Ban Tôn Giáo Chính Phủ (thuộc Bộ Nội Vụ) ban hành
TÀI LIỆU |
BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC, KỸ NĂNG NGHIỆP VỤ THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO VÀ CÔNG
TÁC TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO THEO QUYẾT
ĐỊNH
SỐ 219/QĐ-TTG NGÀY 21/02/2019 |
CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ |
(Ban hành theo kèm theo Quyết định số 1158
/QĐ-TGCP ngày 29
/ 9/2021 |
của Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ)
Chuyên đề 10
HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO MỚI Ở
VIỆT NAM
1.1. Một số cách hiểu về hiện tượng tôn giáo mới
Các nhà nghiên cứu trên thế giới khi nghiên cứu về hiện tượng tôn giáo
mới thường dùng cụm từ hiện tượng tôn giáo mới, giáo phái, tôn giáo bồng bềnh
hay phong trào tôn giáo mới,… Họ cho rằng hiện tượng tôn giáo mới hay phong
trào tôn giáo mới là những nhóm phái xuất hiện từ nửa sau thế kỉ XX trở lại đây,
phản ánh những nét mới trong sự chuyển biến niềm tin và lựa chọn niềm tin tôn
giáo của nhân loại.
- Theo quan điểm GS. Francoise Champion
- Trung tâm nghiên cứu
GSRL Sorbone - Pari, gọi hiện tượng tôn giáo mới là nhóm tôn giáo thiểu số,
nhóm tôn giáo bên lề, nhóm hỗn tạp chủng, nhóm bất tuân phục.
- Các học giả Mỹ - nơi có truyền thống đa nguyên tôn giáo, gọi hiện
tượng này là Phong trào tôn giáo mới. Gọi như vậy là để đối lập với tôn giáo
truyền thống. Nếu tôn giáo truyền thống như thường quan niệm là Kitô giáo, Do
Thái giáo, Islam giáo, Phật giáo, Ấn Độ giáo,... thì những nhóm tôn giáo kiểu
như Kỷ nguyên mới - xuất hiện phổ biến vào thập niên 60 - 70 (thế kỷ XX) trở
lại đây thì gọi là hiện tượng tôn giáo mới.
- ꢀ khu vực Đông Á, giới nghiên cứu Nhật Bản, Trung Quốc thường sử
dụng thuật ngữ tôn giáo mới, tân giáo, tân tôn giáo,… Đây là những hiện tượng
tôn giáo mới được xem là đối lập với tôn giáo truyền thống, xuất hiện sau tôn
giáo truyền thống và có một số hình thái, đặc điểm mới.
Như vậy, theo các nhà nghiên cứu thế giới, hiện tượng tôn giáo mới là
những hiện tượng có tính tôn giáo và mới xuất hiện trong những năm gần đây,
gọi hiện tượng tôn giáo mới là để đối lập với tôn giáo truyền thống. Nếu như tôn
giáo truyền thống là những tôn giáo vốn có lịch sử lâu đời, đã hình thành nên
một hệ thống ổn định, hoàn chỉnh về các phương diện giáo lý, cơ cấu tổ chức,
phương thức hoạt động, lễ nghi,... thì hiện tượng tôn giáo mới có lịch sử ngắn,
chỉ khoảng chục năm hoặc mấy chục năm gần đây.
Ở Việt Nam, vấn đề này được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và cũng
có nhiều tên gọi khác nhau như: giáo phái, hiện tượng tôn giáo mới, tạp giáo, tà
đạo, tà giáo, đạo lạ… tuy nhiên tất cả các tên gọi trên đều chỉ một hiện tượng có
tính tôn giáo mới xuất hiện trong thời gian gần đây, và với nhiều nhà nghiên cứu
thì họ thường nghiêng về thuật ngữ hiện tượng tôn giáo mới, đến nay thuật ngữ
này đã được dùng một cách rộng rãi bởi 4 lý do sau:
Một là, gọi đó là hiện tượng tôn giáo mới vì đây là những hiện tượng có
tính tôn giáo, xuất hiện trong thời gian gần đây nhằm tập hợp một số người xung
quanh một nhân vật tự xưng là "Đấng tiên tri", hóa thân của thần linh, siêu
nhiên, có những quyền năng phi thường đứng ra thành lập; có giáo lý riêng được
nhào nặn, lắp ghép từ nhiều nguồn sơ sài; có tổ chức lỏng lẻo; có nghi lễ riêng
hay cách thức thực hành nghi lễ nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ là những hiện
tượng có tính tôn giáo, chưa thể hiện với tư cách là một tôn giáo.
Hai là, gọi là tà đạo thì lại phải đặt trong mối quan hệ với chính đạo, vậy
lấy đạo nào làm chính đạo để phân biệt với tà đạo, đó chưa nói là một số hiện
tượng chưa hẳn đã là tà đạo.
Ba là, gọi là giáo phái thì đã khẳng định nó thuộc về một tôn giáo chủ lưu
nào đó tự tách ra thành một giáo phái độc lập.
Bốn là, nếu gọi là đạo lạ thì đây cũng chỉ là một phương diện (một nhóm)
nằm trong khái niệm hiện tượng tôn giáo mới và danh xưng "đạo lạ" khá trung
tính, dễ nhận được sự chấp nhận của người dân, cũng như cơ quan quản lý nhà
nước. Bởi lẽ, để chỉ hiện tượng này trong nhiều năm trước đã dùng các thuật
ngữ, "tà giáo", "giáo phái", "hệ phái" một cách chưa rõ ràng.
Khái niệm đạo lạ cũng là một phương diện (một nhóm) nằm trong khái
niệm hiện tượng tôn giáo mới và danh xưng đạo lạ khá trung tính, dễ nhận được
sự chấp nhận của giới bình dân cũng như cơ quan quản lý nhà nước. Bởi lẽ để
chỉ hiện tượng này trong nhiều năm trước, chúng ta hay dùng các thuật ngữ
như tà giáo, “giáo phái”, “hệ phái” một cách lẫn lộn, thiếu tường minh. Còn khái
niệm hiện tượng tôn giáo mới hiện nay khá hợp lý và những điều dẫn ra nói trên
có thể coi là những đặc điểm đề nhận diện các hiện tượng tôn giáo mới trong đời
sống thực tiễn.
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu bước đầu, khái niệm hiện tượng tôn
giáo mới được hiểu một cách chung nhất như sau:
- Theo nghĩa rộng, khái niệm hiện tượng tôn giáo mới để chỉ những hiện
tượng có tính tôn giáo, mới xuất hiện trong những năm gần đây do một người,
nhóm người tự xưng là “đấng tiên tri” khởi xướng trên cơ sở tổng hợp, vay
mượn giáo lý, lễ nghi của các tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống để hình thành
giáo lý riêng; có tổ chức riêng nhưng lỏng lẻo; có nghi lễ hay cách thức thực
hành nghi lễ riêng nhưng ở mức độ là những hiện tượng có tính tôn giáo, chưa
thể hiện với tư cách là một tôn giáo.
