TÀI LIỆU MỚI.
Điệp viên cộng sản soạn sử để cho Ban Tôn Giáo cộng sản xài là chẳng đáng tin.
BẢN VI TÍNH.
Tháng 9-2021 Ban Tôn Giáo chính phủ có xuất bản TÀI LIỆU VỀ CÁC TÔN GIÁO cho cán bộ học tập để tuyên truyền.
Tài liệu có 10 chuyên đề, 430 trang. Chuyên đề 5 từ trang 97-119 viết về Đạo Cao Đài.
Hai tay trùm điệp viên cộng sản Trần Chí Thành và U4 Đinh Văn Đệ chỉ huy cho Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý 171/B Cống Quỳnh biên soạn đạo sử và Ban Tôn Giáo cộng sản căn cứ vào đó cũng là phù hợp. Một bộ sử do điệp viên cộng sản soạn ra cho Ban Tôn Giáo cộng sản xài để làm sai lệch về Đạo Cao Đài mới thấy sự chuẩn bị rất công phu của triệt giáo.
Chúng tôi sẽ căn cứ vào Đạo Sử Q I và Q II của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu biên soạn có Hội Thánh Cao Đài kiểm duyệt, Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp để chỉ ra những điều sai trái.
97
Chuyên đề 5
KHÁI QUÁT VỀ ĐẠO CAO ĐÀI Ở VIỆT NAM
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẠO CAO ĐÀI
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của đạo Cao Đài
Đạo Cao Đài tên gọi đầy đủ là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ độ, ra đời năm 1926
tại ấp Long Trung, xã Long Thành, huyện Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh do một số
công chức, tư sản, địa chủ, trí thức sáng lập và phát triển chủ yếu ở các tỉnh,
thành phố Nam Bộ.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp tăng cường khai thác
thuộc địa Đông Dương để hàn gắn vết thương chiến tranh ở chính quốc bằng
nhiều chính sách kinh tế hà khắc. Trong đó, chính sách cướp ruộng đất để lập
đồn điền và chính sách tăng thuế đã làm cho người nông dân Nam Bộ bị bần
cùng hoá, đời sống lầm than khổ cực.
Giới công chức, tư sản, địa chủ, thầy giáo, thầy tu bị chế độ thuộc địa chèn
ép bế tắc trong cuộc sống nên họ đã tìm đến thú chơi “xây bàn” theo kiểu thông
linh học của người phương Tây hoặc cầu cơ chấp bút theo truyền thống của
người Việt.
Trong thời
gian này ở Nam Bộ xuất hiện nhiều phong trào đấu tranh chống
Pháp như: các cuộc khởi nghĩa vũ trang đến phong trào đấu tranh đòi dân sinh,
dân chủ; các tổ chức hội kín chống Pháp như Thiên Địa hội của Phan Xích
Long; các tổ chức đảng phái chính trị được thành lập công khai như Công hội
năm 1921, Đảng Lập hiến năm 1923, Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội
1926,... Tuy nhiên, tất cả các cuộc khởi nghĩa và phong trào yêu nước của nhân
dân Nam Bộ đều thất bại và bị thực dân Pháp đàn áp đẫm máu. Thất bại trong
đấu tranh, bế tắc trong cuộc sống, người dân Nam Bộ đã tìm đến tín ngưỡng, tôn
giáo để hi vọng được che chở và giải thoát.
Thực dân Pháp áp dụng chế độ chính trị thuộc địa ở Nam Bộ tương tự như
ở chính quốc, vì vậy chính sách đối với tôn giáo tại Nam Bộ không khắt khe như
ở Bắc Bộ và Trung Bộ. Nam Bộ là vùng đất mới được kiến lập, cư dân chủ yếu
thuộc bốn nhóm người là người Việt từ Bắc Trung Bộ vào, người Hoa từ Quảng
Đông, Phúc Kiến xuống, người Chăm và người Khmer. Những nhóm người này
đến lập nghiệp đã mang theo phong tục tập quán, văn hoá tín ngưỡng của vùng
đất đó làm cho đời sống văn hoá tín ngưỡng của người dân Nam Bộ trở nên đa
dạng và phong phú, tạo tiền đề để tiếp nhận một tôn giáo mới.
Tư tưởng Tam giáo đồng nguyên (Phật, Lão, Nho) sớm xuất hiện ở vùng
đất Nam Bộ trong bối cảnh đó đã hoà nhập cùng trào lưu “Thông linh học" của
phương Tây tạo thành phong trào cầu cơ, chấp bút và được các nhóm Ngũ chi
Minh đạo vốn có từ trước ở Nam Bộ hưởng ứng tích cực.
Việc bế tắc trong cuộc sống hiện tại, sự suy yếu của các tôn giáo, đạo lý
đương thời đã tạo ra khoảng trống về tư tưởng, tín ngưỡng, kích thích nhu cầu
tâm linh tôn giáo của quần chúng nhân dân và tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra
đời của đạo Cao Đài là phản ánh tất yếu của xã hội đương thời.
Đầu thế kỷ XX, tư tưởng Tam giáo đồng nguyên (Phật, Lão, Nho) ở Việt
Nam có xu hướng giảm xuống nhưng hoạt động của nhóm Ngũ chi Minh đạo
(Minh Sư, Minh Lý, Minh Đường, Minh Tân, Minh Thiện) tăng mạnh đã làm
hồi sinh tư tưởng Tam giáo đồng nguyên. Cùng lúc đó, phong trào Thông linh
học của phương Tây phát triển mạnh tại Nam Bộ với các hình thức “xây bàn”
tương tự như tục cầu hồn của người Việt và cầu cơ của nhóm Ngũ chi Minh đạo
đã tạo thành phong trào cầu cơ, chấp bút gọi tắt là “cơ bút”. Trong các đàn cơ
này có hai nhóm chính hình thành đạo Cao Đài. Nhóm thứ nhất do ông Ngô
Văn Chiêu cầu cơ tại các đền, chùa, phật đường theo truyền thống cơ bút thuộc
nhóm Ngũ chi Minh đạo. Nhóm thứ hai gồm các vị: Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài
Sang, Phạm Công Tắc (nhóm Cao - Phạm) tổ chức xây bàn cầu cơ theo kiểu
Thông linh học phương Tây. Năm 1926, hai nhóm cơ bút nói trên thống nhất
hình thành đạo Cao Đài, ông Ngô Văn Chiêu được thiên phong phẩm vị Giáo
tông đầu tiên của đạo
Cao Đài.
