Trang

Thứ Hai, 6 tháng 12, 2021

3663. BAN TÔN GIÁO: TÀI LIỆU TUYÊN TRUYỀN (9-2021) (Chuyên đề 5)

 TÀI LIỆU MỚI.

Điệp viên cộng sản soạn sử để cho Ban Tôn Giáo cộng sản xài là chẳng đáng tin.

BẢN VI TÍNH.

Tháng 9-2021 Ban Tôn Giáo chính phủ có xuất bản TÀI LIỆU VỀ CÁC TÔN GIÁO cho cán bộ học tập để tuyên truyền.

Tài liệu có 10 chuyên đề, 430 trang. Chuyên đề 5 từ trang 97-119 viết về Đạo Cao Đài. 

Hai tay trùm điệp viên cộng sản Trần Chí Thành và U4 Đinh Văn Đệ chỉ huy cho Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý 171/B Cống Quỳnh biên soạn đạo sử và Ban Tôn Giáo cộng sản căn cứ vào đó cũng là phù hợp. Một bộ sử do điệp viên cộng sản soạn ra cho Ban Tôn Giáo cộng sản xài để làm sai lệch về Đạo Cao Đài mới thấy sự chuẩn bị rất công phu của triệt giáo.





Chúng tôi sẽ căn cứ vào Đạo Sử Q I và Q II của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu biên soạn có Hội Thánh Cao Đài kiểm duyệt, Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp để chỉ ra những điều sai trái.

97

Chuyên đề 5

KHÁI QUÁT VỀ ĐẠO CAO ĐÀI VIỆT NAM

1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẠO CAO ĐÀI

1.1. Quá trình hình thành phát triển của đạo Cao Đài

Đạo Cao Đài tên gọi đầy đủ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ độ, ra đời năm 1926

tại ấp Long Trung, Long Thành, huyện Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh do một số

công chức, sản, địa chủ, trí thức sáng lập phát triển chủ yếu các tỉnh,

thành phố Nam Bộ.

Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp tăng cường khai thác

thuộc địa Đông Dương để hàn gắn vết thương chiến tranh chính quốc bằng

nhiều chính sách kinh tế khắc. Trong đó, chính sách cướp ruộng đất để lập

đồn điền chính sách tăng thuế đã làm cho người nông dân Nam Bộ bị bần

cùng hoá, đời sống lầm than khổ cực.

Giới công chức, sản, địa chủ, thầy giáo, thầy tu bị chế độ thuộc địa chèn

ép bế tắc trong cuộc sống nên họ đã tìm đến thú chơi “xây bàn” theo kiểu thông

linh học của người phương Tây hoặc cầu chấp bút theo truyền thống của

người Việt.

Trong thời gian này Nam Bộ xuất hiện nhiều phong trào đấu tranh chống

Pháp như: các cuộc khởi nghĩa trang đến phong trào đấu tranh đòi dân sinh,

n chủ; các tổ chức hội kín chống Pháp như Thiên Địa hội của Phan Xích

Long; các tổ chức đảng phái chính trị được thành lập công khai như Công hội

năm 1921, Đảng Lập hiến năm 1923, Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội

1926,... Tuy nhiên, tất cả các cuộc khởi nghĩa phong trào yêu nước của nhân

dân Nam Bộ đều thất bại bị thực dân Pháp đàn áp đẫm máu. Thất bại trong

đấu tranh, bế tắc trong cuộc sống, người dân Nam Bộ đã tìm đến tín ngưỡng, tôn

giáo để hi vọng được che chở giải thoát.

Thực dân Pháp áp dụng chế độ chính trị thuộc địa Nam Bộ tương tự như

chính quốc, vậy chính sách đối với tôn giáo tại Nam Bộ không khắt khe như

Bắc Bộ Trung Bộ. Nam Bộ vùng đất mới được kiến lập, dân chủ yếu

thuộc bốn nhóm người người Việt từ Bắc Trung Bộ vào, người Hoa từ Quảng

Đông, Phúc Kiến xuống, người Chăm người Khmer. Những nhóm người này

đến lập nghiệp đã mang theo phong tục tập quán, văn hoá tín ngưỡng của vùng

 

 


 

98

đất đó làm cho đời sống văn hoá tín ngưỡng của người dân Nam Bộ trở nên đa

dạng phong phú, tạo tiền đề để tiếp nhận một tôn giáo mới.

tưởng Tam giáo đồng nguyên (Phật, Lão, Nho) sớm xuất hiện vùng

đất Nam Bộ trong bối cảnh đó đã hoà nhập cùng trào lưu “Thông linh học" của

phương Tây tạo thành phong trào cầu cơ, chấp bút được các nhóm Ngũ chi

Minh đạo vốn từ trước Nam Bộ hưởng ứng tích cực.

Việc bế tắc trong cuộc sống hiện tại, sự suy yếu của các tôn giáo, đạo

đương thời đã tạo ra khoảng trống về tưởng, tín ngưỡng, kích thích nhu cầu

tâm linh tôn giáo của quần chúng nhân dân tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra

đời của đạo Cao Đài phản ánh tất yếu của hội đương thời.

Đầu thế kỷ XX, tưởng Tam giáo đồng nguyên (Phật, Lão, Nho) Việt

Nam xu hướng giảm xuống nhưng hoạt động của nhóm Ngũ chi Minh đạo

(Minh Sư, Minh Lý, Minh Đường, Minh Tân, Minh Thiện) tăng mạnh đã làm

hồi sinh tưởng Tam giáo đồng nguyên. Cùng lúc đó, phong trào Thông linh

học của phương Tây phát triển mạnh tại Nam Bộ với các hình thức “xây bàn”

tương tự như tục cầu hồn của người Việt cầu của nhóm Ngũ chi Minh đạo

đã tạo thành phong trào cầu cơ, chấp bút gọi tắt “cơ bút”. Trong các đàn

này hai nhóm chính hình thành đạo Cao Đài. Nhóm thứ nhất do ông Ngô

Văn Chiêu cầu tại các đền, chùa, phật đường theo truyền thống bút thuộc

nhóm Ngũ chi Minh đạo. Nhóm thứ hai gồm các vị: Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài

Sang, Phạm Công Tắc (nhóm Cao - Phạm) tổ chức xây bàn cầu theo kiểu

Thông linh học phương Tây. Năm 1926, hai nhóm bút nói trên thống nhất

hình thành đạo Cao Đài, ông Ngô Văn Chiêu được thiên phong phẩm vị Giáo

tông đầu tiên của đạo Cao Đài.

Ngày 29/9/1926, một số vị chức sắc đứng đầu các đàn tín đồ đã

thống nhất tên vào tờ khai đạo gửi chính quyền Pháp. Ngày 19/11/1926,

những chức sắc đầu tiên của đạo Cao Đài đã tổ chức lễ khai đạo tại tỉnh Tây

Ninh chính thức ra mắt đạo Cao Đài.

Ông Ngô Văn Chiêu sau khi công lớn sáng lập đạo Cao Đài đã không

nhận chức Giáo tông tại Tây Ninh về Cần Thơ thành lập phái Cao Đài Chiếu

Minh Tam Thanh Vi, thực hiện đường hướng tu luyện theo pháp môn “vô

vi” không phổ độ, không thành lập tổ chức giáo hội.

Sau ngày khai đạo, những chức sắc lãnh đạo giáo hội Cao Đài tiến hành

xây dựng Toà thánh Tây Ninh sở hạ tầng, từng bước hoàn chỉnh hệ thống

 

 


 

99

bộ máy tổ chức hành chính đạo từ Trung ương đến sở. Do một số bất đồng

trong điều hành giáo hội, một số chức sắc lãnh đạo giáo hội Cao Đài đã tách ra

về địa phương thành lập các tổ chức Cao Đài mới như: Cao Đài Chơn Lý,

Cao Đài Tiên Thiên, Cao Đài Ban Chỉnh đạo,… Tại Tây Ninh, số chức sắc lại

tiếp tục điều hành hoạt động của đạo Cao Đài. Từ đây, Cao Đài Tây Ninh trở

thành một tổ chức tôn giáo được coi gốc của đạo Cao Đài, Toà thánh Tây

Ninh, số lượng chức sắc, chức việc, tín đồ đông nhất trong các tổ chức Cao

Đài. Cao Đài Tây Ninh thực hiện đường hướng hành đạo phổ độ thu hút được

đông đảo tín đồ, chủ yếu nông dân tham gia. Một số tổ chức Cao Đài sau khi

dời Tòa thánh Tây Ninh về các địa phương thành lập tổ chức Cao Đài mới đã

xây dựng đường hướng hành đạo tiến bộ, sớm tinh thần yêu nước vận

động đông đảo chức sắc, tín đồ tích cực ủng hộ cách mạng, tham gia kháng

chiến chống ngoại xâm. Tuy bị chia rẽ thành nhiều tổ chức khác nhau nhưng số

lượng tín đồ sở tôn giáo của đạo Cao Đài vẫn phát triển rộng khắp các tỉnh

Nam Bộ đồng thời đã tạo ra vị thế mới cho đạo Cao Đài trong hội đương

thời. Chia rẽ, phân ly đặc điểm nổi bật của đạo Cao Đài từ năm 1930 đến năm

1975. Thời gian này, đạo Cao Đài chia rẽ thành nhiều tổ chức Cao Đài khác

nhau, lúc lên đến 30 tổ chức. Trong các tổ chức Cao Đài này khoảng 10 tổ

chức hoạt động theo đúng chân truyền của đạo Cao Đài tồn tại đến nay.

Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, hoạt động của đạo Cao Đài hạn

chế về quy tổ chức. Chức sắc, tín đồ về tu tại gia, duy trì Ban Quản tại

các sở thờ tự của đạo Cao Đài, một số ít người lại Toà thánh, Thánh thất

để quản sở thờ tự thực hiện nghi thức thờ cúng.