- Theo nghĩa hẹp, hiện tượng tôn giáo mới là niềm tin có tính chất tôn
giáo của một nhóm người trong xã hội, vay mượn từ các tôn giáo, tín ngưỡng
truyền thống để sáng tạo nên “nội dung mới”, khác với các tôn giáo, tín ngưỡng
truyền thống nhằm cầu xin về sức khỏe, tài lộc, chữa bệnh và những nhu cầu
thực tiễn của xã hội hiện tại.
- Hiện tượng tôn giáo mới nội sinh, là những hiện tượng tôn giáo mới ra
đời, hình thành ở trong nước.
- Hiện tượng tôn giáo mới ngoại nhập, là những hiện tượng tôn giáo mới
được du nhập từ nước ngoài vào Việt Nam.
1.2. Nguyên nhân hình thành và phát triển các hiện tượng tôn giáo
mới ở Việt Nam
1.2.1. Nguyên nhân khách quan
- Do mặt trái của sự chuyển đổi sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường ở Việt Nam là một trong những điều kiện
cho sự xuất hiện của các hiện tượng tôn giáo mới. Nền kinh tế thị trường cùng
với những quy luật cạnh tranh khắc nghiệt đã khiến cho một bộ phận người dân
trở nên kém tự tin vào đời sống hiện thực nên người ta tìm đến tôn giáo như một
nơi nương tựa tinh thần.
- Đặc biệt, một số người cho rằng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo cũng là
một “nghề”, nhưng để hoạt động trong các tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống thì
không có đủ khả năng, nên họ lập ra các hiện tượng tôn giáo mới để hành nghề.
- Do hậu quả của những bất ổn về tinh thần nhìn nhận sai lệch giá trị văn
hóa, đạo đức, tinh thần truyền thống, trong đó có giá trị tôn giáo.
- Thách thức của toàn cầu hoá và mặt trái của cơ chế thị trường là những
nguyên nhân chính khiến cho nhiều giá trị đạo đức, văn hoá, xã hội truyền thống
bị suy giảm. Bên cạnh đó còn phải kể đến một bộ phận người dân do trình độ
học vấn thấp, nhận thức kém dẫn đến nhận thức sai lệch, dễ tin, dễ theo và dễ bị
lừa, bị mê hoặc tìm đến các hiện tượng tôn giáo mới tin theo điều mê tín dị
đoan, tin theo những điều phản văn hóa đẫn đến các hành động cực đoan.
- Sự hạn chế trong việc đáp ứng nhu cầu văn hoá dẫn đến việc một bộ
phận người dân đã tìm đến những loại hình văn hoá khác, trong đó có các hiện
tượng tôn giáo mới để thỏa mãn nhu cầu giao lưu
sinh hoạt văn hóa tinh thần mà
các hiện tượng tôn giáo mới bằng nhiều hình thức đã lợi dụng lỗ hổng đó để
xâm nhập, phát triển.
- Quá trình toàn cầu hóa, mở rộng hợp tác quốc tế khiến cho giao lưu giữa
các xã hội, giữa các nền văn hóa ngày càng được tăng cường mạnh mẽ, trong đó
có các hiện tượng mang tính tôn giáo (hiện tượng tôn giáo mới) đã tạo điều kiện
cho một số hiện tượng tôn giáo mới du nhập từ nước ngoài vào Việt Nam. Đồng
thời với quá trình đó là các thế lực thù địch luôn tạo điều kiện cho hiện tượng
tôn giáo mới xâm nhập và hoạt động ở Việt Nam.
- Ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam, tình trạng phân ly tôn
giáo, tín ngưỡng truyền thống đã và đang diễn ra, phản ánh sự đa dạng và phức
tạp của cuộc sống đương đại. Niềm tin vào các tôn giáo truyền thống bị suy
giảm do bị gò bó vào giáo luật khắt khe, nội dung cứng nhắc, lễ nghi rườm rà
với những thể chế lỗi thời so với cuộc sống hiện đại dẫn đến một bộ phận quần
chúng tìm đến những niềm tin mới để bù đắp vào chỗ vắng nội tâm, để có cơ hội
giao lưu với người khác và thổ lộ tâm tình, mong được chia sẻ giúp đỡ họ vượt
qua những điều không vui trong cuộc sống. Vì vậy, con người cũng dễ dàng
chấp nhận các hiện tượng tôn giáo mới.
- Sự xuất hiện nhanh chóng các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam trong
những năm qua một mặt thể hiện nhu cầu tâm linh, mặt khác đã phản ánh những
bất cập của tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống, nhất là các vấn đề suy thoái tư
tưởng, đạo đức lối sống trước tác động của nền kinh tế thị trường, thể hiện qua
những biểu hiện thương mại hoá và thế tục hóa tôn giáo, tín ngưỡng làm cho
tính “linh thiêng” bị giảm sút.
1.2.2. Nguyên nhân chủ quan
- Do một số cán bộ, công chức và chính quyền các cấp chưa nhận thức
đầy đủ, kịp thời về bản chất của các hiện tượng tôn giáo mới; một số địa phương
chưa làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức chính trị, xã
hội cho quần chúng. Nhận thức, quan điểm trong đấu tranh xử lý đối với những
tác động tiêu cực của hiện tượng tôn giáo mới ở một số địa phương nhiều mặt
chưa thống nhất, chưa có sự quan tâm đúng mức.
- Công tác quản lý xã hội của một số địa phương chưa hiệu quả, chưa coi
trọng công tác vận động quần chúng, đội ngũ cán bộ, công chức có nhiều hạn
chế đã tạo kẽ hở cho hiện tượng tôn giáo mới nảy sinh, xâm nhập và phát triển.
Bên cạnh đó, hiện nay chưa phân định rõ chức năng quản lý, giải quyết hiện
tượng tôn giáo mới giữa các cấp, các ngành và việc vận dụng khung pháp lý
hiện có như thế nào để giải quyết vấn đề hiện tượng tôn giáo mới cho chính xác
và hiệu quả.
- Công tác xây dựng nếp sống văn hóa mới, xây dựng quy ước, hương ước
ở địa bàn khu dân cư chưa được quan tâm đúng mức cũng là một nguyên nhân
cơ bản cho hiện tượng tôn giáo mới nảy sinh, phát triển ở nhiều địa phương.
1.3. Phân loại các hiện tượng tôn giáo mới
1.3.1. Căn cứ phân loại hiện tượng tôn giáo mới
Phân loại hiện tượng tôn giáo mới là một nội dung quan trọng nhằm xác
định giải pháp cho từng loại hình hiện tượng tôn giáo mới, nhưng việc phân loại
dựa trên những luận cứ nào là một vấn đề cần được xác định và chỉ có như vậy
việc đánh giá, phân loại hiện tượng tôn giáo mới mới đảm bảo tính khách quan,
khoa học.