Ngày 29/9/1926, một số vị chức sắc đứng đầu các đàn cơ và tín đồ đã
thống nhất kí tên vào tờ khai đạo gửi chính quyền Pháp. Ngày 19/11/1926,
những chức sắc đầu tiên của đạo Cao Đài đã tổ chức lễ khai đạo tại tỉnh Tây
Ninh và chính thức ra mắt đạo Cao Đài.
Ông Ngô Văn Chiêu sau khi có công lớn sáng lập đạo Cao Đài đã không
nhận chức Giáo tông tại Tây Ninh mà về Cần Thơ thành lập phái Cao Đài Chiếu
Minh Tam Thanh Vô Vi, thực hiện đường hướng tu luyện theo pháp môn “vô
vi” không phổ độ, không thành lập tổ chức giáo hội.
Sau ngày khai đạo, những chức sắc lãnh đạo giáo hội Cao Đài tiến hành
xây dựng Toà thánh Tây Ninh và cơ sở hạ tầng, từng bước hoàn chỉnh hệ thống
bộ máy tổ chức hành chính đạo từ Trung ương đến cơ sở. Do một số bất đồng
trong điều hành giáo hội, một số chức sắc lãnh đạo giáo hội Cao Đài đã tách ra
và về địa phương thành lập các tổ chức Cao Đài mới như: Cao Đài Chơn Lý,
Cao Đài Tiên Thiên, Cao Đài Ban Chỉnh đạo,… Tại Tây Ninh, số chức sắc ở lại
tiếp tục điều hành hoạt động của đạo Cao Đài. Từ đây, Cao Đài Tây Ninh trở
thành một tổ chức tôn giáo được coi là gốc của đạo Cao Đài, có Toà thánh Tây
Ninh, có số lượng chức sắc, chức việc, tín đồ đông nhất trong các tổ chức Cao
Đài. Cao Đài Tây Ninh thực hiện đường hướng hành đạo phổ độ thu hút được
đông đảo tín đồ, chủ yếu là nông dân tham gia. Một số tổ chức Cao Đài sau khi
dời Tòa thánh Tây Ninh về các địa phương thành lập tổ chức Cao Đài mới đã
xây dựng đường hướng hành đạo tiến bộ, sớm có tinh thần yêu nước và vận
động đông đảo chức sắc, tín đồ tích cực ủng hộ cách mạng, tham gia kháng
chiến chống ngoại xâm. Tuy bị chia rẽ thành nhiều tổ chức khác nhau nhưng số
lượng tín đồ và cơ sở tôn giáo của đạo Cao Đài vẫn phát triển rộng khắp các tỉnh
Nam Bộ đồng thời đã tạo ra vị thế mới cho đạo Cao Đài trong xã hội đương
thời. Chia rẽ, phân ly là đặc điểm nổi bật của đạo Cao Đài từ năm 1930 đến năm
1975. Thời gian này, đạo Cao Đài chia rẽ thành nhiều tổ chức Cao Đài khác
nhau, có lúc lên đến 30 tổ chức. Trong các tổ chức Cao Đài này có khoảng 10 tổ
chức là hoạt động theo đúng chân truyền của đạo Cao Đài và tồn tại đến nay.
Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, hoạt động của đạo Cao Đài hạn
chế về quy mô và tổ chức. Chức sắc, tín đồ về tu tại gia, duy trì Ban Quản lý tại
các cơ sở thờ tự của đạo Cao Đài, có một số ít người ở lại Toà thánh, Thánh thất
để quản lý cơ sở thờ tự và thực hiện nghi thức thờ cúng.
Từ năm 1992 đến nay, Nhà nước đã công nhận tổ chức tôn giáo đối với 10
Hội thánh Cao Đài, 21 tổ chức Cao Đài hoạt động độc lập và cấp đăng ký hoạt
động tôn giáo đối với 01 pháp môn Cao Đài.
Chức sắc, chức việc, tín đồ đạo Cao Đài vui mừng, phấn khởi trước đổi
mới về chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước, được công nhận về tổ chức tôn
giáo và hoạt động bình thường như các tôn giáo ở Việt Nam. Cao Đài Tây Ninh
và các Hội thánh Cao Đài tổ chức Đại hội nhiệm kỳ, hội nghị thường niên, Đại
lễ Hội Yến Diêu Trì Cung, Đại lễ Vía Đức Chí Tôn, Đại lễ kỷ niệm ngày khai
đạo Cao Đài,… thu hút đông đảo tín đồ tham dự và đảm bảo an toàn, trang
trọng. Các Hội thánh, tổ chức Cao Đài tích cực thực hiện các hoạt động từ thiện
xã hội với tổng kinh phí hằng năm trên 100 tỷ đồng.
Các Hội thánh, tổ chức Cao Đài tổ chức hoạt động liên giao hành đạo
nhằm hoạt động chung trên một số lĩnh vực như: giáo dục đào tạo chức sắc, hoạt
động báo chí, hoạt động từ thiện xã hội. Đây là hoạt động thiết thực, góp phần
tăng cường sự đoàn kết tôn giáo giữa các Hội thánh Cao Đài.
Chức sắc, chức việc, tín đồ đạo Cao Đài hoạt động tôn giáo tuân thủ quy
định pháp luật, có tư tưởng tiến bộ yêu nước và hoạt động gắn bó với dân tộc.
Số lượng tín đồ đạo Cao Đài hiện
nay phát triển hơn so với năm 1975. Các cơ sở
tôn giáo của đạo Cao Đài được sửa chữa, xây dựng mới ngày càng khang trang,
đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài.
1.2. Giáo lý, giáo luật
1.2.1. Giáo lý
Giáo lý là học thuyết về triết lý sống và thế giới quan, nhân sinh quan của
tôn giáo. Tôn chỉ của đạo Cao Đài là Tam giáo quy nguyên, Ngũ chi phục nhất.