Từ năm 1992 đến nay, Nhà nước đã công nhận tổ chức tôn giáo đối với 10

Hội thánh Cao Đài, 21 tổ chức Cao Đài hoạt động độc lập cấp đăng hoạt

động tôn giáo đối với 01 pháp môn Cao Đài.

Chức sắc, chức việc, tín đồ đạo Cao Đài vui mừng, phấn khởi trước đổi

mới về chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước, được công nhận về tổ chức tôn

giáo hoạt động bình thường như các tôn giáo Việt Nam. Cao Đài Tây Ninh

các Hội thánh Cao Đài tổ chức Đại hội nhiệm kỳ, hội nghị thường niên, Đại

lễ Hội Yến Diêu Trì Cung, Đại lễ Vía Đức Chí Tôn, Đại lễ kỷ niệm ngày khai

đạo Cao Đài,… thu hút đông đảo tín đồ tham dự đảm bảo an toàn, trang

trọng. Các Hội thánh, tổ chức Cao Đài tích cực thực hiện các hoạt động từ thiện

hội với tổng kinh phí hằng năm trên 100 tỷ đồng.

 

 


 

100

Các Hội thánh, tổ chức Cao Đài tổ chức hoạt động liên giao hành đạo

nhằm hoạt động chung trên một số lĩnh vực như: giáo dục đào tạo chức sắc, hoạt

động báo chí, hoạt động từ thiện hội. Đây hoạt động thiết thực, góp phần

tăng cường sự đoàn kết tôn giáo giữa các Hội thánh Cao Đài.

Chức sắc, chức việc, tín đồ đạo Cao Đài hoạt động tôn giáo tuân thủ quy

định pháp luật, tưởng tiến bộ yêu nước hoạt động gắn với dân tộc.

Số lượng tín đồ đạo Cao Đài hiện nay phát triển hơn so với năm 1975. Các sở

tôn giáo của đạo Cao Đài được sửa chữa, xây dựng mới ngày càng khang trang,

đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài.

1.2. Giáo lý, giáo luật

1.2.1. Giáo

Giáo học thuyết về triết sống thế giới quan, nhân sinh quan của

tôn giáo. Tôn chỉ của đạo Cao Đài Tam giáo quy nguyên, Ngũ chi phục nhất.

Tam giáo quy nguyên là quy ba tôn giáo: Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo trở về

cái gốc, cái nguyên bản. Đó đường lối để thực hiện mục đích Thế đạo đại

đồng, Thiên đạo giải thoát. Ngũ chi phục nhất tức thống nhất năm ngành đạo

thành một Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo. Đó đường

lối tu hành tuần tự như năm nấc thang tu hành. Đạo Cao Đài xây dựng một nền

giáo toàn diện tức giáo Tam giáo. Theo đạo Cao Đài, Tam giáo đủ

điều kiện xây dựng con người chân chính, hội an lạc Đạo Nho, dạy con

người biết tu dưỡng thể xác tinh thần, sống trung dung tự tại Đạo Lão, dạy

nhân sinh biết giác ngộ giải khổ Đạo Phật.

Đồng thời, tôn chỉ của đạo Cao Đài còn nêu lên tinh thần “Vạn giáo nhất

lý” cho rằng mục đích cứu cánh của tất cả tôn giáo chân chính hướng dẫn

con người sống đạo đức, hoàn thiện hóa bản thân, hoàn thiện hóa hội

giải thoát linh hồn hướng tới xây dựng con người chuẩn mực về đạo đức, hội

hòa bình, hạnh phúc. vậy, đạo Cao Đài chủ trương tôn trọng tín ngưỡng của

các tôn giáo để cùng thực hiện chung giáo của một tôn giáo lớn nhằm giác

ngộ nhân loại toàn cầu.

Mục đích của đạo Cao Đài về mặt tâm linh giải thoát luân hồi sinh tử

hay còn nói rằng Thế đạo đại đồng, Thiên đạo giải thoát”. Thế đạo đại đồng

đường lối hay phương pháp giải quyết về con người tạo ra cuộc sống an lạc, hòa

bình, tiến bộ trong hội. Thế đạo đại đồng nhằm thực hiện thế giới nhân loại

bình đẳng, hạnh phúc không phân biệt giai cấp, tôn giáo, dân tộc lấy nhân bản

 

 


 

101

làm nền tảng, trong đó nhân quyền con người được tôn trọng, nhân tính được

phát huy để xây dựng một thế giới văn minh, đạo đức, hòa bình. Người đạo Cao

Đài quan niệm đó đời Thượng nguyên Thánh Đức. Thế đạo đại đồng theo

nghĩa rộng còn tình bác ái đối với muôn loài, vạn vật từ những sinh vật nhỏ

nhất đến các loài cầm thú, đến con người cả chúng sinh. Thiên đạo giải thoát

đường lối tu hành để người tu đạt được sự giải thoát toàn diện, không còn khổ

đau về thể xác hay phiền não về tâm hồn tại thế gian xa hơn nữa được giải

thoát tâm linh. Sau khi thoát xác, linh hồn con người nếu đắc quả Thiên đạo sẽ

sống vĩnh viễn trong cõi thiên đường cực lạc, không còn bị luân hồi trở lại phàm

trần. Muốn thế, người tu theo Thiên đạo phải học đạo Đại thừa, tu luyện thân

tâm thực hành sứ mệnh cứu độ tha nhân.

Giáo của đạo Cao Đài xây dựng dựa trên hai nguyên căn bản là:

Thiên địa vạn vật đồng nhất thể: Trời đất vạn vật cùng một bản thể Nhất

bản tán vạn thù, vạn thù qui nhất bổn: Một gốc phân tán ra vạn hình thức (sai

biệt), vạn hình thức (sai biệt) quay về một gốc. Từ nguyên thứ nhất, giáo

của đạo Cao Đài quan niệm Trời Người cùng bản thể, thể tương thông,

tương ứng hiệp nhất được. Nên trong Thánh giáo của đạo Cao Đài

đượcThượng Đế dạy rằng: Thầy các con, các con Thầy”. Kế đến, chúng

sinh cũng đồng bản thể nên phải thương yêu nhau, nhất giữa người với người

xem nhau như anh em, từ đó phải thực hiện mục đích đại đồng nhân loại. Từ

nguyên thứ hai, giáo của đạo Cao Đài quan niệm rằng trụ một trường

tiến hóa khởi điểm từ bản thể Đại Linh Quang, tức Thượng Đế, phóng phát

các điểm linh quang tiềm tàng trong vạn loại để tiến hóa từ khoáng sản, thảo

mộc, thú cầm, đến con người. Rồi từ con người đến các bậc Thiêng liêng Thần

Thánh Tiên Phật để trở về hiệp nhất với Thượng Đế. Do đó, cứu giúp con người

thực hiện sự tiến hóa để trở về với Thượng Đế, tức nguồn gốc của mình

cũng của trụ. Muốn thế con người phải biết tu công, lập đức để hoàn hảo

hóa bản thân đến chân, thiện, mỹ. Giáo Cao Đài gọi đó Phản bổn hoàn

nguyên”. Đạo Cao Đài giáo bao dung rộng rãi, coi nhân loại đều một

Đấng cha chung trong một đại gia đình với thuyết đại đồng, lấy tình thương yêu

để xóa bỏ hận thù.

Tóm lại, giáo của đạo Cao Đài dạy con người sống trung thực, trong

sáng, biết thương yêu, đùm bọc nhau, tu hành để rèn luyện đạo đức, lối sống.

Điều này, thể hiện đạo Cao Đài sự tiến bộ trong giáo lý, hướng con người đến

 

 


 

102

sự hoàn thiện, hoàn mỹ, tu hành để tự giải khổ cho bản thân, giải thoát cho mọi

người nhằm xây dựng một hội đại đồng, hoà bình, hạnh phúc.

1.2.2. Giáo luật

Giáo luật những quy định, điều lệ điều cấm của tôn giáo. Những

người sáng lập đạo Cao Đài đã xây dựng các văn bản quy định về luật lệ để áp

dùng trong chức sắc, tín đồ thực hiện, nhằm hoạt động theo đúng khuôn khổ,

quy định của tôn giáo. Giáo luật bản của đạo Cao Đài gồm Tân luật, Pháp

Chánh truyền.

Pháp Chánh truyền do chức sắc đạo Cao Đài soạn thảo được thông qua

bằng hình thức thiêng liêng của bút. Nội dung Pháp Chánh truyền nêu về

việc lập Bát Quái đài thực hiện quyền lập pháp do các đầng Thiêng liêng làm

chủ; lập quan Cửu Trùng đài thay mặt cho Thượng Đế trần thế, thực hiện

quyền cứu độ, cầu rỗi cho nhân sinh; lập quan Hiệp Thiên đài bộ phận bảo

hộ luật pháp của Đạo, trách nhiệm duy trì pháp luật, bảo vệ nền Đạo, nhưng

không được lấn quyền quan Cửu Trùng đài phát huy tinh thần trung thực

của luật pháp. Quyền hạn của hai quan Cửu Trùng đài quan Hiệp Thiên

đài hoàn toàn độc lập nhưng sự ràng buộc phải thống nhất trong thực hiện

việc Đạo, tránh sự độc đoán, chuyên quyền. Đồng thời quy định chi tiết về việc

đạo phục chức sắc, tín đồ; luật công cử cho từng phẩm chức sắc nam, nữ.