Có rất nhiều cách phân loại khác nhau về hiện tượng tôn giáo mới, mỗi
cách đều có những ưu thế và dựa vào những tiêu chí nhất định để làm cơ sở
phân loại. Tuy nhiên, các cách phân loại nếu đặt rời rạc thì vẫn chưa thể nào đạt
được sự nhìn nhận tổng thể, khách quan về hiện tượng tôn giáo mới.
Ở Việt Nam, việc phân loại các hiện tượng tôn giáo mới cũng không dễ
dàng bởi tính đa dạng của các hiện tượng tôn giáo mới cũng như mức độ độc lập
và thống nhất của các yếu tố tôn giáo tạo nên loại hình “tôn giáo mới”.
1.3.1.1. Về cơ sở lý luận
- Căn cứ vào lý thuyết, tư tưởng của hiện tượng tôn giáo mới.
- Căn cứ vào mối quan hệ giữa tư tưởng của hiện tượng tôn giáo mới và
giáo lý của các tôn giáo truyền thống mà hiện tượng tôn giáo mới tiếp thu.
- Lý thuyết, tư tưởng của hiện tượng tôn giáo mới và hệ thống tư tưởng
chính thống. Chú ý có sự đồng thuận hay xung đột, hay vừa đồng thuận vừa xung
đột trên một số nội dung cụ thể trong lý thuyết của hiện tượng tôn giáo mới.
1.3.1.2. Về cơ sở thực tiễn
- Phương thức hoạt động và mục đích của hiện tượng tôn giáo mới.
- Ảnh hưởng của các hiện tượng tôn giáo mới đối với kinh tế - xã hội, an
ninh, trật tự.
- Thái độ của các tôn giáo truyền thống và các giai tầng xã hội đối với các
hiện tượng tôn giáo mới hiện nay.
1.3.2. Theo cách phân loại thứ nhất (căn cứ vào nguồn gốc hình thành,
nội dung, giáo lý)
- Loại có gốc từ một loại tôn giáo lớn (chủ yếu là Phật giáo).
Loại hình này bao gồm một số loại hiện tượng tôn giáo mới có tên: Long
hoa Di lặc, Chân không, Tiên thiên đại đạo, Đạo Thiên cơ, Phật Mẫu địa cầu,
Chân tu tâm kính, Chân tâm bảo vệ di tích, Tiên Phật nhất giáo, Đạo nghiệp
chướng, Thông thiên vận hội,...
- Loại có nguồn gốc từ tín ngưỡng dân gian.
Loại hình này bao gồm một số loại hiện tượng tôn giáo mới có tên: Đoàn
18 Phú Thọ, Đạo Trần Hưng Đạo, Lạc Hồng Âu cơ, Khổng Minh Thánh đạo
hội, Đạo Cội nguồn, Đạo Tiên, Quốc Tổ Lạc Hồng, Hội Thuyền phái Trúc lâm
Yên tử.
- Loại hỗn dung tư tưởng giáo lý của các hình thức tín ngưỡng, tôn giáo khác.
- Loại từ nước ngoài xâm nhập vào Việt Nam.
Trong các hiện tượng tôn giáo mới thì có một số hiện tượng tôn giáo mới
có nguồn gốc từ nước ngoài, bao gồm: Thanh Hải Vô Thượng sư (từ Đài Loan),
Tam tổ Thánh hiền (từ Đài Loan), Nhất quán đạo (từ Đài Loan),…
Khi phân loại hiện tượng tôn giáo mới theo các tiêu chí này, cần làm rõ
một số nội dung sau:
Thứ nhất, làm rõ được hình thức và hệ lý thuyết của từng loại hiện tượng
tôn giáo mới;
Thứ hai, thấy được sự đan xen, giao thoa các hình thức tín ngưỡng, tôn
giáo ở Việt Nam trong các loại hình hiện tượng tôn giáo mới;
Thứ ba, khẳng định được không có loại hình hiện tượng tôn giáo mới
mang tính độc tôn và loại hình hiện tượng tôn giáo mới mới xuất hiện mà không
có sự tiếp thu tư tưởng của các loại hình tín ngưỡng dân gian truyền thống.
Thứ tư, làm rõ được loại hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện ở trong nước
và loại hiện tượng tôn giáo mới từ nước ngoài xâm nhập vào Việt Nam.
Phân loại hiện tượng tôn giáo mới theo nội dung, giáo lý và nguồn gốc
còn là sự giải thích đầy đủ hơn đặc điểm của hiện tượng tôn giáo mới ở Việt
Nam, đồng thời là cơ sở để có thể phân loại hiện tượng tôn giáo mới theo tính
chất hoạt động nhằm xác định nguyên nhân xuất hiện hiện tượng tôn giáo mới
và đề ra được giải pháp đối với từng loại hình hiện tượng tôn giáo mới.
1.2.3. Theo cách phân loại thứ hai (phân loại theo tính chất hoạt động)
Đây là cách phân loại cơ bản nhất, có ý nghĩa trên cả hai phương diện lý
luận và thực tiễn nhằm hiểu chính xác thực chất mỗi loại hình hiện tượng tôn
giáo mới. Phân loại theo tính chất hoạt động là cơ sở quan trọng để xây dựng
được giải pháp chung cũng như giải pháp cụ thể đối với loại hình hiện tượng tôn
giáo mới đang hoạt động ở nước ta hiện nay.
Căn cứ vào các nội dung: tên gọi, xuất xứ hình thành, giáo chủ, quá trình
hình thành, phát triển; tóm tắt giáo lý; một số quy định, giáo lý tôn giáo được
hiện tượng tôn giáo mới tiếp thu; nghi thức thờ phụng, kinh sách; ảnh hưởng;
phân loại và đề xuất biện pháp giải quyết, có thể phân loại các hiện tượng tôn
giáo mới theo tính chất hoạt động thành:
- Loại hiện tượng tôn giáo mới có mầu sắc chính trị tiêu cực, nguy hiểm,
ảnh hưởng xấu đến nhân phẩm con người, bản sắc dân tộc.
- Loại hiện tượng tôn giáo mới tác động cả hai mặt tích cực và tiêu cực
đến đời sống xã hội.
- Loại hiện tượng tôn giáo mới đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy
định của pháp luật, hoạt động không vi phạm pháp luật.
Tuy vậy, sự phân loại chỉ là tương đối vì các hiện tượng tôn giáo mới đều
có những điểm chung, song mỗi hiện tượng tôn giáo mới đều có những đặc điểm
riêng được thể hiện trong quá trình hoạt động của nó và không đứng ngoài 3 loại
hình hiện tượng tôn giáo mới trên. Phân loại hiện tượng tôn giáo mới là phương
pháp cơ bản để xây dựng hệ giải pháp, trong đó phân loại theo tính chất hoạt
động là phương pháp phân loại có cơ sở thực tiễn vững chắc hơn cả nhằm nhận
diện đúng hơn về hiện tượng tôn giáo mới.