Tam giáo quy nguyên là quy ba tôn giáo: Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo trở về
cái gốc, cái nguyên bản. Đó là đường lối để thực hiện mục đích Thế đạo đại
đồng, Thiên đạo giải thoát. Ngũ chi phục nhất tức là thống nhất năm ngành đạo
thành một là Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo. Đó là đường
lối tu hành tuần tự như năm nấc thang tu hành. Đạo Cao Đài xây dựng một nền
giáo lý toàn diện tức là giáo lý Tam giáo. Theo đạo Cao Đài, Tam giáo có đủ
điều kiện xây dựng con người chân chính, xã hội an lạc là Đạo Nho, dạy con
người biết tu dưỡng thể xác và tinh thần, sống trung dung tự tại là Đạo Lão, dạy
nhân sinh biết giác ngộ và giải khổ là Đạo Phật.
Đồng thời, tôn chỉ của đạo Cao Đài còn nêu lên tinh thần “Vạn giáo nhất
lý” và cho rằng mục đích cứu cánh của tất cả tôn giáo chân chính là hướng dẫn
con người sống có đạo đức, hoàn thiện hóa bản thân, hoàn thiện hóa xã hội và
giải thoát linh hồn hướng tới xây dựng con người chuẩn mực về đạo đức, xã hội
hòa bình, hạnh phúc. Vì vậy, đạo Cao Đài chủ trương tôn trọng tín ngưỡng của
các tôn giáo để cùng thực hiện chung giáo lý của một tôn giáo lớn nhằm giác
ngộ nhân loại toàn cầu.
Mục đích của đạo Cao Đài về mặt tâm linh là giải thoát luân hồi sinh tử
hay còn nói rằng “Thế đạo đại đồng, Thiên đạo giải thoát”. Thế đạo đại đồng là
đường lối hay phương pháp giải quyết về con người tạo ra cuộc sống an lạc, hòa
bình, tiến bộ trong xã hội. Thế đạo đại đồng nhằm thực hiện thế giới nhân loại
bình đẳng, hạnh phúc không phân biệt giai cấp, tôn giáo, dân tộc lấy nhân bản
làm nền tảng, trong đó nhân quyền con người được tôn trọng, nhân tính được
phát huy để xây dựng một thế giới văn minh, đạo đức, hòa bình. Người đạo Cao
Đài quan niệm đó là đời Thượng nguyên Thánh Đức. Thế đạo đại đồng theo
nghĩa rộng còn là tình bác ái đối với muôn loài, vạn vật từ những sinh vật nhỏ
nhất đến các loài cầm thú, đến con người và cả chúng sinh. Thiên đạo giải thoát
là đường lối tu hành để người tu đạt được sự giải thoát toàn diện, không còn khổ
đau về thể xác hay phiền não về tâm hồn tại thế gian và xa hơn nữa được giải
thoát tâm linh. Sau khi thoát xác, linh hồn con người nếu đắc quả Thiên đạo sẽ
sống vĩnh viễn trong cõi thiên đường cực lạc, không còn bị luân hồi trở lại phàm
trần. Muốn thế, người tu theo Thiên đạo phải học đạo Đại thừa, tu luyện thân
tâm và thực hành sứ mệnh cứu độ tha nhân.
Giáo lý của đạo Cao Đài xây dựng dựa trên hai nguyên lý căn bản là:
Thiên địa vạn vật đồng nhất thể: Trời đất vạn vật có cùng một bản thể và Nhất
bản tán vạn thù, vạn thù qui nhất bổn: Một gốc phân tán ra vạn hình thức (sai
biệt), vạn hình thức (sai biệt) quay về một gốc. Từ nguyên lý thứ nhất, giáo lý
của đạo Cao Đài quan niệm Trời và Người có cùng bản thể, có thể tương thông,
tương ứng và hiệp nhất được. Nên trong Thánh giáo của đạo Cao Đài
đượcThượng Đế dạy rằng: “Thầy là các con, các con là Thầy”. Kế đến, chúng
sinh cũng đồng bản thể nên phải thương yêu nhau, nhất là giữa người với người
xem nhau như anh em, từ đó phải thực hiện mục đích đại đồng nhân loại. Từ
nguyên lý thứ hai, giáo lý của đạo Cao Đài quan niệm rằng vũ trụ là một trường
tiến hóa có khởi điểm từ bản thể Đại Linh Quang, tức Thượng Đế, phóng phát
các điểm linh quang tiềm tàng trong vạn loại để tiến hóa từ khoáng sản, thảo
mộc, thú cầm, đến con người. Rồi từ con người đến các bậc Thiêng liêng Thần
Thánh Tiên Phật để trở về hiệp nhất với Thượng Đế. Do đó, cứu giúp con người
là thực hiện sự tiến hóa để trở về với Thượng Đế, tức nguồn gốc của mình mà
cũng là của vũ trụ. Muốn thế con người phải biết tu công, lập đức để hoàn hảo
hóa bản thân đến chân, thiện, mỹ. Giáo lý Cao Đài gọi đó là “Phản bổn hoàn
nguyên”. Đạo Cao Đài có giáo lý bao dung rộng rãi, coi nhân loại đều có một
Đấng cha chung trong một đại gia đình với thuyết đại đồng, lấy tình thương yêu
để xóa bỏ hận thù.
Tóm lại, giáo lý của đạo Cao Đài dạy con người sống trung thực, trong
sáng, biết thương yêu, đùm bọc nhau, tu hành để rèn luyện đạo đức, lối sống.
Điều này, thể hiện đạo Cao Đài có sự tiến bộ trong giáo lý, hướng con người đến
sự hoàn thiện, hoàn mỹ, tu hành để tự giải khổ cho bản thân, giải thoát cho mọi
người nhằm xây dựng một xã hội đại đồng, hoà bình, hạnh phúc.
1.2.2. Giáo luật
Giáo luật là những quy định, điều lệ và điều cấm của tôn giáo. Những
người sáng lập đạo Cao Đài đã xây dựng các văn bản quy định về luật lệ để áp
dùng trong chức sắc, tín đồ thực hiện, nhằm hoạt động theo đúng khuôn khổ,
quy định của tôn giáo. Giáo luật cơ bản của đạo Cao Đài là gồm Tân luật, Pháp
Chánh truyền.
