn giáo: được công nhận một cách chính thức trong tổ chức, bao gồm:
chỉ thị, mệnh lệnh được truyền đạt từ trên xuống bằng văn bản hay cuộc họp; thư
góp ý, đơn từ khiếu nại, đề nghị của các nhóm, cá nhân; (2) Thông tin theo chiều
ngang về tín ngưỡng, tôn giáo: nhằm mở rộng phạm vi thông tin, tin tức về tín
ngưỡng, tôn giáo sang các bộ phận để phối hợp hoạt động giữa các bộ phận của
các tổ chức; (3) Thông tin không chính thức về tín ngưỡng, tôn giáo là không
qua các kênh chính thức. Dư luận là một dạng đặc trưng của loại thông tin này,
không tuân theo hệ thống thứ bậc truyền thông chính thức. Tin tức về tín
ngưỡng, tôn giáo được lan truyền nhanh chóng từ bộ phận này sang bộ phận
khác, có thể vượt ra ngoài phạm vi của tổ chức, đôi khi có thể phát ra những tin
đồn nhằm gây nguy hại cho tổ chức. Để giảm tối thiểu hiện tượng này, nhà quản
lý có kế hoạch định kỳ cung cấp thông tin chính thống về tín ngưỡng, tôn giáo
qua các kênh sẽ định hướng dư luận.
- Phân loại thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo: Căn cứ vào tính chất thì
thông tin có các sau như: thông tin khách quan các vụ việc về tín ngưỡng, tôn
giáo; thông tin định hướng hoạt động về tín ngưỡng, tôn giáo; thông tin những
hoạt động lợi dụng, núp bóng về tín ngưỡng, tôn giáo, gây ảnh hương đến xã
hội; thông tin xuyên tạc về tín ngưỡng, tôn giáo, gây chia rẽ, mất đoàn kết giữa
các tôn giáo.
1.2.3. Một số nội dung, hình thức thông tin, tuyên truyền về tín ngưỡng,
tôn giáo
356
- Thông tin, tuyên truyền chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
theo hướng: (1) vừa quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần
chúng, vừa kịp thời đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo; (2) nội dung cốt lõi của
công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng; (3) công tác tôn giáo là trách
nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị.
Trong các Chỉ thị, Nghị quyết tiếp theo của Đảng về vấn đề tôn giáo tiếp
tục được bổ sung, hoàn thiện, theo đó những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của
tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy. Đặc biệt, Nghị quyết số 25-
NQ/TW ngày 12/3/2003, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 khóa
IX của Đảng đã tổng kết và phát triển tư duy lý luận của Đảng về vấn đề tôn
giáo và công tác tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Theo đó, nhận thức mới về vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội tập trung ở những nội dung chủ yếu sau: Một là, thừa nhận sự tồn tại của tôn
giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Hai là, tôn giáo, tín ngưỡng là
nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; Ba là, thừa nhận và khuyến khích
phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa, truyền thống tốt đẹp của tôn giáo trong
công cuộc xây dựng xã hội mới; Bốn là, giữ gìn và phát huy những giá trị tích
cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ
quốc và Nhân dân.
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo quy định về các hoạt động tín ngưỡng, tôn
giáo. Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2005/NĐ-CP ngày 1/3/2005 về
hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Thủ tướng
Chính phủ ban hành Chỉ thị 1940/CT-TTg ngày 31/12/2008 “Về nhà, đất liên
quan đến tôn giáo”, tạo hành lang pháp lý ổn định, nhất quán để ghi nhận, bảo
đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
Hiến pháp năm 2013 có những sửa đổi rất quan trọng về chủ thể của quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ là của “công dân” Việt Nam mà là của “mọi
người”, ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ
bản của con người. Cụ thể hóa, Quốc hội khóa XIV thông qua Luật tín ngưỡng,
tôn giáo, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 và Nghị định 162/2017/NĐ-CP Quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
- Thông tin về việc thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
Tính đến năm 2021, Nhà nước đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động
tôn giáo cho 41 tổ chức thuộc 16 tôn giáo, ngoài ra còn có hàng nghìn điểm
357
nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung được chính quyền cấp đăng ký hoạt động. Các
tổ chức tôn giáo được phép thành lập cơ sở đào tạo, mở lớp bồi dưỡng những
người chuyên hoạt động tôn giáo. Tính đến nay, hầu hết cơ sở thờ tự của các tôn
giáo đã được sửa chữa, nhiều cơ sở thờ tự được xây mới; việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất trên diện tích đất cơ sở tôn giáo đang sử dụng được thực
hiện theo đúng pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được tạo điều kiện in ấn, phát
hành kinh sách, đồ dùng việc đạo phục vụ hoạt động tôn giáo. Hoạt động quan
hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo ngày càng được mở rộng; quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc thiểu số cũng được bảo đảm tốt... Lễ hội
tín ngưỡng, tôn giáo hàng năm thu hút đông đảo các tín đồ và quần chúng nhân
dân tham gia. Các tổ chức tôn giáo được tạo điều kiện thuận lợi trong sinh hoạt
tôn giáo, tham gia các hoạt động nhân đạo - xã hội, hợp tác quốc tế... Hoạt động
tôn giáo diễn ra ổn định, an toàn, trang trọng, theo đúng nghi thức tôn giáo, đảm
bảo quy định của pháp luật. Khối đoàn kết đồng bào các tôn giáo được củng cố
trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước đã xuất hiện những làng văn hóa,
khu phố văn hóa, với nét sinh hoạt đạo - đời hòa hợp, nhiều khu dân cư ở vùng
đồng bào tôn giáo đã trở thành điểm sáng về phòng chống tội phạm ma túy và
các tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh trật tự. Chức sắc và đồng bào theo đạo đã tích
cực tham gia phòng chống tệ nạn, xã hội, thông qua các lời răn dạy, các giáo lý,
tín điều và nếp sống đạo đức tôn giáo, đóng góp sức người, sức của với khả
năng lớn nhất của mình cho sự nghiệp phát triển chung của quê hương, đất nước.
Những thành tựu về việc thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo đã làm cho
đồng bào tôn giáo nhận thức sâu sắc hơn về quyền, trách nhiệm của mình, tin
tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng với công cuộc đổi mới của đất nước,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phản bác các luận điệu xuyên tạc, kích
động, vu cáo của thế lực xấu về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Chức sắc, chức việc các tôn giáo có những đóng góp tích cực vào công cuộc xây
dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, chung tay xây dựng nông thôn mới, xóa đói,
giảm nghèo, tham gia các phong trào: “Xây dựng họ đạo tiên tiến, gia đình giáo
dân tiêu biểu”; “Khu dân cư không tệ nạn xã hội”; “Xây dựng chùa cảnh tinh
tiến, chùa cảnh gương mẫu” và đặc biệt là tham gia cuộc vận động “Treo cờ Tổ
quốc tại các cơ sở tôn giáo và nhà riêng của các tín đồ vào các ngày lễ lớn của
dân tộc và địa phương” do Ban Tôn giáo Chính phủ phát động. Đồng thời xây
358
dựng đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”,
tuyên truyền, vận động quần chúng tín đồ tham gia các phong trào toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc. Trên cả nước đã có nhiều tín đồ tôn giáo là tấm gương điển
hình tiên tiến, xây dựng sáng tạo các mô hình kinh tế chất lượng cao đóng góp
vào sự nghiệp phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội ở địa phương. Thời gian gần
đây, chức sắc, chức việc các tôn giáo tích cực phối hợp với chính quyền cơ sở
vận động quần chúng tín đồ chấp hành nghiêm công tác phòng chống dịch bệnh
Covid-19, tạm dừng tổ chức các hoạt động văn hóa, lễ hội tập trung đông người
tại các cơ sở thờ tự tôn giáo; đồng thời vận động quần chúng tín đồ tham gia bầu
cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2021-2026.
- Thông tin về những vụ việc phức tạp liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo:
Ý thức được vai trò của vấn đề tôn giáo trong phát triển đất nước, ngay từ
sau khi đất nước được giải phóng, trong suốt quá trình lãnh đạo, Ðảng và Nhà
nước ta luôn khẳng định vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo có vị trí chiến lược
trong sự nghiệp cách mạng của đất nước. Để thực hiện có hiệu quả công tác
quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, nhất là những vụ việc, vấn đề phức
tạp về tín ngưỡng, tôn giáo Ban Tôn giáo Chính phủ tích cực, chủ động tham
mưu và chỉ đạo đối với những vấn đề nổi cộm, nảy sinh liên quan đến tín
ngưỡng, tôn giáo thông qua các phiên họp định kỳ hoặc đột xuất. Ban Tôn giáo
Chính phủ có nhiều văn bản gửi đến các ban, ngành có liên quan, đến chính
quyền các cấp và đến cơ sở tôn giáo, tổ chức tôn giáo để giải quyết, tháo gỡ vụ
việc. Để ổn định dư luận, Ban Tôn giáo Chính phủ có những bài viết, trả lời
phỏng vấn trên truyền hình, phát thanh, trên báo, tạp chí, website của Ban và của
ngành thông tin về tình hình tín ngưỡng, tôn giáo, về vụ việc, vấn đề phức tạp
nảy sinh như: sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động nhằm
chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo Việt Nam; hiện tượng
mê tín dị đoan cũng như hoạt động truyền đạo trái pháp luật có xu hướng gia
tăng, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, biên giới; một số tôn
giáo lạ, tà đạo đã nhen nhóm phát triển nhanh như “Vàng Chứ” trong dân tộc
Mông, “Thìn Hùng” trong dân tộc Dao ở Tây Bắc, “Tin lành Đề-ga” ở Tây
Nguyên và một số giáo phái khác ở Tây Nam Bộ; đồng bào bỏ những phong tục,
tín ngưỡng truyền thống, bỏ việc thờ cúng ông bà, tổ tiên để theo đạo mới; di cư
tự do làm cuộc sống yên bình của người dân bị xáo trộn nghiêm trọng; tán phát
359
tài liệu, lôi kéo người khác tham gia sinh hoạt các hội, nhóm tín ngưỡng, tôn
giáo trái pháp luật; hành nghề mê tín, dị đoan, lợi dụng lừa đảo chiếm đoạt tài
sản… Hoặc những vụ việc xảy ra ở Formosa Hà Tĩnh; vụ việc liên quan đến
Giám mục Nguyễn Thái Hợp (giáo phận Vinh); giáo xứ Thái Hà (Hà Nội); việc
xảy ra tại chùa Ba Vàng (Uông Bí, Quảng Ninh); Câu lạc bộ Tình người; hoạt
động khám, chữa bệnh của bà Đỗ Thị Huệ theo “Đạo Ngọc Phật Hồ Chí Minh”;
hoạt động của “Hội thánh của Đức Chúa Trời mẹ”… Tất cả những vụ việc trên
đều được Ban Tôn giáo Chính phủ tham mưu, chỉ đạo định hướng dư luận có cái
nhìn chính xác, khách quan góp phần ngăn chặn hành vi của các đối tượng lợi
dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật. Đây cũng là phương cách để bảo vệ bảo vệ
đất nước, bảo vệ xã hội, bảo vệ nhân dân và bảo vệ các tôn giáo chân chính đang
hoạt động bình thường trên đất nước Việt Nam.
- Thông tin về những hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo gây mất
đoàn kết trong dân tộc, tôn giáo. Thông tin, truyền thông về tín ngưỡng, tôn giáo
đóng vai trò quan trọng trong việc phòng, chống những thế lực thù địch lợi dụng
các vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật, kích động chia rẽ
nhân dân làm mất an ninh trật tự và an ninh quốc gia.
Những năm qua, nhiều tin, bài của các báo - đài ở trung ương và địa
phương và của các tôn giáo đã giúp chức sắc, tín đồ hiểu rõ âm mưu thâm độc
của kẻ xấu lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, nhân quyền để phá hoại khối đại
đoàn kết dân tộc, chống phá cách mạng, trên cơ sở đó cảnh giác với những luận
điệu tuyên truyền sai trái của chúng. Báo - đài cũng chuyển những kiến nghị
chính đáng của đồng bào tôn giáo lên các cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo,
các cấp ủy đảng, chính quyền để giải quyết nhu cầu tôn giáo chính đáng một
cách kịp thời, đúng pháp luật. Vận động đồng bào tham gia phòng ngừa, tố giác
kẻ xấu, nhất là ở các địa bàn phức tạp như: Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ,
vùng biên giới. Các báo cũng phản ánh những tâm tư, nguyện vọng của đồng
bào có đạo; bày tỏ quan điểm rõ ràng trước những luận điệu sai trái của các thế
lực xấu đăng đàn trên báo điện tử, đài phát thanh nước ngoài.
Âm mưu lợi dụng tôn giáo các thế lực thù địch là chia rẽ giữa tôn giáo
này với tôn giáo khác, giữa tôn giáo với không tôn giáo, đặc biệt giữa đồng bào
tôn giáo với Đảng, Nhà nước và cách mạng. Chúng dùng nhiều thủ đoạn kích
động, lừa mị và o ép, khoét sâu mâu thuẫn về tư tưởng, kích động mâu thuẫn
trong nội bộ nhân dân để lừa gạt, lôi kéo, giành giật đồng bào về phía chúng,
360
đẩy dân đối đầu với chính quyền, với Đảng. Chúng lợi dụng toàn cầu hóa, rêu
rao nhân quyền, lợi dụng tôn giáo thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”
nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chúng tăng cường phát triển đạo Tin
lành ở các vùng dân tộc miền núi, trong đồng bào Mông, Dao, âm mưu thành lập
“Vương quốc người Mông”. Đối với vùng Tây Nguyên, chúng kêu gọi tách “Tin
lành người Thượng” ra khỏi “Tin lành người Kinh”, lập ra “Tin lành Đề-ga”...
Các thế lực thù địch luôn luôn tìm cách khai thác mọi sơ hở của ta để kích động
quần chúng lạc hậu vi phạm pháp luật, làm rối loạn trật tự xã hội, gây bạo loạn
tạo cớ để nước ngoài can thiệp.
1.2.4. Những khó khăn, tồn tại trong công tác thông tin về tín ngưỡng,
tôn giáo hiện nay
- Khi có vụ việc phức tạp về tín ngưỡng, tôn giáo xảy ra thì không ít cơ
quan chức năng, tờ báo, tạp chí, đài phát thanh - truyền hình tỏ ra thụ động trong
việc đưa tin, viết bài mang tính định hướng cũng như phương thức giải quyết.
Sự chủ động phối, kết hợp giữa các cơ quan chức năng trong việc cung cấp
thông tin và lấy thông tin về các vụ việc phức tạp về tôn giáo chưa chặt chẽ. Vì
vậy, chất lượng thông tin, tuyên truyền còn thấp. Không ít cơ quan chức năng,
cơ quan truyền thông còn né tránh việc tuyên truyền về tín ngưỡng, tôn giáo
trong đấu tranh với các luận điệu sai trái. Ở một số nơi xảy ra điểm nóng về tín
ngưỡng, tôn giáo, chưa chỉ được rõ nguyên nhân cơ bản xảy ra điểm nóng, biện
pháp khắc phục; việc lý giải, phân tích, giải thích chưa đúng bản chất của vụ
việc nên thông tin thiếu tính thuyết phục.
- Trong công tác thông tin, tuyên truyền chủ yếu là đưa thông tin về
gương người tốt việc tốt, ít thông tin có tính phản biện sắc sảo, phân tích có lý,
thuyết phục. Thông tin được đánh giá là đã đáp ứng đúng thời điểm còn ít,
không thu hút được sự quan tâm, theo dõi, lắng nghe của quần chúng nhân dân.
Trong đó, hạn chế lớn nhất là về độ không chính xác và thiếu thực tế của thông
tin về chính sách, pháp luật tôn giáo. Thậm chí còn có nhiều ý kiến khắt khe
đánh giá khá nghiêm trọng về tình trạng thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo còn
thiếu thực tế. Vậy rất cần phải có giải pháp khắc phục ngay để đáp ứng sự hài
lòng của công chúng quan tâm, nhất là chức sắc, chức việc, đồng bào các tôn
giáo trong khi trình độ công chúng, cả người có tôn giáo và không có tôn giáo
ngày một cao, nhu cầu dân chủ trong thông tin ngày càng nhiều.
361
- Hầu hết các cơ quan chức năng, cơ quan truyền thông báo, tạp chí, phát
thanh, truyền hình không có người làm nhiệm vụ chuyên trách riêng về thông
tin, tuyên truyền về tín ngưỡng, tôn giáo.
1.2.5. Ý nghĩa, tầm quan trọng của thông tin, tuyên truyền về tín
ngưỡng, tôn giáo
Cần phải khẳng định rằng: công tác thông tin, tuyên truyền về tín ngưỡng,
tôn giáo có vai trò quan trọng. Với trên 27 triệu tín đồ tôn giáo nên nhu cầu thông
tin về tín ngưỡng, tôn giáo rất lớn là một nhu cầu rất cơ bản. Nhu cầu đó không
ngừng tăng lên cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và gia tăng của các
hoạt động sầm uất của tín ngưỡng, tôn giáo các mối quan hệ trong xã hội.
Thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo ngày nay không chỉ thỏa mãn nhu cầu
hiểu biết về tín ngưỡng, tôn giáo, nhu cầu giải trí, nhu cầu tuyên truyền về tín
ngưỡng, tôn giáo. Thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng trở thành nguồn
lực to lớn, tạo ra cơ hội và thách lớn cho mỗi người khi tham gia vào lĩnh vực về
tín ngưỡng, tôn giáo. Xã hội cần thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo cho cá nhân
học tập, nghiên cứu, thậm chí kinh doanh, cho Nhà nước quản lý xã hội. Nhà
nước cần thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo để xây dựng chủ trương, chính sách,
xây dựng hệ thống pháp luật... Hệ quả của việc thiếu thông tin về tín ngưỡng, tôn
giáo làm cho cá nhân lúng túng, học tập, nghiên cứu khó khăn khi tiếp cận về tín
ngưỡng, tôn giáo; Nhà nước quản lý kém hiệu quả; chính sách dễ bị sai lầm, thiếu
sót; hệ thống luật có nguy cơ chất lượng thấp. Công tác thông tin, tuyên truyền
trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo gặp khó khăn thì thông tin về tín ngưỡng, tôn
giáo bị nhiễu, dễ xuất hiện tin đồn, xuyên tạc, bịa đặt, gây tác hại xấu cho nhiều
cá nhân và xã hội. Vì vậy, nhiệm vụ công tác thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo vai
trò rất quan trọng, thực hiện hiệu quả chức năng 2 chiều của thông tin về tín
ngưỡng, tôn giáo, tạo đồng thuận xã hội: cung cấp thông tin về tín ngưỡng, tôn
giáo theo quy định của pháp luật; thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo nhanh, chính
xác, kịp thời, đầy đủ sẽ làm tăng cường độ tin cậy của thông tin về tín ngưỡng,
tôn giáo, số liệu thống kê của thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo; tăng cường chất
lượng nghiên cứu khoa học, công tác thống kê; thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo
đầy đủ, khái quát, có chiều sâu; nâng cao dân trí về thông tin về tín ngưỡng, tôn
giáo; thay đổi cách tiếp nhận thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo của người dân: tiếp
nhận thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo có phê phán, không dễ tin vào tin đồn, sự
vu cáo, bịa đặt, xuyên tạc; nâng cao năng lực phân tích, đánh giá thông tin về tín
362
ngưỡng, tôn giáo, nhận thức về công tác thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo cho cán
bộ, công chức; cải tiến phương pháp công tác thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo,
nâng cao kỹ năng công tác thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo cho cán bộ, công
chức. Mọi tổ chức, cá nhân khi tham gia vào lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo đều
cần thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo; tin tức, hoạt động của các tôn giáo; thông điệp của tôn giáo; các
vấn đề của cộng đồng tôn giáo…
Bất cứ hoạt động nào của con người cũng có tính mục đích, chí ít là mục
đích mưu sinh, sau đó là mục đích khoa học, nghệ thuật, chính trị, tín ngưỡng,
tôn giáo… Vì vậy, công tác thông tin, tuyên truyền trong lĩnh vực tín ngưỡng,
tôn giáo càng thể hiện rõ tính mục đích của nó. Để đạt được mục đích của thông
tin, tuyên truyền trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo thì công tác thông tin, tuyên
truyền phải luôn tìm mọi cách, mọi phương tiện và cách thức thực hiện tối ưu
hóa trong quan hệ giữa sự kiện, thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo với đông đảo
công chúng, dư luận xã hội nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo là
thành phần chính.
Để thực hiện tốt được vai trò của thông tin, tuyên truyền về tín ngưỡng,
tôn giáo đạt hiệu quả thì trong quá trình thông tin, tuyên truyền về tín ngưỡng,
tôn giáo cần phải nắm vững những kỹ năng cần thiết như: kỹ năng định hướng,
kỹ năng tiếp cận, kỹ năng xử lý thông tin trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
2. KỸ NĂNG ĐỊNH HƯỚNG THÔNG TIN VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN
GIÁO PHỤC VỤ CÔNG TÁC THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN
2.1. Cơ sở định hướng thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo
2.1.1. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Tôn giáo tồn tại và phát triển lâu dài trong lịch sử. Tôn giáo là một hình
thái ý thức xã hội nên để thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải thay đổi tồn
tại xã hội. Đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong tôn giáo là một quá
trình lâu dài, gắn liền với công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và trí tuệ cho con người. Trong chủ nghĩa
xã hội, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng là một nguyên tắc nhất
quán, xuyên suốt, lâu dài. “Bất kỳ ai cũng được hoàn toàn tự do theo tôn giáo
mình thích, hoặc không thừa nhận một tôn giáo”. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
thừa nhận và đảm bảo cho mọi công dân có hoặc không có tín ngưỡng, tôn giáo
đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ.
363
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định muốn đoàn kết với đồng bào có tín
ngưỡng, tôn giáo trước hết phải tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng
của họ. Đoàn kết lương giáo, đoàn kết những người theo hoặc không theo tín
ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo tôn giáo khác nhau. Người giáo dục
mọi người và Người gương mẫu tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của đồng bào.
Ngay sau ngày khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ mới
làm là tuyên bố tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết. Theo Hồ Chí Minh,
người có tín ngưỡng, đức tin tôn giáo và lòng yêu nước không mâu thuẫn nhau
mà mỗi một người vừa là người dân yêu nước, vừa là một tín đồ chân chính.
Người nói, người Công giáo tốt phải là người công dân tốt, kính Chúa và yêu
Nước là nhiệm vụ không thể tách rời, có hết lòng phụng sự Tổ quốc mới làm
sáng danh Chúa. Người thường nhắc, nước độc lập thì tôn giáo mới được tự do,
vì vậy mọi người phải làm cho nước nhà độc lập trước.
2.1.2. Đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo
Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày
03/9/1945 tại phiên họp Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận đồng bào có đạo. Kế thừa quan
điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tôn giáo, trong các giai đoạn cách
mạng, Đảng, Nhà nước ta đều quan tâm đến nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân. Bước sang thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước ta ban hành nhiều chủ
trương, chính sách về tôn giáo và cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 1992
và 2013 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Đây là điều rất cần
thiết nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt
động tín ngưỡng, tôn giáo, bảo đảm tính tương thích với luật pháp quốc tế.
Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với tôn giáo, cụ thể
như sau: Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Hai là, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết
toàn dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Ba là, nội
dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Bốn là,
công tác tôn giáo có trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Năm là, vấn đề theo
đạo và truyền đạo. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt
động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ.
364
2.1.3. Đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam với hơn 26,5 triệu
người là tín đồ các tôn giáo, chưa kể hàng chục triệu người có tín ngưỡng dân
gian. Sự phân bố tôn giáo ở nước ta cũng khác nhau. Có những nơi tín đồ tôn
giáo sống thành từng cộng đồng tương đối tập trung, có vùng tín đồ tôn giáo
sống xen kẽ với nhau, hoặc xen với quần chúng không theo tôn giáo. Các tôn
giáo ở nước ta xuất hiện theo từng điều kiện lịch sử, với mức độ khác nhau. Các
tôn giáo đều có mối quan hệ quốc tế và ít nhiều có những tác động qua lại qua
những quan hệ đó. Do truyền thống đoàn kết dân tộc, do yêu cầu bảo vệ độc lập
và toàn vẹn lãnh thổ nên tín ngưỡng, tôn giáo nước ta có tính dung hợp, đan xen,
hòa đồng mang dấu ấn riêng như dễ chấp nhận các vị thần, thánh của các tôn
giáo. Hành vi tâm linh tôn giáo ở Việt Nam mang tính thực tế. Niềm tin tôn giáo
được củng cố qua các nghi thức hành lễ, thờ tự. Sức mạnh tôn giáo là chính
hành động, là giáo dục chứ không phải ở giáo lý. Điều đó làm cho tín ngưỡng,
tôn giáo ở nước ta về cơ bản không có xung đột đức tin và chiến tranh tôn giáo.
Tính trội của yếu tố nữ trong hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam khá rõ nét.
Thờ cúng Tổ tiên và những người có công với làng, nước là một nét đặc sắc của
tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống nước ta. Mỗi gia đình đều thờ cúng ông bà,
mỗi họ đều thờ cúng Tổ tiên. Tập tục thờ cúng Thành Hoàng làng, Thần bản... là
bằng chứng nhân dân rất coi trọng những người có công dựng nước, giữ nước.
Trong lịch sử cận, hiện đại nước ta, các thế lực chính trị phản động trong và
ngoài nước thường lợi dụng tôn giáo và vấn đề tôn giáo để thực hiện mục tiêu
chính trị và đã để lại những hậu quả nhất định.
2.1.4. Thực trạng tình hình tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 41 tổ chức tôn giáo
thuộc 16 tôn giáo với hơn 26,5 triệu tín đồ chiếm hơn ¼ dân số cả nước; hơn
58.000 chức sắc, hơn 148.000 chức việc, hơn 29.800 cơ sở thờ tự tôn giáo;
khoảng 45.000 cơ sở tín ngưỡng, trong đó có hơn 3.000 di tích gắn với cơ sở tín
ngưỡng, tôn giáo, một số di tích được Unesco công nhận là di sản thế giới; lễ hội
liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo. Tín đồ các tôn giáo đại bộ phận là nông dân
và nhân dân lao động sống tập trung ở những vùng quan trọng về kinh tế, quốc
phòng, một bộ phận ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Do
những thành tựu của công cuộc đổi mới đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo được cải thiện, có mặt được nâng lên,
365
nhiều cơ sở thờ tự được tu bổ, xây mới khang trang đẹp đẽ. Đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo được cải thiện, đồng bào tôn giáo tăng thêm niềm tin vào Đảng
và Nhà nước, nhận thức rõ lợi ích của quốc gia, dân tộc và lợi ích của công cuộc
đổi mới, gắn bó lợi ích của bản thân và lợi ích của tôn giáo mình. Đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo được cải thiện, đồng bào tôn giáo tăng thêm niềm tin vào Đảng
và Nhà nước, nhận thức rõ lợi ích của quốc gia, dân tộc và lợi ích của công cuộc
đổi mới, gắn bó lợi ích của bản thân và lợi ích của tôn giáo mình. Tín ngưỡng,
tôn giáo có vị trí, vai trò quan trọng đối với đời sống tinh thần của một bộ phận
rất đông đảo nhân dân. Ở Việt Nam hiện nay, tín ngưỡng, tôn giáo có nhiều hoạt
động rất sôi động, tác động không nhỏ đến đời sống văn hóa xã hội; quyền con
người, quyền về tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng được mở rộng.