1.4. Một số đặc điểm của hiện tượng tôn giáo mới
1.4.1. Về nguồn gốc hình thành
Các hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện và hoạt động ở Việt Nam chủ yếu
dưới hai dạng:
- Nhóm hiện tượng tôn giáo mới từ nước ngoài: Chủ yếu du nhập vào Việt
Nam qua Việt kiều, người Việt Nam đi học tập và lao động ở nước ngoài, cũng
như người Việt lấy người nước ngoài rồi trở về nước truyền bá và tổ chức các
hoạt động, một số hiện tượng tôn giáo mới theo các doanh nhân nước ngoài vào
làm ăn kinh tế ở Việt Nam, điển hình là: Thanh Hải Vô Thượng sư, Nhất Quán
Đạo,… Địa bàn xuất hiện và hoạt động của các hiện tượng tôn giáo mới ngoại
nhập chủ yếu là những trung tâm kinh tế lớn của miền Bắc như: Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh, Bắc
Ninh, Hải Dương,…
- Nhóm hiện tượng tôn giáo mới hình thành từ trong nước: Địa bàn xuất
hiện được chia làm hai dạng cơ bản ở hai khu vực khá rõ rệt, tương ứng với hai
nhóm thành phần tộc người.
+ Một là, các hiện tượng tôn giáo mới ảnh hưởng, hỗn dung, cải sửa từ
Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo và các hình thức thờ cúng truyền thống. Dạng
này chủ yếu do người Kinh lập ra, hình thành và phát triển tập trung ở vùng
đồng bằng Bắc Bộ và những nơi có đông người Kinh sinh sống, như: Đạo tràng
niệm Phật, Long Hoa Di Lặc,...
+ Hai là, các hiện tượng tôn giáo mới có nguồn gốc gắn với Công giáo,
Tin lành và một số chưa xác định nguồn gốc.
1.4.2. Về tên gọi
Đa số các “hiện tượng tôn giáo mới” đều cố gắng tạo cho mình một tên
gọi riêng để tránh trùng với tên gọi của các tôn giáo hoặc các “hiện tượng tôn
giáo mới” khác, một số hiện tượng tôn giáo mới có xu hướng sử dụng lại hoặc
sử dụng chung những tên gọi đã trở nên quen thuộc. Điều này có thể do người
đứng đầu, người sáng lập ra các “hiện tượng tôn giáo mới” chủ động dùng
những tên gọi quen thuộc để hấp dẫn người tin theo, nhưng cũng có thể họ từng
là người tin theo những hiện tượng tôn giáo mới đã có, nay muốn tách ra thành
lập một nhóm riêng.
1.4.3. Người đề xướng (người sáng lập, người đứng đầu)
- Người khởi xướng (người sáng lập, người đứng đầu) các hiện tượng tôn
giáo mới ở Việt Nam thì phụ nữ chiếm tỷ lệ khá cao, họ là những người trải qua
nhiều biến động của xã hội, những biến cố trong cuộc sống, đặc biệt là những
bất hạnh của cá nhân và
gia đình. Trong thời gian gần đây, xu hướng phụ nữ làm
chủ các hiện tượng tôn giáo mới (do phụ nữ khởi xướng) đang tăng lên đáng kể.
- Trình độ học vấn của đa số người đứng đầu các hiện tượng tôn giáo mới
khá thấp, thậm chí có người không biết chữ.
- Về độ tuổi của người đứng đầu các hiện tượng tôn giáo mới đa phần là
cao niên và trung niên,…
- Nghề nghiệp của người đứng đầu khá đa dạng, chủ yếu là công nhân,
nông dân và buôn bán nhỏ. Hầu hết người đứng đầu các hiện tượng tôn giáo mới
có khả năng thuyết giảng trước đông người, xuất khẩu thành thơ, nói năng lưu
loát hấp dẫn người nghe. Đặc biệt, họ đều tự cho rằng có khả năng chữa bệnh
không cần dùng thuốc,...
Người đứng đầu các hiện tượng tôn giáo mới thường tự cho mình là “Phật
sống”, “Thánh sống”, có người trước khi hoạt động tín ngưỡng mắc bệnh tâm
thần lâu ngày, biểu hiện thần kinh không bình thường, sau khi chữa khỏi bệnh
thì tự nhận mình có khả năng kết nối với người âm, nhận được sóng tâm linh,…
tự cho mình có khả năng “chữa bệnh tâm linh”.
1.4.4. Về người tin theo
Người tin theo các hiện tượng tôn giáo mới cũng chủ yếu là phụ nữ ở độ
tuổi trung niên và cao niên; nghề nghiệp chủ yếu là nông dân, công nhân, buôn
bán nhỏ; hầu hết thuộc nhóm trình độ học vấn trung bình,... Đáng chú ý hiện nay
là tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên, hưu trí và đương chức có tình trạng
những người có vị thế xã hội, có học vấn cao cũng tin theo các hiện tượng tôn
giáo mới. Người tin theo các hiện tượng tôn giáo mới phần đông là những người
gặp rủi ro, bế tắc trong cuộc sống; ốm đau, bệnh tật, nghèo khó31.
1.4.5. Về giáo lý, giáo luật, kinh sách
- Kinh sách của các hiện tượng tôn giáo mới hiện nay có thể chia thành ba
nhóm: (1) là sự kết hợp giữa kinh sách của một tôn giáo truyền thống với kinh
sách do người đứng đầu sáng tác (VD: Kinh sách của Long Hoa Di Lặc); (2)
Chiếm đa số, kinh sách thuần túy do người đứng đầu sáng tác (VD: Kinh sách
của Đạo Luật Ơn Nghĩa và Nhân Nghĩa); (3) Chiếm thiểu số, không viết ra
thành kinh sách cụ thể, mà chỉ là những lời thuyết giáo của người đứng đầu.
- Về giáo lý, giáo luật: Do sự hỗn tạp về nội dung, một cách tương đối, có
thể chia giáo lý của các hiện tượng tôn giáo mới hiện nay thành hai loại hình:
ảnh hưởng từ các tôn giáo truyền thống (Phật giáo, Công giáo, Tin Lành) và ảnh
hưởng từ các hình thức thờ cúng trong dân gian.
+ Trong loại hình ảnh hưởng từ các tôn giáo truyền thống, giáo lý của khá
nhiều hiện tượng tôn giáo mới được chắp vá, pha tạp, cải biên từ lý thuyết, giáo
31 VD. Người tin theo “Hội thánh của Đức Chúa Trời Mẹ” chủ yếu trong độ tuổi từ 18 đến 50, phần nhiều là sinh
viên, người làm việc tự do trong lĩnh vực tư nhân. Một số phụ nữ làm nghề nội trợ chuyển từ “Thanh Hải Vô
Thượng sư”, đạo “Hoàng Thiên Long” sang “Hội thánh của Đức Chúa Trời Mẹ”. Một số khác do làm ăn thua lỗ,
ốm đau, cô đơn, cả tin. Lực lượng đi truyền giáo đa số là lực lượng trẻ, hoạt ngôn sắc xảo, có trình độ học vấn
được huấn luyện kỹ năng thuyết giảng và được tổ chức
lý, giáo luật các tôn giáo truyền thống (chủ yếu là Phật giáo), nên đã có những
lời khuyên răn hướng thiện, an ủi người dân về mặt tinh thần trước những bất
hạnh, khó khăn trong cuộc sống (đây là điểm làm cho các hiện tượng tôn giáo
mới có thể tồn tại). Đối với nhóm hiện tượng tôn giáo mới có nguồn gốc/liên
quan đến đạo Tin lành, như: Hội thánh “Giê Sùa”, Đạo “Bà Cô Dợ”,... đều chưa
có giáo lý, giáo luật cụ thể; phần lớn dựa vào giáo lý của đạo Tin lành, có những
cải cách khác lạ so với đạo Tin lành truyền thống để thu hút mọi người tin theo.
