ĐỊA CẦU 67 QUA THỂ PHÁP. (tt)
“Địa cầu trong địa cầu”
“Địa cầu 67: ý thức & địa điểm”
“Chung
& Riêng”.
2/- TÌM HIỂU TỪ: Pháp Chánh Truyền, Tân Luật và Pháp Chánh
Truyền chú giải.
Nói cho cụ thể là phần của Giáo Tông liên quan đến Thất Thập Nhị Địa hay Lục Thập
Thất Địa Cầu.
2.1/- Pháp Chánh Truyền nguyên văn.
a/- Từ Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
Giáo Tông là Anh Cả các con, có quyền thay mặt Thầy mà dìu dắt các con trong
đường Ðạo và đường Ðời. Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn.
Nó đặng phép thông công cùng Tam
Thập Lục Thiên và Thất Thập Nhị Ðịa Giới đặng
cầu rỗi cho các con, nghe à! Chư Môn Ðệ tuân mạng.
b/- Từ Đạo Sử.
Thầy lập phẩm Giáo Tông nghĩa là: Anh Cả các con có quyền thay
mặt cho Thầy mà dìu dắt các con trong đường Ðạo và đường Ðời.
Thầy mừng các con, Chư Môn Ðệ
nghe.
Nó có quyền về phần xác chớ
không có quyền về phần hồn.
Nó đặng phép thông công cùng Tam Thập Lục Thiên và Thất Thập Nhị
Ðịa Giới đặng cầu rỗi cho các
con, nghe à.
Chư Môn Ðệ tuân mạng.
2.2/- Từ Tân Luật.
ĐẠO PHÁP. Chương I. Điều thứ nhứt.
Trên hết có một phẩm Giáo Tông là Anh Cả, có quyền thay mặt Thầy mà
dìu dắt cả tín đồ trong đường Ðạo và đường Ðời. Đức Giáo Tong có quyền về phần
xác chớ không có quyền về phần hồn.
Đức Giáo Tông đặng phép thông
công cùng Tam Thập Lục Thiên
và Thất Thập Nhị Ðịa Giới đặng
cầu rỗi cho cả tín đồ.
Chư tín đồ phải tuân mạng lịnh
phẩm ấy.
2.3/- Từ Pháp Chánh Truyền chú giải.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Nó đặng phép thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế
Giái, Lục Thập Thất Địa Cầu và Thập Điện Diêm Cung, đặng cầu rỗi cho các con.
CHÚ GIẢI: Thầy đã
nói, đặng cầu rỗi cho các con thì Thầy đã chỉ rõ rằng, Giáo Tông có phần cầu
rỗi mà thôi, chớ phần siêu rỗi là về quyền của Bát Quái Đài chưởng quản.
Đức Giáo Tông làm thế nào mà thông công cùng Tam Thập Lục Thiên,
Tam Thiên Thế Giái, Lục Thập Thất Địa Cầu và Thập Điện Diêm Cung mà cầu rỗi cho
các Tín Đồ?
Người phải đến Hiệp Thiên Đài cầu huyền diệu Cơ Bút mới đặng.
Xin trích lục ra đây, đoạn Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài nói về
việc ấy: “Lại nữa Hiệp Thiên Đài là nơi của Giáo Tông thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế
Giái, Lục Thập Thất Địa Cầu, Thập Điện Diêm Cung mà cầu siêu cho cả nhơn loại”.
Ấy vậy về phần Thiêng Liêng là phần Đạo, thì Ngài chẳng có quyền
hành chi hết, dầu cho dâng sớ cầu điều chi cùng Bát Quái Đài, thì cũng phải do
nơi Hiệp Thiên Đài cả.
Hiệp Thiên Đài là trung gian để liên hiệp Giáo Tông cùng chư Thần,
Thánh, Tiên, Phật.
* * *
Nhận xét:
a/- Pháp Chánh Truyền trong TNHT, PCT trong Đạo Sử
và Tân Luật có liên quan đến phẩm Giáo Tông đều có nội dung như nhau: Thông
công cùng Tam Thập Lục Thiên
và Thất Thập Nhị Ðịa Giới để
cầu rỗi cho tín đồ.
Trong 03 văn bản trên Tân Luật ra đời sau hết: 01-6-1927.
b/- Pháp Chánh Truyền chú giải có sự khác biệt.