Về chức sắc tôn giáo: giữ vai trò quan trọng trong hoạt động tôn giáo và
có ảnh hưởng lớn tới tín đồ. Đa số chức sắc được đào tạo khá cơ bản về giáo lý,
có văn hóa, có điều kiện và phương tiện hoạt động nên đa số các chức sắc yên
tâm làm việc đạo, có tinh thần dân tộc, đồng tình với đường hướng tốt đời đẹp
đạo, mong muốn được hoạt động tôn giáo bình thường trong khuôn khổ luật
pháp. Tuy nhiên, có một số người mang tư tưởng định kiến, hẹp hòi, vọng ngoại,
thái độ cực đoan, có hoạt động lôi kéo, kích động chống Đảng, Nhà nước.
2.2. Các nguyên tắc trong định hướng thông tin về tín ngưỡng, tôn
giáo phục vụ công tác thông tin, tuyên truyền
- Cơ quan cung cấp thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo là cơ quan quản lý
nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương. Đây sẽ là những thông tin chính
thống và tin cậy nhất liên quan đến lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo. Khi có vụ việc
liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, Bộ Nội vụ (Ban Tôn giáo Chính phủ) sẽ thông
tin đến các bộ, ban, ngành Trung ương, các cấp chính quyền địa phương, các tổ
chức, cơ sở tôn giáo và quần chúng nhân dân trong nước; thậm chí cung cấp
thông tin ra bên ngoài. Tùy theo mức độ quan trọng của thông tin, Bộ Nội vụ
(Ban Tôn giáo Chính phủ) sẽ lựa chọn hình thức thông tin như: gửi văn bản, các
buổi làm việc trực tiếp, trực tuyến, các buổi tập huấn, bồi dưỡng, hội nghị, hội
thảo, họp báo, thông tin trên website, đăng trên phát thanh, truyền hình, báo, tạp
chí để định hướng thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo.
- Thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo là của cả hệ thống chính trị dưới sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, phát huy tinh thần chủ động, sáng
tạo, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong hoạt động thông tin về
366
tín ngưỡng, tôn giáo. Lực lượng nòng cốt làm công tác thông tin về tín ngưỡng,
tôn giáo là các đơn vị chuyên trách về công tác tôn giáo, các cơ quan thông tin
đại chúng, các tổ chức tôn giáo. Cộng đồng tôn giáo vừa là đối tượng vừa là
nguồn lực của công tác thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo.
- Gắn kết chặt chẽ giữa thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo với các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao… của đất nước. Trong hoạt động
thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo phải bám sát, phục vụ triển khai các chính sách
phát triển kinh tế - xã hội và đối ngoại… của đất nước, bảo đảm lợi ích quốc gia,
dân tộc.
- Hiện đại hóa phương tiện, chú trọng áp dụng những thành tựu mới nhất
của công nghệ thông tin để mở rộng địa bàn, đối tượng, nâng cao chất lượng,
hiệu quả thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo.
- Đổi mới mạnh mẽ nội dung và hình thức thông tin về tín ngưỡng, tôn
giáo, đa dạng hóa phương thức thực hiện hoạt động thông tin về tín ngưỡng, tôn
giáo, thực hiện tốt phương châm “chính xác, kịp thời, sinh động, phù hợp từng
đối tượng về tín ngưỡng, tôn giáo”.
- Xã hội hóa công tác thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo theo lộ trình hợp
lý, phù hợp với tình hình thực tế và đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và quản lý
của Nhà nước để huy động thêm nguồn lực trí tuệ và tài chính cả trong nước và
ở nước ngoài. Tranh thủ bạn bè quốc tế và các hãng truyền thông có uy tín của
nước ngoài thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo để quảng bá hình ảnh đất nước.
- Tăng cường đầu tư có trọng tâm, trọng điểm về nguồn nhân lực và tài
chính cho công tác thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo.
3. KỸ NĂNG TIẾP CẬN THÔNG TIN VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN
GIÁO PHỤC VỤ CÔNG TÁC THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN
3.1. Tại sao phải tiếp cận thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo
Thông tin trong đó có thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng có vai
trò quan trọng trong đời sống xã hội. Việc tiếp cận thông tin luôn luôn là nhu
cầu rất cao của con người trong mọi thời kỳ lịch sử với những mục đích khác
nhau, có thể để học hỏi nhằm thay đổi tình trạng hiểu biết của mình hay để giải
quyết một vấn đề về tín ngưỡng, tôn giáo trong cuộc sống. Quyền tiếp cận thông
tin của người dân là một trong những quyền quan trọng của con người. Con
người có quyền tiếp cận thông tin trong đó có thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo
367
qua các kênh khác nhau và lựa chọn cách tiếp cận thông tin qua kênh nào tùy
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố trình độ dân trí.
Đối với việc tiếp cận thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo, có thể thấy thông
tin về tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng trở thành nguồn lực to lớn, thông tin tích
cực chính thống sẽ thúc đẩy xã hội phát triển; lan tỏa tinh thần nhân văn, bác ái,
yêu thương, chia sẽ giữa người với người; hạn chế sự kỳ thị, hẹp hòi. Việc tiếp
cận thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo giúp cho cá nhân học tập, nghiên cứu nâng
cao nhận thức và giúp cho Nhà nước quản lý xã hội, xây dựng chủ trương chính
sách, xây dựng hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo... Thông tin về tín
ngưỡng, tôn giáo trong hoạt động thông tin, tuyên truyền thể hiện rõ tính mục
đích của nhà nước nhằm định hướng chức sắc tôn giáo, đồng bào có đạo và quần
chúng nhân dân chấp hành pháp luật, góp phần xây dựng xã hội lành mạnh.
3.2. Phát hiện sớm vấn đề, lựa chọn chủ đề về tín ngưỡng, tôn giáo
Thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo luôn phong phú, đa dạng, nhiều chiều.
Đối tượng của thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo chính là các sự kiện và vấn đề
đã đang diễn ra trên mọi nội dung, khía cạnh của tín ngưỡng, tôn giáo và cũng
liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hóa,
đời sống bình dân cũng như đời sống riêng của mỗi con người liên quan đến vấn
đề tín ngưỡng, tôn giáo. Đối tượng tác động của thông tin về tín ngưỡng, tôn
giáo trong hoạt động thông tin, tuyên truyền cũng rất phong phú, đa dạng. Đó là
đồng bào tôn giáo, bao gồm chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo; cán bộ làm
công tác tôn giáo trong hệ thống chính trị; những người quan tâm đến tôn giáo
như nhà nghiên cứu, người kinh doanh, người hoạt động chính trị; quần chúng
nhân dân không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, giai cấp, trình độ, giới tính, địa
bàn sinh sống, mức sống... Vì vậy, việc phát hiện sớm vấn đề, lựa chọn chủ đề
thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo là việc cần thiết trong kỹ năng tiếp cận thông
tin về tín ngưỡng, tôn giáo phục vụ công tác thông tin, tuyên truyền.
Chủ đề thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo có thể nói một cách ngắn gọn là
ý đồ, ý định, ý tưởng của chủ thể thông tin, tuyên truyền về tín ngưỡng, tôn giáo
muốn chuyển tải đến đối tượng thụ hưởng thông qua thông tin về tín ngưỡng,
tôn giáo. Như vậy, chủ đề thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo thuộc về chủ quan,
nhưng không phải là chủ quan thuần túy mà là kết quả nhận thức những vấn đề
của thực tiễn công việc và mục đích của thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo. Chủ
368
đề thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo tốt thường gắn với những vấn đề bức xúc,
những trăn trở, suy nghĩ hay mong đợi của đối tượng thụ hưởng thông tin.
Chủ đề về tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề được lựa chọn để thông tin, có
thể ví dụ các chủ đề rộng về tín ngưỡng, tôn giáo được thể hiện như: chủ trương,
chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; đạo đức tôn giáo; giới thiệu giáo
lý, giáo luật của tôn giáo; nguồn lực tôn giáo; gương điển hình của các tôn
giáo…. Với nghĩa hẹp, chủ đề về tín ngưỡng, tôn giáo là phạm vi nội dung được
thể hiện trong thông tin, có thể là một nét, một khía cạnh,... trong đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo của con người, của một tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo, của một
nhóm xã hội, trên địa bàn cụ thể nào đó. Ví dụ, sự kiện về “Câu lạc bộ Tình
người”, từ khi mới xuất hiện, dư luận báo chí phê phán chỉ trích từ cách hoạt
động của Câu lạc bộ và cách quản lý của các cơ quan liên quan, đến việc đặt vấn
đề trách nhiệm của mọi người với giá trị đạo đức, truyền thống của dân tộc, với
sự đúng sai và vi phạm pháp luật. Một loạt những chủ đề thông tin đã được đưa
ra từ cơ quan chức năng tuyên truyền, chỉ đạo định hướng có mục đích thì một
loại đề tài cụ thể cho chủ đề “Câu lạc bộ Tình người” cũng xuất hiện mang tính
định hướng và đáp ứng được nhu cầu thông tin chính thống của quần chúng
nhân dân.
3.3. Công tác chuẩn bị cho tiếp cận thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo
Trong công tác chuẩn bị cho việc tiếp cận thông tin về tín ngưỡng, tôn
giáo thì đầu tiên, quan trọng là phải tìm hiểu và nghiên cứu thực tế về tín
ngưỡng, tôn giáo. Quá trình tìm hiểu và nghiên cứu thực tế nếu được coi trọng
sẽ giúp mọi người có thêm thông tin, tài liệu về đề tài tín ngưỡng, tôn giáo mình
quan tâm giúp cho việc chọn chủ đề thuyết phục hơn. Trước khi tiếp cận thông
tin về tín ngưỡng, tôn giáo, thì phải chuẩn bị kỹ chủ đề, đề tài về tín ngưỡng, tôn
giáo, xây dựng bộ câu hỏi về thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo cần lấy để những
thông tin khai thác được đúng, trúng.
Khi tiếp cận thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo cần phải hiểu được đối
tượng cung cấp thông tin là ai, cơ quan nào để có thể định hướng được thông tin
về tín ngưỡng, tôn giáo cần lấy và khai thác được nhiều thông tin về tín ngưỡng,
tôn giáo. Cụ thể: cấp Trung ương, có thể lấy thông tin từ Ban Tôn giáo Chính
phủ là cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, ngoài ra còn có các cơ
quan khác như: Ban Dân vận, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Công an, Quân đội… Ở địa phương có các Ban Tôn giáo, UBND các cấp…
369
Khi tiếp cận thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo, cũng phải trang bị những
hiểu biết về Luật Tiếp cận thông tin để hiểu được quyền tiếp cận đến đâu khi
tiếp cận thông tin và được phép tiếp cận những thông tin gì, ai là người được
quyền cung cấp thông tin… tránh những vi phạm đáng tiếc xảy ra. Quyền tiếp
cận thông tin bao gồm: quyền được xem các tác phẩm, tài liệu, hồ sơ, được ghi
chép, trích dẫn, sao chụp các tài liệu, hồ sơ đó, được thu thập thông tin dưới
dạng các đĩa mềm, thẻ nhớ hoặc bất kỳ dạng thiết bị điện tử nào. Tại Điều 2,
Luật Tiếp cận thông tin 2016 có ghi: “Tiếp cận thông tin là việc đọc, xem, nghe,
ghi chép, sao chép, chụp thông tin”. Vì thế, khi tiếp cận thông tin thì chủ thể
phải chuẩn bị cho mình những thiết bị, dụng cụ hỗ trợ cho việc tiếp cận thông
tin, lấy được thông tin được thuận lợi như máy ảnh, máy ghi âm, máy ghi hình,
máy quét… để có thể chụp ảnh, ghi hình, sao chép lại thông tin về tín ngưỡng,
tôn giáo một cách đầy đủ, chi tiết.
3.4. Các hình thức tiếp cận thông tin trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo
Việc tiếp cận thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo cũng diễn ra với nhiều
hình thức như: nghiên cứu tư liệu, quan sát, phỏng vấn.
- Nghiên cứu tư liệu: thông thường khi tiếp cận thông tin về tín ngưỡng, tôn
giáo thì việc đầu tiên chủ thể phải nghiên cứu tư liệu liên quan đến tín ngưỡng,
tôn giáo. Nghiên cứu tư liệu về tín ngưỡng, tôn giáo còn là việc thu thập, phân
tích, xem xét các thông tin trong văn bản để rút ra những thông tin, tư liệu cần
thiết cho hoạt động tiếp cận thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo. Phương pháp
nghiên cứu văn bản không chỉ đơn thuần là việc sao chép, trích dẫn mà là một
thao tác trí tuệ. Trong hoạt động thu thập tư liệu về tín ngưỡng, tôn giáo thì việc
nghiên cứu văn bản thường là cơ sở đầu tiên để tiến hành các phương pháp khác.
Thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo rút từ tài liệu văn bản giấy trắng mực đen
thường ít thiên vị và có độ tin cậy cao. Các loại văn bản quản lý hành chính nhà
nước về tín ngưỡng, tôn giáo có tính chất chuẩn mực tương đối vì đã được những
cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền phê duyệt. Các loại báo cáo sơ kết, tổng kết
về tín ngưỡng, tôn giáo... ít nhiều cũng được các cá nhân, đơn vị, cơ quan có trách
nhiệm soạn thảo và kiểm tra. Thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo rút ra từ sách báo
có nhiều tác dụng trong việc đào sâu, mở rộng thông tin, làm bài báo sâu sắc và
thuyết phục bạn đọc hơn. Thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo cũng có thể khai thác
thông tin trên internet, với công cụ tìm kiếm tiện lợi, dễ dàng tìm được một văn
370
bản theo ý muốn. Đó chính là nguồn thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo khổng lồ,
cực kỳ phong phú, đa dạng, là phương tiện truyền thông hiện đại.
- Quan sát: là khả năng cảm thụ hiện thực của con người về tín ngưỡng,
tôn giáo nhờ vào các cơ quan cảm giác chủ yếu như thị giác và thính giác thông
qua sự tiếp xúc nghe nhìn, có thể tổng hợp thành các dạng cơ bản như: quan sát
quang cảnh, hiện trạng, quan sát con người, quan sát đồ vật... Trong tiếp cận
thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo, quan sát được coi là một phương pháp không
thể thiếu để thu thập những thông tin nóng hổi, sống động về tín ngưỡng, tôn
giáo. Tiến hành các hoạt động quan sát, phải tiếp cận trực tiếp với hiện thực về
tín ngưỡng, tôn giáo. Hình thức tiếp cận này thường để lại cảm xúc ấn tượng về
con người, sự kiện tín ngưỡng, tôn giáo mà họ đã quan sát, tiếp xúc. Trong quá
trình giao tiếp, quan sát về tín ngưỡng, tôn giáo những biểu hiện tâm lý sẽ giúp
điều chỉnh nhịp độ cuộc giao tiếp và đánh giá mức độ tin cậy của thông tin về tín
ngưỡng, tôn giáo. Hoạt động quan sát về tín ngưỡng, tôn giáo chịu ảnh hưởng
bởi các yếu tố chủ quan. Hiện thực về tín ngưỡng, tôn giáo qua quan sát luôn
gắn liền với sự nhìn nhận, xem xét và trạng thái tâm lý của mỗi con người. Hoạt
động quan sát về tín ngưỡng, tôn giáo bị giới hạn bởi thời gian, không gian. Mặc
dù có các phương tiện kỹ thuật trợ giúp nhưng cũng khó quan sát được các sự
kiện về tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra trong phạm vi rộng lớn về không gian và
thời gian dài.
- Phỏng vấn: là cuộc giao tiếp, đối thoại về tín ngưỡng, tôn giáo có tính
chất động, vì vậy khi thực hiện cần linh hoạt, mềm dẻo. Tùy theo hoàn cảnh,
điều kiện mà có thể thỏa thuận với người trả lời về hình thức giao tiếp, hoàn
cảnh, địa điểm giao tiếp... để phỏng vấn về tín ngưỡng, tôn giáo có thể thực hiện
được nhanh, tiết kiệm thời gian và công sức. Bằng cách thức phỏng vấn chủ thể
về tín ngưỡng, tôn giáo có thể tái hiện được sự kiện đã xảy ra hoặc xảy ra bất
ngờ qua lời kể của các đối tượng được phỏng vấn. Thông tin thu thập về tín
ngưỡng, tôn giáo được qua cách thức phỏng vấn có tính chất khách quan từ
nguồn tin trực tiếp, tạo độ tin cậy giá trị cho thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo.
Cách thức phỏng vấn có thể làm chủ thể an tâm hơn với những thông tin thu
thập được về tín ngưỡng, tôn giáo vì những người trả lời phỏng vấn phải có
trách nhiệm với những gì mình phát ngôn. Nếu khai thác một cách khéo léo có
thể nắm giữ trong tay những thông tin độc quyền về tín ngưỡng, tôn giáo. Đó là
những thông tin riêng về tín ngưỡng, tôn giáo không có mặt trong các bản báo
371
cáo, tổng kết... Phỏng vấn là một phương pháp tinh vi, đặc biệt, trong việc khám
phá thế giới nội tâm của đối tượng, khơi gợi và tìm kiếm được những thông tin
về tín ngưỡng, tôn giáo có trong đầu và trái tim của người trả lời. Tất nhiên
muốn có được những thông tin đó về tín ngưỡng, tôn giáo phải có nghệ thuật
thuyết phục lòng người.
3.5. Các cách thức tiếp cận thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo
Khi tiếp cận thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo cần phải hiểu rõ và sử dụng
quyền của mình để có cách thức tiếp cận thông tin đúng với quy định của Nhà
nước.
- Khi tiếp cận thông tin trong đó có thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo của
các cơ quan nhà nước: tại Điều 10, Luật Tiếp cận thông tin 2016 quy định về các
cách thức tiếp cận thông tin của công dân bao gồm: tự do tiếp cận thông tin được
cơ quan nhà nước công khai; yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin.
Thông tin pháp luật quy định phải công khai là thủ tục hành chính và quy trình
giải quyết các công việc của cơ quan nhà nước... Luật Tiếp cận thông tin quy
định, tùy trường hợp cụ thể mà trình tự, thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin của
công dân và cách thức cơ quan nhà nước cung cấp thông tin cũng sẽ có sự thay
đổi. Trường hợp cung cấp thông tin trực tiếp tại trụ sở cơ quan cung cấp thông
tin: đối với thông tin đơn giản, có sẵn có thể cung cấp ngay. Với thông tin phức
tạp, cần tập hợp từ các bộ phận của cơ quan đó hoặc phải có ý kiến của cơ quan
khác thì chậm nhất là 10 ngày làm việc. Trường hợp cơ quan được yêu cầu cần
thêm thời gian để xem xét, tìm kiếm, tập hợp, sao chép, giải quyết yêu cầu cung
cấp thông tin thì có thể gia hạn nhưng tối đa không quá 10 ngày làm việc và phải
có văn bản thông báo về việc gia hạn trong thời hạn cung cấp thông tin. Đối với
trường hợp cung cấp thông tin qua mạng điện tử, được thực hiện bằng các cách
thức như: gửi tập tin đính kèm thư điện tử; cung cấp mã truy cập một lần.
Trường hợp cung cấp thông tin thông qua dịch vụ bưu chính, fax: đối với thông
tin đơn giản, có sẵn có thể cung cấp ngay thì chậm nhất là 5 ngày làm việc kể từ
ngày nhận được yêu cầu hợp lệ, cơ quan được yêu cầu phải cung cấp thông tin.
Riêng đối với thông tin phức tạp, không có sẵn mà cần tập hợp từ các bộ phận
của cơ quan đó hoặc thông tin cần thiết phải có ý kiến của cơ quan, tổ chức, đơn
vị khác thì chậm nhất là 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ,
cơ quan được yêu cầu phải cung cấp thông tin hoặc có văn bản thông báo từ chối
cung cấp thông tin.
372
- Khi tiếp cận thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo của các tổ chức, cá nhân:
thông tin là tài sản có giá trị đặc biệt của mỗi cá nhân, tổ chức và thậm chí cả
quốc gia. Việc bảo vệ thông tin riêng cũng như thông tin cá nhân là vấn đề thời sự
không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Nhiều quốc gia có các
đạo luật riêng về vấn đề này. Điều 38 của Bộ luật Dân sự quy định “Quyền bí mật
đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ” hay “Thư tín, điện
thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an
toàn và bí mật”. Vì vậy, khi tiếp cận thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo của các tổ
chức, cá nhân dưới bất kỳ hình thức nào thì cũng phải tôn trọng và được sự đồng
ý của tổ chức, cá nhân theo đúng quy định được pháp luật ban hành.
3.6. Kỹ năng khai thác thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo
Luật Tiếp cận thông tin quy định những loại thông tin công dân không
được tiếp cận, gồm: thông tin thuộc bí mật Nhà nước; thông tin nếu để tiếp cận
sẽ gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng - an
ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe
của cộng đồng, gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người
khác; thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin về các cuộc họp nội bộ của cơ
quan; các tài liệu do cơ quan soạn thảo cho công việc nội bộ… Hay đối với
thông tin cá nhân, Bộ luật Dân sự quy định “Quyền bí mật đời tư của cá nhân
được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ” hay “Thư tín, điện thoại, điện tín, các
hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật”.
Trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo cũng có các loại thông tin thuộc bí mật Nhà
nước, bí mật công tác, thuộc cá nhân và nhiều thông tin ảnh hưởng xấu đến Nhà
nước, đến quốc gia, đến xã hội, cộng đồng… Vì vậy, khi khai thác thông tin về
tín ngưỡng, tôn giáo, phải hiểu được những thông tin nào mình được quyền tiếp
cận, khai thác và những thông tin nào mình không được quyền khai thác.
Khai thác thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo là quá trình đòi hỏi phải có kỹ
năng nghiệp vụ tinh thông để có thể khai thác thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo
một cách chính xác nhất, đầy đủ nhất. Không phải lúc nào cũng có thể khai thác
thông tin một cách thành công. Trong phạm vi cuốn tài liệu, xin chia sẻ một số
kỹ năng cần lưu ý trong quá trình thực hiện các phương pháp để khai thác thông
tin về tín ngưỡng, tôn giáo. Thông thường, có thể sử dụng 3 phương pháp cơ bản
để có được thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo.
373
Trước hết là, đọc và nghiên cứu tài liệu - có thể đọc các bản báo cáo, kỷ
yếu, tư liệu lịch sử về tín ngưỡng, tôn giáo, đọc và tìm kiếm trên mạng internet.
Cần xem xét văn bản với thói quen của nhà điều tra. Nếu văn bản dùng làm căn
cứ, chứng cứ trong những sự việc quan trọng thì nhất thiết phải có hoặc cần phải
đối chiếu với văn bản gốc để đảm bảo tính chính xác cao. Chú ý thời gian ra đời
của văn bản. Cẩn trọng với các tài liệu bí mật của Nhà nước, đó là những tài
liệu, thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực
chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, khoa học, các lĩnh vực khác mà Nhà
nước không công bố hoặc chưa công bố.
Thứ hai, là khi sử dụng khai thác thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo bằng
phương pháp quan sát để đạt hiệu quả cao. Khi quan sát phải có sự phân tích,
thẩm định, nhận xét thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo. Quan sát kèm theo sự
cảm nhận của người quan sát sẽ quyết định việc thu thập thông tin và thẩm định
thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo chính xác hơn.
Thứ ba là khi sử dụng phương pháp phỏng vấn thông qua hệ thống câu
hỏi để tìm kiếm thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo từ đối tượng và những nhân
vật liên quan hoặc nhân vật nắm giữ thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo cần biết
lựa chọn đối tượng, chuẩn bị hệ thống câu hỏi, các phương tiện kỹ thuật thích
hợp để thu thập thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo phục vụ cho chủ đề thông tin
của mình. Để chuẩn bị cho khai thác thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo cần biết
những chi tiết thuộc chủ đề và bản thân đối tượng mà bạn phỏng vấn, khai thác.
Nên xác định thời gian để thuận lợi cho cuộc khai thác thông tin về tín ngưỡng,
tôn giáo, người được phỏng vấn nên đề nghị thời gian, chọn không gian quen
thuộc của người được phỏng vấn. Nên mang theo máy ghi âm và sổ ghi chép.
4. KỸ NĂNG THU THẬP THÔNG TIN VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN
GIÁO PHỤC VỤ CÔNG TÁC THÔNG TIN, TUYỀN TRUYỀN
4.1. Khái niệm
Thu thập nguyên nghĩa là tìm kiếm, góp nhặt và tập hợp lại. Thu thập
thông tin là quá trình tập hợp thông tin theo những tiêu chí cụ thể nhằm làm rõ
những vấn đề, nội dung liên quan đến lĩnh vực nhất định. Thu thập thông tin là
quá trình xác định nhu cầu thông tin, tìm nguồn thông tin, thực hiện tập hợp
thông tin theo yêu cầu nhằm đáp ứng mục tiêu đã được định trước. Thu thập
thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo là quá trình tập hợp thông tin về tín ngưỡng,
tôn giáo theo những tiêu chí cụ thể nhằm làm rõ những vấn đề, nội dung liên
374
quan đến lĩnh vực về tín ngưỡng, tôn giáo. Thu thập thông tin về tín ngưỡng, tôn
giáo là quá trình xác định nhu cầu thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo, tìm nguồn
thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện tập hợp thông tin về tín ngưỡng, tôn
giáo theo yêu cầu nhằm đáp ứng mục tiêu đã được định trước. Người làm thông
tin, tuyên truyền về tín ngưỡng, tôn giáo phải am hiểu tôn giáo và luôn nâng cấp
mình, có kỹ năng truyền thông tinh tế.