+ Trong loại hình thức hai, giáo lý của khá nhiều hiện tượng tôn giáo mới
hiện nay ảnh hưởng chủ yếu từ các hình thức thờ cúng trong dân gian, đặc biệt là
thờ cúng Tổ tiên theo nghĩa rộng và thờ Mẫu, nhưng cũng được lý giải để tạo ra
rất khác biệt so với cách thức truyền thống, thậm chí lấy danh nghĩa của các vị
anh hùng dân tộc, danh nhân để viết ra “kinh sách” nên được nhiều người tin theo.
1.4.6. Về hệ thống tổ chức
Đa số các hiện tượng tôn giáo mới không có hệ thống tổ chức hoặc có tổ
chức nhưng lỏng lẻo, không rõ ràng, nửa công khai, nửa bí mật. Ngoài người đề
xướng (người đứng đầu), còn có một số người được phân công làm hội trưởng,
hội phó, thủ quỹ để quản lý số người theo từng địa bàn.
1.4.7. Về cơ sở thờ tự và đối tượng thờ tự
- Tất cả các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam hiện nay đều chưa được
Nhà nước cho phép hoạt động. Do vậy, cơ sở thờ tự chủ yếu nằm trong nhà
riêng của người đứng đầu hoặc xây cơ sở thờ tự trong khuôn viên gia đình. Một
số hiện tượng tôn giáo mới không lập cơ sở thờ tự chung, mà chỉ lập bàn thờ tại
nhà riêng tín đồ, tiêu biểu là nhóm Thanh Hải Vô Thượng sư. Một số hiện tượng
tôn giáo mới không thờ phụng tại gia đình, mà tụ tập đông người thực hành nghi
lễ tại một di tích nổi tiếng như: Đoàn 18 Phú Thọ thường hành lễ tại Đền Hùng.
- Đối tượng thờ tự của hầu hết các hiện tượng tôn giáo mới hiện nay là sự
hỗn dung nhiều tôn giáo và hình thức thờ cúng truyền thống. Đối tượng thờ tự
của đa phần hiện tượng tôn giáo mới hiện nay khá đa dạng, từ nhân vật lịch sử
đến nhân vật huyền thoại, từ thần linh ngoại lai đến thần linh bản địa.
1.4.8. Về phương thức hoạt động
Các hiện tượng tôn giáo mới thường tụ tập sinh hoạt không hợp pháp, lễ
nghi mang tính tập thể, sử dụng các kỹ thuật đa phương tiện hiện đại cũng như
các thủ pháp tâm lý để thu hút sự quan tâm của những “tín đồ" mới; thông qua
mạng internet và một số phần tử phản động về nước để xây dựng và phát triển
lực lượng theo hình thức các nhóm đi du lịch hoặc từ dưới miền xuôi lên thuê
nhà dưới hình thức đi làm ăn nhưng thực chất là đi tuyên truyền bất hợp pháp
các hiện tượng tôn giáo mới, “tà đạo”,... Họ sinh hoạt không cần cơ sở thờ tự,
chức sắc hướng dẫn việc đạo mà tụ tập ở gia đình người sáng lập, gia đình các
thành viên hay một địa điểm bìa rừng, bờ sông,… hoạt động lén lút, tuyên
truyền dưới nhiều hình thức. Họ thường xuyên thay đổi địa điểm tụ tập tuyên
truyền nhằm tránh sự phát hiện, xử lý của chính quyền, phát tán tài liệu ở những
nơi đông người, tập trung ở những vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, nơi người dân có trình độ nhận thức còn hạn chế.
2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC HIỆN TƯỢNG TÔN
GIÁO MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Số lượng, sự phân bố và thực trạng hoạt động của các hiện tượng
tôn giáo mới ở Việt Nam
Hiện nay trên cả nước có hoạt động của khoảng 83 “hiện tượng tôn giáo
mới” và một số hiện tượng liên quan đến tín ngưỡng, tâm linh. Các hiện tượng
tôn giáo mới xuất hiện dưới 2 dạng: hiện tượng tôn giáo mới từ nước ngoài du
nhập vào Việt Nam (hiện tượng tôn giáo mới ngoại nhập) và hiện tượng tôn giáo
mới hình thành từ trong nước (hiện tượng tôn giáo mới nội
sinh).
Các hiện tượng tôn giáo mới đa phần gắn với hoặc gần với một tôn giáo
đã được Nhà nước công nhận, đặc biệt là các tôn giáo lớn như Phật giáo, Công
giáo Tin lành...
Các hiện tượng tôn giáo mới thường xuất hiện và phát triển mạnh ở vùng
nông thôn, vùng sâu xa, nhất là địa bàn khu vực đồng bằng sông Hồng, Tây Bắc,
Tây Nguyên và Tây Nam bộ, đã thu hút được một số lượng người tin theo, như:
- Nhóm Tâm linh liên quan đến lợi dụng danh xưng Chủ tịch Hồ Chí Minh
(với khoảng trên 20 tên gọi khác nhau: “Đạo Bà Điền”, Nguyễn Điền, Hoàng
Thiên Long, Ngọc Phật Hồ Chí Minh, “Đạo Bác”, “Đạo Bác Hồ”, Đạo Thanh
minh vì dân tộc, Văn hóa tâm linh vô sản Hồ Chí Minh, Đạo “Bà Cấm”, Đạo
“Bà Lương”, Đạo luật Ơn nghĩa và Nhân nghĩa,… hoạt động ở trên 30 tỉnh,
thành phố trong cả nước.
- Long Hoa Di Lặc (tên gọi khác: Long Hoa Chính pháp, Long Hoa Tam
muội, Long Hoa Tam hội, Hội Phật Tiên Long Hoa Di Lặc, Pháp môn Di Lặc ,
Đạo “Bà Ân”, Đạo Long Hoa,….) là một pháp tu được tiếp thu từ nhiều tôn giáo
để xây dựng lên như: Phật giáo, Công giáo, Cao đài, Bửu Sơn Kỳ hương, Phật
giáo Hòa Hảo,…Sau đó, Long hoa Di Lặc đã xuất hiện và hoạt động tại 31/63
tỉnh, thành phố trên cả nước. Hiện nay Long Hoa Di Lặc hoạt động chủ yếu ở
Hòa Bình, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Bắc Giang, Hà Nội, Quảng Ninh, Vĩnh
Phúc, Hải Dương, Thái Bình, Thanh Hóa, Lâm Đồng.