Pháp Chánh truyền do chức sắc đạo Cao Đài soạn thảo và được thông qua
bằng hình thức thiêng liêng của cơ bút. Nội dung Pháp Chánh truyền nêu rõ về
việc lập Bát Quái đài thực hiện quyền lập pháp do các đầng Thiêng liêng làm
chủ; lập cơ quan Cửu Trùng đài thay mặt cho Thượng Đế ở trần thế, thực hiện
quyền cứu độ, cầu rỗi cho nhân sinh; lập cơ quan Hiệp Thiên đài là bộ phận bảo
hộ luật pháp của Đạo, có trách nhiệm duy trì pháp luật, bảo vệ nền Đạo, nhưng
không được lấn quyền cơ quan Cửu Trùng đài và phát huy tinh thần trung thực
của luật pháp. Quyền hạn của hai cơ quan Cửu Trùng đài và cơ quan Hiệp Thiên
đài hoàn toàn độc lập nhưng có sự ràng buộc phải thống nhất trong thực hiện
việc Đạo, tránh sự độc đoán, chuyên quyền. Đồng thời quy định chi tiết về việc
đạo phục chức sắc, tín đồ; luật công cử cho từng phẩm chức sắc nam, nữ.
Tân luật là sự cụ thể hoá của Pháp Chánh truyền. Tân luật có nghĩa là luật
mới của một tôn giáo mới ra đời. Tân luậtđược lập năm 1926 gồm ba phần chính
là: Đạo pháp, Thế luật,Tịnh thất. Nội dung của Tân luật quy định trách nhiệm
đối với từng bậc tu trong đạo Cao Đài, coi trọng các cách thức tu hành, quy định
việc thực hành tu luyện của người tín đồ trong mối quan hệ với cuộc sống, sinh
hoạt của người vào nhập tịnh tu học để đạt tới sự toàn thiện, toàn mỹ.
Các quy định không được làm của người tín đồ đạo Cao Đài được thể
hiện qua Ngũ giới cấm là 5 điều cấm người đạo Cao Đài không được vi phạm:
thứ nhất là cấm sát sinh, không sát hại sinh vật từ thảo mộc, côn trùng, cầm thú
đến con người; thứ hai là cấm trộm cắp, lừa gạt người; thứ ba là cấm tà dâm, lấy
vợ người, loạn luân, tà sắc; thứ tư là cấm say mê rượu thịt, ăn uống quá độ; thứ
năm là cấm xảo trá, láo xược, lỗ mãng thô tục.
Đồng thời, đạo Cao Đài quy định người tín đồ bắt buộc phải thực hiện
theo Tứ đại điều quy để rèn luyện đạo đức tu hành: Một là phải tuân theo lời dạy
của bề trên; hai là không được khoe tài, kiêu ngạo; ba là tiền bạc phải rõ ràng,
phân minh; bốn là phải trung thực, thủy chung.
Nhìn chung, giáo luật của đạo Cao Đài quy định khá chặt chẽ trong hoạt
động của cá nhân và tập thể. Đối với tập thể có sự giám sát giữa các cơ quan
đạo, có cơ chế phải thống nhất trong hoạt động tôn giáo và tuân thủ theo quy
định của giáo quyền. Đối với cá nhân có quy định cụ thể thực hiện việc tu hành
như ăn chay, đạo phục, tu dưỡng, truyền đạo và những điều bắt buộc trong nếp
sống đạo, những điều cấm không được vi phạm.
1.3. Các Hội thánh, tổ chức Cao Đài
1.3.1. Hội thánh Cao Đài Tây Ninh
Cao Đài Tây Ninh là tổ chức Cao Đài đầu tiên tiếp nhận Tân luật, Pháp
Chánh truyền xây dựng Tòa thánh Tây Ninh và kiến trúc hạ tầng, xây dựng hệ
thống bộ máy tổ chức hành chính đạo từ Trung ương đến cơ sở. Trong quá trình
phát triển, với yếu tố là nơi tổ chức lễ khai đạo thành lập đạo Cao Đài, Cao Đài
Tây Ninh luôn giữ đúng theo chân truyền về giáo lý, luật lệ, lễ nghi. Hệ thống tổ
chức hành chính đạo đa dạng, chặt chẽ từ Hội thánh đến Họ đạo, có cơ quan
giám sát các hoạt động tôn giáo và các cơ quan phục vụ hoạt động thiện nguyện
đối với cộng đồng,…
Năm 1965, Cao Đài Tây Ninh được chính quyền Sài Gòn ban hành Sắc
luật số 03/65 công nhận tư cách pháp nhân. Năm 1997, Cao Đài Tây Ninh được
Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân thành lập tổ chức giáo hội theo Hiến
chương và đường hướng hành đạo mới. Hiện nay, Cao Đài Tây Ninh có hơn 1
triệu tín đồ, phạm vi hoạt động ở 35 tỉnh, thành phố, 28 tỉnh, thành phố có Ban
Đại diện Hội thánh, 400 Ban Cai quản Họ đạo, 532 cơ sở tôn giáo với 387
Thánh thất và 145 Điện Thờ Phật Mẫu, hơn 2000 chức sắc nam nữ được Hội
thánh bổ nhiệm hành đạo từ Trung ương đến địa phương và trên 15.000 chức
việc nam, nữ hành đạo tại cơ sở, hoạt động tôn giáo ngày càng ổn định, nền nếp.
1.3.2. Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo
Cao Đài Ban Chỉnh đạo là tổ chức tôn giáo có đông tín đồ (đứng thứ hai
sau Cao Đài Tây Ninh), có Tòa thánh tại Bến Tre. Năm 1934, hai vị chức sắc
cao cấp là Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương và Đầu sư Lê Bá Trang cùng một số
chức sắc, tín đồ đã dời Toà thánh Tây Ninh về Bến Tre thành lập Cao Đài Ban
Chỉnh đạo để thực hiện việc chỉnh đốn nền Đạo theo đúng Tân luật, Pháp Chánh
truyền. Với phương châm hành đạo và đường hướng tu hành thuần tuý đạo đức,
Cao Đài Ban Chỉnh đạo đã thu hút đông đảo các Họ đạo tham gia. Lập trường tu
hành của Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương là không tham gia chính trị, nhưng với
tinh thần trách nhiệm của người công dân với Tổ quốc, với dân tộc, ông đã thể
hiện bằng việc ngầm phong chức cho chức sắc, tín đồ của Hội thánh có tư tưởng
yêu nước và bãi nhiệm những chức sắc có tư tưởng tiêu cực. Dưới sự lãnh đạo
của Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương, Cao Đài Ban Chỉnh đạo có đường hướng
hành đạo gắn bó với dân tộc, ủng hộ cách mạng và tích cực tham gia kháng
chiến cứu quốc.