Tân luật sự cụ thể hoá của Pháp Chánh truyền. Tân luật nghĩa luật

mới của một tôn giáo mới ra đời. Tân luậtđược lập năm 1926 gồm ba phần chính

là: Đạo pháp, Thế luật,Tịnh thất. Nội dung của Tân luật quy định trách nhiệm

đối với từng bậc tu trong đạo Cao Đài, coi trọng các cách thức tu hành, quy định

việc thực hành tu luyện của người tín đồ trong mối quan hệ với cuộc sống, sinh

hoạt của người vào nhập tịnh tu học để đạt tới sự toàn thiện, toàn mỹ.

Các quy định không được làm của người tín đồ đạo Cao Đài được thể

hiện qua Ngũ giới cấm 5 điều cấm người đạo Cao Đài không được vi phạm:

thứ nhất cấm sát sinh, không sát hại sinh vật từ thảo mộc, côn trùng, cầm thú

đến con người; thứ hai cấm trộm cắp, lừa gạt người; thứ ba cấm dâm, lấy

vợ người, loạn luân, sắc; thứ cấm say rượu thịt, ăn uống quá độ; thứ

năm cấm xảo trá, láo xược, lỗ mãng thô tục.

Đồng thời, đạo Cao Đài quy định người tín đồ bắt buộc phải thực hiện

theo Tứ đại điều quy để rèn luyện đạo đức tu hành: Một phải tuân theo lời dạy

 

 


 

103

của bề trên; hai không được khoe tài, kiêu ngạo; ba tiền bạc phải ràng,

phân minh; bốn phải trung thực, thủy chung.

Nhìn chung, giáo luật của đạo Cao Đài quy định khá chặt chẽ trong hoạt

động của nhân tập thể. Đối với tập thể sự giám sát giữa các quan

đạo, chế phải thống nhất trong hoạt động tôn giáo tuân thủ theo quy

định của giáo quyền. Đối với nhân quy định cụ thể thực hiện việc tu hành

như ăn chay, đạo phục, tu dưỡng, truyền đạo những điều bắt buộc trong nếp

sống đạo, những điều cấm không được vi phạm.

1.3. Các Hội thánh, tổ chức Cao Đài

1.3.1. Hội thánh Cao Đài Tây Ninh

Cao Đài Tây Ninh tổ chức Cao Đài đầu tiên tiếp nhận Tân luật, Pháp

Chánh truyền xây dựng Tòa thánh Tây Ninh kiến trúc hạ tầng, xây dựng hệ

thống bộ máy tổ chức hành chính đạo từ Trung ương đến sở. Trong quá trình

phát triển, với yếu tố nơi tổ chức lễ khai đạo thành lập đạo Cao Đài, Cao Đài

Tây Ninh luôn giữ đúng theo chân truyền về giáo lý, luật lệ, lễ nghi. Hệ thống tổ

chức hành chính đạo đa dạng, chặt chẽ từ Hội thánh đến Họ đạo, quan

giám sát các hoạt động tôn giáo các quan phục vụ hoạt động thiện nguyện

đối với cộng đồng,…

Năm 1965, Cao Đài Tây Ninh được chính quyền Sài Gòn ban hành Sắc

luật số 03/65 công nhận cách pháp nhân. Năm 1997, Cao Đài Tây Ninh được

Nhà nước công nhận cách pháp nhân thành lập tổ chức giáo hội theo Hiến

chương đường hướng hành đạo mới. Hiện nay, Cao Đài Tây Ninh hơn 1

triệu tín đồ, phạm vi hoạt động 35 tỉnh, thành phố, 28 tỉnh, thành phố Ban

Đại diện Hội thánh, 400 Ban Cai quản Họ đạo, 532 sở tôn giáo với 387

Thánh thất 145 Điện Thờ Phật Mẫu, hơn 2000 chức sắc nam nữ được Hội

thánh bổ nhiệm hành đạo từ Trung ương đến địa phương trên 15.000 chức

việc nam, nữ hành đạo tại sở, hoạt động tôn giáo ngày càng ổn định, nền nếp.

1.3.2. Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo

Cao Đài Ban Chỉnh đạo tổ chức tôn giáo đông tín đồ (đứng thứ hai

sau Cao Đài Tây Ninh), Tòa thánh tại Bến Tre. Năm 1934, hai vị chức sắc

cao cấp Đầu Nguyễn Ngọc Tương Đầu Trang cùng một số

chức sắc, tín đồ đã dời Toà thánh Tây Ninh về Bến Tre thành lập Cao Đài Ban

Chỉnh đạo để thực hiện việc chỉnh đốn nền Đạo theo đúng Tân luật, Pháp Chánh

truyền. Với phương châm hành đạo đường hướng tu hành thuần tuý đạo đức,

 

 


 

104

Cao Đài Ban Chỉnh đạo đã thu hút đông đảo các Họ đạo tham gia. Lập trường tu

hành của Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương không tham gia chính trị, nhưng với

tinh thần trách nhiệm của người công dân với Tổ quốc, với dân tộc, ông đã thể

hiện bằng việc ngầm phong chức cho chức sắc, tín đồ của Hội thánh tưởng

yêu nước bãi nhiệm những chức sắc tưởng tiêu cực. Dưới sự lãnh đạo

của Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương, Cao Đài Ban Chỉnh đạo đường hướng

hành đạo gắn với dân tộc, ủng hộ cách mạng tích cực tham gia kháng

chiến cứu quốc.

Năm 1997, Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo tổ chức Đại hội Đại biểu

Nhơn sanh lần thứ nhất, thông qua Hiến chương, bầu quan lãnh đạo Hội

thánh Thượng hội, Ban Thường trực được Nhà nước công nhân cách

pháp nhân (Quyết định số 26 QĐ/TGCP ngày 08 tháng 8 năm 1997 của Ban Tôn

giáo Chính phủ).

Hiện nay, Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo tiếp tục khẳng định phương

châm hành đạo theo đường lối hành đạo của Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương,

hoạt động gắn với dân tộc tuân thủ các qui định của pháp luật. Hội thánh

đã kiện toàn tổ chức bộ máy, thành lập 12/26 Ban Đại diện tỉnh, thành phố; công

cử chức sắc với hàng ngàn chức sắc từ phẩm Lễ sanh đến Đầu sư; vận động

hoàn nguyên hàng chục họ đạo; làm lễ nhập môn cho gần vạn tín đồ; xây dựng

sửa chữa hàng trăm thánh thất; mở được nhiều lớp bồi dưỡng giáo hạnh

đường; in tái bản một số cuốn kinh sách phục vụ nhơn sanh; thành lập được 168

Ban Hành thiện các họ đạo điều trị cho hơn 1 triệu lượt người với hơn trăm

ngàn thang thuốc miễn phí. Đồng thời sửa đổi Hiến chương cho phù hợp với

tình hình thực tế hiện nay nhưng vẫn đảm bảo truyền thống của đạo Cao Đài.

1.3.3. Hội thánh Cao Đài Tiên Thiên

Sau khi chính thức ra đời, đạo Cao Đài tăng cường các hoạt động truyền

giáo các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Cao Đài Tiên Thiên tiền đề hình

thành từ năm 1920 Nam Bộ. Đây tổ chức Cao Đài ba đời Giáo tông yêu

nước, điều này cho thấy lịch sử hình thành phát triển của Cao Đài Tiên Thiên

đã gắn liền với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc qua hai thời kỳ kháng

chiến cứu quốc. Với truyền thống lịch sử đó, Cao Đài Tiên Thiên Hội thánh

đầu tiên được Nhà nước công nhận cách pháp nhân năm 1995 (Quyết định số

51/QĐ/TGCP, ngày 29 tháng 7 năm 1995 của Ban Tôn giáo Chính phủ), sớm

nhất trong các Hội thánh Cao Đài Việt Nam. Từ đây, Cao Đài Tiên Thiên bắt

 

 


 

105

đầu đi vào thời kỳ hành đạo theo Hiến chương, đường hướng hành đạo mới với

tinh thần “Nước vinh, Đạo sáng”. Hiện nay, Cao Đài Tiên Thiên trên 100

nghìn tín đồ, gần 2 ngàn chức sắc 126 Thánh tịnh 16 tỉnh, thành phố, chủ

yếu các tỉnh Nam Bộ.

1.3.4. Hội thánh Cao Đài Minh Chơn đạo

Năm 1928, Ngọc Chưởng pháp Trần Đạo Quang dời Tòa thánh Tây Ninh

về Mau thành lập Cao Đài Minh Chơn đạo với ý nghĩa làm sáng tỏ chân

của đạo Cao Đài đã thu hút đông đảo tín đồ chủ yếu nông dân nghèo vùng

Mau, Bạc Liêu vào đạo. Với phương châm lấy tu “nhơn đạo” làm nền tảng,

xem việc cứu khổ nhơn sanh công quả cao nhất của người tu hành, xây dựng

tình thương yêu đoàn kết, tương trợ giúp đỡ, chăm lo đời sống thiết thực cho

nhơn sanh, Cao Đài Minh Chơn đạo đã tập hợp chức sắc, tín đồ tu hành rèn

luyện đạo đức con người để xây dựng hội đại đồng. Dưới sự lãnh đạo của

Ngọc Chưởng pháp Trần Đạo Quang Thái Chưởng pháp Cao Triều Phát, Cao

Đài Minh Chơn đạo đã nêu cao tinh thần yêu nước vận động chức sắc, tín đồ

tham gia kháng chiến cứu quốc, góp phần cùng nhân dân giành độc lập, tự do

cho đất nước. Dấu ấn lịch sử của Cao Đài Minh Chơn đạo Mặt trận Giồng

Bốm năm 1946 hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ

Chí Minh, Thái Chưởng pháp Cao Triều Phát lãnh đạo hàng ngàn chức sắc, tín

đồ đạo Cao Đài trang bị khí thô đứng lên chống lại thực dân Pháp xâm

lược. Mặt trận Giồng Bốm đã khắc họa tinh thần yêu nước của đạo Cao Đài nói

chung Cao Đài Minh Chơn đạo nói riêng, trở thành biểu tượng cho sự hy

sinh, đóng góp của người đạo Cao Đài trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân

tộc. Từ đây, Cao Đài Minh Chơn đạo trở thành nòng cốt trong hoạt động yêu

nước của đạo Cao Đài để thành lập Liên giao I, Liên giao II, Cao Đài Cứu

quốc,… góp phần cùng nhân dân cả nước đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Cao Đài Minh Chơn đạo được Nhà nước công nhận cách pháp nhân

năm 1996 (Quyết định số 39/QĐ-TGCP ngày 02/8/1996 của Ban Tôn giáo

Chính phủ). Phát huy truyền thống tốt đẹp đó, trong thời kỳ xây dựng bảo vệ

Tổ quốc hiện nay, Cao Đài Minh Chơn đạo trở thành Hội thánh Cao Đài đầu

tiên đăng cai tổ chức hội nghị giao lưu hành đạo của các Hội thánh Cao Đài năm

2008 một trong những thành viên thường trực của hoạt động giao lưu hành

đạo, đồng thời giữ vai trò đoàn kết trong các Hội thánh Cao Đài. Hiện nay, Cao

 

 


 

106

Đài Minh Chơn đạo gần 1 ngàn chức sắc, hơn 1 ngàn chức việc, trên 30 ngàn

tín đồ, 49 Thánh thất 4 tỉnh (Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang).