- Hội thánh của Đức Chúa Trời Mẹ, dù mới chỉ xuất hiện tại Việt Nam
chưa lâu, song, đã phát triển mạnh và hoạt động bất hợp pháp ở hơn 30 tỉnh,
thành phố với hàng nghìn người tham gia, nhất là ở Hải Phòng, Quảng Ninh,
Ninh Bình, Thái Bình, Thanh Hóa,…
2.2. Tác động của các hiện tượng tôn giáo mới đối với đời sống xã hội
Sự xuất hiện, hoạt động của các hiện tượng tôn giáo mới, hiện tượng liên
quan đến tín ngưỡng, tâm linh đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống
xã hội.
2.2.1. Về tác động tích cực
Một số hiện tượng tôn giáo mới có xu hướng tích cực đã phần nào đáp
ứng được nhu cầu tinh thần, bù đắp tâm lý và niềm tin trước những khó khăn
trong cuộc sống của một bộ phận Nhân dân; một số nhấn mạnh đến hình thức
sinh hoạt đơn giản, tiết kiệm, phù hợp với nhóm yếu thế trong xã hội. Một số
hiện tượng tôn giáo mới tập trung sinh hoạt dưới hình thức thiền với mong muốn
rèn luyện nâng cao sức khỏe, chữa bệnh bằng các bài thuốc đơn giản giảm chi
phí kinh tế, tạo ra hi vọng cho những người nghèo có niềm tin vào cuộc sống.
Nội dung kinh sách giáo lý, các buổi thuyết giảng của một số hiện tượng
tôn giáo mới cũng đã tập trung vào vấn đề chống tiêu cực xã hội như: phê phán
nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phê bình thói hư tật xấu của các chức sắc
tôn giáo lớn ở nước ta hiện nay, bài trừ những hoạt động mê tín trong đời sống
tôn giáo,… Những nội dung này ở một chừng mực nào đó có thể được coi là sự
phản biện xã hội.
Một số hiện tượng tôn giáo mới có nội dung sinh hoạt gắn với việc đề cao
những người anh hùng có công với đất nước, dân tộc, khuyên người tin theo bài
trừ mê tín dị đoan, sửa đổi tập tục tang ma, bỏ những tật xấu trong cuộc sống.
Đây là những yếu tố thuận lợi trong việc đảm bảo các mối quan hệ trong gia
đình và cộng đồng được tốt đẹp hơn.
Một số hiện tượng tôn giáo mới còn có những hoạt động thiết thực đóng
góp cho xã hội, tích cực tham gia các hoạt động an sinh xã hội ở địa phương như
đóng góp quỹ xóa đói giảm nghèo, xây dựng nhà tình nghĩa, hỗ trợ đồng bào bị
lũ lụt, tham gia bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu,…
Việc xuất hiện các hiện tượng tôn giáo mới làm cho các tín ngưỡng, tôn
giáo truyền thống phải tăng cường củng cố đức tin cho tín; điều chỉnh lễ nghi
phù hợp, kịp thời với những biến đổi của đời sống kinh tế, xã hội, đáp ứng tốt
hơn đời sống tâm linh cho tín đồ và nhân dân.
2.2.2. Về tác động tiêu cực
Một số hiện tượng tôn giáo mới trong quá trình tuyên truyền và phát triển
đã liên hệ đến mặt trái, tiêu cực trong đời sống xã hội để liên hệ sang vấn đề
chính trị. Nhận thức của những người theo hiện tượng tôn giáo mới đôi khi thái
quá và sai lệch, do đó họ dễ bị các thế lực xấu lợi dụng.
Hoạt động của các hiện tượng tôn giáo mới cũng gây ra những ảnh hưởng
nhất định về kinh tế. Trước hết là tổn thất về kinh tế cho chính bản thân những
“tín đồ” theo hiện tượng tôn giáo mới vì họ phải bỏ cả công ăn việc làm để tham
gia hoạt động “đạo”; một số người có sức khỏe yếu, bệnh tật hiểm nghèo tìm
đến với các hiện tượng tôn giáo mới để nuôi hy vọng chữa khỏi bệnh nên đã
phải bỏ ra kinh phí lớn. Nhiều người đứng đầu hoặc có vai trò chủ chốt trong
các hiện tượng tôn giáo mới thu tiền trái phép của “tín đồ”, dùng tiền của “tín
đồ” để tư lợi “vinh thân phì gia”, trái với lời rao giảng “xả phú cầu bần” của họ.
Một số hiện tượng tôn giáo mới tuyên truyền ‘tín đồ” theo “đạo” sẽ được sung
sướng, “không làm mà có ăn”, khiến “tín đồ” bê trễ sản xuất kinh doanh32. Việc
in ấn kinh sách, xây sửa nơi thờ tự, nghi lễ thờ cúng gây phiền hà, tốn kém công
sức, tiền bạc của nhân dân, việc tổ chức các cuộc viếng thăm, hành hương, tham
quan,… kết hợp với sinh hoạt tôn giáo trái phép ở nơi công cộng, gây tốn kém
tiền của, ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội.
Một số hiện tượng tôn giáo mới xuyên tạc lịch sử, phá hoại đạo đức và
thuần phong mỹ tục văn hoá của dân tộc, chống đối, nói xấu chế độ, tuyên
truyền làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; có biểu hiện
xâm phạm nhân phẩm, sức khỏe con người, gây ảnh hưởng tới các mối quan hệ
xã hội, làm thay đổi và xáo trộn về nếp sống, tập quán truyền thống của nhân
dân; tuyên truyền cách thức thực hành tín ngưỡng phản khoa học, phi đạo đức,
32 Người
theo Hội thánh của Đức Chúa Trời Mẹ phải đóng 10% thu nhập cho người đứng đầu. Đạo Long Hoa Di
lặc yêu cầu tín đồ tu tại gia, không cần làm, chỉ cần cầu khấn là có ăn. Khi ốm không cần thuốc, chỉ uống rượu
pha nước lã đặt trên bàn thờ là khỏi, kể cả gia súc và cây cối.
văn hóa nhằm thu lợi bất chính; tuyên truyền và thực hành những hoạt động có
yếu tố mê tín dị đoan,…
Một số hiện tượng tôn giáo mới bài xích các tôn giáo truyền thống, đả
kích vào các vị giáo chủ của tôn giáo chính thống. Điều này đã gây bức xúc
trong chức sắc, nhà tu hành của các tôn giáo chính thống, chia rẽ khối đại đoàn
kết dân tộc, tiềm ẩn nguy cơ có sự xung đột về tôn giáo.
Một số các hiện tượng tôn giáo mới có xu hướng chống đối và bất hợp tác
với chính quyền, nhất là những đối tượng cầm đầu, cốt cán luôn tránh mặt không
tiếp xúc với cán bộ, các đoàn công tác; không nghiêm chỉnh thực hiện những chủ
trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Những hoạt động
lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng trái phép của các hiện tượng tôn giáo mới làm gia
tăng các “điểm nóng” về an ninh chính trị, trật tự xã hội.