Năm 1997, Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo tổ chức Đại hội Đại biểu
Nhơn sanh lần thứ nhất, thông qua Hiến chương, bầu cơ quan lãnh đạo Hội
thánh là Thượng hội, Ban Thường trực và được Nhà nước công nhân tư cách
pháp nhân (Quyết định số 26 QĐ/TGCP ngày 08 tháng 8 năm 1997 của Ban Tôn
giáo Chính phủ).
Hiện nay, Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo tiếp tục khẳng định phương
châm hành đạo theo đường lối hành đạo của Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương,
hoạt động gắn bó với dân tộc và tuân thủ các qui định của pháp luật. Hội thánh
đã kiện toàn tổ chức bộ máy, thành lập 12/26 Ban Đại diện tỉnh, thành phố; công
cử chức sắc với hàng ngàn chức sắc từ phẩm Lễ sanh đến Đầu sư; vận động
hoàn nguyên hàng chục họ đạo; làm lễ nhập môn cho gần vạn tín đồ; xây dựng
và sửa chữa hàng trăm thánh thất; mở được nhiều lớp bồi dưỡng giáo lý hạnh
đường; in tái bản một số cuốn kinh sách phục vụ nhơn sanh; thành lập được 168
Ban Hành thiện ở các họ đạo điều trị cho hơn 1 triệu lượt người với hơn trăm
ngàn thang thuốc miễn phí. Đồng thời sửa đổi Hiến chương cho phù hợp với
tình hình thực tế hiện nay nhưng vẫn đảm bảo truyền thống của đạo Cao Đài.
1.3.3. Hội thánh Cao Đài Tiên Thiên
Sau khi chính thức ra đời, đạo Cao Đài tăng cường các hoạt động truyền
giáo ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Cao Đài Tiên Thiên có tiền đề hình
thành từ năm 1920 ở Nam Bộ. Đây là tổ chức Cao Đài có ba đời Giáo tông yêu
nước, điều này cho thấy lịch sử hình thành và phát triển của Cao Đài Tiên Thiên
đã gắn liền với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc qua hai thời kỳ kháng
chiến cứu quốc. Với truyền thống lịch sử đó, Cao Đài Tiên Thiên là Hội thánh
đầu tiên được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân năm 1995 (Quyết định số
51/QĐ/TGCP, ngày 29 tháng 7 năm 1995 của Ban Tôn giáo Chính phủ), sớm
nhất trong các Hội thánh Cao Đài ở Việt Nam. Từ đây, Cao Đài Tiên Thiên bắt
đầu đi vào thời kỳ hành đạo theo Hiến chương, đường hướng hành đạo mới với
tinh thần “Nước vinh, Đạo sáng”. Hiện nay, Cao Đài Tiên Thiên có trên 100
nghìn tín đồ, gần 2 ngàn chức sắc và 126 Thánh tịnh ở 16 tỉnh, thành phố, chủ
yếu ở các tỉnh Nam Bộ.
1.3.4. Hội thánh Cao Đài Minh Chơn đạo
Năm 1928, Ngọc Chưởng pháp Trần Đạo Quang dời Tòa thánh Tây Ninh
về Cà Mau thành lập Cao Đài Minh Chơn đạo với ý nghĩa làm sáng tỏ chân lý
của đạo Cao Đài đã thu hút đông đảo tín đồ chủ yếu là nông dân nghèo ở vùng
Cà Mau, Bạc Liêu vào đạo. Với phương châm lấy tu “nhơn đạo” làm nền tảng,
xem việc cứu khổ nhơn sanh là công quả cao nhất của người tu hành, xây dựng
tình thương yêu đoàn kết, tương trợ giúp đỡ, chăm lo đời sống thiết thực cho
nhơn sanh, Cao Đài Minh Chơn đạo đã tập hợp chức sắc, tín đồ tu hành rèn
luyện đạo đức con người để xây dựng xã hội đại đồng. Dưới sự lãnh đạo của
Ngọc Chưởng pháp Trần Đạo Quang và Thái Chưởng pháp Cao Triều Phát, Cao
Đài Minh Chơn đạo đã nêu cao tinh thần yêu nước vận động chức sắc, tín đồ
tham gia kháng chiến cứu quốc, góp phần cùng nhân dân giành độc lập, tự do
cho đất nước. Dấu ấn lịch sử của Cao Đài Minh Chơn đạo là Mặt trận Giồng
Bốm năm 1946 hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Thái Chưởng pháp Cao Triều Phát lãnh đạo hàng ngàn chức sắc, tín
đồ đạo Cao Đài trang bị vũ khí thô sơ đứng lên chống lại thực dân Pháp xâm
lược. Mặt trận Giồng Bốm đã khắc họa tinh thần yêu nước của đạo Cao Đài nói
chung và Cao Đài Minh Chơn đạo nói riêng, trở thành biểu tượng cho sự hy
sinh, đóng góp của người đạo Cao Đài trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc. Từ đây, Cao Đài Minh Chơn đạo trở thành nòng cốt trong hoạt động yêu
nước của đạo Cao Đài để thành lập Liên giao I, Liên giao II, Cao Đài Cứu
quốc,… góp phần cùng nhân dân cả nước đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Cao Đài Minh Chơn đạo được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân
năm 1996 (Quyết định số 39/QĐ-TGCP ngày 02/8/1996 của Ban Tôn giáo
Chính phủ). Phát huy truyền thống tốt đẹp đó, trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc hiện nay, Cao Đài Minh Chơn đạo trở thành Hội thánh Cao Đài đầu
tiên đăng cai tổ chức hội nghị giao lưu hành đạo của các Hội thánh Cao Đài năm
2008 và là một trong những thành viên thường trực của hoạt động giao lưu hành
đạo, đồng thời giữ vai trò đoàn kết trong các Hội thánh Cao Đài. Hiện nay, Cao
Đài Minh Chơn đạo có gần 1 ngàn chức sắc, hơn 1 ngàn chức việc, trên 30 ngàn
tín đồ, 49 Thánh thất ở 4 tỉnh (Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang).