1.3.5. Hội thánh Truyền Giáo Cao Đài

Truyền Giáo Cao Đài do các ông: Trí Hiển, Trần Nguyên Chất, Trần

Quốc Luyện, Nguyễn Quang Châu,… sáng lập từ những năm 1939 tổ chức

thành lập Hội thánh năm 1956 do ông Trần Văn Quế làm Chủ trưởng, Tòa

thánh Trung Hưng Bửu Toà Đà Nẵng. Truyền Giáo Cao Đài lập trường

hành đạo "thuần chơn ngã, thuần túy đạo đức", xây dựng tổ chức giáo hội

đơn giản so với các tổ chức Cao Đài nhưng được tổ chức chặt chẽ.

Hội thánh Truyền Giáo Cao Đài thực hiện giáo lý, giáo luật, lễ nghi theo

Tân luật, Pháp Chánh truyền. Trong quá trình phát triển, Hội thánh Truyền Giáo

Cao Đài tích cực vận động thống nhất các tổ chức Cao Đài như: Cao Đài Liên

đoàn (1936), Liên hòa Tổng hội (1937), Cao Đài Duy nhất (1951), Cao Đài

Thống Nhất (1952). Năm 1996, Truyền Giáo Cao Đài được Nhà nước công nhận

cách pháp nhân (Quyết định số 40 QĐ/TGCP ngày 24 tháng 9 năm 1996 của

Ban Tôn giáo Chính phủ).

Hiện nay, Truyền Giáo Cao Đài khoảng 50.000 tín đồ, 63 Thánh thất,

sở đạo, phạm vi hoạt động 17 tỉnh, thành phố, chủ yếu Trung Bộ.

1.3.6. Hội thánh Cao Đài Cầu Kho Tam Quan

Đầu năm 1930, một số người miền Trung vào Sài Gòn làm ăn, sinh sống

đã nhập môn vào đạo Cao Đài tại Thánh thất Cầu Kho. Sau đó, họ trở về quê

hương truyền đạo hình thành những nhóm Cao Đài Bình Định, Quảng Ngãi,

Phú Yên,… Năm 1937, Cao Đài Cầu Kho - Hội thánh Trung Việt Tam Quan

chính thức ra đời. Năm 1960, Cao Đài Cầu Kho Tam Quan đã xây dựng tổ chức

giáo hội theo Tân luật, Pháp Chánh truyền.

Sau năm 1975, Cao Đài Cầu Kho Tam Quan duy trì các sinh hoạt tôn giáo

tại sở. Năm 2000, Cao Đài Cầu Kho Tam Quan tổ chức Đại hội Đại biểu

Nhơn sanh thông qua Hiến chương, đường hướng hành đạo mới được Nhà

nước công nhận tổ chức tôn giáo (Quyết định số 199/2000/QĐ-TGCP ngày 28

tháng 4 năm 2000 của Ban Tôn giáo Chính phủ). Hiện nay, Cao Đài Cầu Kho

Tam Quan khoảng 9 ngàn tín đồ, hơn 200 chức sắc, 300 chức việc 28

Thánh thất 8 tỉnh, thành phố.

 

 


 

107

1.3.7. Hội thánh Cao Đài Chiếu Minh Long Châu

Cao Đài Chiếu Minh Long Châu nguồn gốc hình thành từ năm 1928,

khi một số chức sắc dựng nhà đàn đầu tiên bằng cây, lấy tên Chiếu Minh

Tự tại Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ (nay tỉnh Hậu

Giang). Năm 1947, thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến của cách mạng,

chức sắc, tín đồ Cao Đài Chiếu Minh Long Châu phá bỏ Chiếu Minh Tự để vừa

tu hành, vừa đánh giặc.

Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Toà thánh Long Châu sở nuôi giấu,

che chở, bảo vệ cán bộ cách mạng. Tại Toà thánh đã diễn ra nhiều cuộc đấu

tranh chống sự đàn áp, bắt bớ của Mỹ - Nguỵ. Cao Đài Chiếu Minh Long Châu

đã tham gia vào Liên giao I năm 1956 Liên giao II năm 1972. Hội thánh chủ

trương vừa tu phổ độ, vừa tuyển độ phái đạo, được tổ chức theo luật Ngọc đế

Chơn truyền, xây dựng Hội thánh lưỡng đài, lưỡng phái, thực hiện đường lối

hành đạo tu hành gắn với dân tộc, đoàn kết đấu tranh, phụng đạo yêu nước.

Ngày 1/5/1996, Cao Đài Chiếu Minh Long Châu đã tổ chức Đại hội Đại

biểu Nhơn sanh lần thứ nhất thông qua Hiến chương, đường hướng hành đạo

mới bầu ra Ban Thường trực Hội thánh. Hiện nay, Cao Đài Chiếu Minh Long

Châu hơn 100 chức sắc, 200 chức việc, gần 3 ngàn tín đồ với 14 Họ đạo, hoạt

động 2 tỉnh, thành phố: Cần Thơ, Hậu Giang.

1.3.8. Hội thánh Cao Đài Chơn

Năm 1932, Phối Nguyễn Văn Ca dời Tòa thánh Tây Ninh về Mỹ Tho

thành lập Cao Đài Chơn với phương châm hành đạo làm sáng tỏ chân của

nền đạo Cao Đài. Năm 1971, Cao Đài Chơn được chính quyền đương thời

công nhận cách pháp nhân, Tòa thánh Định Tường Mỹ Tho. Năm 2000,

Cao Đài Chơn tổ chức Đại hội Đại biểu Nhơn sanh thông qua Hiến chương,

đường hướng hành đạo mới được Nhà nước công nhận tổ chức tôn giáo (Quyết

định số 16/2000/QĐ-TGCP ngày 14/3/2000 của Ban Tôn giáo Chính phủ).

Cao Đài Chơn thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế bằng Thánh tượng Tâm

nhãn (con mắt trong trái tim) thay cho thờ Thiên nhãn theo quy định của đạo Cao

Đài. Cao Đài Chơn xây dựng hệ thống chức sắc, tổ chức bộ máy khác với Tân

luật, Pháp Chánh truyền của đạo Cao Đài. Cao Đài Chơn thực hiện kinh sách

theo Đuốc Chơn Lý, Luật Bình quân, Thánh giáo sưu tầm,… Hiện nay, Cao Đài

Chơn hơn 6 ngàn tín đồ, gần 2 ngàn chức sắc 28 Thánh thất 11 tỉnh,

thành phố.

 

 


 

108

1.3.9. Hội thánh Cao Đài Bạch Y

Cao Đài Bạch Y do các ông Bửu Tài, Trương Minh Tòng sáng lập năm

1936, Thánh tòa Ngọc Kinh Kiên Giang. Cao Đài Bạch Y bản hoạt động

theo quy định của đạo Cao Đài hành đạo theo kinh luật Ngọc Đế Chơn truyền

Tân Ước Tri nguyên. Trong hai cuộc kháng chiến cứu nước, Cao Đài Bạch Y đã

tích cực tham gia hoạt động yêu nước, đấu tranh hợp pháp, bảo vệ các sở

cách mạng, vận động tu không đi lính cho giặc.

Năm 1998, Cao Đài Bạch Y đã tổ chức Đại hội Đại biểu Nhơn sanh thông

qua Hiến chương, Luật công cử chức sắc, đường hướng hành đạo mới được

Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang công nhận cách pháp nhân (Quyết định số

2363/1998/QĐ-UB, ngày 8 tháng 7 năm 1998 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên

Giang). Hiện nay, Cao Đài Bạch Y khoảng 5.000 tín đồ, hơn 100 chức sắc,

200 chức việc, 14 Thánh thất, phạm vi hoạt động 4 tỉnh, thành phố.

1.3.10. Giáo hội Cao Đài Việt Nam (Bình Đức)

Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) được hình thành từ năm 1961, Toà thánh

Trung ương đặt tại Bình Đức nay Trung An, Thành phố Mỹ Tho, tỉnh

Tiền Giang. Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) thực hiện tôn chỉ, mục đích tôn

thờ Thượng đế các đấng Phật, Tiên, Thánh, Thần nhằm giáo dân vi thiện, bài

trừ tín dị đoan xây dựng thuần phong mỹ tục. Giáo thực hiện theo giáo

căn bản của đạo Cao Đài đem lại tình thương yêu, dìu dắt nhơn sanh xây

dựng lại chánh chơn cho nhân loại. Giáo luật dạy tín đồ giữ tròn đạo phận, làm

điều lành, điều thiện, trung thực, thật thà, không sát hại sinh vật; chức sắc, tín đồ

phải giữ trai giới hoặc trường trai. Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) xây dựng tổ

chức giáo hội, nghi lễ thờ phụng hoạt động riêng theo Hiến pháp quy niệm,

Hồng chương Luật sử.