Việc chuyển đổi từ những tôn giáo, tín ngưỡng chính thống sang các hiện
tượng tôn giáo mới đã có nhiều ảnh hưởng đa chiều, phức tạp đến xã hội, trong
đó có việc hình thành các cộng đồng dân cư cùng theo một hiện tượng tôn giáo
mới. Tính cố kết của những cộng đồng này có biểu hiện lấn át các hình thức cố
kết cộng đồng truyền thống theo dòng họ, theo cộng đồng cùng dân tộc trong địa
bàn cư trú và trong nội bộ tôn giáo dẫn đến hệ quả là một số ít chính sách phát
triển kinh tế - xã hội, chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo ở vùng có các
hiện tượng tôn giáo mới hoạt động mạnh bị tác động trực tiếp hay gián tiếp bởi
những tổ chức này.
2.4. Thực trạng công tác đối với các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt
Nam hiện nay
2.4.1. Những kết quả đạt được
- Ban Tôn giáo Chính phủ đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan tham
mưu cho Thủ tướng Chính phủ các chủ trương, công tác đối với các hiện tượng
tôn giáo mới; kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, đồng thời thực
hiện nghiêm túc ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ nhất là trong công tác
tuyên truyền, vận động và ổn định đời sống nhân dân vùng bị ảnh hưởng tiêu
cực của các hiện tượng tôn giáo mới, tà đạo, đạo lạ.
- Các cấp ủy đảng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp chính quyền, các
ban, ngành, đoàn thể ở địa phương làm tốt công tác tôn giáo; kiên quyết đấu
tranh đẩy lùi hoạt động trái phép của các hiện tượng tôn giáo mới, không để
những thế lực xấu lợi dụng hiện tượng tôn giáo mới thành những hoạt động
chính trị, đối lập với chính quyền nên đã hạn chế được phần nào sự phát triển
tràn lan và những tác động tiêu cực của các hiện tượng tôn giáo mới; quần chúng
nhân dân đã đồng tình với chủ trương, biện pháp đấu tranh, xử lý của chính
quyền đối với các hoạt động lợi dụng hiện tượng tôn giáo mới.
- Công tác quản lý nhà nước đối với hiện tượng tôn giáo mới đã có
chuyển biến theo hướng chủ động hơn, không để bị động chạy theo giải quyết
những vụ việc xảy ra. Các địa phương quan tâm giải quyết các nhu cầu, nguyện
vọng chính đáng của chức sắc, chức việc tín đồ các tôn giáo, phát huy tốt vai trò,
ảnh hưởng của các tôn giáo chính thống, góp phần gián tiếp làm giảm sự gia
tăng của các hiện tượng tôn giáo mới mang màu sắc cực đoan, tiêu cực.
- Các địa phương thường xuyên cung cấp thông tin rộng rãi để Nhân dân
biết và lựa chọn tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp; tuyên truyền, vận động Nhân dân
không nghe, tin theo các hiện tượng tôn giáo mới, đạo lạ, tà đạo mang màu sắc
cực đoan; vận động quần chúng nhân dân mạnh dạn tố giác, lên án các hành vi
vi phạm pháp luật của các hiện tượng tôn giáo mới, tà đạo, đồng thời tích cực
tham gia vào việc phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh xóa bỏ hoạt động tà đạo tại
các địa phương.
- Công tác nắm tình hình hoạt động của các hiện tượng tôn giáo mới luôn
được các địa phương quan tâm chú trọng, vì thế nhiều hoạt động trái pháp luật
của các hiện tượng tôn giáo mới, tà đạo, hoạt động của một tổ chức hội, nhóm
trái pháp luật mang danh nghĩa tôn giáo đã được phát hiện kịp thời, từ đó có
phương hướng, biện pháp giải quyết cụ thể.
- Theo chức năng, nhiệm vụ được giao, các sở, ngành và chính quyền cơ sở
các địa phương đã phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn và xử lý kịp thời đối với cá
nhân vi phạm liên quan đến các hiện tượng tôn giáo mới góp phần giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
- Công tác đối với các hiện tượng tôn giáo mới luôn có sự phối hợp thường
xuyên, chặt chẽ của các cơ quan chức năng. Nhiều địa phương đã ban hành quy
chế phối hợp để thống nhất phân công trách nhiệm, huy động sức mạnh của hệ
thống chính trị trong công tác tôn giáo nói chung, công tác đối với các hiện
tượng tôn giáo mới nói riêng.
- Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố đã phối hợp với các cơ quan báo chí ở
trung ương và địa phương cung cấp thông tin, đưa nhiều tin, bài về hoạt động
của các hiện tượng tôn giáo mới vi phạm pháp luật để quần chúng nhân dân
nhận diện, tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực;
hướng dẫn các tổ chức tôn giáo, chức sắc, chức việc lên tiếng một cách khách
quan để góp phần làm rõ và đấu tranh với những hành vi lợi dụng tôn giáo vi
phạm pháp luật của các hiện tượng tôn giáo mới, tà đạo.
2.4.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đối với các hiện tượng tôn
giáo mới thời gian qua còn một số tồn tại, hạn chế nhất định:
- Một số các cấp, ngành nhận thức chưa đầy đủ về hoạt động của các
hiện tượng tôn giáo mới nên công tác giải quyết còn lúng túng, thiếu thống nhất
Có địa phương cho đó là “tà đạo”, không coi đó là tôn giáo nên chủ quan,
cho rằng việc giải quyết chẳng mấy khó khăn; có địa phương giải quyết dè dặt,
thận trọng; có địa phương lại nôn nóng giải quyết, trong khi nguyên nhân ra đời,
tồn tại của nó chưa được quan tâm giải quyết. Từ đó, cách giải quyết không
giống nhau, không phù hợp, thậm chí không đúng với chủ trương, chính sách
tôn giáo chung của Nhà nước.
Công tác quản lý nhà nước đối với những hiện tượng này vừa lúng túng,
vừa bất cập
Thực tiễn trong những năm gần đây cho thấy nhiều lúc cơ
quan chức năng
chưa xác định rõ được hiện tượng tôn giáo mới nào cần quản lý, nếu quản lý thì
mức độ và phạm vi quản lý đến đâu. Có địa phương chưa thực sự quan tâm đến
công tác quản lý đối với các hiện tượng tôn giáo mới, hoặc xem nhẹ sự ảnh
hưởng, tác động của hiện tượng tôn giáo mới đến đời sống xã hội; chưa thực sự
chú trọng công tác dự báo tình hình cũng như việc nắm bắt thông tin về hiện
tượng tôn giáo mới có khi chưa kịp thời.