4.2. Vai trò của thu thập thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo phục vụ
công tác thông tin, tuyên truyền
Thu thập và xử lý thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo trong hoạt động thông
tin, tuyên truyền phục vụ trực tiếp cho quá trình lập kế hoạch và ra quyết định về
tín ngưỡng, tôn giáo trong hoạt động thông tin, tuyên truyền. Lập kế hoạch và ra
quyết định về tín ngưỡng, tôn giáo trong hoạt động thông tin, tuyên truyền là
công việc phức tạp và khó khăn nhưng nó lại có ý nghĩa tiên quyết đối với các
nhà quản lý về tín ngưỡng, tôn giáo. Để có được những kế hoạch và những
quyết định đúng đắn về tín ngưỡng, tôn giáo trong hoạt động thông tin, tuyên
truyền, các nhà quản lý cần rất nhiều thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo. Nhờ có
thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo mà các nhà quản lý về tín ngưỡng, tôn giáo có
thể giải quyết đúng đắn và hiệu quả các vấn đề về tín ngưỡng, tôn giáo trong
hoạt động thông tin, tuyên truyền. Trong các hoạt động này, quá trình thu thập
và xử lý thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo có liên hệ với mật thiết với nhau.
Thông tin thu thập về tín ngưỡng, tôn giáo thiếu sẽ không giúp nhận diện được
bản chất, quy luật của vấn đề về tín ngưỡng, tôn giáo trong hoạt động thông tin,
tuyên truyền. Thông tin thu thập về tín ngưỡng, tôn giáo đầy đủ nhưng thiếu kỹ
năng xử lý cũng sẽ làm giảm ý nghĩa của thông tin, không đem lại cơ sở khoa
học vững chắc cho quá trình lập kế hoạch và ra quyết định về tín ngưỡng, tôn
giáo trong hoạt động thông tin, tuyên truyền.
Trong quá trình thực hiện các hoạt động thông tin, tuyên truyền, việc thu
thập thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo có vai trò quan trọng giúp cho việc nhận
thức các vấn đề liên quan tới tín ngưỡng, tôn giáo và việc thiết kế quy trình
trong hoạt động thông tin, tuyên truyền về tín ngưỡng, tôn giáo được thực hiện
hiệu quả; xây dựng các phương án cho việc xử lý thông tin về tín ngưỡng, tôn
giáo trong hoạt động thông tin, tuyên truyền; tạo ra chuỗi dữ liệu làm cơ sở cho
việc xử lý thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo trong hoạt động thông tin, tuyên
375
truyền; giải quyết các vấn đề liên quan tới về tín ngưỡng, tôn giáo trong hoạt
động thông tin, tuyên truyền.
Nếu bị hạn chế về năng lực và kỹ thuật thu thập và xử lý thông tin về tín
ngưỡng, tôn giáo thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thông tin và hiệu quả
khai thác thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo. Sự quá tải, sự đa dạng về thông tin
về tín ngưỡng, tôn giáo dẫn đến những khó khăn trong quá trình thu thập và xử
lý. Sự hạn chế về kỹ năng thu thập thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo biểu hiện
trên nhiều phương diện như thiếu kỹ năng lựa chọn phương pháp thu thập thông
tin, kỹ năng triển khai áp dụng các phương pháp thì việc xử lý thông tin về tín
ngưỡng, tôn giáo sẽ bị giảm bớt hiệu quả nếu chủ thể thu thập thông tin không
có các kiến thức về thống kê, thiếu kỹ năng phân tích thông tin, kỹ năng sử dụng
các phương tiện tin học trong xử lý số liệu.
4.3. Yêu cầu của tổ chức thu thập thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo
phục vụ công tác thông tin, tuyên truyền
Việc thu thập thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo phục vụ công tác thông
tin, tuyên truyền cần phải đảm bảo những yêu cầu sau:
- Bảo đảm nhu cầu thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo: mỗi tổ chức, cá nhân
có nhu cầu khác nhau đối với vấn đề bảo đảm thông tin cho công việc của mình.
Trong sự đa dạng của thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo, việc xác định đúng nhu
cầu thông tin sẽ giúp cho việc thu thập thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo có trọng
tâm, bảo đảm thu thập các thông tin cần thiết, khắc phục tình trạng thu thập thông
tin dàn trải, thiếu các thông tin cần thiết theo yêu cầu công việc cần giải quyết.
- Xác định các kênh và nguồn thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo. Trên cơ sở xác định nhu cầu thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo, việc xác định kênh và nguồn thu thập thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo là bước tiếp theo của quá trình thu thập thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo. Nguồn thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo trên thực tế có thể phân loại theo những cách tiếp cận khác nhau nhưng tổng thể có thể được chia thành thông tin thứ cấp và sơ cấp. Thông tin thứ cấp là nguồn thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo sẵn có để cung cấp. Thông tin sơ cấp là thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo mới, được thu thập thông qua các phương pháp, kỹ thuật nhất định. Thu thập thông tin qua nguồn thứ cấp gồm: thông tin các hồ sơ tài liệu, văn bản và thông tin từ sách báo, tạp chí, đài phát thanh, truyền hình, internet và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Để thu thập thông tin từ hồ sơ, tài liệu, văn bản có hiệu quả, quá trình thu thập nguồn thông tin cần chú ý đến các bước: xác định
376
thông tin cần thu thập để giải quyết vấn đề; xem xét đối với vấn đề đó thì hồ sơ, tài
liệu, văn bản nào có thông tin này? xác định hồ sơ, tài liệu, văn bản được lưu trữ và
quản lý ở đâu? tiếp cận hồ sơ, tài liệu, văn bản và xác định những thông tin cần
thiết phục vụ quá trình giải quyết công việc.
Thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo từ sách báo, tạp chí, đài phát thanh,
truyền hình, internet và các phương tiện thông tin đại chúng khác là một nguồn
thông tin quan trọng. Việc khai thác thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo từ sách
báo, tạp chí và các phương tiện truyền thông cần bảo đảm các yêu cầu: bảo đảm
tính chính xác và có độ tin cậy cao vì thông tin chính xác luôn là yêu cầu đầu
tiên và quan trọng nhất; bảo đảm tính khách quan khi được sử dụng nguồn thông
tin này, tuyệt đối không được bóp méo, xuyên tạc nội dung của tài liệu thứ cấp
mà phải tôn trọng tính chính xác của tài liệu thứ cấp; bảo đảm tính pháp lý vì
phải tuân thủ các quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, nghĩa là chỉ được sử
dụng nguồn tài liệu tham khảo đó khi được phép của tác giả hoặc cơ quan quản
lý về tín ngưỡng, tôn giáo.
- Thiết lập hình thức và chế độ thu thập thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo bao
gồm: việc đọc và ghi chép; sao chụp một phần hoặc toàn bộ văn bản, tài liệu; xây
dựng bảng hỏi, câu hỏi phỏng vấn, thảo luận nhóm để thu thập thông tin; thống kê
số liệu, tính tỷ lệ, tính xác suất; quan sát, so sánh và đối chiếu thông tin.
- Yêu cầu với thông tin thu thập: thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo phải
phù hợp với nhu cầu thông tin, phù hợp với công việc cần giải quyết, có tính hợp
pháp, có giá trị sử dụng; thông tin phải chính xác, phản ánh đúng bản chất của
đối tượng, được cung cấp bởi những chủ thể đáng tin cậy, đã được kiểm chứng
hoặc có cơ sở để tiến hành kiểm chứng; thông tin phải đầy đủ, phản ánh được
các mặt, các phương diện của đối tượng, giúp nhận diện đúng vấn đề; thông tin
về tín ngưỡng, tôn giáo phải kịp thời, có tính mới, phản ánh đối tượng ở thời
điểm hiện tại, không phải là những thông tin cũ, thông tin đã lạc hậu; thông tin
về tín ngưỡng, tôn giáo phải có tính hệ thống và tổng hợp, phải phản ánh được
đúng về đối tượng, sự vật, sự việc liên quan; thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo
đơn giản dễ hiểu, có thể dễ dàng sử dụng, phục vụ cho yêu cầu công việc; thông
tin về tín ngưỡng, tôn giáo phải đảm bảo yêu cầu bí mật, sử dụng trong phạm vi
quy định như các thông tin về bí quyết công nghệ, các thông tin chưa được phép
công bố trên diện rộng, các thông tin theo quy định là bí mật nhà nước.
377
5. KỸ NĂNG XỬ LÝ THÔNG TIN VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
PHỤC VỤ CÔNG TÁC THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN
5.1. Các nguyên tắc trong xử lý thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo phục
vụ công tác thông tin, tuyên truyền
Con người nhận thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo thông qua các giác quan:
âm thanh qua thính giác; hình ảnh và văn bản qua thị giác; trạng thái, nhiệt độ,
cảm xúc qua xúc giác; mùi vị qua khứu giác. Để giải thích và hiểu được các tín
hiệu nhận được từ các giác quan, con người phải phát triển và học các hệ thống
ngôn ngữ phức hợp, nó bao gồm một “bộ chữ cái” các tín hiệu và các tác nhân
kích thích cùng với các quy tắc sử dụng chúng. Điều đó cho phép người ta nhận ra
các đối tượng mà họ nhìn thấy, hiểu được các thông báo về tín ngưỡng, tôn giáo
mà họ đọc hoặc nghe, cảm nhận được các tín hiệu nhận được qua xúc giác và
khứu giác. Các vật mang thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo chuyển tải tín hiệu tới
người nhận có thể là sóng điện từ, sóng ánh sáng, sóng âm và các tác nhân kích
thích hóa và điện hóa. Cho đến trước khi máy tính điện tử ra đời, các tín hiệu
truyền đi thông qua các vật mang tin trên là những tín hiệu được lưu trữ và xử lý
dưới dạng tương đồng, dựa trên công nghệ in, chụp ảnh và điện thoại. Với công
nghệ thông tin hiện đại, thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo được biểu diễn dưới
dạng các tín hiệu số nhị phân, dựa trên kỹ thuật số. Đó có thể coi là bước chuyển
biến mang ý nghĩa lịch sử vào cuối thế kỷ 20 trong cách thức mà con người sáng
tạo, tiếp cận và sử dụng thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo.
Nguyên tắc thống nhất hài hòa, bổ sung, hoàn thiện ba loại thông tin về tín
ngưỡng, tôn giáo (thông tin thuận và ngược chiều, thông tin khách quan, thông tin
chức năng), ba nguồn thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo (được cơ quan, tổ chức có
trách nhiệm cung cấp; thu thập từ tiếp xúc và khảo sát thực tế; thu thập được từ
truyền thông đại chúng và mạng toàn cầu). Điều này đòi hỏi, việc xử lý thông tin
về tín ngưỡng, tôn giáo phải chú ý đến tính đầy đủ của thông tin. Không thể xử lý
thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu quả dựa trên thông tin một chiều, thông
tin chưa đầy đủ. Việc bảo đảm chất lượng nguồn thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo
sẽ bảo đảm cho quá trình xử lý thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu quả,
nhận diện được bản chất của sự việc và đưa ra quyết định đúng đắn.
Nguyên tắc thận trọng khi tham khảo, sử dụng với thông tin dự báo về tín
ngưỡng, tôn giáo, thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo từ nước ngoài, thông tin về
tín ngưỡng, tôn giáo có sai biệt với thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo chính thức.
378
Thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo trong quá trình xử lý có tính đa dạng nhưng
không ít trường hợp thiếu những thông tin hữu ích, thông tin chính thống về tín
ngưỡng, tôn giáo. Chính vì vậy, việc xử lý thông tin phải xác định được nguồn
gốc thông tin, có sự so sánh, đối chiếu các nguồn thông tin về tín ngưỡng, tôn
giáo với thông tin chính thức về tín ngưỡng, tôn giáo, tránh tình trạng sa vào xử
lý nguồn thông tin chưa được kiểm chứng đầy đủ, chưa có cơ sở để giải thích về
sự mâu thuẫn giữa nguồn thông tin đó với thông tin chính thống về tín ngưỡng,
tôn giáo.
Nguyên tắc loại bỏ các yếu tố bình luận lẫn trong thông tin về tín ngưỡng,
tôn giáo, các dư luận xã hội về tín ngưỡng, tôn giáo chưa kiểm chứng. Quá trình
xử lý thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo phải nắm được hạt nhân của thông tin.
Thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo trong không ít trường hợp được đưa cùng với
những yếu tố bình luận, dư luận xã hội, những nhận xét của người đưa tin. Vì
vậy, để xử lý thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo hiệu quả cần loại bỏ những yếu
tố bình luận, nhận xét, những yếu tố mang tính dư luận xã hội để xác định đúng
nội dung cốt lõi, yếu tố khác quan trong thông tin được cung cấp.
5.2. Kỹ năng xử lý thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo phục vụ công tác
thông tin, tuyên truyền
- Kỹ năng xử lý thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo tức thời.
Trong giao tiếp con người phải xử lý nhiều thông tin thu nhận được về tín
ngưỡng, tôn giáo. Thứ nhất, nhanh chóng xác định thông tin về tín ngưỡng, tôn
giáo đã thu nhận được để phân loại, sắp xếp thông tin. Thứ hai, kết hợp những
thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo vừa thu nhận được với những thông tin đã có
đó từ các nguồn khác nhau để có cơ sở giải quyết vấn đề. Thứ ba, xác định đối
tượng tiếp nhận câu trả lời, quyết định, biện pháp giải quyết là cấp trên, cấp
dưới, đồng nghiệp, dân cư… để đưa ra các phương án giải quyết phù hợp, hiệu
quả. Thứ tư, bổ sung những thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo cần thiết thông qua
việc tiếp tục đối thoại, trao đổi nếu thông tin thu nhận và thông tin đã biết chưa
đủ cơ sở để giải quyết. Thứ năm, đưa ra cách giải quyết, câu trả lời, quyết định
cho trường hợp, tình huống cần giải quyết.
- Kỹ năng xử lý thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo theo quy trình.
Là tập hợp và hệ thống hóa thông tin theo từng vấn đề, lĩnh vực. Tóm tắt
thông tin và phân loại theo các nhóm như: thông tin kinh tế, thông tin chính trị -
xã hội, thông tin quá khứ, hiện tại, thông tin dự báo…. Tóm tắt những thông tin
379
về tín ngưỡng, tôn giáo cơ bản, những thông tin mới, thông tin có điểm khác biệt
với những thông tin trước. Phân tích và kiểm tra độ chính xác của các thông tin,
tính hợp lý của các tài liệu, số liệu về tín ngưỡng, tôn giáo. Xác định độ tin cậy
của các nguồn tin về tín ngưỡng, tôn giáo. Lý giải được sự mâu thuẫn giữa các
thông tin. Chọn ra những thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo đầy đủ hơn, có độ tin
cậy cao hơn, chỉnh lý chính xác tài liệu, số liệu.
- Xử lý thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo định tính.
Trước hết phải đọc để xem nội dung về tín ngưỡng, tôn giáo có phù hợp
với ý định đã đưa ra, thông tin có đầy đủ, chi tiết hay chỉ ở bề mặt, người phỏng
vấn có sử dụng các kỹ thuật định tính một cách thích hợp? Các bước cơ bản
trong xử lý thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo định tính: (1) Đọc, nghiền ngẫm
thông tin để xác định được những chủ đề nổi bật và phát triển những giải thích
tạm thời; (2) Mã hóa dữ kiện, lập bản chỉ dẫn các dữ kiện (indexing): khi xử lý
thông tin cần sắp xếp các dữ kiện, đọc các dữ kiện, bước tiếp theo là mã hoá,
làm bản chỉ dẫn về các dữ kiện theo những đề mục, phạm trù nhất định. Đây là
cách tổ chức và phân loại các dữ kiện về tín ngưỡng, tôn giáo để sau này có thể
so sánh các trường hợp, tìm ra các khuôn mẫu chung lý giải các vấn đề; (3)
Trình bày các dữ kiện: là làm một bản liệt kê tóm tắt những điều liên quan đến
chủ đề phân tích; (4) Cô đọng thông tin: thực hiện bước này khi việc thu thập
thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo kết thúc và sau khi mã hóa, nghiền ngẫm tư
liệu. Mục tiêu của giai đoạn này là để có một cái nhìn, nắm ý nghĩa tổng quát
của tư liệu và phân biệt được các chủ đề trung tâm với các chủ đề phụ, phân biệt
cái chủ yếu và không chủ yếu; (5) Giải thích thông tin: là cho thấy mô hình phân
tích là thích hợp và nó nói lên cái gì; (6) Tổng hợp kết quả, cung cấp thông tin
về tín ngưỡng, tôn giáo, rút ra thông tin cuối cùng về đối tượng, sự vật, sự việc.
- Xử lý thông tin định lượng về tín ngưỡng, tôn giáo bao gồm các công
việc chính: (1) sắp xếp, mô tả các dữ kiện; (2) tìm tương quan giữa các biến số;
(3) giải thích khoảng cách giữa các kết quả đạt được và kết quả chờ đợi; (4) xác
định thông tin cuối cùng; (5) cung cấp thông tin; (6) bảo quản, lưu trữ thông tin.
5.3. Ứng dụng công nghệ thông tin vào xử lý thông tin về tín ngưỡng,
tôn giáo phục vụ công tác thông tin, tuyên truyền
Công nghệ thông tin được coi là một trong các trụ cột nâng cao chất
lượng thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo và đặc biệt quan trọng trong bối cảnh
ứng dụng Chính phủ điện tử và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Trong những
380
năm qua, việc ứng dụng công nghệ thông tin diễn ra mạnh mẽ nhất là trong công
tác xử lý thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo như: chuẩn hóa quy trình nghiệp vụ;
ứng dụng phiếu điều tra điện tử, như trên trang web của Ban Tôn giáo Chính
phủ có phiếu điều tra xã hội học giúp rút ngắn thời gian thu thập thông tin về
những người; điều hành tác nghiệp và giám sát điều tra nhằm giám sát một cách
kịp thời và giải đáp các vướng mắc trong quá trình xử lý thông tin về tín
ngưỡng, tôn giáo; xây dựng website trang Thông tin điện tử phiên bản tiếng Việt
và tiếng Anh của Ban Tôn giáo Chính phủ như nguồn thông tin về tín ngưỡng,
tôn giáo sát với thực tế để phổ biến và khai thác dữ liệu về tín ngưỡng, tôn giáo.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong phần mềm về dịch vụ công trực
tuyến mức độ 4 cho các thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền hoặc được ủy
quyền của Ban Tôn giáo Chính phủ chia sẻ với các bộ ngành, cơ quan có liên
quan, với các địa phương và cơ sở tôn giáo, chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn
giáo về các thủ tục hành chính liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.
Ứng dụng công nghệ thông tin về văn bản điện tử để luân chuyển trên môi
trường điện tử của Ban Tôn giáo Chính phủ; trong các phần mềm như: Voffice
Eoffice…
Trong hoạt động thông tin, tuyên truyền về tín ngưỡng, tôn giáo thì việc
ứng dụng công nghệ thông tin vào việc xử lý thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo
khá nhiều và phổ biến.
5.4. Bài học kinh nghiệm và một số lỗi cần tránh trong xử lý thông tin
về tín ngưỡng, tôn giáo
Khi xử lý thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo rất dễ phát sinh những sai sót
do thiếu hụt kiến thức hoặc nhận định cụ thể. Để tránh điều này, trước khi đưa ra
quyết định nên tóm tắt lại sơ bộ thông tin bằng cách trả lời những câu hỏi như:
âu là mối quan tâm chính? những đối tượng có liên quan? tác động, ảnh hưởng
là gì? có thể tìm kiếm thêm nguồn tin ở đâu?...
Hiện nay, ở Việt Nam có nhiều thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo. Do đó,
khi tiếp cận thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo, cần bình tĩnh, tỉnh táo sàng lọc
thông tin, tự trang bị kiến thức về pháp luật, xã hội và nhận diện rõ các thông tin
xuyên tạc, giả mạo. Cụ thể: (1) kiểm chứng cơ sở nguồn tin về tín ngưỡng, tôn
giáo, xem thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo đó đến từ nguồn nào; (2) kiểm tra tên
của các tài liệu, tên miền của trang mạng đăng tải thông tin, thường nguồn phát
của thông tin xuyên tạc, giả mạo thường là những trang mạng có tên miền nước
381
ngoài (.com, .org), không có đuôi tên miền Việt Nam “.vn”; (3) kiểm tra tác giả,
đọc kỹ nội dung để suy ngẫm xác định thông tin về tín ngưỡng, tôn giáo thật hay
giả; tin tức về tín ngưỡng, tôn giáo giả hay bị lỗi chính tả hoặc có bố cục lộn xộn,
các hình ảnh, video trong tin về tín ngưỡng, tôn giáo giả thường bị chỉnh sửa, cắt
ghép, thay đổi nội dung, ngày tháng của sự kiện thường bị thay đổi. Tìm các tin,
bài viết trên các trang chính thống, uy tín có nội dung tương tự để đối chiếu hoặc
tham vấn của các chuyên gia trong lĩnh vực về tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong thông tin, tuyên truyền về tín ngưỡng, tôn giáo cần tiếp cận thông tin
chính thống từ các cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, các cơ quan
tổ chức đoàn thể có tư cách pháp nhân, các chuyên gia về tín ngưỡng, tôn giáo.
Lựa chọn thông tin đăng tải, chia sẻ dưới mọi hình thức. Nên tiếp cận các
luồng thông tin chính thống; không tham gia đăng tải, chia sẻ, bình luận thông
tin sai sự thật, hình ảnh phản cảm, trái với thuần phong mỹ tục và văn hóa của
dân tộc hoặc bôi nhọ, xúc phạm danh dự của tổ chức tôn giáo và cá nhân tôn
giáo; không thông tin trái với quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, hoạt động vi phạm pháp luật hoặc thông tin
chưa rõ nguồn gốc, chưa xác định được tính chính xác của thông tin.
Với trách nhiệm trong công tác thông tin, tuyên truyền về tín ngưỡng, tôn
giáo tốt nhất nên có người chuyên trách về lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo. Đây sẽ
là những chuyên gia trong xử lý và thông tin, tuyên truyền về tín ngưỡng, tôn
giáo. Điều này sẽ làm hạn chế những sai sót, tăng hiệu quả chính xác, kịp thời
trong việc thông tin, tuyên truyền về tín ngưỡng, tôn giáo./..
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Afanaxiep (1975), Thông tin xã hội và định hướng xã hội, Nhà xuất bản
Matxcơva.
- Ban Tôn giáo Chính phủ (2018), Hỏi đáp pháp luật liên quan đến tín
ngưỡng, tôn giáo, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
- Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng (2019), Bồi dưỡng nghiệp vụ tuyên
truyền miệng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
- Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2005), Cơ sở lý luận
báo chí truyền thông, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Kỹ năng mềm, Nhà xuất bản Hồng Đức, 2019.
- Kỹ năng phỏng vấn, Nhà xuất bản Thông tấn, 2009.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
382
1. Trong thông tin, tuyên truyền về tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay cần đề
cao kỹ năng nào, tại sao?
3. Phân tích tình huống khi tiếp cận để lấy thông tin tại cơ sở tín ngưỡng,
cơ sở tôn giáo? (Có tình huống cụ thể).
3. Sự cần thiết phải chọn lọc thông tin liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo
để định hướng thông tin, tuyên truyền?
4. Bằng kinh nghiệm thực tế, Anh (Chị) hãy cho biết thêm một số trường
hợp mắc lỗi trong tuyên truyền về tín ngưỡng, tôn giáo ở địa phương nơi Anh
(Chị) công tác?
383
Chuyên đề 2
KỸ NĂNG VẬN ĐỘNG CHỨC SẮC, CHỨC VIỆC,
NHÀ TU HÀNH, TÍN ĐỒ TÔN GIÁO
1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
Trong nghiên cứu và hoạt động thực tiễn liên quan tới tôn giáo, xuất phát
từ cách tiếp cận và mục tiêu không giống nhau, nên có nhiều khái niệm khác
nhau về tôn giáo, tổ chức tôn giáo, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ tôn
giáo. Ở chương trình này chúng ta thống nhất sử dụng những khái niệm trong
Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
- Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và
hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức.
- Tổ chức tôn giáo là tập hợp tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành của
một tôn giáo được tổ chức theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước công nhận
nhằm thực hiện các hoạt động tôn giáo.
- Tổ chức tôn giáo trực thuộc là tổ chức thuộc tổ chức tôn giáo, được
thành lập theo hiến chương, điều lệ, quy định của tổ chức tôn giáo.
- Tín đồ là người tin, theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo đó thừa
nhận.
- Chức sắc là tín đồ được tổ chức tôn giáo phong phẩm hoặc suy cử để giữ
phẩm vị trong tổ chức.
- Chức việc là người được tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ
chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo bổ nhiệm, bầu cử hoặc
suy cử để giữ chức vụ trong tổ chức.
- Nhà tu hành là tín đồ xuất gia, thường xuyên thực hiện nếp sống riêng
theo giáo lý, giáo luật và quy định của tổ chức tôn giáo.
- Sinh hoạt tôn giáo là việc bày tỏ niềm tin tôn giáo, thực hành giáo lý,
giáo luật, lễ nghi tôn giáo.
- Hoạt động tôn giáo là hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo
và quản lý tổ chức của tôn giáo.
- Vận động (ở góc độ xã hội) là sự tác động có mục đích đối với từng đối
tượng và con người cụ thể, trong từng thời điểm và địa bàn cụ thể. Vận động có
mục đích, đối tượng, nội dung, phương pháp, điều kiện, cách thức, không gian
và thời gian,…
384
2. ĐẶC ĐIỂM CỦA CHỨC SẮC, CHỨC VIỆC, NHÀ TU HÀNH,
TÍN ĐỒ CÁC TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
Nói về đặc điểm chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo có
nhiều quan điểm khác nhau, với những cách chia đặc điểm khác nhau xuất phát
từ góc độ chuyên môn và cách tiếp cận để nghiên cứu. Trong nội dung bài này
chúng ta nghiên cứu đặc điểm các đối tượng trên qua sự kết hợp cách tiếp cận từ
cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng ta và thực tiễn công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam.
2.1. Đặc điểm của tín đồ tôn giáo ở Việt Nam
2.1.1. Tín đồ tôn giáo tự nguyện chịu sự chi phối của thần quyền, giáo lý,
giáo luật và lễ nghi của tôn giáo
Trong vai trò công dân, mỗi người phải chịu trách nhiệm về vai trò công
dân theo quy định của pháp luật (thế quyền). Với công dân không có tôn giáo,
trong đời sống và hoạt động xã hội, họ chỉ chịu sự chi phối và thực hiện vai trò
công dân trước pháp luật (thế quyền). Với công dân có tôn giáo, trong vai trò là
công dân họ phải đảm bảo thực hiện đúng pháp luật (thế quyền), trong vai trò là
tín đồ tôn giáo, họ còn chịu sự chi phối của một tổ chức giáo hội nhất định theo
các quy định riêng của mỗi tổ chức giáo hội đặt ra (thần quyền).