Năm 2011, Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) được Nhà nước công nhận tổ

chức tôn giáo, thông qua Hiến chương đường hướng hành đạo mới. Hiện nay,

Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) 01 Toà thánh, 09 Thánh thất, 16 trường quy

khoảng 5.000 tín đồ, 400 chức sắc, 300 chức việc hoạt động 4 tỉnh, thành

phố: Tiền Giang, Bến Tre, Long An Đồng Tháp.

1.3.11. Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vi

Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vi do ông Ngô Văn Chiêu, người đệ

tử đầu tiên của đạo Cao Đài sáng lập. Năm 1927, ông Ngô Văn Chiêu không

 

 


 

109

nhận phẩm Giáo tông tại Toà thánh Tây Ninh về Cần Thơ tu tịnh lập tuyển

độ Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vi.

Thời kỳ đầu của tuyển độ hình thành các nhà đàn thuộc Minh đạo,

sau đó phát triển các đàn gia. Cao Đài Chiếu Minh quy định trên 10 đạo

hữu được lập nhà đàn. Từ 24 vị đệ tử cấp nhất của ông Ngô Văn Chiêu đã truyền

thừa cho hàng ngàn người tu theo Chiếu Minh. tuyển độ không thành lập tổ

chức giáo hội, không chức sắc hàng giáo phẩm. Cao Đài Chiếu Minh Tam

Thanh Vi thực hiện đường hướng hành đạo theo pháp môn tu hành của ông

Ngô Văn Chiêu chuyên về tịnh luyện, nội giáo tâm truyền, không phổ độ giữ

pháp chân truyền của đạo Cao Đài. Năm 1999, Thánh Đức Tổ đình tại Cần

Thơ được công nhận tổ chức tôn giáo. Năm 2010, Cao Đài Chiếu Minh Tam

Thanh Vi được Nhà nước cấp đăng hoạt động tôn giáo với 08 nhà đàn

trực thuộc khoảng 3 ngàn người tu hành, hoạt động 7 tỉnh, thành phố.

1.4. Đặc điểm bản của đạo Cao Đài

- Đạo Cao Đài một tôn giáo nội sinh, ra đời năm 1926 Nam Bộ.

Những người sáng lập đạo Cao Đài đa số đều tầng lớp trí thức, công chức,

sản nhỏ của chính quyền thực dân Pháp. Chức sắc, tín đồ hiện nay chủ yếu

nông dân, hoạt động tập trung các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam, từ Huế

trở vào, nhiều nhất các tỉnh Nam bộ. Tuy nhiên, đạo Cao Đài cũng một số

tỉnh phía Bắc như Nội, Hải Phòng.

- Đạo Cao Đài đề cao tính thiêng liêng sự huyền diệu của bút. Đạo Cao

Đài hệ thống giáo lý, giáo luật chặt chẽ phong phú. kế thừa mở rộng

tưởng tam giáo theo hướng nhập thế. Giáo lý, luật lệ, lễ nghi của đạo Cao Đài

gần gũi với phong tục tập quán, tâm lối sống của người dân Nam bộ.

- Ban đầu đạo Cao Đài một tôn giáo thống nhất, Toà thánh Tây

Ninh nhưng sau một thời gian ngắn do bất đồng về quan điểm hành đạo của một

số chức sắc nên chia rẽ thành các tổ chức Cao Đài khác nhau. Chia rẽ, phân ly

đặc điểm nổi bật của đạo Cao Đài từ năm 1930 đến năm 1975. Thời gian này,

đạo Cao Đài chia rẽ thành nhiều tổ chức Cao Đài khác nhau, lúc lên đến 30 tổ

chức. Trong các tổ chức Cao Đài này khoảng 10 tổ chức hoạt động theo

đúng chân truyền của đạo Cao Đài tồn tại đến nay.

- Tổ chức giáo hội trước đây của đạo Cao Đài được xây dựng, thiết chế

5 cấp hành chính: Trung ương, vùng, tỉnh, huyện, xã. Các cấp hành chính trong

 

 


 

110

đạo Cao Đài giáo quyền ràng được quy định cụ thể bằng điều luật tạo điều

kiện cho chức sắc, tín đồ thực hiện.

- Một số Hội thánh Cao Đài sớm tinh thần yêu nước vận động đông

đảo chức sắc, tín đồ tích cực ủng hộ cách mạng, tham gia kháng chiến chống

ngoại xâm.

- Giáo của đạo Cao Đài quan niệm Trời Người cùng bản thể,

thể tương thông, tương ứng hiệp nhất được. Đồng thời, đạo Cao Đài quan

niệm rằng trụ một trường tiến hóa. Do đó, cứu giúp con người thực hiện

sự tiến hóa để trở về với Thượng Đế, tức nguồn gốc của mình cũng của

trụ. Muốn thế con người phải biết tu công, lập đức để hoàn hảo hóa bản thân đến

chân, thiện, mỹ. Đạo Cao Đài giáo bao dung rộng rãi, coi nhân loại đều

một Đấng cha chung trong một đại gia đình với thuyết đại đồng, lấy tình thương

yêu để xóa bỏ hận thù.

- Giáo luật của đạo Cao Đài quy định chặt chẽ trong hoạt động của

nhân tập thể, được cụ thể tại Tân luật, Pháp Chánh truyền, Tứ đại điều quy,

Ngũ giới cấm,... Đối với tập thể sự giám sát giữa các quan đạo, chế

phải thống nhất trong hoạt động tôn giáo tuân thủ theo quy định của giáo

quyền. Đối với nhân quy định cụ thể thực hiện việc tu hành như ăn chay,

đạo phục, tu dưỡng, truyền đạo những điều bắt buộc trong nếp sống đạo,

những điều cấm không được vi phạm. Quy định trong giáo luật của đạo Cao Đài

còn thể hiện sự ràng văn minh.

2. TÌNH HÌNH ĐẠO CAO ĐÀI HIỆN NAY

2.1. Về số lượng chức sắc, chức việc, tín đồ, sở tôn giáo của các Hội

thánh Cao Đài

- Chức sắc: hơn 13 ngàn

- Chức việc: hơn 26 ngàn

- Tín đồ: hơn 1,24 triệu18

- sở tôn giáo: hơn 1.300

Số liệu thống số lượng tín đồ đạo Cao Đài hiện nay sự chênh lệch

giữa chính quyền nhà nước tổ chức tôn giáo. Theo báo cáo của các Hội thánh

Cao Đài năm 2020, tín đồ đạo Cao Đài hơn 2,6 triệu. do, một bộ phận tín

đồ không khai nhận tín đồ Cao Đài khi chính quyền tổ chức thống kê. Đối với

tổ chức tôn giáo Hội thánh, Họ đạo đã khai số lượng tín đồ nhập môn vào

18 Theo thống của Ban Tôn giáo Chính phủ.

 

 


 

111

đạo cùng toàn thể gia đình người tín đồ gồm người già trẻ em chưa đến tuổi

nhập môn nên sự chênh lệch về số liệu thống kê.

2.2. cấu tổ chức của đạo Cao Đài

2.2.1. Tổ chức giáo hội cấp Trung ương

Tổ chức giáo hội được quy định trong Tân luật, Pháp Chánh truyền của

đạo Cao Đài. cấp trung ương Hội thánh Toà thánh nơi hoạt động của

chức sắc lãnh đạo giáo hội. Về mặt tổ chức cấp Hội thánh 3 Đài gồm: Bát

Quái đài, Cửu Trùng đài Hiệp Thiên đài. Đặc điểm về tổ chức giáo hội của

đạo Cao Đài xây dựng trên sở Trời Người hợp nhất với nhau để giải quyết

việc đạo.

Bát Quái đài của đạo Cao Đài thuộc phần hình, do Ngọc Hoàng

Thượng Đế làm chưởng quản gồm các Giáo chủ của Tam giáo Ngũ chi, Tam

Trấn Oai Nghiêm được thờ tại Bửu điện nơi Toà thánh. Bát Quái đài nhiệm

vụ quan lập pháp, điều hành hoạt động của đạo Cao Đài thông qua hình

thức bút nơi Hiệp Thiên đài. Thực tế hiện nay, Bát Quái đài không còn chức

năng lập pháp điều hành hoạt động của đạo, đồng thời công việc điều hành

hoạt động đạo do hai Đài: Cửu Trùng đài Hiệp Thiên đài thực hiện.

Hiệp Thiên đài quan pháp của đạo Cao Đài, do chức sắc phẩm Hộ

pháp đứng đầu. Hiệp Thiên đài 2 nhiệm vụ: làm quan trung gian giữa Bát

Quái đài Cửu Trùng đài thông qua bút làm quan bảo vệ pháp luật

của Đạo. quan Hiệp Thiên đài 3 Chi: Chi Pháp, Chi Đạo Chi Thế. Chi

Pháp do chức sắc phẩm Hộ pháp phụ trách; Chi Đạo do chức sắc phẩm Thượng

phẩm phụ trách; Chi Thế do chức sắc phẩm Thượng sanh phụ trách. Dưới phẩm

Hộ pháp, Thượng phẩm, Thượng sanh chức sắc phẩm Thập nhị Thời quân (12

vị Thời quân), chia ra mỗi Chi 4 vị, như Chi Pháp 4 vị Thời quân là: Tiếp

pháp, Khai pháp, Hiến pháp Bảo pháp; Chi Đạo 4 vị Thời quân Tiếp

đạo, Khai đạo, Hiến đạo Bảo đạo; Chi Thế 4 vị Thời quan Tiếp thế,

Khai thế, Hiến thế Bảo thế. Thực tế hiện nay, quan Hiệp Thiên đài chỉ

hoạt động với nhiệm vụ quan bảo vệ pháp luật của đạo Cao Đài, giám sát

quan Cửu Trùng đài hoạt động theo pháp luật của đạo.