1.3.5. Hội thánh Truyền Giáo Cao Đài
Truyền Giáo Cao Đài do các ông: Lê Trí Hiển, Trần Nguyên Chất, Trần
Quốc Luyện, Nguyễn Quang Châu,… sáng lập từ những năm 1939 và tổ chức
thành lập Hội thánh năm 1956 do ông Trần Văn Quế làm Chủ trưởng, có Tòa
thánh Trung Hưng Bửu Toà ở Đà Nẵng. Truyền Giáo Cao Đài có lập trường
hành đạo "thuần chơn vô ngã, thuần túy đạo đức", xây dựng tổ chức giáo hội
đơn giản so với các tổ chức Cao Đài nhưng được tổ chức chặt chẽ.
Hội thánh Truyền Giáo Cao Đài thực hiện giáo lý, giáo luật, lễ nghi theo
Tân luật, Pháp Chánh truyền. Trong quá trình phát triển, Hội thánh Truyền Giáo
Cao Đài tích cực vận động thống nhất các tổ chức Cao Đài như: Cao Đài Liên
đoàn (1936), Liên hòa Tổng hội (1937), Cao Đài Duy nhất (1951), Cao Đài
Thống Nhất (1952). Năm 1996, Truyền Giáo Cao Đài được Nhà nước công nhận
tư cách pháp nhân (Quyết định số 40 QĐ/TGCP ngày 24 tháng 9 năm 1996 của
Ban Tôn giáo Chính phủ).
Hiện nay, Truyền Giáo Cao Đài có khoảng 50.000 tín đồ, 63 Thánh thất,
cơ sở đạo, phạm vi hoạt động ở 17 tỉnh, thành phố, chủ yếu ở
Trung Bộ.
1.3.6. Hội thánh Cao Đài Cầu Kho Tam Quan
Đầu năm 1930, một số người ở miền Trung vào Sài Gòn làm ăn, sinh sống
đã nhập môn vào đạo Cao Đài tại Thánh thất Cầu Kho. Sau đó, họ trở về quê
hương truyền đạo hình thành những nhóm Cao Đài ở Bình Định, Quảng Ngãi,
Phú Yên,… Năm 1937, Cao Đài Cầu Kho - Hội thánh Trung Việt Tam Quan
chính thức ra đời. Năm 1960, Cao Đài Cầu Kho Tam Quan đã xây dựng tổ chức
giáo hội theo Tân luật, Pháp Chánh truyền.
Sau năm 1975, Cao Đài Cầu Kho Tam Quan duy trì các sinh hoạt tôn giáo
tại cơ sở. Năm 2000, Cao Đài Cầu Kho Tam Quan tổ chức Đại hội Đại biểu
Nhơn sanh thông qua Hiến chương, đường hướng hành đạo mới và được Nhà
nước công nhận tổ chức tôn giáo (Quyết định số 199/2000/QĐ-TGCP ngày 28
tháng 4 năm 2000 của Ban Tôn giáo Chính phủ). Hiện nay, Cao Đài Cầu Kho
Tam Quan có khoảng 9 ngàn tín đồ, hơn 200 chức sắc, 300 chức việc và 28
Thánh thất ở 8 tỉnh, thành phố.
1.3.7. Hội thánh Cao Đài Chiếu Minh Long Châu
Cao Đài Chiếu Minh Long Châu có nguồn gốc hình thành từ năm 1928,
khi một số chức sắc dựng nhà đàn đầu tiên bằng lá cây, lấy tên là Chiếu Minh
Tự tại xã Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Hậu
Giang). Năm 1947, thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến của cách mạng,
chức sắc, tín đồ Cao Đài Chiếu Minh Long Châu phá bỏ Chiếu Minh Tự để vừa
tu hành, vừa đánh giặc.
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Toà thánh Long Châu là cơ sở nuôi giấu,
che chở, bảo vệ cán bộ cách mạng. Tại Toà thánh đã diễn ra nhiều cuộc đấu
tranh chống sự đàn áp, bắt bớ của Mỹ - Nguỵ. Cao Đài Chiếu Minh Long Châu
đã tham gia vào Liên giao I năm 1956 và Liên giao II năm 1972. Hội thánh chủ
trương vừa tu phổ độ, vừa tuyển độ phái đạo, được tổ chức theo luật Ngọc đế
Chơn truyền, xây dựng Hội thánh lưỡng đài, lưỡng phái, thực hiện đường lối
hành đạo là tu hành gắn bó với dân tộc, đoàn kết đấu tranh, phụng đạo yêu nước.
Ngày 1/5/1996, Cao Đài Chiếu Minh Long Châu đã tổ chức Đại hội Đại
biểu Nhơn sanh lần thứ nhất thông qua Hiến chương, đường hướng hành đạo
mới và bầu ra Ban Thường trực Hội thánh. Hiện nay, Cao Đài Chiếu Minh Long
Châu có hơn 100 chức sắc, 200 chức việc, gần 3 ngàn tín đồ với 14 Họ đạo, hoạt
động ở 2 tỉnh, thành phố: Cần Thơ, Hậu Giang.
1.3.8. Hội thánh Cao Đài Chơn Lý
Năm 1932, Phối sư Nguyễn Văn Ca dời Tòa thánh Tây Ninh về Mỹ Tho
thành lập Cao Đài Chơn Lý với phương châm hành đạo làm sáng tỏ chân lý của
nền đạo Cao Đài. Năm 1971, Cao Đài Chơn Lý được chính quyền đương thời
công nhận tư cách pháp nhân, có Tòa thánh Định Tường ở Mỹ Tho. Năm 2000,
Cao Đài Chơn Lý tổ chức Đại hội Đại biểu Nhơn sanh thông qua Hiến chương,
đường hướng hành đạo mới và được Nhà nước công nhận tổ chức tôn giáo (Quyết
định số 16/2000/QĐ-TGCP ngày 14/3/2000 của Ban Tôn giáo Chính phủ).