Trong đời sống xã hội, chi phối của nhà nước thế tục (thế quyền) đối với
công dân qua hệ thống pháp luật và những quy chuẩn xã hội mang tính bắt buộc,
áp đặt. Thái độ của công dân trước pháp luật và quy chuẩn xã hội là thái độ bắt
buộc thực hiện nghĩa vụ.
Đối với tôn giáo, quan hệ giữa tín đồ tôn giáo với Giáo hội được đặt trên
nền tảng tự nguyện thực hiện niềm tin tâm linh. Người tín đồ tôn giáo tự nguyện
đặt mình dưới sự điều khiển của Đấng Tối cao tâm linh và tự nguyện thực hiện tất
cả những gì Đấng Tối cao đặt ra (thần quyền). Vì tự nguyện tin và theo nên trong
tôn giáo các tín đồ phục tùng hoạt động của Giáo hội vô điều kiện, không có sự
“lách luật, vi phạm luật” tôn giáo trong tín đồ thuần thành (ngoại trừ những kẻ
xưng là tôn giáo, nhưng lợi dụng tôn giáo để trục lợi hoặc phá tôn giáo).
Nhận thức rõ đặc điểm này của tín đồ các tôn giáo để có ứng xử phù hợp
trong quá trình vận động họ. Nhằm giúp tín đồ các tôn giáo hoàn thành nghĩa vụ
công dân, làm tốt “việc đời” còn tham gia và đóng góp tích cực qua lòng thành
với “việc đạo”. Để những người không theo tôn giáo hiểu về người có tôn giáo
mà tôn trọng niềm tin tâm linh, tôn trọng hoạt động của người có tôn giáo.
385
2.1.2.Tín đồ các tôn giáo tích cực góp phần làm phong phú nền văn hóa
xã hội
Tín đồ tôn giáo trước hết là công dân, gắn bó với dân tộc, với cộng đồng
xã hội, mang bản sắc văn hoá của cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Khi trở thành tín
đồ tôn giáo, họ tự nguyện tham gia sinh hoạt tôn giáo nhằm thỏa mãn nhu cầu
tâm linh, nhu cầu tinh thần, hoạt động đó đồng nghĩa với việc họ tiếp nhận văn
hóa tôn giáo, đồng thời có tiếp biến để sáng tạo thêm những giá trị văn hóa làm
phong phú thêm đời sống của cá nhân và cộng đồng.
Đức tin và sinh hoạt tâm linh tôn giáo khi đã thành nếp quen trong cuộc
sống hàng ngày của mỗi tín đồ, đồng nghĩa với việc hình thành một nếp sống
đạo đức, quan hệ xã hội, tạo thành một nét văn hóa mới trong mỗi cộng đồng tôn
giáo, bổ sung làm phong phú thêm cho nếp sống văn hóa ở mỗi miền quê.
Trong xã hội Việt Nam hiện nay, với nhiều tôn giáo khác nhau, nhiều nét
văn hóa tôn giáo đã trở thành nếp sống đẹp làm phong phú cho văn hóa của xã
hội, như: Phật giáo phát triển đời sống văn hóa nhân văn qua đề cao trung thực,
nhân quả, tình thương yêu sự sống, xây dựng đạo đức tốt lành qua tâm từ bi,
sinh hoạt lễ hội tạo nét đẹp qua mùa Phật đản mừng ngày sinh của Đức Phật
Thích Ca,... Công giáo xây dựng tình người cao đẹp qua thực hiện tình thương
yêu bác ái, sinh hoạt lễ hội có mùa Noel mừng Thiên chúa giáng sinh,… Nhiều
những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp được tinh thần tôn giáo xây dựng trong
cộng đồng xã hội, nhiều ngày lễ trọng trong các tôn giáo trở thành những ngày
hội, góp phần tạo nên sự phong phú cho văn hóa cộng đồng. Ngày nay nhiều
ngày lễ trọng của các tôn giáo không chỉ là nét văn hóa riêng của từng tôn giáo,
mà trở thành nét văn hóa độc đáo có ảnh hưởng sâu rộng tới xã hội, làm phong
phú thêm đời sống văn hóa xã hội, Lễ Noel của tôn giáo thờ Thiên Chúa nhưng
nhiều nơi náo nức đón chờ; lễ Phật đản của Phật giáo mà nhiều người trang
nghiêm, hân hoan mong đến,…
Đặc điểm này rất cần quan tâm trong công tác vận động đồng bào tôn giáo
và công tác tôn giáo. Không chỉ tạo điều kiện cho các hoạt động của tín đồ các
tôn giáo theo Hiến chương, Điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước chấp
thuận theo quy định của pháp luật mà còn phát huy nguồn lực tôn giáo theo quan
điểm của Đảng về xây dựng đạo đức, lối sống tốt đẹp trong xã hội.
386
2.1.3. Tín đồ tôn giáo ở Việt Nam đa số là nông dân, có tinh thần yêu
nước, sống “tốt đời đẹp đạo”
Tín đồ tôn giáo ở Việt Nam gồm nhiều thành phần xã hội (chưa có thống
kê từng thành phần dân cư là tín đồ tôn giáo). Tuy nhiên, từ thống kê dân số năm
2019 ở trên cho thấy đa số dân số Việt Nam là dân nông thôn và thực tế các tôn
giáo ở Việt Nam thuộc khu vực nông thôn chiếm tỉ lệ đa số là nông dân và nhân
dân lao động với phẩm chất hiền lành chất phác, luôn mang trong mình truyền
thống yêu nước và tinh thần gắn bó với dân tộc. Người nông dân Việt Nam khi tin
theo tôn giáo, do nhiều nguyên nhân số tín đồ tôn giáo ở Việt Nam có thể chưa
hiểu sâu về giáo lý tôn giáo mà họ tin theo, nhưng niềm tin tôn giáo rất rõ nét
qua việc tham gia thực hành các nghi lễ tôn giáo khá thường xuyên với lòng
sùng kính. Tin theo tôn giáo và luôn giữ phẩm chất và truyền thống yêu nước,
họ thực hiện hài hòa phương châm “tốt đời đẹp đạo”.
Tín đồ tôn giáo đa số là nông dân hiền lành, có lòng yêu nước, luôn gắn
bó với đất nước, gắn bó giữa đời và đạo là một đặc điểm tốt nổi bật trong đời
sống tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam. Song trong thực tiễn, do điều kiện, một
số tín đồ các tôn giáo hiểu biết về giáo lý còn những hạn chế, họ có thể bị lôi
kéo bởi những đối tượng lợi dụng tôn giáo, nhất là tín đồ ở những vùng sâu
vùng xa, vùng khó khăn. Trước hiện tượng này người làm công tác tôn giáo,
người vận động tôn giáo cần nhận diện rõ để có hướng xử lý phù hợp, không
chủ quan áp đặt ý chí, xúc phạm niềm tin tôn giáo, ép buộc phải bỏ đạo, tạo ra
sự đối đầu, phản kháng. Trong thực tế không ít trường hợp tín đồ tôn giáo đã có
những phản ứng, khi gặp phải những vấn đề vướng mắc giữa đạo (tự nguyện) và
đời (bắt buộc) mà họ chưa đủ có cách thức để giải quyết thỏa đáng. Khi xảy ra
trường hợp này, người làm công tác tôn giáo, người làm công việc vận động và
tuyên truyền trong tôn giáo cần bình tĩnh xem xét giải quyết, vận động thuyết
phục để họ nhận diện rõ xấu, tốt, đúng sai trên các cơ sở, nguyên tắc chung và
sự vận dụng linh hoạt trong hoàn cảnh cụ thể. Không chủ quan, xem nhẹ, nếu
không đủ kinh nghiệm, năng lực và thẩm quyền xử lý sẽ dễ để lại hệ lụy khó
lường do tác động chi phối từ niềm tin, tác động của tôn giáo.
Hiện nay có trên 80 hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo mới với số lượng tín
đồ khá đông, một số cuồng tín tin theo sự hướng dẫn của trưởng các điểm nhóm,
hoạt động trái thuần phong mỹ tuc, gây hoang mang bức xúc trong xã hội. Đây là
387
đặc điểm rất cần lưu ý để thực hiện vận động tín đồ tôn giáo hoạt động tuân thủ
pháp luật, đúng phương châm sống “tốt đời đẹp đạo”.
2.2. Đặc điểm của chức sắc tôn giáo
Ngoài những đặc điểm của tín đồ tôn giáo ở Việt Nam, chức sắc tôn giáo
có riêng một số đặc điểm, trong khuôn khổ của bài chúng ta nghiên cứu hai đặc
điểm đặc trưng của chức sắc, nhà tu hành tôn giáo ở Việt Nam như sau:
2.2.1. Chức sắc, nhà tu hành tôn giáo có vai trò quan trọng trong mỗi tổ
chức tôn giáo
Chức sắc là những người được tổ chức tôn giáo phong phẩm, suy tôn, bổ
nhiệm… Họ có cơ hội được học và thực hành mang tính chuyên nghiệp về tôn
giáo họ tin theo. Bởi thế họ có sự hiểu biết sâu sắc, có niềm tin vững vàng, có
hoạt động đúng với quy chuẩn tôn giáo họ theo.
Chức sắc, nhà tu hành tôn giáo là tinh túy của tổ chức tôn giáo vì:
- Số lượng ít, là người được chọn lọc trong Giáo hội. Báo cáo của Ban
Tôn giáo Chính phủ năm 2020 cho thấy, tất cả các tôn giáo ở Việt Nam có hơn
58 nghìn chức sắc trên 26,5 triệu tín đồ, chiếm 0,21%. Như vậy trong 10.000 tín
đồ có 21 vị là chức sắc.
- Là những người có trình độ, hiểu biết triết lý tôn giáo.
- Đại diện cho tôn giáo về tâm linh, có đông đảo tín đồ tin, nghe theo.
- Chức sắc, chức việc được quần chúng tín đồ kính tín, được xã hội nể trọng.
Mỗi tổ chức tôn giáo có đội ngũ chức sắc, nhà tu hành riêng. Quy chuẩn của
các tôn giáo khác nhau về chức sắc, nhà tu hành cũng khác nhau. Mỗi tôn giáo tiêu
chuẩn chức sắc, nhà tu hành, được quy định bởi giáo lý, giáo luật, Hiến chương,
Điều lệ của tổ chức tôn giáo đó, theo thứ bậc, phẩm cấp, tên gọi khác nhau.
2.2.2. Chức sắc tôn giáo là trụ cột của mỗi Giáo hội, người trực tiếp duy
trì đường hướng hành đạo của tổ chức tôn giào và chăm lo đời sống tôn giáo
của tín đồ
Chức sắc, nhà tu hành tôn giáo ở nước ta sinh hoạt trong các tổ chức của
Giáo hội, tỉ lệ cao là những người có trình độ, có sự hiểu biết sâu sắc về giáo lý,
luật lệ, lễ nghi tôn giáo.
Để củng cố tổ chức của Giáo hội, các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đã và
đang mở các trường chuyên đào tạo trong tôn giáo, như: Đại chủng viện của
Công giáo; Viện Thánh kinh thần học của Tin lành; Học viện Phật học của Phật
giáo,…nhằm bổ sung nhân sự cho tổ chức Giáo hội các tôn giáo, và thúc đẩy
388
triển khai đường hướng, phương châm hành đạo của mỗi tôn giáo theo Hiến
chương và điều lệ nhà nước đã phê duyệt. Nội dung đào tạo ngoài chuyên môn
tôn giáo, các kiến thức xã hội, pháp luật trong và ngoài nước còn phải học hai
môn lịch sử Việt Nam, Giáo dục công dân theo quy định của Luật Tín ngưỡng,
tôn giáo.
Trong sự phát triển chung của các tôn giáo, gần đây ở Việt Nam số lượng
chức sắc, nhà tu hành chuyên nghiệp của các tôn giáo đang có sự gia tăng về số
lượng, chất lượng từ việc nâng cao trình độ giáo lý, đến trình độ văn hoá và
khoa học xã hội nói chung.
Chức sắc của từng tôn giáo có khác nhau, ví dụ:
- Giáo hội Công giáo (mang tính toàn cầu): phân biệt chức sắc theo chức
thánh gồm: Giáo hoàng, Giám mục, Linh mục, Phó tế. Ngoài các chức vụ này
còn có thêm tước vị Hồng y. Những người được nhận các chức vụ nói trên là
nhận các chức Thánh để thực hiện các hoạt động mục vụ và bí tích của Giáo hội.
(cụ thể còn nhiều các quy định khác).
- Giáo hội Phật giáo: chức sắc được phân biệt với nhà tu hành chuyên
nghiệp không tham gia hệ thống chức sắc, và nhà tu hành còn ở địa vị đại chúng
(là Đại đức với tăng, Sư cô với ni). Chức sắc trong Phật giáo có Thượng tọa,
Hòa thượng đối với tăng, Ni sư, Ni trưởng đối với ni (Pháp chủ hay Chủ tịch…
là vị trí chức việc).
Đại đa số chức sắc tôn giáo ở Việt Nam có tinh thần dân tộc, đồng thuận
với phương châm hành đạo gắn bó giữa đạo và đời, sống “tốt đời, đẹp đạo”,
hoạt động theo đường hướng hành đạo tiến bộ, trong khuôn khổ luật pháp. Chức
sắc các tôn giáo dù hoạt động tôn giáo theo niềm tin tâm linh khác nhau, nhưng
đều có điểm chung nhất là vì hạnh phúc của con người, vì bình an của xã hội.
Các tổ chức tôn giáo gần đây đều có đường hướng hành đạo gắn bó với công
cuộc xây dựng phát triển đất nước như: Phật giáo với đường hướng: “Đạo pháp
dân tộc và chủ nghĩa xã hội”; Công giáo với đường hướng: “Sống Phúc âm
trong lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”; Đạo Tin lành với
đường hướng: “Sống phúc âm, phụng sự Thiên chúa, phục vụ Tổ quốc và dân
tộc”; đạo Cao Đài: “Nước vinh - Đạo sáng”; Phật giáo Hòa Hảo: “ Vì Đạo pháp
vì dân tộc”; Tịnh độ cư sĩ Phật hội: Phước- Huệ song tu, “Tu học hành thiện, ích
nước lợi dân”...
389
Đường hướng hành đạo của các tôn giáo gắn bó với dân tộc và sự phát triển
của đất nước, thể hiện tích cực của các tổ chức tôn giáo, nhờ ở vai trò rường cột của
chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo. Quan tâm tới những đặc điểm trên của chức sắc,
nhà tu hành tôn giáo để có sự tranh thủ, tác động trong công tác vận động tôn giáo
phù hợp với trình độ, nhu cầu, phù hợp đối tượng để đạt hiệu quả cao.
2.3. Đặc điểm của chức việc tôn giáo
Chức việc tôn giáo là người được tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực
thuộc, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo bổ nhiệm, bầu
cử hoặc suy cử để giữ chức vụ trong tổ chức. Tại vị trọn đời hay theo nhiệm kỳ
tùy quy định của mỗi loại chức việc và quy định của mỗi tôn giáo. Ví dụ trong
Phật giáo, chức việc trong “trị sự” theo nhiệm kỳ đại hội các cấp; chức việc
“chứng minh” tại vị trọn đời, trừ trường hợp vi phạm giới luật bị miễn nhiệm.
Các tôn giáo khác nhau có những quy định khác nhau.
Trong các tôn giáo cả nước hiện có hơn 26,5 triệu tín đồ tôn giáo; có hơn
148.000 chức việc; hơn 58.000 chức sắc. So với số tín đồ, chức việc chiếm
0,55%, bình quân 10.000 tín đồ có 55 vị chức việc. Số chức việc nhiều gấp 2,5
lần chức sắc. Chức việc các tôn giáo khác nhau thực hiện các nhiệm vụ theo quy
định của từng tôn giáo khác nhau, song có đặc điểm chung.
2.3.1. Chức việc tôn giáo là người chịu trách nhiệm trong bộ máy hoạt
động tôn giáo
Để phân biệt với chức sắc trong tổ chức tôn giáo, chức việc là những người
tham gia trong bộ máy của tổ chức Giáo hội các cấp. Mỗi tổ chức Giáo hội tôn
giáo có bộ máy khác nhau theo mô hình hoạt động và đặc thù riêng của mỗi tôn
giáo, được Hiến chương, Điều lệ hoặc Điều quy riêng của tôn giáo quy định và
được pháp luật công nhận.
Với cương vị được bầu cử, suy cử hoặc bổ nhiệm, chịu trách nhiệm điều
hành hoạt động của tổ chức tôn giáo. Mỗi tôn giáo cơ cấu tổ chức khác nhau, hệ
thống chức việc tùy theo số lượng và cấp độ.
Ví dụ về cơ cấu tổ chức để bố trí chức việc:
- Cơ cấu tổ chức của Giáo hội Công giáo (mang tính toàn cầu), gồm có ba
cấp hành chính, chính thức là:
* Giáo triều Vatican: tập trung quyền lực cao nhất, nơi có Giáo Hoàng và
bộ máy chức việc điều hành hoạt động của Giáo triều.
390
* Giáo phận (địa phận, hay còn gọi là giáo hội địa phương): có bộ máy
chức việc điều hành hoạt động của Giáo phận.
* Giáo xứ (hay còn họi là giáo hội cơ sở): có bộ máy chức việc điều hành
hoạt động của Giáo xứ.
- Cơ cấu tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) (Phật giáo
không có tổ chức toàn cầu như Công giáo) hiện tại có ba cấp là:
* Cấp Trung ương: có Hội đồng Chứng minh Trung ương đứng đầu là Pháp
chủ GHPGVN, giúp việc cho Hội đồng Chứng minh có văn phòng của Hội đồng
Chứng minh; Hội đồng Trị sự Trung ương đứng đầu là Chủ tịch Hội đồng Trị sự
GHPGVN. Giúp việc cho Hội đồng Trị sự có Văn phòng và 13 Ban chuyên môn.
* Cấp tỉnh: có Ban Chứng minh và Ban Trị sự GHPGVN cấp tỉnh.
* Cấp huyện: có Ban Chứng minh và Ban Đại diện GHPGVN cấp huyện.
(Tùy địa phương mà có hình thức cơ cấu cơ quan giúp việc theo mô hình
cấp trung ương, khác số cơ quan giúp việc).
Mỗi một cấp và các cơ quan chuyên môn thuộc tổ chức Giáo hội tôn giáo
có đội ngũ chức việc theo quy định riêng của từng tôn giáo, đảm bảo năng lực
chuyên môn, phẩm chất tôn giáo và tuân thủ đúng pháp luật.
2.3.2. Chức việc tôn giáo là người đại diện cho quan hệ của tổ chức tôn
giáo với các cơ quan nhà nước và xã hội
Các tổ chức các tôn giáo ở Việt Nam và Nhà nước ở Việt Nam có quan hệ
khá chặt chẽ. Việc thành lập tổ chức tôn giáo phải được pháp luật Nhà nước cho
phép và công nhận. Nội dung Hiến chương, Điều lệ, Điều quy của mỗi tôn giáo
phải được Nhà nước chấp thuận, không trái với quy định của pháp luật, không
gây ảnh hưởng cản trở tới hoạt động xã hội và hoạt động các tôn giáo khác,
không gây mất đoàn kết tôn giáo.
Bộ máy hành chính Giáo hội tôn giáo hoạt động trên địa bàn Việt Nam phải
được pháp luật Việt Nam chấp thuận. Sau mỗi kỳ Đại hội, hoặc có sự bổ sung,
điều chuyển chức việc mới của tổ chức tôn giáo ở Việt Nam, các tổ chức tôn
giáo phải thông báo danh sách chức việc của tôn giáo từng cấp cho cơ quan quản
lý nhà nước về tôn giáo cùng cấp.
Hoạt động tôn giáo căn cứ vào quy định tại Hiến chương, Điều lệ, Điều quy
của từng tôn giáo đã được nhà nước chấp thuận. Những hoạt động đột xuất chưa
có trong đăng ký thường niên phải xin phép, những hoạt động vượt đăng ký
391
thường niên phải có văn bản đăng ký bổ sung. Hoạt động của các tôn giáo hàng
năm có thông tin báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo cùng cấp,…
Trong quan hệ nhà nước với tôn giáo thông qua tổ chức tôn giáo các cấp,
chức việc tôn giáo là người đại diện cho quan hệ của tổ chức tôn giáo với các cơ
quan nhà nước và xã hội. Với vai trò quan trọng đó các tổ chức tôn giáo có tiêu
chí, tiêu chuẩn cụ thể với từng vị trí chức việc trong tổ chức tôn giáo. Các tổ
chức tôn giáo thực hiện tu tập, đào tạo nâng cao trình độ và năng lực, có hình
thức riêng để lựa chọn chức việc lãnh đạo, đủ năng lực và phẩm chất, đáp ứng
được vai trò lãnh đạo trong tổ chức tôn giáo. Ngoài ra Giáo hội của các tôn giáo
cũng có chế tài để xử lý các chức sắc, chức việc khi họ vi phạm quy định của
Giáo luật và pháp luật
2.4. Những lưu ý về sự khác nhau trong đặc điểm của chức sắc, chức
viêc, nhà tu hành, tín đồ của những tôn giáo cụ thể
Chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ của những tôn giáo ở Việt Nam có
những đặc điểm chung như đã nêu, song mỗi tôn giáo có những nét riêng mà
người làm công tác tôn giáo, thực hiện vận động tôn giáo cần phải nắm được để
tránh những sơ suất:
2.4.1. Khác nhau về đức tin, trình độ, lối sống,…
Mỗi một tôn giáo có niềm tin khác nhau, thậm chí có những tôn giáo có
niềm trái ngược nhau, ví dụ:
Trong niềm tin của Công giáo, Tin lành và một số tôn giáo thờ Đức Chúa
Trời thì Đức Chúa toàn năng, Chúa sinh ra muôn loài, Chúa cho là được, Chúa
chi phối và định đoạt cuộc sống của con người và muôn loài.
Trong Phật giáo không cho rằng thế giới là do một vị thần sinh ra, thế giới
có từ vô thủy vô chung, hình thành và phát triển theo quy luật thành trụ hoại
không. Phật giáo không thừa nhận thế giới thần linh chi phối con người mà thừa
nhận con người chịu chi phối của quy luật nhân quả, nghiệp báo. Hạnh phúc của
con người do con người tự quyết định.
Ở Việt Nam hiện tại có 16 tôn giáo, trong đó 10 tôn giáo ngoại nhập, có
đức tin khác nhau, 06 tôn giáo nội sinh được hình thành trên cơ sở kế thừa, tiếp
biến niềm tin của các tôn giáo ngoại nhập. Đứng trước sự khác biệt niềm tin của
các tôn giáo, người vận động tôn giáo cần hiểu và khéo léo không đề cập tới sự
khác biệt của niềm tin giữa các tôn giáo, mà đề cập tới cái chung, nhờ có niềm
mà đồng bào các tôn giáo vượt qua nhiều khó khăn, cùng nhau đoàn kết xây
392
dựng cuộc sống an vui, hạnh phúc. Vừa hợp với triết lý tôn giáo vừa đúng với
phương châm sống “tốt đời, đẹp đạo”.
Trong các tôn giáo, do khác nhau về đức tin, thì quan niệm, nhận thức về
xã hội, lối sống của người theo từng tôn giáo cũng có sự khác nhau. Cùng thờ
Đức Chúa nhưng người theo Công giáo có thể dùng rượu, nhưng người theo Tin
Lành thì không khuyến khích uống rượu. Khác niềm tin tôn giáo, trình độ và lối
sống càng khác nhau, trong quá trình thực hiện công tác tôn giáo cần hiểu rõ sự
khác biệt này để có sự ứng xử cho phù hợp. Không xúc phạm tới niềm tin tôn
giáo, không để khó xử khi tiếp xúc với chức sắc, chức việc tín đồ tôn giáo.
Khác nhau từ tên tổ chức tôn giáo, tới danh xưng tên họ, tới giáo phẩm
chức sắc, vị trí chức việc,… Để nhớ được tất cả nét riêng của từng tôn giáo phải
tích cực nghiên cứu, tìm hiểu kỹ, có trí nhớ tốt, có thời gian gắn bó lâu dài, có
thời gian để tiếp xúc trao đổi và làm việc,…
Trước thực tế đó, trong vận động tôn giáo, phải hiểu rõ về danh xưng,
phẩm trật, phẩm vị của chức sắc, chức việc, nhà tu hành tôn giáo để tiếp cận,
trao đổi các vấn đề được thuận lợi, có biểu cảm và ngôn ngữ đúng đắn, phù hợp
với từng tôn giáo, tránh gọi phẩm vị của tôn giáo (Phật giáo) nhầm sang (Công
giáo, Tin Lành) là điều tối kỵ trong công tác vận động.
2.4.3. Khác nhau về ngôn ngữ, phong tục, tập quán, lối sống và thờ
phượng
Tôn giáo vào Việt Nam, do sự tiếp biến bởi phong tục tập quán, lối sống,
ngôn ngữ của cư dân bản địa. Các tôn giáo khác nhau có nhiều khác nhau, cùng
chung một tôn giáo đến các địa phương khác nhau cũng có sự khác biệt. Cần
nhận diện để hạn chế sơ suất trong công tác vận động tôn giáo, ví dụ:
Trong Phật giáo ở Việt Nam, dâng cúng tịnh tài hoặc lễ vật thờ Phật hoặc
kính sư ở miền Bắc dùng từ “cúng dường”, miền Nam dùng từ “cúng dàng”.
Cùng là Phật giáo nhưng sư Nam tông Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long
không ăn phi thời (ăn ngày một bữa trưa, trước 12 giờ), không ngồi chung ghế,
chung chiếu với phụ nữ… Trong khi Phật giáo Bắc tông ngày có thể ăn nhiều
bữa, trong sinh hoạt một số giới ở Nam tông không có ở Bắc tông.
Trong hai tôn giáo ở cùng trên một địa phương cũng có sự khác nhau. Công
giáo trong gia đình có người chết thì không biểu hiện thương cảm, buồn đau bởi
người thân của họ đã được Chúa gọi về bên Chúa, Phật giáo thì tỏ ra thương
cảm, buồn khổ, nghi lễ tang ma tùy gia cảnh nhưng khá rườm rà. Nếu khác địa
393
phương, khác vùng miền thì sự khác biệt giữa các tôn giáo, hoặc trong một tôn
giáo còn rất nhiều. Người làm công tác vận động tôn giáo cần biết để có ứng xử
cho phù hợp trong từng hoàn cảnh.
3. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC
VẬN ĐỘNG CHỨC SẮC, CHỨC VIỆC, NHÀ TU HÀNH, TÍN ĐỒ TÔN
GIÁO HIỆN NAY
3.1. Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách đại
đoàn kết, đồng bào các tôn giáo là một bộ phận quan trọng của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc
Từ khi có Đảng, Cương lĩnh của Đảng đã khẳng định: Đại đoàn kết toàn
dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực chủ yếu và
là nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo nguồn sức mạnh để thực hiện thắng lợi
sự nghiệp dựng nước, giữ nước và xây dựng phát triển đất nước.
Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Lời dạy thật giản dị của Bác Hồ,
nhưng từ lâu đã trở thành lẽ sống, phương châm và khẩu hiệu hành động của
Đảng và dân tộc Việt Nam.
Để thực hiện đại đoàn kết trong cộng đồng Việt Nam, đồng bào các tôn
giáo có ý nghĩa hết sức quan trọng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết
đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng
bào không theo tôn giáo, trên cơ sở lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam
hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh làm mục tiêu chung.
Đồng bào các tôn giáo có quyền và nghĩa vụ công dân như mọi công dân
Việt Nam khác trong làm ăn, sinh sống, học tập, tham gia cơ quan quản lý nhà
nước, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng hợp pháp, công tác
xã hội và cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm của Đảng về đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, xuất phát
từ mục tiêu quan trọng của cách mạng nước ta hiện nay là không ngừng củng cố,
tăng cường sức mạnh qua khối đại đoàn kết toàn dân tộc; mặt khác, quan điểm
trên còn xuất phát từ thực tiễn, các thế lực thù địch đã và đang thường xuyên lợi
dụng vấn đề tôn giáo, gắn tôn giáo với vấn đề dân tộc, nhân quyền, dân chủ để
chống phá cách mạng Việt Nam. Do đó, quan điểm đoàn kết toàn dân, không
phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng; không phân biệt giữa người không theo tôn giáo
394
với những người theo các tôn giáo khác nhau; đồng bào các tôn giáo là bộ phận
quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải được coi là một nguyên tắc
trong công tác tôn giáo.
3.2. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng
Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa IX “Về công tác tôn giáo” đã chỉ rõ: “Nội dung cốt lõi của công tác
tôn giáo là công tác vận động quần chúng”, “Công tác quản lý nhà nước đối
với tôn giáo và đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo chống đối chế độ chỉ
thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng”.
Quan điểm trên của Đảng xuất phát từ vai trò của quần chúng trong sự
nghiệp cách mạng, trong đó quần chúng tín đồ tôn giáo là một bộ phận lớn, là
đối tượng của công tác tôn giáo - một lĩnh vực mang tính đặc thù, nhạy cảm,
được thể hiện trên một số mặt sau:
Chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo là công dân có niềm
tin tôn giáo, họ phải chịu sự điều chỉnh tác động của tổ chức tôn giáo qua hệ
thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi tôn giáo. Tôn giáo ở Việt Nam, lý luận và thực
tiễn đã cho thấy hoạt động tôn giáo luôn có mặt tích cực và hạn chế. Công tác
tôn giáo thực hiện có kết quả khi vận động người có tôn giáo nhận thức và tự
giác thực hiện hoạt động sao cho hạn chế tiêu cực và phát huy tích cực.
Tôn giáo có tính quần chúng, nhưng là “quần chúng đặc biệt” - quần chúng
có niềm tin tâm linh, có sự khác biệt nhất định trong quan niệm về thế giới và
con người so với quần chúng không có tôn giáo. Niềm tin tôn giáo có nhiều nội
dung khác quan điểm duy vật, nhưng mang tính bền vững.
Tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng, sinh hoạt tôn
giáo là nhu cầu không thể thiếu vắng trong đời sống của người tín đồ. Nhu cầu
đó, được thể hiện trên những nội dung cụ thể (nhu cầu về chức sắc, chức việc,
nơi thờ tự, kinh sách, thực hiện các lễ nghi tôn giáo…) và liên quan trực tiếp tới
công tác quản lý nhà nước.
Trong lịch sử cũng như hiện tại, tôn giáo vẫn luôn bị các đối tượng xấu lợi
dụng phục vụ cho các mục đích phi tôn giáo của họ, các thế lực thù địch lợi
dụng, sử dụng vào mục đích chính trị chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng,
Nhà nước Việt Nam. Ở đâu làm tốt công tác vận động tín đồ, chức sắc tôn giáo,
thì ở đó các thế lực xấu sẽ khó lợi dụng được và ngược lại. Ở những nơi không
395
làm tốt công tác vận động quần chúng tôn giáo, yếu kém trong công tác quản lý
nhà nước về tôn giáo, sẽ là điều kiện, thậm chí tạo cớ cho các thế lực xấu lợi
dụng, kích động gây phức tạp về an ninh trật tự.
Mỗi tôn giáo đều bao gồm các chức sắc, chức việc, nhà tu hành và đông
đảo tín đồ và sinh hoạt tôn giáo là sinh hoạt của một cộng đồng người có chung
niềm tin tâm linh. Do đó tính quần chúng trong sinh hoạt tôn giáo rất cao. Quần
chúng tôn giáo có nét đặc thù riêng, họ có niềm tin tôn giáo, có đời sống tâm
linh. Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo thuộc lĩnh vực quản lý chuyên về
một lĩnh vực nhạy cảm (liên quan đến niềm tin của con người) bởi nhiều đối
tượng khác nhau với nhiều nét đặc thù. Vận động để chức sắc, chức việc, nhà tu
hành, tín đồ các tôn giáo tuân thủ pháp luật, thực hiện tốt các chủ trương, chính
sách, thì việc quản lý của nhà nước mới đạt kết quả tốt. Vì vậy, công tác vận
động quần chúng tôn giáo luôn là giải pháp phải được ưu tiên, coi trọng trong xử
lý các vấn đề liên quan đến tôn giáo.
Đồng bào các tôn giáo ở Việt Nam có tinh thần yêu nước, đoàn kết, gắn bó
với dân tộc, có nhiều đóng góp qua các thời kỳ của cách mạng. Làm tốt công tác
vận động quần chúng tín đồ tôn giáo là để tập hợp đồng bào các tôn giáo thành
lực lượng của cách mạng nhằm thực hiện các mục tiêu do Đảng đề ra, hạn chế
sự lôi kéo, kích động của các thế lực thù địch và các phần tử xấu. Có thể xem
vận động đoàn kết là gốc của mọi mặt công tác đối với tôn giáo và giải quyết
vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
3.3. Phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào các tôn giáo, chăm lo
lợi ích vật chất và tinh thần, đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo để chia rẽ
khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Công tác vận động quần chúng cần được thực hiện bằng nhiều hình thức,
phương pháp, nhằm phát huy được thế mạnh riêng biệt của từng tôn giáo và
truyền thống yêu nước của đồng bào có đạo, thông qua các phong trào “phụng
đạo, yêu nước”, “tốt đời, đẹp đạo”...
Công tác vận động quần chúng tôn giáo cần phát huy những yếu tố tích cực
trong tôn giáo, phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới, phát huy các giá trị
văn hoá, đạo đức tôn giáo... làm lành mạnh đời sống tôn giáo và đời sống xã hội,
đồng thời còn tạo thêm yếu tố đồng thuận củng cố khối đại đoàn kết, hạn chế
những tiêu cực có thể xảy ra.
396
Công tác vận động quần chúng tôn giáo muốn đi vào chiều sâu, có hiệu quả
thiết thực cần phải giúp đồng bào có tôn giáo không ngừng nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần, tạo điều kiện cho các nhu cầu, nguyện vọng chính đáng về
tôn giáo của quần chúng có đạo ngày càng được đáp ứng đầy đủ hơn.
Vận động quần chúng tôn giáo, phòng chống và đấu tranh với âm mưu lợi
dụng tôn giáo, gây mất ổn định xã hội. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo và đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo là hai mặt có tác
dụng tương hỗ, đòi hỏi phải nhận thức được đâu là nhu cầu, nguyện vọng tôn
giáo chính đáng của quần chúng cần phải quan tâm, đáp ứng và đâu là yếu tố lợi
dụng tôn giáo vì những mục đích xấu cần phải lên án, xử lý theo pháp luật.
3.4. Quan điểm phát huy nguồn lực tôn giáo cho sự phát triển đất
nước
Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày 10/01/2018 của Bộ Chính trị Khóa XII, chính
thức quan điểm của Đảng, khẳng định về nguồn lực tôn giáo. Văn kiện Đại hội
XIII của Đảng (2021) ghi rõ: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp
và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước”.
Nguồn lực tôn giáo thường được thể hiện ở hai phương diện:
- Nguồn lực tinh thần đó là những giá trị văn hóa, đạo đức do hoạt động
tôn giáo mà hình thành.
- Nguồn lực vật chất, là trí thức, lực lượng lao động (tín đồ), kiến trúc, hội
họa, nguồn vốn xã hội do lao động, sáng tạo từ cộng đồng tôn giáo làm ra, do
tích lũy và huy động từ khả năng của cộng đồng tôn giáo.
Hai loại nguồn lực này được thể hiện ở sự kết hợp hai dạng hoạt động:
hoạt động tôn giáo và hoạt động xã hội, thúc đẩy lẫn nhau trong cùng một chủ
thể là tổ chức tôn giáo. Ở bất cứ thời kỳ nào từ khi có tôn giáo, các tổ chức tôn
giáo luôn duy trì và phát triển song song hai loại hình hoạt động này. Nếu hoạt
động tôn giáo tách biệt khỏi hoạt động xã hội thì tôn giáo chỉ là hoạt động thuần
túy "đạo". Trong khi tất cả các tôn giáo đều hướng tới hoạt động nhập thế, vì
“đời” và không tách rời con người và xã hội.
Trong xu thế đổi mới, Việt Nam đã nhìn nhận và đổi mới một cách căn
bản về tôn giáo và công tác tôn giáo, từ nhận thức đến chủ trương, chính sách, từ
nội dung công tác đến tổ chức thực hiện. Trong nhận thức đối với tôn giáo
Đảng, Nhà nước Việt Nam đã xác định tôn giáo còn tồn tại lâu dài, tôn giáo là
nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
397
Công tác tôn giáo phải tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của mọi người nhằm mục tiêu đoàn kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết
toàn dân xây dựng đất nước Việt Nam hòa bình, ổn định và phát triển. Nhìn
nhận và phát huy những giá trị tích cực về đạo đức và văn hóa của tôn giáo,
những đóng góp của tôn giáo đối với xã hội - đó chính là phát huy nguồn lực tôn
giáo trong phát triển đất nước.
4. NỘI DUNG, HÌNH THỨC, PHƯƠNG PHÁP VẬN ĐỘNG CHỨC
SẮC, CHỨC VIỆC, NHÀ TU HÀNH, TÍN ĐỒ TÔN GIÁO
4.1. Nội dung công tác vận động quần chúng tôn giáo
Vận động tôn giáo nhằm thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng
với nhiều nội dung khác nhau. Trong khuôn khổ của bài này, chúng ta tìm hiểu
một số nội dung chính của công tác vận động chức sắc, chức việc, nhà tu hành
và tín đồ tôn giáo ở Việt Nam.
4.1.1. Vận động để đồng bào các tôn giáo hiểu và thực hiện tốt chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nâng cao lòng yêu
nước, ý thức công dân
Nắm được chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thể
hiện lòng yêu nước, ý thức, trách nhiệm công dân với Tổ quốc là trách nhiệm,
nghĩa vụ đồng thời là quyền lợi của mỗi công dân Việt Nam trong đó có chức
sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo.
Để chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các thông
tin liên quan tới kinh tế xã hội đến được với nhân dân, chính quyền các cấp phải
thường xuyên thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội, an ninh, quốc phòng của đất nước, địa phương và cơ sở cho nhân dân.
Đối với đồng bào các tôn giáo việc tuyên truyền, thông tin những nội dung
trên càng có ý nghĩa, nhất là các chủ trương, chính sách liên quan đến hoạt động
tôn giáo. Vừa thể hiện trách nhiệm trước nhân dân, vừa để đồng bào có tôn giáo
biết về chủ trương và những quy định đối với hoạt động tôn giáo để chủ động
tham gia thực hiện, vừa thể hiện sự quan tâm tới đối tượng đồng bào có tôn giáo.
Từ nội dung thông tin tuyên truyền, khơi dậy truyền thống yêu nước, ý
thức trách nhiệm đồng hành cùng dân tộc. Giáo dục để đồng bào các tôn giáo
nhận thức rõ công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa ở nước
ta phù hợp với quy luật phát triển của xã hội loài người. Mục tiêu: “dân giàu,
398
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, phù hợp với đạo lý của tôn giáo. Từ
đó tạo sự đồng thuận, ủng hộ và tham gia tích cực của đồng bào tôn giáo vào các
hoạt động vì lợi ích chung, vì sự phát triển của đất nước.
Phát huy dân chủ, nắm bắt nguyện vọng, nhu cầu chính đáng của chức sắc,
tín đồ tôn giáo để xem xét, điều chỉnh chủ trương, chính sách, pháp luật cho phù
hợp. Tuyên truyền, vận động giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của
truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công với Tổ
quốc, dân tộc và nhân dân. Tôn trọng tín ngưỡng của đồng bào các dân tộc, đồng
bào theo các tôn giáo khác nhau; tạo sự đồng thuận, đoàn kết giữa những người
theo tôn giáo và những người không theo tôn giáo, giữa những người có tín
ngưỡng, tôn giáo khác nhau; không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo.
Tuyên truyền, giáo dục cho tín đồ, chức sắc tôn giáo nhận rõ những âm
mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo, gắn vấn đề tôn giáo với vấn đề dân tộc, dân
chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam;
những hoạt động vi phạm pháp luật trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và lợi
dụng tôn giáo mưu lợi ích cá nhân của những đối tượng xấu, trên cơ sở đó xây
dựng ý thức tự giác đấu tranh, góp phần giữ vững sự ổn định xã hội.
4.1.2. Vận động đồng bào tôn giáo chủ động và tích cực thực hiện nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần, phát triển kinh tế - xã hội
Quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trong đó có
đồng bào các tôn giáo. Thông qua triển khai các chương trình phát triển kinh tế -
xã hội nhằm giúp cho dân hiểu và chủ động thực hiện các chương trình, dự án,
mô hình... phát triển kinh tế - xã hội cụ thể như xóa đói giảm nghèo; chuyển đổi
cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, các mô hình sản xuất,
kinh doanh... để áp dụng vào mô hình kinh tế gia đình, địa phương, nhằm góp
phần nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân cả nước. Đặc biệt quan tâm tới
khu vực vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo, nơi đồng bào có nhiều
thiệt thòi vì khoảng cách địa lý, địa hình…
Cùng với phát triển kinh tế, quan tâm phát triển văn hoá, giáo dục, y tế...
giúp cho nhân dân, từng bước cải thiện cuộc sống, nâng cao dân trí, củng cố
niềm tin của quần chúng tôn giáo với Đảng, Nhà nước và chế độ.
Động viên, khuyết khích quần chúng tôn giáo tham gia tích cực vào việc
thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, giữ gìn an ninh trật tự
ở từng địa phương, cơ sở.
399
Triển khai thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, quan tâm tới vùng có
đông tín đồ tôn giáo. Các cấp cử cán bộ thường xuyên tổ chức tiếp xúc, trao đổi
với tín đồ, chức sắc tôn giáo, qua đó để nắm tâm tư, nguyện vọng của quần
chúng tôn giáo. Đồng thời, thông tin những chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước, của địa phương, cơ sở để tín đồ, chức sắc tôn giáo hiểu,
đồng tình và ủng hộ.
Kịp thời nắm bắt những vấn đề bức xúc nảy sinh trong cộng đồng tôn giáo
để có biện pháp giải quyết phù hợp, quan tâm giải quyết những nhu cầu, nguyện
vọng chính đáng, hợp pháp, nhất là trong sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của
chức sắc, tín đồ theo quy định của pháp luật.
4.1.3. Vận động đồng bào các tôn giáo tham gia các phong trào thi đua
yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc
Vận động chức sắc, nhà tu hành, chức việc, tín đồ các tôn giáo tham gia
các phong trào trào thi đua yêu nước của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể, các tổ chức xã hội như: phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư, sống tốt đạo, đẹp đời”, “Xây dựng xứ, họ đạo tiên
tiến”, “Phong trào giữ gìn an ninh, trật tự”; phong trào xây dựng nông thôn
mới; xây dựng và thực hiện quy ước, hương ước làng xã, thôn xóm văn hoá và
gia đình văn hoá...
Vận động chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tổ chức tôn giáo
tham gia tích cực các hoạt động từ thiện, nhân đạo; phát huy truyền thống “lá
lành đùm lá rách”, giúp đỡ người tàn tật, trẻ mồ côi, cơ nhỡ, các gia đình khó
khăn, gặp thiên tai, hoạn nạn, người già cô đơn không nơi nương tựa; tham gia
tích cực các phong trào “đền ơn, đáp nghĩa”, “vì người nghèo”... thực hiện tốt
chính sách của Đảng, Nhà nước, đề cao đạo lý của dân tộc đối với những người
có công với Tổ quốc, với nhân dân.
Phát huy nguồn lực tôn giáo qua các hoạt động thiết thực như: thành lập
các trung tâm trợ giúp người khó khăn, chăm sóc người bệnh, người già cô đơn,
nuôi trẻ mồ côi, các lớp dạy nghề, trông trẻ, lớp mẫu giáo... tham gia tích cực
vào công tác phòng, chống các tai, tệ nạn xã hội theo đúng quy định của pháp
luật, giúp cho, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo “gắn bó đạo
với đời” thực hiện “tốt đời, đẹp đạo”.
400
4.1.4. Vận động để đồng bào các tôn giáo chủ động và tích cực tham gia
có hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo
Thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, để đồng bào các tôn
giáo chủ động hoạt động và hoạt động có hiệu quả trong khuôn khổ của pháp luật.
Từng bước hoàn thiện cơ chế nhà nước pháp quyền, quản lý nhà nước về tôn giáo
được luật hóa qua những quy định, công khai, rõ ràng, cụ thể. Theo quy định của
pháp luật, nhiều hoạt động tôn giáo do chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các
tôn giáo thực hiện là đối tượng của quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo.
Thế nhưng chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo cũng là chủ thể
trong quản lý đó khi tham gia vào quá trình quản lý, giám sát hoạt động quản lý,
hoạt động xã hội với vai trò công dân, thực hiện “dân làm chủ”.
Trong công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, cần chú ý quan tâm tạo điều
kiện thuận lợi cho cho đồng bào các tôn giáo nắm vững pháp luật nhất là Luật
tín ngưỡng, tôn giáo, các tổ chức tôn giáo hoạt động, sinh hoạt tôn giáo theo
Hiến chương, Điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng
pháp luật. Quan tâm cải cách thủ tục hành chính, giáo dục đạo đức công vụ, ý
thức trách nhiệm với công việc cho đội ngũ cán bộ chính quyền các cấp.
Thường xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng để quan tâm giải quyết, đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo chính đáng của chức sắc, tín đồ; kịp thời giải
quyết, xử lý những vấn đề phát sinh, các vi phạm pháp luật trong hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo thông qua vận động, thuyết phục để quần chúng tín đồ hiểu và
thấy được đúng, sai, tự sửa chữa, khắc phục.
Biểu dương, khen thưởng kịp thời những nhân tố tích cực, gương người
tốt, việc tốt; đồng thời xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt
động tín ngưỡng, tôn giáo.
Vận động quần chúng tham gia đấu tranh, giáo dục với những người có
hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; lợi dụng tôn
giáo để lôi kéo quần chúng tín đồ gây rối trật tự trị an, đòi hỏi những điều mà
luật pháp không cho phép; lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống đối Đảng, Nhà
nước và chế độ.
4.1.5. Vận động những người có uy tín, tích cực trong tôn giáo
Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội
trong công tác tôn giáo để vận động đồng bào các tôn giáo thực hiện hoạt động
tôn giáo theo tinh thần nhập thế, kết hợp thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh
401
tế, văn hoá, xã hội... các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động theo
phương châm “lợi đạo ích đời”.
Thông qua hoạt động tôn giáo kết hợp với các phong trào hoạt động xã
hội, phát hiện những gương điển hình tiêu biểu trong chức sắc, chức việc, nhà tu
hành, tín đồ các tôn giáo. Những tấm gương tiêu biểu đó là đại diện điển hình
của hoạt động tôn giáo nhập thế, đồng thời là nhân tố tích cực giúp cho công tác
vận động đồng bào tôn giáo thuận lợi hơn. Mặt khác từ những nhân tố tích cực
đó mà bồi dưỡng, đào tạo, giới thiệu những người có uy tín tham gia vào các cơ
quan dân cử: Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp
hành đoàn thể các cấp để tăng thêm sức thu hút của các tổ chức chính trị - xã
hội, với đồng bào có tôn giáo.
Chú trọng công tác xây dựng cốt cán trong tôn giáo; chăm lo xây dựng đội
ngũ cán bộ là người có đạo thực sự gương mẫu, có uy tín, hết lòng vì nhiệm vụ
được giao, vì sự tiến bộ của đồng bào có tôn giáo.
Thường xuyên quan tâm, thăm hỏi, động viên chức sắc, tín đồ, tổ chức tôn
giáo, nhân các ngày lễ trọng của các tôn giáo; xây dựng mối quan hệ thân thiện
giữa chính quyền với chức sắc và các tổ chức giáo hội. Thực hiện ứng xử bình
đẳng giữa các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận.
Quan tâm động viên phong trào và tổ chức yêu nước trong đồng bào tôn
giáo như: Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam, Hội đoàn kết sư sãi yêu nước...
4.2. Hình thức vận động chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ tôn giáo
Từ thực tiễn và kinh nghiệm công tác tôn giáo, trong quá trình cách
mạng, do đặc điểm, phong tục, truyền thống văn hóa và sự khác biệt của mỗi
một tôn giáo, nên hình thức vận động tôn giáo khác nhau, không dập khuân,
khô cứng, máy móc thiếu hiệu quả trong công tác vận động. Trong khuôn khổ
của bài chúng ta tìm hiểu một số hình thức vận động sau:
4.2.1. Hình thức vận động qua tuyên truyền giáo dục
Tuyên truyền cung cấp thông tin, truyền đạt, phổ biến chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, kế hoạch của chính
quyền địa phương, cơ sở để các chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tôn
giáo hiểu rõ và đồng tình, ủng hộ. Chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa
phương, hàng năm đều mở các lớp, hội nghị tuyên truyền, bồi dưỡng kiến thức
pháp luật, kiến thức Quốc phòng - An ninh cho chức sắc tôn giáo. Thông qua
các buổi thuyết giảng tại các cơ sở thờ tự, nhà thờ, thánh đường....họ sẽ để
402
tuyên truyền, vận động đông đảo tín đồ tôn giáo cùng thực hiện. Hướng dẫn,
hỗ trợ các tổ chức Giáo hội nhân dịp Đại hội nhiệm kỳ, lễ trọng, lễ buộc của
tôn giáo như: (bảo đảm an ninh, trật tự, cháy nổ, giao thông, an toàn thực
phẩm, tuyên truyền), và cho đồng bào tôn giáo trong khuyến khích các hoạt
động xã hội, từ thiện, nhân đạo, xoá đói, giảm nghèo,…để các tôn giáo tích cực
đóng cho xã hội. Như đại Dịch Covid -19 đang diễn biến phức tạp; các tôn giáo
đã ủng hộ kinh phí, nhu yếu phẩm, vật tư Y tế, nhân lực...với kinh phí hàng
nghìn tỷ đồng.
Thông qua tuyên truyền, đồng bào có tôn giáo được nâng cao hiểu hiết về
mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, qua tuyên truyền họ biết về vai trò, nghĩa
vụ của họ trong xã hội, tinh thần trách nhiệm của công dân, lòng tự trọng của
con người được phát huy, ý thức tích cực trong họ được điều chỉnh. Mỗi chức
sắc, tín đồ tôn giáo sẽ chủ động, tự giác thực hiện theo sự hiểu biết và nhận thức
họ tiếp thu qua tuyên truyền.
Đòi hỏi công tác tuyên truyền phải kịp thời, đầy đủ và trung thực. Không
thể để phản tuyên truyền xảy ra do thiếu trung thực, nhất là đồng bào các tôn
giáo có niềm tin tâm linh và đạo đức tôn giáo.
4.2.2. Hình thức vận động qua đấu tranh
Đối với đồng bào có tôn giáo, tuyệt đại đa số là những người thuần túy
tôn giáo, chân chất trong niềm tin tâm linh với ước nguyện cuộc sống an lành
theo tinh thần của đấng tối cao trong tôn giáo họ theo, đồng bào các tôn giáo
vẫn sống hòa đồng, đoàn kết tôn trọng nhau vì một mẫu số chung là Tổ quốc,
đồng bào và hạnh phúc con người.
Tuy nhiên trong thực tiễn, một số thời điểm có hiện tượng lấy danh nghĩa
đòi quyền lợi của Giáo hội, vì những mâu thuẫn khác nhau. Đã có những cá
nhân triệt để khai thác sơ hở việc chưa hoàn thiện của chính sách, pháp luật
trong một số lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, lợi dụng để lôi kéo, tập hợp
chức sắc, tín đồ tôn giáo, từ đó lợi dụng người có niềm tin tôn giáo, lợi dụng
đoàn kết trong cộng đồng tôn giáo. Nâng quan điểm, xuyên tạc, kích động, lôi
kéo đồng bào có tôn giáo đấu tranh đòi “quyền lợi”, đòi công bằng, dân
chủ,…gây phức tạp về an ninh trật tự; ảnh hưởng đến đời sống đức tin của
đông đảo tín đồ tôn giáo.
Trước thực tế đó, thực hiện công tác vận động chức sắc tôn giáo; đặc biệt là
những vị chức sắc giữ vị trí chủ chốt trong bộ máy hành chính đạo, chỉ rõ những
403
âm mưu, thủ đoạn đang lợi dụng tôn giáo để lôi kéo quần chúng tham gia gây rối;
đề nghị họ phê phán, cái sai của những người lợi dụng tôn giáo, giả danh tôn giáo,
không vì mục đích tốt đẹp của Giáo hội mà vì quyền lợi bản vị, hẹp hòi của cá
nhân, nhằm tạo sự đồng thuận trong tôn giáo; đồng thời có định hướng tuyên
truyền tác động để đồng bào có tôn giáo hiểu rõ bản chất sự việc, tự họ tránh xa
luận điệu của kẻ xấu. Tổng kết kinh nghiệm cho thấy, trong vận động đấu tranh với
những người xấu lợi dụng tôn giáo, hiệu quả cao là việc để chính người mắc sai
lầm công khai nói về sai lầm trước cộng đồng tôn giáo và xã hội.