Cửu Trùng đài quan hành pháp của đạo Cao Đài, thực hiện các

nhiệm vụ truyền đạo, hành đạo, tổ chức thực hiện công việc đạo giáo hóa

nhân sinh tu hành. quan Cửu Trùng đài Hội thánh gồm các quan Cửu

viện nam phái, Cửu viện nữ phái các quan giúp việc cho chức sắc phẩm

Giáo tông, Chưởng pháp Đầu sư. Chức sắc quan Cửu Trùng đài 9

phẩm, đứng đầu phẩm Giáo tông, 9 phẩm chức sắc này đối phẩm với Cửu

phẩm Thần Tiên nơi Bát Quái đài: 1. Giáo tông đối phẩm với Thiên Tiên (Phật

 

 


 

112

vị); 2. Chưởng pháp đối phẩm với Nhơn Tiên; 3. Đầu đối phẩm với Địa Tiên;

4. Chánh Phối Phối đối phẩm Thiên Thánh; 5. Giáo đối phẩm với

Nhơn Thánh; 6. Giáo hữu đối phẩm với Địa Thánh; 7. Lễ sanh đối phẩm với

Thiên Thần; 8. Ban Trị sự đối phẩm với Nhơn Thần; 9. Đạo hữu đối phẩm với

Địa Thần. quan Cửu Trùng đài phân ra làm 2 phái: phái nam phái nữ.

Chức sắc mỗi phái quyền hành riêng biệt. Chức sắc nữ phái phẩm cao nhất

Đầu sư. Chức sắc bên nam phái được chia làm 3 phái: Thái, Thượng, Ngọc.

quan Cửu viện nam phái dưới quyền phụ trách trực tiếp của các chức sắc

phẩm Chánh Phối sư. Chức sắc phẩm Thái Chánh Phối phụ trách 3 Viện: Hộ

viện, Lương viện, Công viện; chức sắc phẩm Thượng Chánh Phối phụ trách 3

Viện: Học viện, Y viện, Nông viện; chức sắc phẩm Ngọc Chánh Phối phụ

trách 3 Viện: Hòa viện, Lại viện, Lễ viện. Tổ chức hành chính đạo quan Cửu

Trùng đài nữ phái cũng 9 Viện như nam phái, nhưng nữ phái chỉ một vị

Nữ Chánh Phối sư, nên vị này phụ trách tất cả Cửu viện nữ phái.

Các tổ chức giáo hội cấp Trung ương của đạo Cao Đài tập trung chủ yếu

tại địa bàn Nam Bộ, với 08 Hội thánh, 01 Pháp môn tu hành. miền Trung, đạo

Cao Đài 02 Hội thánh.

2.2.2. Tổ chức cấp sở

Tổ chức hành chính cấp địa phương của đạo Cao Đài 4 cấp gồm: Trấn

đạo, Châu đạo, Tộc đạo Hương Đạo. Trấn đạo khu vực địa được giao

phụ trách nhiều tỉnh, thành phố đạo Cao Đài do chức sắc phẩm Giáo đảm

nhiệm gọi Khâm Trấn đạo. Châu đạo địa bàn một tỉnh, thành phố đạo

Cao Đài do chức sắc phẩm Giáo hội đảm nhiệm gọi Khâm Châu đạo. Tộc đạo

địa bàn một huyện, quận thuộc tỉnh, thành phố do phẩm Lễ sanh đảm nhiệm

gọi Đầu Tộc đạo. Hương đạo địa bàn hành chính của một xã, phường do

phẩm Chánh Trị sự đảm nhiệm được các chức việc Bàn Trị sự Hương đạo bầu

lên gọi Đầu Hương đạo.

Tộc đạo cấp sở của đạo Cao Đài hay còn gọi Họ đạo. Mỗi Tộc đạo

một Thánh thất để thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế quy tụ tín đồ tổ chức sinh

hoạt tôn giáo. Về tổ chức hành chính, Tộc đạo văn phòng giúp việc Đầu Tộc

đạo do Đầu Phòng văn đảm nhiệm, nếu không Đầu Phòng văn thì cử một Thư

giúp việc Đầu Tộc đạo. Mỗi Tộc đạo hay Thánh thất Ban Tứ vụ để điều

hành việc đạo. Ban Tứ vụ gồm 4 vụ: Hộ vụ phụ trách việc thu chi tài chính; Lễ

vụ phụ trách việc nghi lễ sắp xếp các ban trực thuộc: lễ, nhạc, đồng nhi thực

hiện tang sự cho người đạo; Lương vụ phụ trách về lương thực quản nhà

bếp; Công vụ phụ trách việc xây dựng, sửa chữa sở thờ tự nhà làm việc

 

 


 

113

của Tộc đạo. Ngoài ra, Lễ vụ còn các ban chuyên môn trực thuộc gồm: Ban

nhạc, Ban lễ sỹ, Ban đồng nhi, Ban kiểm đàn. Ban nhạc do một nhạc sỹ phụ

trách. Ban lễ sỹ do một Lễ sỹ phụ trách. Ban đồng nhi do một Giáo nhi phụ

trách. Ban kiểm đàn nhiệm vụ sắp đặt gìn giữ trật tự trong đàn cúng.

Thực tế hiện nay, tổ chức hành chính của đạo Cao Đài một số thay đổi.

Cấp Trung ương giáo hội tại Toà thánh quan Thượng hội Ban Thường

trực Hội thánh (hoặc Thường trực, Hội đồng Chưởng quản, Ban Điều hành)

cùng quan Cửu viện nam nữ các quan giúp việc Hội thánh tại Toà

thánh. Cấp địa phương không còn Trấn đạo Hương đạo. Châu đạo được gọi

Ban Đại diện Hội thánh hoạt động trên địa bàn một tỉnh, thành phố nhiệm vụ

hướng dẫn Ban Cai quản các Họ đạo trên địa bàn phụ trách hoạt động theo Hiến

chương, luật đạo của Hội thánh. Đứng đầu Ban Đại diện Hội thánh tỉnh, thành

phố Trưởng Ban Đại diện. Tộc đạo được gọi Họ đạo hoạt động trong phạm

vi Thánh thất Ban Cai quản phụ trách. Đứng đầu Ban Cai quản Cai quản,

Phó Cai quản Thư hoạt động theo nhiệm kỳ 3 năm hoặc 5 năm. Ngoài

ra, Họ đạo còn bộ phận Tứ vụ giúp việc Ban Cai quản các thành viên

Chánh Trị sự, Phó Trị sự, Thông sự cùng Ban Nghi lễ.

Tại các tỉnh, thành phố đông chức sắc, tín đồ được thành lập Ban Đại

diện hoặc Đại diện để giúp Hội thánh trung ương hướng dẫn các hoạt động tôn

giáo sở Họ đạo. Hiến chương Cao Đài Tây Ninh quy định: “Ở tỉnh, thành

phố nhiều Họ đạo Cao Đài Toà thánh Tây Ninh thì Hội thánh bổ nhiệm Ban

Đại diện Hội thánh; Ban Đại diện Hội thánh gồm 01 Trưởng ban 02 đến 05

Phó Ban, chọn từ hàng Giáo hữu nam, nữ tương đương trở lên do Hội thánh

bổ nhiệm; Ban Đại diện Hội thánh phận sự truyền đạt hướng dẫn các Ban

Cai quản Họ đạo thông hiểu tổ chức thực hiện đúng các Đạo lịnh, Thánh lịnh,

Huấn lịnh, Thông tri về Đạo sự của Hội thánh tới các Họ đạo,...”. Hiện nay, đạo

Cao Đài 64 Ban Đại diện, 16 Đại diện 35/38 tỉnh, thành phố.

Họ đạo cấp sở của đạo Cao Đài, nơi nào 500 tín đồ trở lên được

lập một Họ đạo Thánh thất làm nơi thờ tự. Ban Cai quản nhiệm vụ quản

công việc tại Thánh thất, phụ trách 4 phòng Công - Lương - Thơ - Lễ. Ban Trị

sự gồm các chức việc nhiệm vụ lo về luật đạo giúp đỡ tín đồ chấp hành tốt

lo việc từ thiện chăm sóc cuộc sống của tín đồ tại địa phận quản lý.

2.3. Thực trạng hoạt động tôn giáo của các Hội thánh Cao Đài

Hiện nay, các tổ chức giáo hội Cao Đài trải qua năm nhiệm kỳ hoạt động

nên hoạt động đạo sự từng bước đi vào nề nếp tuân thủ pháp luật. Đa số chức

 

 


 

114

sắc các Hội thánh đã thích ứng với chế hoạt động theo Hiến chương đường

hướng hành đạo mới. Các lễ hội lớn trong đạo Cao Đài được duy trì tổ chức

hàng năm như Hội Yến Diêu Trì Cung, Kỷ niệm ngày khai đạo Cao Đài, Ngày

vía Đức Chí Tôn... thu hút hàng trăm ngàn chức sắc, tín đồ tham dự. Các hội

nghị, kỳ họp thường niên của Thượng hội, Hội thánh, Hội Nhơn sanh Đại hội

nhiệm kỳ của các Hội thánh được tổ chức trang trọng, đúng pháp luật. Các Hội

thánh Cao Đài quá trình hoạt động gắn với dân tộc đã tổ chức các cuộc

giao lưu hành đạo trên một số lĩnh vực tôn giáo như xuất bản Tạp chí Cao Đài,

tham gia các hoạt động nhân đạo, từ thiện hội, mở lớp bồi dưỡng giáo hạnh

đường, tổ chức các ngày lễ theo truyền thống của một số phái Cao Đài nhằm

giáo dục chức sắc, tín đồ phát huy tinh thần phụng đạo, yêu nước.