Cao Đài Chơn Lý thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế bằng Thánh tượng Tâm
nhãn (con mắt trong trái tim) thay cho thờ Thiên nhãn theo quy định của đạo Cao
Đài. Cao Đài Chơn Lý xây dựng hệ thống chức sắc, tổ chức bộ máy khác với Tân
luật, Pháp Chánh truyền của đạo Cao Đài. Cao Đài Chơn Lý thực hiện kinh sách
theo Đuốc Chơn Lý, Luật Bình quân, Thánh giáo sưu tầm,… Hiện nay, Cao Đài
Chơn lý có hơn 6 ngàn tín đồ, gần 2 ngàn chức sắc và 28 Thánh thất ở 11 tỉnh,
thành phố.
1.3.9. Hội thánh Cao Đài Bạch Y
Cao Đài Bạch Y do các ông Tô Bửu Tài, Trương Minh Tòng sáng lập năm
1936, có Thánh tòa Ngọc Kinh ở Kiên Giang. Cao Đài Bạch Y cơ bản hoạt động
theo quy định của đạo Cao Đài và hành đạo theo kinh luật Ngọc Đế Chơn truyền
Tân Ước Tri nguyên. Trong hai cuộc kháng chiến cứu nước, Cao Đài Bạch Y đã
tích cực tham gia hoạt động yêu nước, đấu tranh hợp pháp, bảo vệ các cơ sở
cách mạng, vận động tu sĩ không đi lính cho giặc.
Năm 1998, Cao Đài Bạch Y đã tổ chức Đại hội Đại biểu Nhơn sanh thông
qua Hiến chương, Luật công cử chức sắc, đường hướng hành đạo mới và được
Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang công nhận tư cách pháp nhân (Quyết định số
2363/1998/QĐ-UB, ngày 8 tháng 7 năm 1998 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên
Giang). Hiện nay, Cao Đài Bạch Y có khoảng 5.000 tín đồ, hơn 100 chức sắc,
200 chức việc, 14 Thánh thất, phạm vi hoạt động ở 4 tỉnh, thành phố.
1.3.10. Giáo hội Cao Đài Việt Nam (Bình Đức)
Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) được hình thành từ năm 1961, có Toà thánh
Trung ương đặt tại xã Bình Đức nay là xã Trung An, Thành phố Mỹ Tho, tỉnh
Tiền Giang. Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) thực hiện tôn chỉ, mục đích là tôn
thờ Thượng đế và các đấng Phật, Tiên, Thánh, Thần nhằm giáo dân vi thiện, bài
trừ mê tín dị đoan và xây dựng thuần phong mỹ tục. Giáo lý thực hiện theo giáo
lý căn bản của đạo Cao Đài là đem lại tình thương yêu, dìu dắt nhơn sanh xây
dựng lại chánh chơn cho nhân loại. Giáo luật dạy tín đồ giữ tròn đạo phận, làm
điều lành, điều thiện, trung thực, thật thà, không sát hại sinh vật; chức sắc, tín đồ
phải giữ trai giới hoặc trường trai. Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) xây dựng tổ
chức giáo hội, nghi lễ thờ phụng và hoạt động riêng theo Hiến pháp quy niệm,
và Hồng chương Luật sử.
Năm 2011, Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) được Nhà nước công nhận tổ
chức tôn giáo, thông qua Hiến chương và đường hướng hành đạo mới. Hiện nay,
Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) có 01 Toà thánh, 09 Thánh thất, 16 trường quy
và khoảng 5.000 tín đồ, 400 chức sắc, 300 chức việc hoạt động ở 4 tỉnh, thành
phố: Tiền Giang, Bến Tre, Long An và Đồng Tháp.
1.3.11. Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi
Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi do ông Ngô Văn Chiêu, người đệ
tử đầu tiên của đạo Cao Đài sáng lập. Năm 1927, ông Ngô Văn Chiêu không
nhận phẩm Giáo tông tại Toà thánh Tây Ninh về Cần Thơ tu tịnh và lập cơ tuyển
độ Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi.
Thời kỳ đầu của cơ tuyển độ hình thành ở các nhà đàn thuộc Minh Sư đạo,
sau đó phát triển ở các đàn tư gia. Cao Đài Chiếu Minh quy định trên 10 đạo
hữu được lập nhà đàn. Từ 24 vị đệ tử cấp nhất của ông Ngô Văn Chiêu đã truyền
thừa cho hàng ngàn người tu theo Chiếu Minh. Cơ tuyển độ không thành lập tổ
chức giáo hội, không có chức sắc hàng giáo phẩm. Cao Đài Chiếu Minh Tam
Thanh Vô Vi thực hiện đường hướng hành đạo theo pháp môn tu hành của ông
Ngô Văn Chiêu chuyên về tịnh luyện, nội giáo tâm truyền, không phổ độ mà giữ
bí pháp chân truyền của đạo Cao Đài. Năm 1999, Thánh Đức Tổ đình tại Cần
Thơ được công nhận tổ chức tôn giáo. Năm 2010, Cao Đài Chiếu Minh Tam
Thanh Vô Vi được Nhà nước cấp đăng ký hoạt động tôn giáo với 08 nhà đàn
trực thuộc và khoảng 3 ngàn người tu hành, hoạt động ở 7 tỉnh, thành phố.
1.4. Đặc điểm cơ bản của đạo Cao Đài
- Đạo Cao Đài là một tôn giáo nội sinh, ra đời năm 1926 ở Nam Bộ.
Những người sáng lập đạo Cao Đài đa số đều là tầng lớp trí thức, công chức, tư
sản nhỏ của chính quyền thực dân Pháp. Chức sắc, tín đồ hiện nay chủ yếu là
nông dân, hoạt động tập trung ở các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam, từ Huế
trở vào, nhiều nhất ở các tỉnh Nam bộ. Tuy nhiên, đạo Cao Đài cũng có ở một số
tỉnh phía Bắc như Hà Nội, Hải Phòng.
- Đạo Cao Đài đề cao tính thiêng liêng sự huyền diệu của cơ bút. Đạo Cao
Đài có hệ
thống giáo lý, giáo luật chặt chẽ và phong phú. Nó kế thừa và mở rộng
tư tưởng tam giáo theo hướng nhập thế. Giáo lý, luật lệ, lễ nghi của đạo Cao Đài
gần gũi với phong tục tập quán, tâm lý lối sống của người dân Nam bộ.