4.2.3. Hình thức vận động qua động viên, khen thưởng
Thực hiện đúng pháp luật là trách nghiệm, nghĩa vụ của công dân trong
xã hội. Thực hiện tốt và hiệu quả hơn quy định của pháp luật là đạo đức văn
hóa tốt đẹp trong con người. Trong xã hội nói chung pháp luật đưa ra các quy
định chung cho xã hội mà mỗi người biết những gì được làm và những gì
không được làm để tự giác thực hiện, không làm ảnh hưởng tới lợi ích xã hội
và cá nhân khác.
Trong thực tế có người vì mưu lợi cá nhân đã lợi dụng việc chưa hoàn thiện
của pháp luật hoặc cố làm sai so với quy định của pháp luật. Ngược lại, có không
ít người vì tình thương con người “thương người như thể thương thân”, vì đạo
đức “lành cho sạch, rách cho thơm”, “Giấy rách giữ lấy lề”, họ đã không làm sai
luật mà còn làm tốt hơn cả quy định của luật thông qua các hoạt động từ thiện,
tương trợ,... Những tấm gương đó rất nhiều trong đời sống xã hội, đặc biệt trong
đồng bào các tôn giáo, những người có niềm tin ở “nhân quả”, tin ở “soi xét của
Đấng tối cao”.
Công tác vận động thông qua khen thưởng có vai trò ý nghĩa quan trọng
công tác tôn giáo. Nhiều giáo sỹ chức sắc, tôn giáo có công lớn đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tấm gương mẫu mực, tận tụy tham gia các hoạt
động thiện nguyện về Y tế, giáo dục, dạy nghề, nuôi dưỡng trẻ em nghèo…đã
được Chính quyền tôn vinh, khen thưởng với nhiều danh hiệu cao quý, tạo sự lan
tỏa về tinh thần bác ái, nhân văn trong xã hội. Do vậy đòi hỏi người làm công tác
tôn giáo cần có kỹ năng nhận biết, đề xuất khen thưởng một người để tạo được sự
ủng hộ hàng vạn người.
4.2.4. Hình thức vận động tranh thủ cảm hóa cá biệt
Trong đời sống xã hội nói chung và đời sống tôn giáo nói riêng, hình
thức vận động qua cảm hóa cá biệt có vai trò quan trọng. Đặc biệt trong những
404
lĩnh vực nhạy cảm, khó khăn như tôn giáo. Tranh thủ cá biệt, vận động cá biệt
là một phương pháp trong công tác tôn giáo, là việc làm khó khăn, thông qua
uy tín, vị trí, vai trò của cá nhân để tuyên truyền vận động.
Trong đồng bào các tôn giáo, do đức tin tôn giáo, do đời sống tôn giáo ít
nhiều có khoảng cách với đời sống thế tục, mà một bộ phận chức sắc, cá nhân
tôn giáo có lối sống không thích gần cán bộ trong bộ máy quản lý nhà nước,…
Trong số này có nhiều biểu hiện, tựu chung có hai dạng: 1) Những người có
niềm tin và thực hành tôn giáo sâu, thường có uy tín cao trong tổ chức và cộng
đồng tôn giáo của họ, nhưng họ không gần gũi với chính quyền (những người
ôn hòa thì họ không thể hiện qua lời nói hoặc hành động cực đoan công khai);
2) những người giữ khoảng cách tôn giáo, không tiếp cận, làm việc với chính
quyền (họ có tính cực đoan) thì lên tiếng chỉ trích, lôi kéo người có đạo xa lánh
thế tục,.. hai đối tượng này là những cá biệt, có tác động khá lớn trong cộng
đồng tôn giáo vì họ giữ giới và sống đời sống tôn giáo chuẩn chỉ.
Tranh thủ vận động được đối tượng cá biệt này cần tâm huyết, cần kiên
trì và sự chuẩn mực để thuyết phục, cảm hóa họ.
Tóm lại: trong thực tiễn công tác vận đông tôn giáo, khó có một hình
thức riêng biệt nào cho kết quả cao. Cần kết hợp các hình thức vận động, vừa
tuyên truyền, giáo dục thuyết phục, tranh thủ cá nhân. Xây dựng điển hình tập
hợp quần chúng tín đồ trong các phong trào thi đua yêu nước, vận động trực
tiếp qua thăm hỏi, gặp gỡ, tiếp xúc, đối thoại, trao đổi. Vận động tập trung và
vận động cá biệt; vận động bằng phương pháp kinh tế, hành chính, quản lý...
4.3. Phương pháp vận động chức sắc, tín đồ tôn giáo
Quần chúng tôn giáo có đặc thù là niềm tin tâm linh đối với họ rất thiêng
liêng. Bề trên tâm linh của họ là người rất đáng kinh trọng, môi trường tôn giáo
tâm linh của họ là môi trường thiêng liêng,.. Trong sự nhìn nhận của một số
người có tôn giáo, người không có tôn giáo là người không có đức tin, người
làm công tác chính quyền số đông là người không có tôn giáo, nên họ luôn giữ
khoảng cách nhất định. Như vậy, trong công tác vận động quần chúng tôn giáo
cần phải hiểu sự khác biệt và khoảng cách đó để có phương pháp phù hợp
trong tiếp xúc và vận động đồng bào có tôn giáo; đồng thời vạch rõ âm mưu lợi
dụng tôn giáo. Chính những phương pháp, kinh nghiệm vận động hiệu quả, đã
xử lý hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội, phát huy nguồn lực của
tôn giáo để xây dựng và phát triển đất nước.
405
4.3.1. Không lạm dụng “Chủ nghĩa vô thần khoa học”
Người cán bộ làm công tác vận động tôn giáo có lập trường và tư tưởng
cách mạng. Tuy nhiên trước các đối tượng tôn giáo và đồng bào tôn giáo,
không nên hoặc rất khéo léo khi nói về “Chủ nghĩa vô thần khoa học”. Đây là
vấn đề cần xác định rõ để tránh ngộ nhận về phân biệt, xúc phạm hoặc phủ
nhận tôn giáo.
Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng và đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì lý do tín
ngưỡng, tôn giáo.
Không chống tôn giáo, nhưng kiên quyết chống sự lợi dụng tôn giáo vì
mục đích chính trị phi tôn giáo, đi ngược với truyền thống văn hóa dân tộc.
4.3.2. Tôn trọng niềm tin tôn giáo
Tôn trọng đức tin tôn giáo của người có đạo, tránh xúc phạm tới tình cảm
tôn giáo của họ; cần có sự hiểu biết nhất định về giáo lý, giáo luật, lễ nghi của
từng tôn giáo trong công tác vận động, tuyên truyền đối với đồng bào có tôn giáo.
Nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo để
có ứng xử hài hòa, có phương pháp vận động phù hợp.
Bài học về phương pháp ứng xử, vận động tôn giáo của Hồ Chủ tịch hết
sức sâu sắc: Hồ Chủ tịch lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam cho tư
tưởng cách mạng, nhưng Người luôn quan tâm tới niềm tin tâm linh của đồng
bào các tôn giáo. Tiếp xúc với từng tôn giáo, Người đều thể hiện sự chân thành,
đúng mực qua ngôn ngữ, cử chỉ phù hợp với mỗi tôn giáo. Tôn trọng niềm tin và
ứng xử đúng mực với tôn giáo là nền tảng cho phương pháp vận động tôn giáo
hiệu quả.
4.3.3. Vận động tôn giáo là một phần trong vận động toàn dân
Vì mục tiêu chung xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong phong trào chung của toàn dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, các tổ chức, giới, đoàn thể, tôn giáo… phát huy thế mạnh riêng, khơi
dậy những tiềm năng riêng để thể hiện sự cống hiến tích cực và hiệu quả nhất.
Với sự nghiệp chung đó, với phương pháp khéo léo đó, đồng bào các tôn giáo sẽ
cùng nhau đoàn kết để thể hiện rõ nguồn lực tôn giáo của mình cống hiến cho
công cuộc bảo vệ, xây dựng phát triển đất nước.
406
Phương pháp này thực hiện được khi trở thành phong trào chung, thống
nhất nói và làm. Công tác vận động quần chúng tôn giáo hiệu quả phải đồng bộ
thông qua việc thực hiện tốt chính sách kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng và
hệ thống pháp luật; bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần, không ngừng nâng cao
đời sống mọi mặt của nhân dân.
4.4. Một số kinh nghiệm trong công tác vận động chức sắc, chức việc,
nhà tu hành, tín đồ tôn giáo phục vụ công tác thông tin, tuyên truyền
Trong thực tiễn công tác tôn giáo, mỗi người bằng năng lực, phẩm chất và
những nét riêng được thể hiện và đạt kết quả trong công tác vận động tôn giáo.
Thành công có ở rất nhiều người, nhưng kinh nghiệm trong công tác vận
động tôn giáo thì thật không dễ học và thực hiện. Tuy nhiên qua quá trình công
tác, qua đúc rút kinh nghiệm từ một số người có bề dày trong công tác tôn giáo,
xin chắt lọc một số kinh nghiệm trong vận động chức sắc, chức việc, nhà tu
hành và tín đồ tôn giáo như sau:
4.4.1. Khiêm tốn, chân thành, đúng mực
Người có đức tin tôn giáo thường sâu sắc, khi mới tiếp xúc với người lạ, với
chính quyền, họ thường ít nói, sống khép mình và quan sát người tiếp xúc qua cử
chỉ, lời nói, thái độ,… Trong khi người làm công tác tôn giáo có ba trạng thái:
(1) Người ít tiếp xúc, chưa hiểu về tôn giáo, chưa có kinh nghiệm giao
tiếp, trước mặt các chức sắc, nhà tu hành, tín đồ tôn giáo thường e dè.
(2) Người có đào tạo, có tìm hiểu về tôn giáo, có địa vị xã hội trong quan
hệ với tôn giáo, nhưng không có thực tiễn về tôn giáo, trước đối tượng tôn giáo
tỏ ra tự tin, ứng xử tỏ ra có quyền uy, bề trên;
(3) Người hiểu về tôn giáo, có thực tiễn về tôn giáo, nắm vững những vấn
đề cần trao đổi, vận động. Luôn điềm tĩnh, chủ động và làm chủ trong giao tiếp
với đối tượng tôn giáo; giữ nguyên tắc, có thế nào, không hứa với chức sắc, giáo
sĩ tôn giáo.
Để công tác vận động có hiệu quả, người cán bộ phải có kiến thức, có thái
độ chân thành thân thiện, đúng mực gần gũi với đối tượng tôn giáo. Đối tượng
tôn giáo nhìn vào người mà họ giao tiếp để họ cân nhắc có nên tin hay không
nên tin.
Người làm công tác tôn giáo, khi tiếp xúc, làm việc với các đối tượng tôn
giáo, có thể chưa hiểu nhiều về tôn giáo, có thể không có vị trí cao trong xã hội
nhưng khiêm tốn, chân thành, đúng mực, sẽ tạo được niềm tin cho người có tôn
407
giáo. Khi đã tin họ sẵn sàng nghe và theo, nếu không thì ngược lại. Đó là kinh
nghiệm rất quý của nhiều thế hệ đã đúc kết.
4.4.2. Hiểu biết về tôn giáo, nắm vững chủ trương, pháp luật
Nội dung này vừa là yêu cầu vừa là kinh nghiệm, trước đối tượng tôn giáo
không thể xuề xòa, nói sai, nói nửa vời.
Người làm công tác tôn giáo phải hiểu biết về đặc điểm tổ chức, lịch sử
hình thành, giáo lý, lễ nghi của từng tôn giáo cụ thể; nắm vững đường lối, chủ
trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến
lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
4.4.3. Có đạo đức, có nhân cách tốt
Tôn giáo có chuẩn mực đạo đức riêng, họ rất tôn trọng đạo đức và nhân
cách con người. Người làm công tác tôn giáo phải có đạo đức trung thực, có
nhân cách tốt, tác phong chuẩn mực gương mẫu, có lập trường tư tưởng, chính
trị vững vàng.
4.4.4. Hiểu rõ từng tôn giáo, đặc điểm riêng của từng vùng miền, nhất
là đồng bào dân tộc
Trong công tác vận động tôn giáo, nắm chắc đặc điểm từng tôn giáo là một
lợi thế tốt. Tuy nhiên cần nắm vững đặc điểm phong tục tập quán, nếp sống của
đồng bào tôn giáo ở các vùng miền. Người miền núi nhất là người dân tộc thiểu
số thường ít nói, nhưng khi tin họ luôn nghe theo hết sức chân thành. Đến với
người miền núi và đặc biệt là dân tộc thiểu số không cần nói nhiều. Nói ngắn
gọn, rõ, dễ hiểu và quan trọng nhất là nói phải đi đôi với làm, không được để
mắc sai lầm, một lần sai lầm trước họ là rất khó lấy lại niềm tin.
4.4.5. Một số trao đổi trong vận động, xử lý “điểm nóng” liên quan đến
tôn giáo
Thứ nhất, để xử lý “điểm nóng” có liên quan đến tôn giáo, việc đầu tiên là
phải xác định vụ việc có phải là “điểm nóng”. Khi có dấu hiệu “điểm nóng” phải
tìm hiểu kỹ và phân tích rõ nguyên nhân. Tìm ra đúng nguyên nhân, bản chất vụ
việc mới có thể xác định được phương pháp xử lý phù hợp.
Thứ hai, xử lý “điểm nóng” tôn giáo, bảo đảm phải đúng lý, đúng pháp
luật phù hợp với những quy định của tôn giáo (Hiến chương, Điều lệ, Điều
quy… của tổ chức giáo hội đã được Nhà nước chấp thuận). Kết hợp “luật Nhà
nước”, “luật tôn giáo” xem vụ việc có vi phạm “luật” không. Nếu có vi phạm
408
“luật” chỉ cụ thể đối tượng đã vi phạm theo quy định cụ thể ở “luật” nào. Chỉ
được vi phạm quy định của “luật” sẽ thuận lợi cho việc xử lý.
Thứ ba, tạo dư luận, vận động quần chúng đồng tình ủng hộ việc xử lý,
vận dụng khéo léo nguyên tắc “dùng đạo để giải quyết việc đạo”, phát huy vai
trò của cốt cán, chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo. Thực hiện phương châm:
không đẩy vụ việc bé thành to; bình thường thành phức tạp; Không để sơ hở tạo
cớ cho kẻ xấu lợi dụng, kích động, gây rối.
Thứ tư, tiến hành xử lý “điểm nóng tôn giáo” phải có sự phối hợp, tham
gia của các ban ngành, đoàn thể, đảm bảo thống nhất đồng bộ giữa các cơ quan,
đơn vị trong hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự điều
tiết của chính quyền.
Tóm lại, cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động đồng bào có
đạo. Công tác vận động quần chúng tôn giáo là nền tảng, là chỗ dựa cho quản lý
nhà nước về tôn giáo. Đó chính là việc phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, xây dựng cơ sở chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội ở mỗi địa
phương và trong phạm vi cả nước, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Trong các kỹ năng vận động chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các
tôn giáo, kỹ năng nào cần phải được quan tâm, chú trọng nhất, tại sao?
2. Có thể áp dụng một kỹ năng vận động cho tất cả các đối tượng không?
Lấy ví dụ?
409
Chuyên đề 3
NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
LỢI DỤNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO VI PHẠM PHÁP LUẬT
Tín ngưỡng, tôn giáo là hiện tượng tồn tại lâu đời sống xã hội loài người.
cho đến nay, không một dân tộc, quốc gia nào trên thế giới không có một hay
nhiều tôn giáo và số người theo các tôn giáo trên thế giới đã là hàng tỷ người.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, tín ngưỡng, tôn giáo đã có những ảnh
hưởng mạnh mẽ, sâu sắc đến cuộc sống của con người, đến đời sống chính trị -
xã hội của nhiều quốc gia, dân tộc. Thời gian qua, ở Việt Nam đã xuất hiện một
số vấn đề phức tạp về an ninh trật tự, xã hội liên quan đến hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo, có sự lợi dụng của thế lực xấu bên ngoài để lôi kéo, tập hợp và kích
động tín đồ và quần chúng nhân dân gây ra “điểm nóng” bức xúc trong dư luận
xã hội.
I. QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO TRONG PHÁP
LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA
Trên phạm vi quốc tế, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được ghi nhận
trong một số văn bản chính trị, pháp lý của Liên hợp quốc như: Hiến chương của
Liên hợp quốc năm 1945, Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm
1948 đã đề cấp đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Từ các văn bản của Liên
hợp quốc mà các quốc gia đã xây dựng văn bản pháp luật để quy định tính pháp
lý về hoạt động tôn giáo của mỗi quốc gia, nhằm đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, đảm bảo an ninh trật tự công cộng.
1.1. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được phê chuẩn
năm 1966, tại Điều 18 ghi rõ: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín
ngưỡng và tôn giáo. Tuy nhiên quyền tự do này vẫn bị giới hạn bởi những quy
định của pháp luật và những giới hạn này là cần thiết cho việc bảo vệ an toàn
trật tự công cộng, sức khỏe, hoặc đạo đức của công chúng hoặc những quyền tự
do cơ bản của người khác”.
1.2. Công ước Châu Âu năm 1990 quy định: Tại Điều 9 “Tự do thể hiện
tôn giáo cùng các niềm tin tôn giáo chỉ trở thành đối tượng bị hạn chế, được luật
pháp dự kiến, tạo thành các biện pháp cần thiết trong một xã hội dân chủ, đối
410
với an ninh cộng đồng, bảo vệ trật tự, sức khỏe đạo đức chung hoặc bảo vệ
quyền của những người khác”.
1.3. Hiến pháp năm 1947 của Cộng hòa Italia quy định “Các tôn giáo khác
Công giáo có quyền lập tổ chức theo điều lệ của mình nhưng không được trái
với trật tự pháp lý của Nhà nước. Quan hệ giữa các tổ chức tôn giáo đó và Nhà
nước do luật pháp quy định trên cơ sở thỏa thuận với những cơ quan đại diện
cho các tôn giáo đó”. Các giám mục Italia khi nhậm chức cũng tuyên thệ trung
thành với quốc gia. Lời thề có nhắc tới nghĩa vụ tôn trọng và giáo dục tín đồ tôn
trọng chính phủ theo những quy định của Hiến pháp, không tham gia, không
hoạt động và không giúp đỡ những nhóm người có thể gây tác hại cho quốc gia
và trật tự công cộng.
1.4. Luật năm 1905 của Cộng hòa pháp quy định: “Việc tụ tập để thực
hiện các ghi lễ tôn giáo phải báo cáo và chịu sự kiểm soát của cơ quan chính
quyền có chức năng giữ gìn trật tự công cộng. Cấm việc hội họp có tính chất
chính trị ở nơi chuyên dùng vào việc thờ cúng và thực hành ghi lễ tôn giáo”. Tại
Điều 27 quy định: “ Các nghi lễ, các cuộc rước tôn giáo tiến hành bên ngoài khu
vực nhà thờ và việc kéo chuông phải tuân theo những quy định của chính quyền
tỉnh, thành phố”. Tại Điều 35 của Luật cũng quy định “Giáo sỹ công khai bằng
lời nói hoặc bằng văn bản kêu gọi, khước từ thi hành pháp luật của nhà nước sẽ
bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm”.
1.5. Luật pháp của Cộng hòa Bỉ quy định, trách nhiệm hình sự đối với
giáo sỹ có hành vi và lời nói xúc phạm tới Chính phủ, luật pháp, sắc lệnh của
nhà vua cũng như đối với các hoạt động của chính quyền.
1.6. Hiến pháp năm 1946 của Nhật Bản quy định: “Quyền tự do tôn giáo
được đảm bảo cho tất cả mọi người. Không một đoàn thể tôn giáo nào được
nhận đặc quyền của Nhà nước, cũng như sử dụng quyền lực chính trị. Không
một ai bị cưỡng bức tham gia bất kỳ một hành vi, một nghi lễ hay một hoạt động
tôn giáo nào”. Sau sự kiện giáo phái Chân lý Aum khủng bố trong hệ thống
đường xe điện ngầm ở Tokyo năm 1995 bằng chất độc sarin gây chết người
hàng loạt. Hạ viện Nhật Bản đã thông qua đạo luật để tạo điều kiện cho Chính
phủ có quyền giám sát và điều tiết các tổ chức tôn giáo nhiều hơn. Quy định cụ
thể: “Nếu có việc tình nghi tới mức phải đình chỉ hoạt động của một tổ chức tôn
giáo nào đó, hay nếu được Bộ Văn hóa Giáo dục cho phép, nhà cầm quyền có
yêu cầu đoàn thể tôn giáo đó phải báo cáo về hoạt động của mình và có quyền
411
chất vấn các thủ lĩnh của tổ chức tôn giáo đó”. Các tổ chức tôn giáo đều phải
đăng ký ở Bộ Văn hóa Giáo dục và sau khi được chấp thuận mới được hoạt động
tại nơi đặt Văn phòng của tổ chức đó. Khi đăng ký tư cách pháp nhân, tổ chức
tôn giáo phải đăng ký địa điểm sinh hoạt tôn giáo, các công trình kiến trúc trên
địa điểm đó và tài sản của tổ chức và theo quy định của luật, các tài liệu cần
thiết để Bộ Văn hóa Giáo dục xem xét việc đăng ký cho một tổ chức tôn giáo
gồm: đơn xin đăng ký, tài liệu thuyết trình chứng minh là tổ chức tôn giáo.
1.7. Hiến pháp Liên bang Malaixia quy định: Hồi giáo là tôn giáo của
Liên bang, song cũng cho phép “mỗi công dân đều có quyền tin theo một tôn
giáo và có quyền truyền bá tôn giáo của mình”. Tuy nhiên, Hiến pháp Malaixia
cũng quy định: “Luật pháp của mỗi bang và Liên bang phải kiểm soát hoặc hạn
chế việc truyền bá bát kỳ một học thuyết tôn giáo hay tín ngưỡng nào đối với
những người đang theo Hồi giáo”.
Như vậy, các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến công tác quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Tại các nước phát triển tôn giáo cũng phải
tuân thủ pháp luật và phải chịu sự quản lý của nhà nước trong các hoạt động tôn
giáo. Luật pháp của các quốc gia nêu trên đều có quy chuẩn pháp lý để quy định
việc hoạt động thờ tự và tụ tập cầu nguyện của các tổ chức tôn giáo đều phải
công khai để đại diện các cơ quan chính quyền dễ dàng hiện diện tại đó và đều
có cơ quan quản lý, hướng dẫn, họ có thể hạn chế thực hiện quyền này nếu thấy
đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sự bình yên hoặc đạo đức xã
hội, hoặc để bảo vệ quyền và tự do cơ bản của người khác và các loại hình tổ
chức tôn giáo hoặc hoạt động tôn giáo làm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật
tự an toàn xã hội… đều không được phép hoạt động. Mỗi quốc gia giao cho cơ
quan khác nhau để quản lý như: Bộ Tư pháp, Bộ Giáo dục Văn hóa… hoặc có
thể là các cơ quan thuộc Chính phủ chuyên quản lý các vấn đề tôn giáo. Như ở
Cộng hòa Liên bang Đức, luật pháp hiện hành quy định: “Giáo hội có trách
nhiệm phải báo cáo trước cho Chính phủ bang biết về việc bổ nhiệm linh mục”.
II. HOẠT ĐỘNG LỢI DỤNG TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
GÂY PHỨC TẠP VỀ AN NINH TRẬ TỰ, CHIA RẼ ĐOÀN KẾT TÔN
GIÁO
1. Lợi dụng khai thác thông tin tình hình về tín ngưỡng, tôn giáo ở
Việt Nam để phê phán, xuyên tạc về chính sách, pháp luật và cổ súy cho các
hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái pháp luật
412
Các thế lực thù địch đi sâu tuyên truyền, gieo rắc tâm lý cho rằng: “Chủ
nghĩa xã hội không chấp nhận tôn giáo, xóa bỏ tôn giáo; công dân theo đạo
không được xét, kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam”; cố gắng tạo ra khoảng
cách cũng như dùng các thủ đoạn làm tăng sự đối kháng giữa tôn giáo với đời
sống hiện thực để kích động tôn giáo chống lại Đảng, Nhà nước và sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta. Cùng với xu thế hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa,
vấn đề dân chủ nhân quyền và tự do tôn giáo đang có nhiều quan điểm khác
nhau. Một số nước lớn trên thế giới mạo nhận là người bảo vệ dân chủ, nhân
quyền, tự do tôn giáo, dùng nhiểu thủ đoạn, chiêu bài để can thiệp, phê phán
công việc nội bộ của các nước khác, trong đó có Việt Nam. Vấn đề dân chủ,
nhân quyền và tự do tôn giáo đang trở thành vấn đề được quốc tế quan tâm và
cũng đang là đòi hỏi chính đáng của con người để vươn tới giá trị tự do của nhân
loại. Trong những năm qua, nhân quyền và tự do tôn giáo được dư luận quốc tế
đặc biệt quan tâm, không ít các học giả phương Tây rêu rao chiêu bài “quyền
con người, quyền tự do tôn giáo cao hơn chủ quyền” nhằm bao biện cho các
hành vi can thiệp vào công việc nội bộ của các nước nhỏ, nước đang phát triển
mà cụ thể là những nước có thể chế chính trị khác biệt so với các quốc gia
phương tây như: Mỹ và EU. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch cũng đang lợi
dụng vấn đề tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, áp dụng giá trị tự do tôn giáo
của Mỹ và EU vào Việt Nam, họ kiến nghị, hoạt động tôn giáo không cần quản
lý, vì đó là “nhân quyền” nhằm thúc đẩy các tôn giáo hoạt động trái pháp luật
nhà nước, để phá hoại và can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, nhằm
chia sẽ Đảng, Nhà nước với chức sắc, tín đồ tôn giáo và quần chúng nhân dân.
Về âm mưu và chiến lược “Diễn biến hòa hình”, vấn đề tôn giáo, dân chủ, nhân
quyền được chúng sử dụng như một vũ khí lợi hại; chúng ra sức lợi dụng những
bất cập trong đời sống xã hội như các vấn đề về môi trường, phòng chống dịch
bệnh Covid -19,… để tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách, pháp luật
của nhà nước ta, nhằm lôi kéo kích động chức sắc, tín đồ tuần hành, biểu tình
gây phức tạp về an ninh trật tự, gây lo lắng bức xúc trong dư luận xã hội.