2.3.1. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, chức việc

Việc đào tạo chức sắc, chức việc của đạo Cao Đài được thực hiện các địa

phương với chương trình ngắn hạn mang tính bồi dưỡng chủ yếu, chưa

điều kiện tổ chức tập trung thành trường đào tạo chính quy. Các Hội thánh đã đề

ra chương trình phát triển giáo dục, bồi dưỡng giáo lý, đào tạo nhân tài để củng

cố đức tin cho hàng chức sắc, chức việc toàn thể tín đồ vững vàng tu hành,

đáp ứng bản được nguyện vọng nhơn sanh.

Các Hội thánh tổ chức Cao Đài hàng năm đã mở được các khóa Hạnh

đường bồi dưỡng chức sắc với nhiều hình thức như: khóa hạnh đường, lớp giáo

lý, lễ nhạc đường… mỗi năm trên 500 lớp giáo hạnh đường, trên 20 khóa

hạnh đường trên 2 vạn chức sắc, chức việc, đạo hữu tham dự học tập, nâng

cao kiến thức, bồi dưỡng giáo lý.

2.3.2. Hoạt động phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển,

cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc, nhà tu hành

Việc phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển, cách chức,

bãi nhiệm chức sắc, chức việc, nhà tu hành hoạt động các địa phương được

thực hiện theo Hiến chương của đạo Cao Đài. Các Hội thánh kiểm tra về cách

công dân, đạo hạnh, kiểm tra, giám sát việc thực hiện theo Hiến chương, Luật

công cử. Theo Luật tín ngưỡng, tôn giáo các Hội thánh trách nhiệm thông

báo, đăng với quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo hoặc Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh.

Việc phong phẩm của Cao Đài Tây Ninh được thực hiện vào mỗi dịp Đại

hội Nhơn sanh nhiệm kỳ (5 năm/1 lần), Đại hội Nhơn sanh nhiệm kỳ tổ chức

năm 2017, Cao Đài Tây Ninh đã phong phẩm Lễ sanh cho 1.169 chức việc

thăng phẩm Giáo hữu cho 336 vị, Giáo cho 39 vị. Hội thánh Cao Đài Tây

Ninh căn cứ quy định của luật đạo để phong chức, phong phẩm cho chức sắc,

 

 


 

115

chức việc. Tùy theo từng phẩm, các chức sắc, chức việc sẽ được phong khi đủ

năm “công nghiệp hành đạo” (tối thiểu 5 năm) đáp ứng các tiêu chí về đạo

hạnh, với các quy định tương đối chặt chẽ.

2.3.3. Đại hội, hội nghị của đạo Cao Đài

Các phái Cao Đài đã tổ chức Đại hội nhiệm kỳ đảm bảo đúng quy định của

pháp luật Hiến chương, Điều lệ của các Hội thánh Cao Đài. Thông qua các kỳ

đại hội nhiệm kỳ, các Hội thánh Cao Đài thực hiện sửa đổi Hiến chương, Đạo

quy, Quy chế hoạt động. Trong quá trình thực hiện, Ban Thường trực, Hội đồng

Hội thánh, Hội đồng Chưởng quản của các Hội thánh Cao Đài đã lựa chọn, giới

thiệu chức sắc lãnh đạo đảm bảo về uy tín, năng lực, sức khỏe. Qua thời gian

thực hiện, đến nay các phái Cao Đài bản sự kế thừa giữa chức sắc lớn tuổi

chức sắc trẻ tham gia lãnh đạo giáo hội. Đồng thời, những chức sắc lãnh đạo

của các Hội thánh Cao Đài được chính quyền các cấp giới thiệu tham gia các tổ

chức chính trị hội trung ương địa phương.

Đối với đại hội cấp sở các Họ đạo Cao Đài đều thực hiện theo quy định

của pháp luật Hiến chương các Hội thánh Cao Đài. Trong thời gian qua, các

Họ đạo sở của các Hội thánh Cao Đài đã tổ chức Đại hội nhiệm kỳ cấp sở

đảm bảo an toàn, đúng pháp luật. Thông qua Đại hội đã kiện toàn Ban Cai quản,

Ban Trị sự Họ đạo lựa chọn nhân sự lãnh đạo sở năng lực, trình độ

được nhơn sanh tín nhiệm. Hằng năm, các Họ đạo Cao Đài cũng thực hiện việc tổ

chức hội nghị thường niên cấp sở để tổng kết năm đạo đề ra chương trình

hoạt động của năm đạo kế tiếp theo kế hoạch, hướng dẫn của Hội thánh.

2.3.4. Hoạt động quốc tế của đạo Cao Đài

Cao Đài Tây Ninh nhiều hoạt động quan hệ quốc tế với các tổ chức tôn

giáo mối quan hệ từ trước như: tổ chức Oomoto giáo Nhật Bản; tổ chức

Tiên Thiên Cứu Giáo Hồng Vạn Đài Loan; dự Đại hội Tôn giáo thế giới tại

Hàn Quốc năm 2014; tham gia hoạt động tôn giáo Singapo; thăm một số sở

Cao Đài tại Mỹ, Canada,... Cao Đài Tây Ninh mời một số tổ chức tôn giáo

nước ngoài tín đồ người nước ngoài về Tòa thánh Tây Ninh tham dự Đại lễ

Hội Yến Diêu Trì Cung. Cao Đài Tây Ninh đã công nhận 07 Họ đạo trực thuộc

nước ngoài.

2.4 Hoạt động an sinh hội của đạo Cao Đài

2.4.1. Hoạt động từ thiện nhân đạo

Theo báo cáo của các Hội thánh Cao Đài hằng năm đã đóng góp trên 100

tỷ đồng vào các hoạt động từ thiện. Đa số chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài đều tham

gia hoạt động từ thiện hội, coi đây vừa trách nhiệm, vừa hoạt động thể

hiện tinh thần tôn giáo đối với cộng đồng hội.

 

 


 

116

Hoạt động từ thiện của đạo Cao Đài được thực hiện theo quy định của đạo

thu hút được đông đảo tín đồ tham gia. Những năm gần đây, hoạt động từ thiện

của đạo Cao Đài ngày càng phát triển tích cực tham gia các hoạt động chung

của hội. Tuy nhiên, hoạt động từ thiện của đạo Cao Đài còn mang tính tự phát

chưa được tổ chức chặt chẽ. Mỗi khi việc thì cùng chung tay làm rất tích cực

nhưng sau đó lại trở lại bình thường không duy trì hoạt động từ thiện thường

xuyên. Đạo Cao Đài còn hạn chế về nguồn lực nên muốn thay đổi cách làm từ

thiện cần thiết phải xây dựng các sở sản xuất, sở trồng trọt tạo ra các vật

dụng, nông sản để làm từ thiện, đóng góp cho hội thì mới bền vững huy

động được nhiều hơn nữa tín đồ tham gia.

2.4.2. Hoạt động khám chữa bệnh

Trong hoạt động khám chữa bệnh, đạo Cao Đài rất chú trọng chăm sóc sức

khỏe cho cộng đồng, đồng thời cứu giúp người dân khi đau yếu, bệnh tật với

tinh thần cứu khó trợ nghèo. Các sở khám chữa bệnh của đạo Cao Đài đã

thực hiện tốt việc chăm sóc sức khỏe cho đồng đạo người dân vùng đạo

Cao Đài.

Đạo Cao Đài 93 sở phòng thuốc nam khám chữa bệnh, trong đó

135 sở bốc thuốc, 02 sở chăm sóc chữa bệnh lâu dài tại sở, 11 sở chăm sóc người già, tổng kinh phí thực hiện hoạt động khám chữa bệnh hằng năm

khoảng 200 tỷ đồng19. Ngoài ra, các tỉnh, thành phố, một số Họ đạo Cao Đài phòng khám thuốc chữa bệnh, góp phần làm tốt công việc khám chữa bệnh tuyến sở.

3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM ĐỐI VỚI ĐẠO CAO ĐÀI

HIỆN NAY PHỤC VỤ CÔNG TÁC THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN

3.1. Về tổ chức của đạo Cao Đài

Hiện nay, các Hội thánh Cao Đài thay đổi về hệ thống tổ chức giáo hội,

so với quy định của Tân luật, Pháp Chánh truyền. Nguyên nhân, thứ nhất do khi

thành lập lại tổ chức giáo hội đều xây dựng hình tập thể lãnh đạo qua hình

19 Ban Tôn giáo Chính phủ (2018), Số liệu thống các Hội thánh Cao Đài năm 2018, Nội, tr.9. Hoạt động

khám chữa bệnh của đạo Cao Đài cụ thể là: Cao Đài Ban Chỉnh đạo 30 phòng chẩn trị y học dân tộc, châm cứu,

phục vụ sức khoẻ đồng đạo khi đau yếu. Phòng chẩn trị y học dân tộc Dưỡng Đường của Hội thánh Cao Đài Ban

Chỉnh đạo đã khám điều trị miễn phí cho 180.611 lượt người, cấp 817.892 thang thuốc miễn phí, châm cứu cho

143.567 lượt người, thành tiền 5.738.188.000 đồng. Tổng hợp số liệu chung của các phòng chẩn trị như xem mạch

cho 1.268.685 người, bốc 118.030 thang thuốc, 198.326 lượt người được châm cứu miễn phí, trị giá

5.998.659.670 đồng; Cao Đài Tiên Thiên 18 phòng khám y học dân tộc, khám điều trị cho 5.098 bệnh nhân;

châm cứu, bấm huyệt cho 989 người; bốc thuốc miễn phí 12.377 thang thuốc; cấp phát 1.670 gói thuốc trị gan, đau

nhức; Cao Đài Chơn 2 phòng thuốc y học dân tộc Thánh thất Nha Trang (Khánh Hoà) Thánh thất Thanh

Bình (Tiền Giang) nơi phát thuốc chữa bệnh miễn phí cho đồng bào nghèo khó; Cao Đài Chiếu Minh Long Châu

3 phòng thuốc nam hoạt động trên 30 năm, đã xem mạch trị bệnh cho trên 10.825 lượt người, châm cứu cho gần

520 người, bốc 15.670 thang thuốc miễn phí; Cao Đài Bạch Y 04 phòng thuốc Nam hoạt động từ thiện, châm

cứu 12.000 người, bốc 1.988.000 thang thuốc nam, trị giá 3.976.000.000 đồng,...