Sự khác biệt nầy là: ...Giáo Tông đến Hiệp Thiên Đài thông công
cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam
Thiên Thế Giái, Lục Thập Thất Địa Cầu, Thập Điện Diêm Cung để cầu rỗi cho tín đồ...
So lại với 03 văn bản trên thì PCT chú giải có: 01 phần giử nguyên
và 02 phần mới, 01 phần là điều chỉnh. Cụ thể như sau:
. Phần giử nguyên: Tam
Thập Lục Thiên.
. Phần mới: Tam
Thiên Thế Giái,
. Phần điều chỉnh: Lục
Thập Thất Địa Cầu, (thay cho Thất Thập Nhị Địa).
. Phần mới: Thập
Điện Diêm Cung
Hai phần mới và phần điều chỉnh đều có sự hướng dẫn của Đức Lý
Giáo Tông....PCT chú giải lại đem cả phần PCT Hiệp Thiên Đài có liên quan đến
Giáo Tông vào nên nó cung cấp kiến thức đa chiều hơn.
PCT chú giải không giải thích riêng cho PCT Cửu Trùng Đài Nam Phái
mà kết hợp với PCT Hiệp Thiên Đài. Đến đây thể xác (CTĐ) có sự kết hợp với chơn
thần (CTĐ) và đi theo hướng của chơn thần....
Thiên thơ dạy rõ HTĐ cầm số mạng nhơn sanh để lập thành chánh giáo
nên thể xác phải theo chơn thần....
Còn về hành chánh tôn giáo Hội Thánh ban hành PCT CG ngày
02-04-1931 nên tính cập nhật cao hơn. Pháp có giá trị trên Luật. Nên Luật phải
tùng Pháp.
Tóm lại:
PCT Cửu Trùng Đài Nam Phái và Tân Luật dạy Nó đặng phép thông công
cùng Tam Thập Lục Thiên và
Thất Thập Nhị Ðịa Giới đặng
cầu rỗi cho các con, mà chưa dạy rõ đến đâu để thông công.
PCT chú giải nói cụ thể là Giáo Tông đến Hiệp Thiên Đài thông
công. Khi thông công thì cầu rỗi cho Địa Cầu 67.....
Hiểu như thế nào về sự thay đổi và thêm vào của PCT chú giải?
Bởi vì nhơn loại đang sống trong địa cầu 68.
Thầy lập ĐĐTKPĐ là lập ra địa cầu 67 cho môn đệ Thầy bước vào đó
mà lập vị... Giáo Tông là anh Cả thay mặt cho thầy mà dìu dắt môn đệ Thầy trên
đường Đạo và đường Đời...
Cả địa cầu 67 đều nằm trong trách nhiệm của phẩm Giáo Tông. Địa
cầu 67 vẫn có nhiều phẩm trật (Trong Địa-cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng
cấp dường ấy.... ). Môn đệ
Thầy bước vào địa cầu 67 là bước vào trường công quả để lập vị mình. Trong cuộc
thi nào cũng có người đậu và rớt. Do đó mà có thăng và đọa. Giáo Tông là anh Cả
thay mặt Thầy nên vẫn có trách nhiệm với các vị đã thăng và các vị bị đọa theo
phẩm trật địa cầu 67. Dù rằng bị đọa vẫn có người theo dạy dỗ đó là một trong
những ý nghĩa của Đại Ân Xá mà Đức Hộ Pháp có dạy nhiều lần.
Còn tiếp...
* * *
ĐẠO SỬ Q2 (tt).
Phan
Văn Muôn:
Lòng đây nào có khác chi phàm,
Biết đặng Ðạo rồi mới biết ham.
Ðưa đẩy ít ai dè có Lão,
Nếu đời thấy đặng chẳng người tham.
Thâu
Hà
Văn Như:
Tham chi thế sự lắm đua tranh,
Cái miếng đỉnh chung xúm giựt giành.
Bỏ hết trong cơn mê một giấc,
Trăm năm ngắn ngủi nhớ làm lành.
Thâu
Ngô
Văn Hoài:
Làm lành cho trọn Phật Trời thương,
Hai chữ hơn thua chớ liệu lường.
Mầng thiệt là khi nương cảnh tịnh,
Khen khen giận ghét kẻ đời thường.
Thâu
Lê
Văn Hợi:
Bư như Ðạo chích thế khen khôn,
Khôn giống ông Nhan gọi chẳng hồn.
Lời lẽ đố con phân thiệt giả,
Khôn khôn, dại dại cũng đồng phồn.