2. Thế lực xấu bên ngoài lợi dụng các hoạt động tôn giáo thuần tuý,
để xuyên tạc vu cáo Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo
Trong những năm qua, Hoa Kỳ ban hành nhiều đạo luật về vấn đề tôn
giáo, quy định các chế tài chống lại các nước mà họ cho là “vi phạm quyền tự do
tôn giáo”. Các báo cáo về tự do tôn giáo quốc tế vẫn sử dụng thông tin thiếu
413
khách quan để nhận xét, đánh giá về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam; khi
tiếp xúc với Việt Nam luôn đặt vấn đề “cải thiện quyền con người” đòi “tự do
tôn giáo”; thậm chí có công hàm kiến nghị với nhà nước với quan điểm, tôn giáo
là nhu cầu tình thần nên không cần phải quản lý hoạt động tôn giáo; không cần
cấp phép công nhận điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo; không bắt tù nhân liên quan
đến tôn giáo và phải xử lý công chức chậm trễ thực thi công vụ… một số quan
chức chức Mỹ và EU và Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ khi vào Việt Nam
tiếp xúc với các nhóm, phái tôn giáo, chức sắc, cá nhân tôn giáo thiếu thiện chí,
có tư tưởng định kiến với Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp để thu thập
thông tin, tài liệu về tình hình hoạt động tôn giáo; khuyến khích cá nhân tôn giáo
thiếu thiện chí phát biểu, xuyên tạc chính sách, pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo
là bước thụt lùi; bóp nghẹt hoạt động tôn giáo, dẫn đến cơ chế xin cho; hình
thành nên các tổ chức tôn giáo thân hữu với chính quyền… vu cáo chính quyền
gây khó khăn, công khai đòi phục hồi các tổ chức tôn giáo cũ… phủ nhận kết
quả và thành tựu thực hiện chính sách tôn giáo của Việt Nam, để kiến nghị đưa
Việt Nam trở lại những nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo (CPC); năm
2010 Hạ viện Mỹ đưa ra dự luật thúc đẩy tự do dân chủ tại Việt Nam trong năm
2010 (mang số H.R.1410); và trong 5 năm qua Ủy ban tự do tôn giáo quốc tế
Mỹ vẫn sử dụng thông tin thiếu thiện chế về tự do tôn giáo ở Việt Nam để vu
cáo, xuyên tạc về chính sách, pháp luật của Việt Nam; mới đây ngày 21/4/2021,
Ủy ban tự do tôn giáo quốc tế Mỹ, công bố báo cáo thường niên về tình hình tôn
giáo thế giới năm 2020, rất đáng tiếc báo cáo vẫn sử dụng thông tin sai lệch về
tự do tôn giáo ở Việt Nam. Chính quyền Mỹ liên tiếp đưa ra các “sáng kiến” và
chính sách mới về vấn đề tự do tôn giáo như: thành lập “Liên minh tự do tôn
giáo quốc tế” (tháng 02/2020); khi tiếp xúc với Việt Nam, phía Mỹ luôn khuyến
Việt Nam, thực hiện điều ước quốc tế về quyền con người, tại Điều 18, Công
ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị; tăng chấp thuận đơn đăng ký công
nhận nhóm tôn giáo và đất đai tôn giáo và cho rằng hoạt động tôn giáo hạn chế
quản lý…
3. Lợi dụng không gian mạng để tuyên truyền, xuyên tạc nói xấu
Đảng, Nhà nước nhằm chia rẽ đoàn kết tôn giáo
Trong thế giới phẳng, việc thế lực xấu xây dựng các tổ chức lấy danh
xưng tôn giáo cùng với việc thiết lập các trang mạng xã hội như: Youtube,
facebook, blog… để phát tán, đăng tải các video, hình ảnh, bài viết tiêu cực, giật
414
gân để thu hút người truy cập, “like” “Shar” hàng ngày, hàng giờ với danh nghĩa
các tôn giáo để đả kích, nói xấu chế độ, kích động gây mâu thuẫn giữa quần
chúng tín đồ tôn giáo với chính quyền. Họ đi sâu vào những mặt trái của xã hội
để quy kết, hạ thấp uy tín của Đảng, Nhà nước Việt Nam; triệt để lợi dụng
không gian mạng tiến hành nhiều hoạt động chống phá Việt Nam trên các mặt
của đời sống kinh tế, văn hóa xã hội, ra sức tìm mọi cách khai thác lợi dụng
những sơ hở thiếu sót của Nhà nước Việt Nam trong thực hiện chính sách đầu
tư, phát triển kinh tế; khoét sâu mâu thuẫn nhằm chia rẽ nhân dân với nhân dân,
chia rẽ nhân dân với Đảng, Nhà nước, chia rẽ tôn giáo với chính quyền... Với
luận điệu chính trị, phản động nguy hiểm như: “chính quyền bao che cho doanh
nghiệp, tàn phá môi trường, bỏ quên quyền lợi của người dân”, kêu gọi tẩy chay
bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026; xuyên tạc
trên một số Websibe phản động, bầu cử là “màn kịch dân chủ” “Đảng đã chia
các ghế”… phản đối một số nội dung trong dự thảo Luật Đơn vị hành chính -
kinh tế đặc biệt và Luật An ninh mạng. Nhiều trang mạng, đài báo hải ngoại đã
xuyên tạc, bóp méo sự thật “Luật An ninh mạng là bóp nghẹt tự do, dân chủ”,
kích động biểu tình, tạo dư luận xấu trong cộng đồng thế giới, ảnh hưởng đến uy
tín của Việt Nam trong quan hệ hợp tác quốc tế… trong các vấn đề nêu trên, đã
có nhiều trường hợp bị cơ quan chức năng xử lý hình chính, thậm chí xử lý hình
sự, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật.
4. Lợi dụng những những vẫn đề phức tạp trong đời sống xã hội như:
vấn đề khiếu kiện đất đai của người dân; vấn đề ô nhiễm môi trường; công
tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, kích động chức sắc, tín đồ gây
phức tạp về an ninh trật tự
Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, tôn giáo là lĩnh vực nhạy cảm dễ
thu hút sự quan tâm chú ý của dư luận trong nước và quốc tế. Với âm mưu
chống phá của các thế lực xấu, trong những năm qua các đối tượng phản động,
chống đối chính trị ở ngoài nước, móc nối với một số phần tử cực đoan trong tôn
giáo cấu kết với các tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Đảng và Nhà nước Việt
Nam, tổ chức các cuộc “hội luận”, “họp báo”, soạn thảo và tán phát các tài liệu
có nội dung xuyên tạc, bịa đặt để tuyên truyền chống Đảng và Nhà nước Việt
Nam, nhất là trên các lĩnh vực dân chủ và nhân quyền. Họ đẩy mạnh xuyên tạc
Đảng và Nhà nước Việt Nam “đàn áp tôn giáo”, Việt Nam “không có tự do tôn
giáo”; lợi dụng những vấn đề phức tạp trong xã hội như: thu hồi đất đai, đền bù,
415
giải tỏa; vấn đề ô nhiễm môi trường; công tác đấu tranh phòng chống tham
nhũng, thu phí BOT…để dụ dỗ, lôi kéo những người đi khiếu kiện kích động
tham gia tuần hành, chống chính quyền; chúng gắn tôn giáo ở Việt Nam với
“dân chủ, nhân quyền”, ra sức đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc
chính sách, pháp luật về tôn giáo, vu cáo Việt Nam không có tự do tôn giáo.
Thủ đoạn của chúng khi những người đi khiếu kiện tụ tập đông người sẽ
trương các băng zôn, khẩu hiệu phê phán chính quyền, “bao che cho doanh
nghiệp, tàn phá môi trường, bỏ quên quyền lợi người dân” hoặc những khẩu
hiệu kích động “giờ tôi biết tôi tin vào ai”; thậm chí ở vụ việc lợi dụng khiếu
kiện đền bù sự cố môi trường biển do Công ty Fomosa gây ra, có khoảng 2.000
giáo dân ở xã Thạch Bằng, xã Thạch Kim, (huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh, tháng
5/2017) đã mang băng rôn, khẩu hiệu, loa thùng kéo đến trụ sở UBND huyện
Lộc Hà, gây rối an ninh trật tự, làm cho UBND huyện bị đình trệ hoạt động,
trong nhiều giờ; đồng thời chúng chuẩn bị phương tiện tổ chức ghi âm, ghi hình
các hoạt động để truyền ra bên ngoài, tạo thế “nội công, ngoài kích” để bọn phản
động lưu vong, phối hơp truyên truyền bình luận trên các trang mạng, diễn đàn,
hội luận…chống Đảng, Nhà nước, với những chiêu thức thể hiện rất đơn sơ, rất
bình thường, tạo nhóm, tao trang, chia sẽ trên các mạng xã hội để tiếp cận nhiều
người sử dụng mạng xã hội… với mục tiêu làm cho người dân, đặc biệt là một
bộ phận tín đồ ngoan đạo “cuồng đạo” hoang mang, dao động, không rõ thực
hư, like, (comment) bình luận, chia sẻ không rõ bản chất vụ việc, do thiếu thông
tin nên đã tạo ra lượng lớn tín đồ quần chúng tham gia, khuếch tán, lan tỏa các
hoạt động kích động chống phá của thế lực xấu và tin tưởng vào số chức sắc cực
đoan, điều này thực sự nguy hiểm và gây phức tạp trong đời sống tôn giáo.
5. Lợi dụng các vụ việc khiếu kiện về quy hoạch đất đai, thu hồi, đền
bù giải phóng mặt bằng… để lôi kéo, kích động giáo dân tuần hành, gây
phức tạp về an ninh trật tự
Thực tế trong những năm qua, lợi dụng một số vụ việc phức tạp liên quan
đến đất đai tôn giáo như: Vụ việc tại số 42 Nhà Chung, số 178 Nguyễn Lương
Bằng, Hà Nội; vụ việc tại Giáo xứ Cồn Dầu, Thành phố Đà Nẵng và vụ việc xả
thải gây ô nhiễm môi trưởng biển miền Trung của công ty Fomosa; vụ việc gây
rối tại Bình Thuận; vấn đề đất đai ở Thủ Thiêm, TP. Hồ Chí Minh…Thực tế có
nhiều vấn đề trong quy hoạch phát triển kinh tế đất nước, phải thu hồi đất đai.
Bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, dù thể chế chính trị khác nhau, nhưng trong
416
quá trình phát triển, đặc biệt là trong quá trình đô thị hóa cũng đều vấp phải
những khó khăn về giải phóng mặt bằng, đền bù, giải tỏa đất đai và sẽ dẫn đến
khiếu kiện, khiếu nại. Tuy nhiên, có nhiều vụ việc không liên quan đến đất đai
tôn giáo, nhưng thế lực xấu kích động một số chức sắc tôn giáo có tư tưởng định
kiến với Đảng, Nhà nước và chế độ lôi kéo tín đồ tham gia biểu tình đòi đất, đòi
lại tài sản cho Giáo hội… Trong các diễn biến của các vụ việc, số thế lực xấu
triệt để khai thác thông tin thiếu khách quan, để tuyên truyền, bình luận phê
phán đổ lỗi cho chính quyền. Bên cạnh đó, chúng tập hợp thông tin sai sự thật
phản ánh kiến nghị đến các tổ chức quốc tế và Đại sứ quán một số nước tại Việt
Nam quan tâm đến vấn đề tôn giáo để kiến nghị can thiệp; đồng thời đưa thông
tin ra bên ngoài, tạo dư luận xấu về tình hình tự do tôn giáo và chính sách tôn
giáo của Việt Nam. Một số chức sắc cực đoan trong tôn giáo do bị lợi dụng, kích
động và nhận thức về pháp luật hạn chế đã lợi dụng tòa giảng để nói xấu chính
quyền, kích động giáo dân tuần hành, chống người thi hành công vụ, gây bức
xúc trong tín đồ tôn giáo và quần chúng nhân dân. Đặc biệt là mỗi khi Nhà nước
ban hành hoặc bổ sung những văn bản pháp luật mới để điều chỉnh các hoạt
động tôn giáo cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của
đất nước, phù hợp với tâm tư, tình cảm, nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của chức
sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo thì chúng lại dấy lên chiến dịch phủ nhận, bãi
bỏ văn bản pháp luật này, hoặc xuyên tạc. Chúng tâng bốc ca ngợi quyền tự do
tôn giáo của các nước tư bản, tôn giáo được tự do hoạt động, không phải đăng
ký xin phép chính quyền…Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy, trong những số
này có người do chưa nhận thức hết bản chất và hậu quả và có những người do
cố tình, có ý đồ riêng muốn các hoạt động tôn giáo thoát ly khỏi sự quản lý của
nhà nước. Họ phải hiểu rằng, tổ chức tôn giáo là một tổ chức mang tính xã hội,
mà đã là một tổ chức thì ở bất cứ quốc gia nào khi thành lập, hoạt động đều phải
chịu sự quản lý của nhà nước, dù họ là ai thì họ không thể đại diện cho hơn 27
triệu tín đồ tôn giáo Việt Nam, có vì mục tiêu của họ không.
6. Lợi dụng các hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật; lợi dụng một
số chức sắc, tín đồ tôn giáo có tư tưởng định kiến, bất mãn với Nhà nước và
chế độ để kích động gây phức tạp về an ninh trật tự
Do đặc điểm rất riêng và thực tế hoạt động tôn giáo tại Việt Nam, trước đây
các thế lực xấu lợi dụng tôn giáo để phục vụ mục đích chính trị của chúng. Ngày
nay, thế lực xấu vẫn không từ bỏ việc lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng
417
Việt Nam. Lợi dụng tính nhạy cảm của vấn đề tôn giáo, Họ cho rằng Pháp lệnh
Tín ngưỡng, tôn giáo (trước đây) và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay là sự
“đàn áp tôn giáo” bằng pháp luật của Nhà nước Việt Nam, không tạo điều kiện
cho các tôn giáo phát triển; từ đó, khoét sâu mâu thuẫn giữa các tôn giáo với
chính quyền các cấp. Đồng thời, móc nối, câu kết với một số tổ chức, cá nhân ở
trong nước và nước ngoài thành lập hoặc tích cực tham gia các hội, nhóm trái
pháp luật, mang danh nghĩa tôn giáo để tập hợp, phát triển lực lượng chống
đối. Một số chức sắc cực đoan lợi dụng các vấn đề chính trị - xã hội phức tạp để
kích động tín đồ xuống đường biểu tình, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Điển
hình như, lợi dụng sự cố môi trường ở các tỉnh miền Trung do Formosa gây ra,
một số chức sắc cực đoan trong Công giáo thuộc Giáo phận Vinh đã tổ chức, kích
động giáo dân tổ chức nhiều cuộc biểu tình, tuần hành dưới danh nghĩa “bảo vệ
môi trường”, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại các địa phương. Bên cạnh
hoạt động vi phạm pháp luật về đất đai, trong hoạt động tôn giáo cũng xảy ra các
vụ việc chưa tuân thủ các quy định của pháp luật, như thuyên chuyển, bổ nhiệm
chức sắc, chức việc, nhà tu hành trong các tôn giáo; việc thành lập các cơ sở tôn
giáo trực thuộc chưa được sự chấp thuận của chính quyền. Một số cơ sở đào tạo
của tôn giáo chưa nghiêm túc triển khai môn học về lịch sử Việt Nam và pháp
luật Việt Nam, là môn chính thức trong chương trình giảng dạy. Bên cạnh đó, vẫn
tồn tại việc “đào tạo kép”, cụ thể là đào tạo chức sắc ở trong nước kết hợp với cử
chức sắc ra nước ngoài đào tạo trái phép vẫn diễn ra ở một số tôn giáo,...
Số đối tượng cực đoan trong các tôn giáo cũng như các tổ chức, cá nhân
thiếu thiện chí với Nhà nước Việt Nam ở trong nước và nước ngoài đã triệt để
lợi dụng các vụ tranh chấp, khiếu kiện về đất đai liên quan đến tôn giáo để kích
động các hoạt động chống đối. Bên cạnh đó, tại một số cơ sở tôn giáo xuất hiện
hiện tượng thương mại hóa hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, lợi dụng lòng tin của
người dân để trục lợi, phát triển các hoạt động tâm linh mang màu sắc mê tín,
như hoạt động dâng sao giải hạn, bói toán, xem quẻ, cúng oan gia trái chủ, Câu
Lạc bộ tình người,...
Hoạt động lợi dụng tôn giáo và vấn đề tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội là hoạt động hết sức nguy
hiểm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây chia
rẽ giữa các tôn giáo, giữa tôn giáo với chính quyền, giữa quần chúng giáo dân và
những người không theo tôn giáo, tạo ra những yếu tố phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ
418
bùng nổ thành xung đột xã hội. Thủ đoạn của chúng không chỉ âm mưu tác động
vào tâm lý, tư tưởng của một bộ phận quần chúng, tín đồ mà còn ảnh hưởng trực
tiếp đến yên bình của người dân, tác động xấu đến đời sống xã hội, gây chia rẽ
trong nội bộ tổ chức tôn giáo. Trên thực tế, đã xảy ra một số vụ mâu thuẫn, xung
đột trong nội bộ nhân dân có liên quan tới tôn giáo do tác động bởi hoạt động
nói trên. Sự ổn định chính trị - xã hội ở một số nơi, một số lúc đã bị ảnh hưởng
gây tâm lý bức xúc và phản ứng của tín đồ đối với chính quyền; gây chia rẽ giữa
chính quyền với tôn giáo và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Chúng ta khẳng định, dù thế lực xấu có chống phá trên các mặt của đời
sống xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, nhân dân ta, chức
sắc, tín đồ tôn giáo ở Việt Nam luôn tin tưởng tưởng với kinh nghiệm bản lĩnh
chính trị, Đảng, Nhà nước Việt Nam tiếp tục khẳng định vị thế và uy tín lãnh
đạo đất nước ngày càng phát triển và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ngày
càng được đảm bảo tốt hơn. Điều này đã được được các quốc gia quan tâm đến
tình hình tự do tôn giáo của Việt Nam ghi nhận và khẳng định rõ về chính sách
tôn giáo nhất quán Đảng, Nhà nước Việt Nam. Điển hình như, trong cuộc gặp
giữa Nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với Giáo hoàng Benedicto XVI và
Thủ tướng Vatican, Hồng y Tarcisio Bertone vào năm 2007, phía Vatican cho
rằng: “Việt Nam là một hình mẫu về chính sách tôn giáo gắn với sự phát triển
của cộng đồng” và Thứ trưởng Ngoại giao Ettore Balestrero của Vatican cũng
từng nói: “Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực và thực hiện nhất quán và không
ngừng hoàn thiện chính sách tôn trọng và bảo đảm tự do tôn giáo của mọi
người” hoặc như ông A. Herrador Cố vấn chính trị phái đoàn EU tại Việt Nam
đã phát biểu tại hội thảo giữa Ban Tôn giáo Chính phủ với Phái đoàn Liên minh
Châu Âu tại Việt Nam, tháng 9/2014 tại Hà Nội đã nêu rõ quan điểm “Thời gian
qua Việt Nam đã có những bước phát triển rất quan trọng trong việc bảo đảm tự
do tôn giáo, tín ngưỡng”.
III. MỘT SỐ LẬP LUẬN PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM SAI TRÁI,
XUYÊN TẠC VỀ TÌNH HÌNH TỰ DO TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
1. Nhận diện và phê phán các quan điểm sai trái của các thế lực thù
địch, xuyên tạc về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
Sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta lãnh đạo, Việt Nam
đã đạt được những thành tựu to lớn, trong đó có lĩnh vực tôn giáo. Các nhận
định nêu trên không đúng cả phương diện lý luận và thực tiễn. Vì theo luật pháp
419
của mỗi quốc gia như phân tích nêu trên, tổ chức tôn giáo là tổ chức mang tính
xã hội mà đã là tổ chức thì ở bất kỳ quốc gia nào khi thành lập và hoạt động phải
chịu sự quản lý của nhà nước.
Nếu lấy mốc thời gian năm 2006, khi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa Việt
Nam ra khỏi danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về vấn đề tôn giáo để
so sánh với thời điểm hiện nay sẽ thấy sự thay đổi mạnh mẽ trong đời sống tôn
giáo tại Việt Nam. Nếu không có chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
thì không thể có 41 tổ chức tôn giáo được công nhận và đăng ký hoạt động như
hiện nay, từ chỗ chỉ có 03 tôn giáo đã được công nhận từ trước là: Hội thánh Tin
lành Việt Nam (miền Bắc), Giáo hội Công giáo Việt Nam, Giáo hội Phật giáo
Việt Nam; thì trong những năm qua, nhà nước Việt Nam đã lần lượt xem xét và
công nhận thêm các tổ chức cho các tôn giáo như: các Ban đại diện cộng đồng
Hồi giáo; 10 Hội thánh Cao đài, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo; 11 Hội thánh Tin
lành… Trong hai năm 2019-2020, mặc dù dịch bệnh Covid-19 có diễn biến
phức tạp, nhưng chính quyền các cấp vẫn quan tâm hướng dẫn, chấp thuận cho
các tổ chức tôn giáo sửa chữa, nâng cấp gần 500 cơ sở tôn giáo và xây mới hơn
600 cơ sở. Chính quyền các cấp quan tâm chấp thuận để các tổ chức tôn giáo mở
các học viện, đại chủng viện, các lớp cao đẳng, trung cấp của các tổ chức tôn
giáo được mở ra tại nhiều tỉnh, thành phố, đáp ứng nhu cầu đạo tạo của tôn giáo;
đặc biệt trong Luật tín ngưỡng, tôn giáo đã quy định rõ hơn về quyền và nghĩa
vụ của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được sinh hoạt tôn giáo
tại các cơ sở thờ tự… Giáo hội Phật giáo Việt Nam có 04 học viện Phật giáo,
(trong đó có Học viện Phật giáo TP. Hồ Chí Minh, được Chính phủ chấp thuận
cho đào tạo Tiến sỹ); 32 trường trung cấp, 08 lớp Cao đẳng Phật học với hàng
ngàn tăng, ni sinh theo học. Giáo hội Công giáo Việt Nam có 07 Đại chủng Viện
và 09 cơ sở đào tạo với hàng ngàn chủng sinh. Hội thánh Tin lành Việt Nam đã
mở các khóa đào tạo học viên ở Viện Thánh kinh thần học ở Hà Nội và TP. Hồ
Chí Minh với số lượng chủng sinh ngày càng tăng trong 3 năm qua (2019, 2020,
2021) là gần 900 người…
Các cá nhân, tổ chức tôn giáo ở Việt Nam một mặt đánh giá cao những
tiến bộ tích cực của sự đổi mới về chính sách, pháp luật tín ngưỡng, tôn giáo
trong những năm qua đã mang lại đời sống tôn giáo sinh động, đa dạng, cởi mở.
Mặt khác với tư cách là người hưởng thụ chính sách và phản biện xã hội, thì số
liệu về kết quả thực hiện chính sách nêu trên, các tôn giáo bày tỏ niềm vui và
420
tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Tại cuộc Hội
thảo quốc tế tại Washinghton D.C vào tháng 5 năm 2015 với chủ đề: “Tôn giáo
và pháp quyền - so sánh Việt Nam và Hoa Kỳ”, Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm,
Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam sau khi trình bày về
chính sách tôn giáo ở Việt Nam và phát biểu tại Hội nghị: “Như vậy, rõ ràng là
Nhà nước Việt Nam đã có những bước tiến dài trong việc thể chế hóa các quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng và các hoạt động của các tổ chức tôn
giáo. Việc ban hành hàng loạt quy định, nghị định, chỉ thị, thông tư và nhất là
Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo đã thể hiện quyết tâm xây dựng nhà nước pháp
quyền (XHCN) trên lĩnh vực quản lý tôn giáo. Việc làm này đã nhận được sự tán
đồng và sự ủng hộ từ chức sắc, tín đồ tôn giáo và nhân dân nói chung. Từ nhiều
năm nay, đường hướng hành đạo: sống Phúc âm giữa lòng Dân tộc của Công
giáo; Nước Vinh đạo sáng của đạo Cao Đài, hay Phụng sự Thiên Chúa, phục vụ
Tổ quốc và Dân tộc của Tin lành,.. đã và đang thực hiện có hiệu quả”.
Xét ở nội dung tổng thế các hoạt động phi nghĩa không tạo sự đồng tình
ủng hộ của đông đảo chức sắc và tín đồ các tôn giáo mà còn tạo ra sự lạc lõng
trong khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo ở nước ta. Trước những âm
mưu hoạt động của các thế lực xấu ra sức chống phá Việt Nam, nhưng dưới sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Chính phủ và chính quyền các cấp
đã phát huy hiệu lực hiệu quả và sức mạnh tổng hợp. Nhà nước Việt Nam đã ban
hành nhiều chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, tập trung đầu tư các
chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển khi tế các vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào có đạo… Các chính sách đó đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến nhu
cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của đồng bào có đạo làm cho quần chúng,
tín đồ và chức sắc tôn giáo yên tâm, phấn khởi thực hiện việc đạo, việc đời.
Công tác đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc về nhân quyền và tự do
tôn giáo cũng đạt kết quả tích cực; chúng ta đã linh hoạt vận động nhiều biện
pháp đấu tranh, tăng cường công tác thông tin, truyền truyền để chức sắc, tín đồ
và quần chúng nhân dân, nâng cao cảnh giác, hiểu rõ âm mưu thủ đoạn hoạt
động của đối tượng xấu, tổ chức cảm hóa, thuyết phục số “lừng chừng” chưa có
chính kiến; tấn công vô hiệu hóa số chống đối nhà nước đi ngược lợi ích của
Giáo hội và chức sắc, tín đồ; củng cố chứng cứ kiên quyết xử lý số vi phạm
pháp luật; tập trung đối thoại, lắng nghe giải quyết những kiến nghị chính đáng
421
và những bức xúc ngay tại cơ sở… đã góp phần ngăn chặn các thế lực bên ngoài
lợi dụng tôn giáo chống Việt Nam về dân chủ nhân quyền.
Từ khi đất nước thống nhất, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn ứng xử phù
hợp với các tôn giáo nhằm khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc trong các
chức sắc, tín đồ các tôn giáo; vận động họ sống tốt đời, đẹp đạo. Trong các văn
bản của Đảng, Nhà nước xác định tôn giáo đang và sẽ tôn tại với dân tộc, phát
huy gia trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của tôn giáo để xây dựng và
phát triển đất nước; trong giai đoạn cách mạng hiện nay, đồng bào tôn giáo là
lực lượng hưởng ứng rất sớm các phong trao thi đua yêu nước, phòng chống
thiên tại dịch bệnh, các tôn giáo đã đóng góp hàng trăm tỷ cho công tác phòng
chống dịch Covid 19; các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam kêu gọi các tổ chức tôn
giáo đồng đạo trên thế giới ủng hộ Việt Nam trong bảo vệ chủ quyền, biển đảo
của Tổ quốc, hối thúc các lãnh đạo Quốc gia thực hiện theo luật pháp quốc tế và
luật biển năm 1982; vận động tín đồ tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng
nhân dân, nhiệm kỳ 202102026, cam kết với các cấp chính quyền để tín đồ tham
gia đầy đủ nghĩa vụ của công dân…Điều này khẳng định chính sách nhất quán
của Đảng, Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo đã củng cố niềm tin của đồng bào
có đạo với Đảng, Nhà nước. Chính quyền các cấp đã phát huy hiệu lực, hiệu
quả, chủ động thông tin, tuyên truyền để các tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong và
ngoài nước hiểu và thực hiện đúng pháp luật; chủ động tuyên truyền đối ngoại
“về dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo” để các nước và các tổ chức quốc tế,
giảm thiểu nhìn nhận khác biệt, ủng hộ Việt Nam trong hội nhập quốc tế.