 

 


 

117

thức: Thượng hội, Ban Thường trực, Hội đồng Chưởng quản, Ban Điều hành,…;

thứ hai, do quá trình lâu dài không được phong chức, phong phẩm từ sau năm

1975 đến năm 1995 nên đa số các Hội thánh Cao Đài không đủ chức sắc hành

đạo theo quy định của luật đạo; thứ ba, chức sắc Cao Đài hiện nay không dám

đảm nhận phẩm vị cao trong tổ chức giáo hội như Giáo tông, Hộ pháp để

vi. Từ các nguyên nhân trên, dẫn đến thiếu hụt chức sắc điều hành tổ chức giáo

hội. Đồng thời hình tổ chức giáo hội hiện nay của đạo Cao Đài hình

mới, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh hiện tại để giúp các Hội thánh Cao Đài

hoạt động ổn định theo Luật đạo.

3.2. Về hoạt động liên giao hành đạo

 Đạo Cao Đài hoạt động liên giao hành đạo hình mới phát triển

trong khoảng 10 năm gần đây. Sự ra đời của hoạt động liên giao hành đạo của các

Hội thánh Cao Đài xuất phát từ dịp Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo tổ chức kỷ

niệm 60 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Thánh thất Cao Đài Thủ đô Nội

vào năm 2006 tại Thủ đô Nội. Nhân dịp này, đoàn đại biểu chức sắc lãnh đạo

các Hội thánh Cao Đài đã đến chào thăm Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết. Tại

buổi gặp mặt, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã khuyến khích các chức sắc

Cao Đài cần đoàn kết trong hoạt động tôn giáo để sức mạnh lan tỏa hơn trong

các hoạt động tôn giáo của đạo Cao Đài. Thực hiện ý kiến của Chủ tịch nước, các

Hội thánh tổ chức đạo Cao Đài đã sáng kiến thành lập tổ chức liên giao

hành đạo để cùng giúp đỡ nhau trên con đường hành đạo về hoạt động từ thiện

hội, hoạt động báo chí, giáo dục đào tạo chức sắc. Đây hoạt động tự nguyện của

các Hội thánh tổ chức Cao Đài nhằm từng bước giải quyết những vấn đề cần

thiết của đạo Cao Đài trong giai đoạn hiện nay.

 Với tinh thần đó, các Hội thánh Cao Đài đã tổ chức hội nghị liên giao lần

thứ nhất được tổ chức tại Thánh thất Thiên Cảnh đàn thuộc Hội thánh Cao Đài

Minh Chơn đạo tại tỉnh Mau 07 Hội thánh 05 tổ chức Cao Đài tham gia.

 Đến nay, các Hội thánh tổ chức Cao Đài đã tổ chức 13 lần liên giao

hành đạo phát huy tốt vai trò đoàn kết tôn giáo, gắn kết hoạt động tôn giáo

trên các lĩnh vực từ thiện hội, hoạt động báo chí, giáo dục đào tạo.

 3.2. Về công tác quản hoạt động quốc tế của đạo Cao Đài

 Công tác quản hoạt động quốc tế của đạo Cao Đài tạo điều kiện thuận

lợi cho các Hội thánh Cao Đài được công nhận tổ chức tôn giáo trực thuộc

chức sắc, chức việc, tín đồ nước ngoài theo quy định pháp luật Nhà nước Việt

Nam tuân thủ quy định pháp luật nước sở tại. Hiện nay, đạo Cao Đài

 

 


 

118

nước ngoài 59 Thánh thất, Thánh tịnh, Điện thờ Phật Mẫu, tổng số tín đồ

khoảng 32.000 người. Phạm vi hoạt động 11 nước, gồm: Mỹ, Canada, Anh,

Pháp, Đức, Úc, Nhật, Thái Lan, Philippines, Malaysia, Campuchia. Bên cạnh

hoạt động của các tổ chức Cao Đài nước ngoài thái độ chống đối giáo hội

trong nước còn hoạt động tiến bộ yêu nước. Các tổ chức Cao Đài nước

ngoài tích cực vận động chức sắc, tín đồ nước ngoài tham gia các hoạt động từ

thiện nhân đạo trong nước, hỗ trợ các Họ đạo xây dựng, sửa chữa sở thờ tự,

in kinh sách, xuất bản tài liệu của đạo Cao Đài,...

3.4. Kỹ năng giao tiếp

Trong giao tiếp hàng ngày, người đạo Cao Đài xưng với nhau thân

thiện, gần gũi không tạo khoảng cách giữa cấp trên cấp dưới. Giáo tông

người đứng đầu trong tổ chức tôn giáo, xưng danh anh Cả, còn các vị chức

sắc xưng danh với tín đồ anh, chị. Tín đồ gọi chức sắc anh lớn, chị lớn.

Đức Cao Đài khi xuất hiện qua “cơ bút” xưng danh với các đệ tử “Thầy”, ý

nghĩa như người hướng dẫn, chỉ dạy cho tín đồ.

Cách xưng trong đạo Cao Đài được quy định chức sắc lớn hơn được

gọi hiền huynh, hiền tỷ, gọi người chức sắc nhỏ hơn hiền đệ, hiền muội.

Trong văn bản hoặc khi giao tiếp quy định từ tín đồ đến phẩm Giáo hữu sử dụng

chữ Ông, từ phẩm Giáo trở lên dùng chữ Ngài. Tuy nhiên thực tế hiện nay,

người tín đồ Cao Đài thường gọi nhau anh lớn, chị lớn để thể hiện sự thân mật

trong giao tiếp hàm nghĩa tôn trọng phẩm vị chức sắc trong tôn giáo. Quy

định trong giao tiếp hội hoặc tại gia đình, họ hàng, người đạo Cao Đài vẫn

xưng bình thường gọi ông, bà, cô, dì, chú, bác, anh, chị, em, cháu,...

Đây cách xưng thể hiện trong đạo Cao Đài không sự phân biệt

giai cấp trong sinh hoạt hàng ngày, họ sống dân chủ, bình dân trong giao tiếp

trở thành những người tu hành sống chan hoà không khoảng cách người trên,

kẻ dưới, người đồng đạo coi nhau như anh em.

Trong công tác tôn giáo, không gọi chức sắc Cao Đài “Thầy”, thể gọi

trực tiếp phẩm vị tôn giáo như: Lễ sanh, Giáo hữu, Phối sư, Đầu sư,.., hay chức

vụ của họ như; Trưởng ban, Phó Trưởng ban, Cai quản, Phó Cai quản, Hội

trưởng, Phó Hội trưởng,.., hoặc gọi thân mật ông, bà.

3.4. Kỹ năng ứng xử

Tôn trọng những nhu cầu chính đáng của chức sắc, chức việc, tín đồ tổ

chức tôn giáo của đạo Cao Đài.

 

 


 

119

Trong giao tiếp, ứng xử, trao đổi công việc với chức sắc, chức việc, tín đồ

đạo Cao Đài thực hiện bằng sự chân thành, tình cảm không nên khoa trương,

hứa hẹn không thực hiện. Bởi chức sắc, chức việc, tín đồ đạo Cao Đài chủ

yếu thành phần nông dân, tính cách thật thà, tin người nhất đối với cán

bộ, công chức Nhà nước được họ tôn trọng.

Quan tâm giải quyết những thủ tục hành chính của đạo Cao Đài theo quy

định của pháp luật, lý, tình.

Biết lắng nghe kịp thời giải quyết những nguyện vọng chính đáng, hợp

pháp của chức sắc, chức việc, tín đồ đạo Cao Đài.

Kiên quyết xử những đối tượng cố tình vi phạm pháp luật thái độ

coi thường kỷ cương, phép nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- quan Phổ thông Giáo (2005), Lịch sử đạo Cao đài, quyển 1, Nhà

xuất bản Tôn giáo, Nội.

- quan Phổ thông Giáo Đại Đạo (2008), Lịch sử đạo Cao Đài, quyển

2, Nhà xuất bản Tôn giáo, Nội.

- Nguyễn Thanh Xuân (2015), Đạo Cao Đài hai khía cạnh Lịch sử Tôn

giá (tái bản lần thứ nhất), Nhà xuất bản Tôn giáo, Nội.

CÂU HỎI THẢO LUẬN

1. Đặc điểm nào cần chú ý của đạo Cao Đài trong công tác thông tin, tuyên

truyền?

2. Trong ứng xử, giao tiếp đối với chức sắc, chức việc, tín đồ đạo Cao Đài,

tính cách nổi bật nào của họ cần chú ý? sao?

3. Tại sao đạo Cao Đài phân chia thành nhiều tổ chức, hệ phái khác nhau?

4. Những hoạt động hội nào của đạo Cao Đài cần tuyên truyền, lan tỏa

trong hội hiện nay? Phân tích?