- Công tác giải quyết đối với hoạt động của các hiện tượng tôn giáo mới chưa
thực sự phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, quan điểm giữa
các cấp, các ngành về việc xử lý hiện tượng tôn giáo mới chưa thống nhất
Cấp ủy, chính quyền cơ sở có lúc, có nơi chưa quan tâm đúng mức tới
công tác tôn giáo, xử lý các vấn đề liên quan đến tôn giáo còn thiếu kiến quyết,
né tránh. Một số cấp ủy và chính quyền cơ sở chưa thấy được trách nhiệm của
mình trong việc chỉ đạo công tác đối với hiện tượng tôn giáo mới tại địa phương.
Một số ban, ngành, đoàn thể ở cấp cơ sở chưa kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện
vọng của đoàn viên, hội viên, chưa thuyết phục có hiệu quả đối với người tin
theo các hiện tượng tôn giáo mới, đạo lạ, tà đạo.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở còn chưa nhận thức đầy đủ về các hiện
tượng tôn giáo mới; còn thụ động, lúng túng, thiếu kinh nghiệm trong quá trình
xử lý khi có vụ việc phức tạp phát sinh. Do đó, có những địa phương, mặc dù hoạt
động của một số tổ chức hội, nhóm trái pháp luật mang danh nghĩa tôn giáo diễn
ra công khai nhưng trong báo cáo về tình hình hiện tượng tôn giáo mới trên địa
bàn thì vẫn xác định “chưa phát hiện có hiện tượng tôn giáo mới” trên địa bàn.
- Công tác đấu tranh, ngăn chặn đối với các hiện tượng tôn giáo mới còn
gặp khó khăn; chủ yếu là tuyên truyền, vận động và thuyết phục là chính. Một số
chính quyền cơ sở chưa thật sự coi trọng công tác nắm tình hình, phát hiện các
hoạt động liên quan đến hiện tượng tôn giáo mới, nên các hoạt động này chỉ bị
nhắc nhở, tuyên truyền, đấu tranh khi đã có hoạt động công khai trên địa bàn.
- Đối với các hiện tượng tôn giáo mới hoặc các hoạt động của hiện tượng
tôn giáo mới được
xem là phản văn hóa, có màu sắc chính trị, công tác đấu tranh
có việc còn chưa triệt để, thiếu cương quyết và chưa có biện pháp thích hợp. Mặt
khác, trong công tác đấu tranh đối với các hoạt động này còn chưa coi trọng
công tác vận động quần chúng, vì thế đã làm cho hoạt động của các hiện tượng
tôn giáo mới này ít có chiều hướng suy giảm mà còn chuyển hình thức hoạt
động tinh vi hơn, tiếp tục vi phạm pháp luật và để lại những hậu quả tiêu cực.
3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý ĐỐI VỚI HIỆN TƯỢNG TÔN
GIÁO MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY PHỤC VỤ CÔNG TÁC THÔNG
TIN, TUYÊN TRUYỀN
(1) Các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam vẫn tiếp tục hoạt động, tiềm
ẩn nhiều yếu tố gây mất an ninh trật tự, ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh
thần của một bộ phận quần chúng nhân dân; vẫn tiếp tục lợi dụng sự thiếu hiểu
biết của một bộ phận nhân dân để lôi kéo được nhiều người tham gia. Xu hướng
hoạt động của các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam trong thời gian tới sẽ
diễn ra khá phức tạp, vừa có sự tan rã lại vừa có sự nảy sinh mới, liên kết với
nhau. Điều đó cho thấy việc triển khai các giải pháp đối với các hiện tượng tôn
giáo mới ở Việt Nam đòi hỏi phải toàn diện, cả trước mắt và lâu dài, liên quan
đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực.
(2) Phải xác định rõ những hiện tượng tâm linh đã tồn tại hàng nghìn năm
nay, là những hiện tượng xảy ra trong đời sống hàng ngày và lưu truyền từ đời
này sang đời khác. Cần có thái độ nhìn nhận hiện tượng này một cách nghiêm
túc, khách quan và khoa học.
(3) Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, các địa phương và quần
chúng nhân dân về các hiện tượng tôn giáo mới. Trong đó, cần nâng cao nhận
thức người dân, làm cho người dân hiểu rõ về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
theo quy định của pháp luật; hiểu rõ tôn giáo hợp pháp được Nhà nước công
nhận; phân biệt nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng với việc lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo và tác hại của nó đối với đời sống xã hội.
(4) Các cơ quan thông tin đại chúng tích cực, kịp thời đưa tin, bài phản
ánh những tác động, ảnh hưởng tiêu cực tới xã hội, các hoạt động trái phép, vi
phạm pháp luật của những người, tổ chức đang tuyên truyền hiện tượng tôn giáo
mới cực đoan, tà đạo trái phép nhằm giúp cho quần chúng Nhân dân hiểu đúng
bản chất của từng loại hình hiện tượng tôn giáo mới phục vụ công tác đấu tranh,
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.
(5) Đẩy mạnh công tác quản lý thông tin qua internet và các ấn phẩm;
không đưa các tin, bài, phóng sự về các hiện tượng “tâm linh”, “ngoại cảm”
chưa có kết luận khoa học, chưa rõ về bản chất hoạt động gây tâm lý hoang
mang, để các cá nhân, tổ chức lợi dụng hoạt động khuếch trương thanh thế.
(6) Quan tâm phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
đồng bào có đạo. Tăng cường xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần phong phú,
lành mạnh cho người dân nhằm tạo “sức đề kháng”, “miễn dịch” mạnh mẽ trước
hoạt động của các hiện tượng tôn giáo mới mang mầu sắc cực đoan, phản văn hóa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nguyễn Phú Lợi (2015), “Nhận diện hiện tượng tôn giáo mới ở Việt
Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Thông tin khoa
học lý luận chính trị, số 6 (7).
- Nguyễn Văn Minh (2014), “Các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11/2014.
- Nguyễn Văn Minh (2009), “Tổng quan về tôn giáo mới trên thế giới và
Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, số 6.
- Nguyễn Văn Minh (2014), “Một số vấn đề về hiện tượng tôn giáo mới
trên thế giới”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 9/2014.
- Nguyễn Văn Minh (2014), “Các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11/2014.
- Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo, Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố. Hồ Chí Minh (2014), Chủ nghĩa hậu
hiện đại và phong trào tôn giáo mới ở Việt Nam và thế giới, Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Vụ Tôn giáo, Ban Dân Vận Trung ương (2015), Hỏi đáp một số vấn đề về
đạo lạ, tà đạo ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Mối quan hệ giữa “hiện tượng tôn giáo mới” với tín ngưỡng, tôn giáo
2. truyền thống như thế nào?
2. Cần phải lưu ý những điểm gì trong hoạt động thông tin, tuyên truyền
liên quan đến hiện tượng tôn giáo mới ở Việt Nam hiện nay?
3. Khi xuất hiện một hiện tượng tôn giáo mới mà dư luận quan tâm, cần
trích/tìm nguồn thông tin ở đâu để tuyên truyền đảm bảo khách quan, chính sách
và phù hợp về mức độ?
4. Việc lợi dụng vấn đề “hiện tượng tôn giáo mới”, “đạo lạ”, “tà đạo” ở
nước ta của các thế lực xấu, thù địch có gì cần lưu ý?