2. Việc xuyên tạc về chính sách, pháp luật nhất quán về tín ngưỡng,
tôn giáo của Nhà nước Việt Nam không phù hợp với công ước quốc tế về
quyền con người mà Việt Nam đã ký kết là thủ đoạn cũ, “bình cũ, rượu mới”
Như đã phân tích nêu trên, luận điệu xuyên tạc về tự do tôn giáo ở Việt
Nam không có gì mới, nhưng nguy hiểm ở chỗ họ cứ tuyên truyền, đánh vào
tâm lý, cứ nói mãi điều không có thật, người ta sẽ tin là có thật, nên đã làm cho
nhiều tổ chức, đặc biệt là người ở ngoài nước, không có thông tin chính thống
dẫn đến ngộ nhận, nhìn nhận sai lệch, mặc cảm, thiếu thiện chí, thậm chí có
những lời nói việc làm chống Việt Nam. Vậy, ta hãy nhìn nhận về chính sách,
pháp luật của nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành văn bản pháp luật, đảm bảo quyền tự do tôn giáo của mọi như thế nào trong từng giai đoạn cách mạng của đất nước.
422
Ở Việt Nam, từ khi Đảng ta khẳng định vai trò lãnh đạo cách mạng đã
luôn thực hiện nhất quán chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với từng
thời kỳ lịch sử. Nhờ đó, củng cố được sự đoàn kết giữa những người có và
không có tôn giáo và giữa các tôn giáo khác nhau trong khối đại đoàn kết dân
tộc. Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong sáu vấn đề
cấp bách trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 03/9/1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, vấn đề mang tính nguyên tắc trong chính sách tôn giáo
của Việt Nam “Tôi đề nghị Chính phủ tuyên bố tín ngưỡng tự do, lương giáo
đoàn kết”. Ngày 14/6/1955, Người ký Sắc lệnh số 234/SL về vấn đề tôn giáo
gồm 5 chương và 16 điều, quy định chi tiết và cụ thể về quyền tự do tín ngưỡng
tôn giáo của nhân dân. Sắc lệnh này được đồng bào có đạo nhiệt liệt hoan
nghênh ủng hộ và được khẳng định trong luật pháp của nhà nước, tại Chương I
của Sắc lệnh nêu rõ “Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ
cúng của nhân dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Mọi người Việt
Nam đều có quyền tự do theo một tôn giáo hoặc không theo một tôn giáo
nào....Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là quyền lợi của nhân dân. Chính
phủ luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân dân thực hiện. Chính quyền không can thiệp
vào nội bộ các tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo phải tuân theo pháp luật của nhà
nước như mọi tổ chức khác của nhân dân. Việc bảo vệ tự do tín ngưỡng bắt buộc
phải trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo gây rối loạn”. Người từng kêu gọi các
tôn giáo hãy xóa bỏ hiềm khích, đoàn kết cùng toàn dân lo cho nền độc lập của
nước nhà vì “Công giáo hay không Công giáo, Phật giáo hay không Phật giáo
đều phải nỗ lực đấu tranh cho nền độc lập của nước nhà. Nhiệm vụ của toàn thể
chúng ta là phải giữ vững nền độc lập, toàn thể đồng bào ta không chia lương
giáo, đoàn kết chặt chẽ, quyết lòng kháng chiến để giữ gìn non sông, tổ quốc và
cũng để giữ gìn tín ngưỡng tự do”.
Sau khi đất nước thống nhất, ngày 11/11/1977, Hội đồng nhà nước đã ban
hành Nghị quyết số 297-CP với năm nguyến tắc: (i). Bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. (ii). Bảo đảm bình đẳng trước pháp
luật giữa người có tín ngưỡng và người không có tín ngưỡng. (iii). Bảo hộ quyền
lợi và nghĩa vụ của công dân của người theo đạo và không theo đạo (iv). Định
chế các các hoạt động tôn giáo trong khuân khổ pháp luật; (v). Chế tài những
hành động lợi dụng tôn giáo phương hại đến lợi ích của đất nước của dân tộc.
423
Quan điểm về công tác tôn giáo được Đảng, Nhà nước ta thể hiện trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng và được khẳng định trong các bản Hiến pháp
1946, 1959,1980 và Hiến pháp năm1992 sửa đổi, bổ sung 2013, khẳng định rõ
về quyền tự do tôn giáo; Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng chủ thể là “mọi
người” không phân biệt, dù họ có bị mất quyền công dân thì vẫn có quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo, thể hiện tại Điều 24 như: “Mọi người có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình
đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo...”. Đảng ta xác định, tôn giáo tiếp tục tồn tại lâu dài cùng với sự phát triển
của xã hội, đoàn kết tôn giáo, hoà hợp dân tộc là yêu cầu quan trong đối với quá
trình xây dựng và phát triển đất nước. Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm đến
nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, ban hành nhiều chủ trương, chính
sách pháp luật về công tác tôn giáo như: Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày
16/10/1990 về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, trong đó xác
định “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu
tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hơp
với công cuộc xây dựng xã hội mới”. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có
nhiều thay đổi, căn cứ vào thực tiễn đời sống tín ngưỡng, tôn giáo; Đảng ta đã
ban hành Nghị quyết số 25/ NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng về công tác tôn giáo; trong đó quan điểm về chính sách tôn giáo đối
với tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục được khẳng định và phát triển đó là: “Tín
ngưỡng, tôn giáo là tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng
dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn
giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính
sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật”.
Thể chế các chủ trương, quan điểm của Đảng về công tác tôn giáo bằng
các văn bản pháp luật, tạo hành lang pháp lý ổn định để các tôn giáo hoạt động.
Quốc hội khoá XI đã ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo quy định về các
hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2005/ NĐ-
CP ngày 01/3/2005 Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng
tôn giáo và Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 quy định chi tiết và
biện pháp thi hành pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo không chỉ thực hiện nhất quán chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
424
về đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Pháp lệnh bao hàm
các nội dung điều chỉnh ngày càng thông thoáng và phù hợp với Công ước quốc
tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết. Năm 2008, Thủ tướng Chính phủ
ban hành Chỉ thị 1940/CT-TTg về nhà đất liên quan đến tôn giáo... Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 92/NĐ-CP quy định chi tiết biện pháp thi hành Pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (thay thế Nghị định số 22/2005/NĐ-CP). Năm 2005,
Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg về một số công tác
đối với đạo Tin Lành để giải quyết những vấn đề tồn tại và mới phát sinh liên
quan đến sinh hoạt tôn giáo của người dân theo đạo Tin Lành, nhất là đồng bào
dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và người Mông, người Dao ở các tỉnh miền núi
phía Bắc nhằm bình thường hóa sinh hoạt tôn giáo của đạo Tin Lành, làm cho
người dân theo tín ngưỡng, tôn giáo yên tâm gắn bó với cộng đồng.
Quốc hội khóa XIV, thông qua Luật tín ngưỡng, tôn giáo, ngày
18/11/2016, có hiệu lực ngày 01/1/2018. Luật được ban hành, đã thể hiện trách
nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật và mọi người có
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Trong
đó, tại Điều 8 của Luật tín ngưỡng, tôn giáo cũng quy định, người nước ngoài cư
trú hợp pháp tại Việt Nam được nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo hộ quyền
tự do tín ngưỡng tôn giáo, được sinh hoạt tôn giáo và quy định chức sắc, nhà tu
hành là nười nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được giảng đạo tại các cơ
sở tôn giáo; Chính phủ ban hành Nghị định số 162/NĐ-CP, ngày 30/12/2017,
quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo.
Đặc biệt trong quá trình soạn thảo xây dựng Luật và Nghị định, cơ quan soạn
thảo đã chủ động tổ chức hội thảo lấy kiến khoảng hơn 70 tổ chức tôn giáo và tổ
chức tôn giáo trực thuộc như: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Phật giáo Hòa
Hảo, Tịnh Độ Cư sỹ Phật hội Việt Nam… và chuyên gia tư vấn của nước ngoài;
công bố trên cổng thông tin của Chính phủ và của Ban Tôn giáo Chính phủ để
lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân và tín đồ các tôn giáo góp ý. Mới đây, tại Văn
kiện đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định “tạo điều kiện cho các tổ chức
tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật, chủ động giúp đỡ, giải quyết các
nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng, đồng thời chủ
động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng,
425
tôn giáo để chia rẽ phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao năng lực
và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo”.
Đây là những văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp những nội dụng cơ
bản trong các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta, tạo sự đồng thuận trong
chức sắc tín đồ các tôn giáo tích cực tham gia xây dựng và phát triển kinh tế đất
nước. Hiện nay, Việt Nam đã trở thành thành viên của Liên hợp quốc và là thành
viên của hều hết các công ước quốc tế về quyền con người. Việt Nam là thành
viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Nhà nước Việt Nam đã thể hiện đầy
đủ sự quan tâm đến lợi ích chính đáng của đồng bào có đạo; đồng thời thể hiện
thái độ rõ ràng, dứt khoát đối với mọi hành vi, vi phạm pháp luật về tín ngưỡng,
tôn giáo như: nghiêm cấm việc xâm phạm các quyền tự tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân; ép buộc công dân theo tôn giáo hoặc bỏ tôn giáo mà họ tin theo hoặc
lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà bình, độc lập dân tộc, thống
nhất đất nước; kích động bạo lực tuyên truyền chiến tranh…
3. Thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo, đảm bảo quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người, phản bác luận điệu xuyên tạc của thế
lực xấu
Có thể khẳng định, sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã
đạt được những thành tựu to lớn, trong đó có lĩnh vực tôn giáo. Nếu lấy mốc thời
gian năm 2006, khi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các
quốc gia cần quan tâm đặc biệt về vấn đề tôn giáo để so sánh với thời điểm hiện
nay sẽ thấy sự thay đổi mạnh mẽ trong đời sống tôn giáo tại Việt Nam. Nếu
không có chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo thì không thể có 41 tổ
chức tôn giáo được công nhân và đăng ký hoạt động như hiện nay, từ chỗ chỉ có
03 tôn giáo đã được công nhận từ trước là: Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền
Bắc), Giáo hội Công giáo Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam; thì trong
những năm qua, nhà nước Việt Nam đã lần lượt xem xét và công nhận thêm các
tổ chức cho các tôn giáo như: các Ban đại diện cộng đồng Hồi giáo; 10 hội thánh
cao đài, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo; 11 Hội thánh Tin lành…Trong hai năm
2019-2020, mặc dù dịch bệnh Covid-19 có diễn biến phức tạp, nhưng chính
quyền các cấp vẫn quan tâm hướng dẫn, chấp thuận cho các tổ chức tôn giáo, sửa
chữa, nâng cấp gần 500 cơ sở tôn giáo và xây mới hơn 600 cơ sở; các tổ chức tôn
giáo ở Việt Nam. Chính quyền các cấp quan tâm chấp thuận để các tổ chức tôn
giáo mở các học viện, đại chủng viện, các lớp cao đẳng, trung cấp của các tổ chức
426
tôn giáo được mở ra tại nhiều tỉnh, thành phố, đáp ứng nhu cầu đạo tạo của tôn
giáo; đặc biệt trong Luật tín ngưỡng, tôn giáo đã quy định rõ hơn về quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam …Giáo
hội Phật giáo Việt Nam có 04 học viện Phật giáo, (trong đó có Học viện Phật giáo
TP. Hồ Chí Minh, được Chính phủ chấp thuận cho đào tạo Tiến sỹ); 32 trường
trung cấp, 08 lớp Cao đẳng Phật học với hàng ngàn tăng, ni sinh theo học. Giáo
hội Công giáo Việt Nam có 07 Đại chủng Viện và 09 cơ sở đào tạo với hàng ngàn
chủng sinh. Hội thánh Tin lành Việt Nam đã mở các khóa đào tạo học viên ở Viện
Thánh kinh thần học ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh với số lượng chủng sinh ngày
càng tăng trong 3 năm qua (2019, 2020, 2021) là gần 900 người.
Đặc biệt, trong đại dịch Covid -19, các tôn giáo đã thể hiện sự đồng hành,
gắn bó với đất nước và nhân dân; tổ chức quyên góp và ủng hộ hàng nghìn tỷ
đồng; hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm thiết yếu và
các trang thiết bị y tế cần thiết cho công tác phòng, chống dịch Covid-19 thông
qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và chính quyền các cấp. Tại một số địa phương,
các tổ chức tôn giáo đã phối hợp với chính quyền, tình nguyện cho mượn cơ sở
tôn giáo làm nơi cách ly, lẫy mẫu xét nghiệm và điều trị Covid-19; chỉ đạo các
phòng khám, các phòng thuốc nam, Tuệ Tĩnh đường… chủ động phối hợp với
lực lượng y tế của chính quyền địa phương sẵn sàng chăm sóc cho bệnh nhân
Covid-19; vận động chức sắc, chức việc, tín đồ tham gia đóng góp ủng hộ Quỹ
vaccine phòng Covid-19 do Thủ tướng Chính phủ thành lập với số tiền hàng
chục tỉ đồng; tổ chức quyên góp, ủng hộ các thiết bị y tế thiết yếu cho các vùng
dịch; ủng hộ tiền mặt và cung cấp hàng nghìn tấn lương thực, thực phẩm, nhu
yếu phẩm thiết yếu cho các “siêu thị 0 đồng”, “gian hàng 0 đồng”; “tủ lạnh cộng
đồng”, “cây ATM gạo” “Bếp yêu thương”… và hàng trăm nghìn suất ăn miễn
phí để giúp đỡ, hỗ trợ cho người dân gặp khó khăn, không phân biệt có tôn giáo
hay không có tôn giáo.
Bên cạnh đó, các tôn giáo ở Việt Nam cũng đã thể hiện tinh thần quốc tế,
lòng nhân ái của người Việt Nam, ủng hộ cho các nước để phòng, chống dịch:
Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã ủng hộ bà con Việt kiều và chư tăng Phật giáo
tại Campuchia 500 triệu đồng, ủng hộ bà con Việt kiều và chư tăng Phật giáo tại
Lào 500 triệu đồng; trao tặng 133 máy thở và 50 máy tạo oxy trị giá gần 14 tỷ
đồng ủng hộ Chính phủ và nhân dân Ấn Độ; trao tặng 2.000 bộ kít thử Covid-19
cho Chính phủ và nhân dân Nepal, trị giá 600 triệu đồng. Ban Caritas -Tổng
427
Giáo phận TP. Hồ Chí Minh có thư ngỏ gửi giáo sỹ, giáo dân Công giáo vận
động đóng góp cho chương trình ủng hộ 4.000.000 khẩu trang y tế cho Tòa
Giám mục Phnôm Pênh (Campuchia)… nhằm chung tay đẩy lùi dịch bệnh. Các
hoạt động này cũng đã góp phần vào công tác đối ngoại nhân dân, thắt chặt thêm
tình hữu nghị giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trong 8 năm thực hiện Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và 03 năm thực
hiện Luật tín ngưỡng, tôn giáo đã có gần 21.800 có sở thờ tự được sửa chữa, xây
mới. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp hàng trăm hecta đất để xây dựng
cơ sở thờ tự của các tôn giáo, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân. Công tác báo chí, xuất bản liên quan đến tôn giáo cũng được nhà nước Việt
Nam quan tâm đáp ứng nhu cầu hoạt động với hàng ngàn bản in mỗi năm.
Hoạt động quốc tế của cá nhân, tổ chức tôn giáo góp phần thúc đẩy ngoại
giao nhân dân trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế. Cùng với sự phát triển
theo xu thế chung của thế giới và phù hợp với đường lối đối ngoại của Nhà nước
Việt Nam, các tổ chức tôn giáo mở rộng mối quan hệ với các tôn giáo trên thế
giới, với hình thức ngày càng phong phú, thông qua trao đổi đoàn, thảo luận về
giáo lý, giáo luật, lễ nghi; phương thức sinh hoạt; đào tạo, trao đổi về thần học
và kinh sách; các hoạt động duy trì cơ cấu tổ chức giáo hội và liên đới cộng
đồng tôn giáo; các hoạt động bác ái, từ thiện, viện trợ; các hoạt động tại các diễn
đàn quốc tế với các chủ đề hòa bình, bình đẳng, tiến bộ xã hội, dân số và gia
đình, môi trường và kinh tế, đạo đức xã hội và nghèo đói... đã góp phần giới
thiệu hình ảnh, đất nước con người Việt Nam đến với bạn bè thế giới. Theo
thống kê trong 4 năm qua, (từ 2015 -2019) đã có 175 tổ chức, với 690 đoàn ra
nước ngoài học tập, dự hội nghị, hội thảo, tham gia các diễn đàn tôn giáo thế
giới và khu vực; đăng cai, phối hợp tổ chức các Hội nghị, diễn đàn tôn giáo
trong khuôn khổ Liên Hợp quốc, ASEAN, quốc tế... đã có khoảng 327 tổ chức,
cá nhân tôn giáo nước ngoài, với 1.726 người nhập cảnh Việt Nam để hoạt động
tôn giáo, nội dung hoạt động hướng dẫn khóa tu, giảng đạo và tham gia hội nghị,
sự kiện của các tôn giáo ở Việt Nam. Bên cạnh đó, nhiều quan chức cấp cao của
Vatican sang Việt Nam như: Hồng y C.Sepe, Hồng y Ivan Dias, Bộ trưởng Bộ
loan tin mừng …; Tổng giám mục Leopoldo Girelli, Đại diện không thường trú
của Tòa thánh Vatican tại Việt Nam đã thực hiện 8 chuyến thăm mục vụ tại các
giáo phận Bắc, Trung, Nam… Tại các diễn đàn song phương, đa phương các tổ
chức tôn giáo Việt Nam đã thể hiện rõ tinh thần yêu chuộng hòa bình và lòng tự
428
hào dân tộc, tích cực ủng hộ và đóng góp sáng kiến vào các tuyên bố chung, góp
phần xây dựng thế giới hòa bình, giảm xung đột, bạo lực và chiến tranh vì lý do
tôn giáo, sắc tộc.
Hoạt động hợp tác đào tạo, bồi dưỡng chức sắc được các tổ chức tôn giáo
duy trì thường xuyên với hàng trăm tăng ni sinh Phật giáo tham dự các khóa đào
tạo, bồi dưỡng tại các nước Ấn Độ, Nhật Bản, Srilanca, Trung Quốc, Pháp, Thái
Lan, Myanmar, Mỹ, Trung Quốc; gần 250 linh mục, tu sỹ Công giáo được đào
tạo, bồi dưỡng chuyên ngành tôn giáo tại các nước Pháp, Italia, Philipin, Úc,
Thụy Sỹ, Áo, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha; hơn 20 mục sư, mục sư nhiệm chức thuộc
các hệ phái Tin lành đã được công nhận tư cách pháp nhân được đào tạo về thần
học tại Hoa Kỳ, Hồng Kông,… Hầu hết các tiến sĩ là chức sắc, tu sĩ tôn giáo đều
được đào tạo ở nước ngoài.
Trong quá trình đổi mới, hội nhập của Việt Nam, hoạt động quốc tế của
các tôn giáo diễn ra sôi động ở nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt động
quốc tế của các tôn giáo gia tăng về số lượng, phong phú về đối tác, đa dạng về
nội dung, hình thức góp phần giới thiệu hình ảnh, đất nước con người Việt Nam
ra thế giới; nổi bật như các hoạt động: Giáo hội Tin lành đã tổ chức thành công
lễ kỷ niệm 500 năm cải chánh đạo Tin lành và kỷ niệm 100 năm Tin lành vào
Việt Nam năm 2011; Hội nghị Nữ giới Phật giáo thế giới lần thứ 11 năm 2009;
giáo hội Công giáo tổ chức Tổng hội Dòng Đa minh thế giới tại Đồng Nai), với
đại biểu của hơn 80 Quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia; Hội đồng giám mục
Châu Á Giáo hội Phật giáo tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Vesak Liên Hợp
quốc năm 2019 tại chùa Tam Chúc, tỉnh Hà Nam với sự tham dự của 1.650 đại
biểu đến từ 112 quốc gia và vùng lãnh thổ)... các hoạt động tôn giáo quốc tế tổ
chức tại Việt Nam đều thành công tốt đẹp, đạt được mục tiêu, tuân thủ pháp luật,
an toàn, trang trọng, giàu bản sắc dân tộc Việt Nam, gây ấn tượng với bạn bè
quốc về đất nước, con người, lịch sử, văn hóa của Việt Nam, khẳng định chính
sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo; quy tụ kiều bào có tín ngưỡng, tôn giáo trong nước và ngoài
nước đoàn kết để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, và đặc biệt là ngoại giao văn hoá
- tôn giáo, góp phần tích cực trong hội nhập, phát triển và giữ gìn văn hóa dân
tộc, tăng cường tình đoàn kết hữu nghị giữa Việt Nam và các nước trên thế giới.
Mặc dù đất nước ta còn nhiều khó khăn và phải trải qua các cuộc kháng chiến
lâu dài, tàn khốc mà đến nay vẫn còn hậu quả nặng nề. Song có thể khẳng định
429
những thành tựu về thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo đã
chứng minh sự thay đổi về đời sống, tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng tiến bộ và
tích cực đã làm sáng tỏ chủ trương chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước
làm cho chức sắc, tín đồ củng cố niềm tin vào Đảng, Nhà nước, đã góp phần ổn
định chính trị xã hội, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư, phát triển kinh
tế đất nước. và khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc trong đồng
bào tín đồ các tôn giáo. Những chuyển biến trong đời sống tôn giáo trong những
năm qua đã góp phần giới thiệu với cộng đồng quốc tế về hình ảnh đất nước
Việt Nam đổi mới, hòa bình, ổn định và phát triển; phản bác luận điệu xuyên
tạc, thổi phồng, bóp méo của những tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí và chứng
minh rằng, những luận điệu đó chỉ là những tiếng nói lạc lõng, với âm mưu đen
tối của thế lực xấu nhằm phá hoại công cuộc xây dựng và phát triển.
Cho đến hôm nay, những quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật về
tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta đã làm chuyển biến và hướng các tôn
giáo về mục tiêu của cách mạng là xây dựng đất nước “Dân giàu nước mạnh, xã
hội dân chủ, văn minh” đã thể hiện sự đúng đắn của đường lối, quan điểm chỉ đạo
về công tác tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên, trong tổ chức thực hiện, còn
có hiện tượng nhận thức nóng vội, làm cho vấn đề trở nên phức tạp, Đảng, Nhà
nước đã kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn để công tác tôn giáo trở lại nề nếp và đúng
hướng, để các tôn giáo luôn đồng hành với dân tộc và chính quyền các cấp.
IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM
Việc đấu tranh ngăn chặn các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống
Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm, chiến lược lâu dài, là trách nhiệm của các cấp
các ngành và của cả hệ thống chính trị, trong đó cơ quan quản lý nhà nước có
vai trò quan trọng và đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng và tập trung
tham mưu làm tốt các nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất: Rà soát tham mưu xây dựng, sửa đổi văn bản pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo phù hợp với công ước Quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký
kết; phù hợp với các văn bản pháp luật chuyên ngành; hạn chế xung đột pháp
luật; thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước; tăng cường tuyên truyền phổ
biến chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo cho chức sắc, tín đồ tôn giáo
hiểu và nâng cao cảnh giác, không nghe, không tin luận điệu xuyên tạc của thế
lực xấu lợi dụng tôn giáo nhằm chống phá Việt Nam.
Thứ hai: Quan tâm giải quyết nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng
theo đúng quy định của pháp luật. Các cơ quan chức năng kịp thời phát hiện và
430
ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo tuyên truyền mê tín dị
đoan, phát triển các nhóm, phái tôn giáo mới trái quy định, hoạt động phức tạp,
xâm lấn ở nhiều tỉnh, thành phố gây phức tạp trong xã hội, gây mất đoàn kết
giữa các tôn giáo, tạo bức xúc trong quần chúng nhân dân. Chủ động thông tin
tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện truyền thông để vạch rõ âm mưu, thủ
đoạn, bản chất lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo của đối tượng xấu, đối tượng cơ
hội, các việc làm vi phạm pháp luật, giáo luật của số chức sắc cực đoan lợi dụng
tôn giáo.
Thứ ba: Các cơ cơ chức năng chủ động phối hợp chặt chẽ, có cơ chế biện
pháp đấu tranh, phản bác, ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tôn giáo chống Việt
Nam, hạn chế sơ hở để các thế lực xấu lợi dụng chống phá. Vì cuộc đấu tranh về
dân chủ, nhân quyền và lợi dụng tôn giáo là cuộc đấu tranh chính trị lâu dài,
phức tạp.
Thứ tư: Định kỳ sơ kết rút kinh nghiệm về những việc đã làm được, có
giải pháp khắc phục những hạn chế thiếu sót trong xây dựng thể chế, chính sách,
pháp luật, đảm bảo thực hiện ngày càng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của mọi người, củng cố niền tin của chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo với
Đảng, Nhà nước, làm thất bại âm mưu hoạt động của các thế lực thù địch lợi
dụng tôn giáo để chống Việt Nam về “ dân chủ, nhần quyền và tôn giáo”. Chủ
động thông tin, đối ngoại, cung cấp kết quả, thành tự trong thực hiện chính sách,
pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; hướng dẫn chức sắc tôn giáo khi tham dự các
cơ chế đối thoại, hội nghị, hội thảo quốc tế, khu vực thực hiện đúng chính sách,
pháp luật Việt Nam, bảo vệ lợi ích quốc gia; tranh thủ, vận động các tôn giáo
đồng đạo và chính giới các nước ủng hộ Việt Nam trong hội nhập quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Hướng dẫn số 14-HD/BTGTW về công tác tuyên truyền về dân tộc, tôn
giáo, Ban Tuyên giáo Trung ương, ngày 19/7/2021.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Kỹ năng nhận diện hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo (mang yếu tố tâm
linh) với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo có yếu tố mê tín dị đoan, vi phạm pháp
luật?
2. Kỹ năng đấu tranh với hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo viphamj
pháp luật (cần quan tâm tới nội dung gì, tại sao?)