- Ban đầu đạo Cao Đài là một tôn giáo thống nhất, có Toà thánh ở Tây
Ninh nhưng sau một thời gian ngắn do bất đồng về quan điểm hành đạo của một
số chức sắc nên chia rẽ thành các tổ chức Cao Đài khác nhau. Chia rẽ, phân ly là
đặc điểm nổi bật của đạo Cao Đài từ năm 1930 đến năm 1975. Thời gian này,
đạo Cao Đài chia rẽ thành nhiều tổ chức Cao Đài khác
nhau, có lúc lên đến 30 tổ
chức. Trong các tổ chức Cao Đài này có khoảng 10 tổ chức là hoạt động theo
đúng chân truyền của đạo Cao Đài và tồn tại đến nay.
- Tổ chức giáo hội trước đây của đạo Cao Đài được xây dựng, thiết chế có
5 cấp hành chính: Trung ương, vùng, tỉnh, huyện, xã. Các cấp hành chính trong
đạo Cao Đài có giáo quyền rõ ràng được quy định cụ thể bằng điều luật tạo điều
kiện cho chức sắc, tín đồ thực hiện.
- Một số Hội thánh Cao Đài sớm có tinh thần yêu nước và vận động đông
đảo chức sắc, tín đồ tích cực ủng hộ cách mạng, tham gia kháng chiến chống
ngoại xâm.
- Giáo lý của đạo Cao Đài quan niệm Trời và Người có cùng bản thể, có
thể tương thông, tương ứng và hiệp nhất được. Đồng thời, đạo Cao Đài quan
niệm rằng vũ trụ là một trường tiến hóa. Do đó, cứu giúp con người là thực hiện
sự tiến hóa để trở về với Thượng Đế, tức nguồn gốc của mình mà cũng là của vũ
trụ. Muốn thế con người phải biết tu công, lập đức để hoàn hảo hóa bản thân đến
chân, thiện, mỹ. Đạo Cao Đài có giáo lý bao dung rộng rãi, coi nhân loại đều có
một Đấng cha chung trong một đại gia đình với thuyết đại đồng, lấy tình thương
yêu để
xóa bỏ hận thù.
- Giáo luật của đạo Cao Đài quy định chặt chẽ trong hoạt động của cá
nhân và tập thể, được cụ thể tại Tân luật, Pháp Chánh truyền, Tứ đại điều quy,
Ngũ giới cấm,... Đối với tập thể có sự giám sát giữa các cơ quan đạo, có cơ chế
phải thống nhất trong hoạt động tôn giáo và tuân thủ theo quy định của giáo
quyền. Đối với cá nhân có quy định cụ thể thực hiện việc tu hành như ăn chay,
đạo phục, tu dưỡng, truyền đạo và những điều bắt buộc trong nếp sống đạo,
những điều cấm không được vi phạm. Quy định trong giáo luật của đạo Cao Đài
còn thể hiện sự rõ ràng và văn minh.
2. TÌNH HÌNH ĐẠO CAO ĐÀI HIỆN NAY
2.1. Về số lượng chức sắc, chức việc, tín đồ, cơ sở tôn giáo của các Hội
thánh
Cao Đài
- Chức sắc: hơn 13 ngàn
- Chức việc: hơn 26 ngàn
- Tín đồ: hơn 1,24 triệu18
- Cơ sở tôn giáo: hơn 1.300
Số liệu thống kê số lượng tín đồ đạo Cao Đài hiện nay có sự chênh lệch
giữa chính quyền nhà nước và tổ chức tôn giáo. Theo báo cáo của các Hội thánh
Cao Đài năm 2020, tín đồ đạo Cao Đài có hơn 2,6 triệu. Lý do, một bộ phận tín
đồ không khai nhận là tín đồ Cao Đài khi chính quyền tổ chức thống kê. Đối với
tổ chức tôn giáo ở Hội thánh, Họ đạo đã kê khai số lượng tín đồ nhập môn vào
18 Theo thống kê của
Ban Tôn giáo Chính phủ.
đạo cùng toàn thể gia đình người tín đồ gồm người già và trẻ em chưa đến tuổi
nhập môn nên có sự chênh lệch về số liệu thống kê.
2.2. Cơ cấu tổ chức của đạo Cao Đài
2.2.1. Tổ chức giáo hội cấp Trung ương
Tổ chức giáo hội được quy định trong Tân luật, Pháp Chánh truyền của
đạo Cao Đài. Ở cấp trung ương Hội thánh có Toà thánh là nơi hoạt động của
chức sắc lãnh đạo giáo hội. Về mặt tổ chức cấp Hội thánh có 3 Đài gồm: Bát
Quái đài, Cửu Trùng đài và Hiệp Thiên đài. Đặc điểm về tổ chức giáo hội của
đạo Cao Đài xây dựng trên cơ sở Trời và Người hợp nhất với nhau để giải quyết
việc đạo.
Bát Quái đài của đạo Cao Đài thuộc phần vô hình, do Ngọc Hoàng
Thượng Đế làm chưởng quản gồm các Giáo chủ của Tam giáo và Ngũ chi, Tam
Trấn Oai Nghiêm được thờ tại Bửu điện nơi Toà thánh. Bát Quái đài có nhiệm
vụ là cơ quan lập pháp, điều hành hoạt động của đạo Cao Đài thông qua hình
thức cơ bút nơi Hiệp Thiên đài. Thực tế hiện nay, Bát Quái đài không còn chức
năng lập pháp và điều hành hoạt động của đạo, đồng thời công việc điều hành
hoạt động đạo do hai Đài: Cửu Trùng đài và Hiệp Thiên đài thực hiện.
Hiệp Thiên đài là cơ quan tư pháp của đạo Cao Đài, do chức sắc phẩm Hộ
pháp đứng đầu. Hiệp Thiên đài có 2 nhiệm vụ: làm cơ quan trung gian giữa Bát
Quái đài và Cửu Trùng đài thông qua cơ bút và làm cơ quan bảo vệ pháp luật
của Đạo. Cơ quan Hiệp Thiên đài có 3 Chi: Chi Pháp, Chi Đạo và Chi Thế. Chi
Pháp do chức sắc phẩm Hộ pháp phụ trách; Chi Đạo do chức sắc phẩm Thượng
phẩm phụ trách; Chi Thế do chức sắc phẩm Thượng sanh phụ trách. Dưới phẩm
Hộ pháp, Thượng phẩm, Thượng sanh là chức sắc phẩm Thập nhị Thời quân (12
vị Thời quân), chia ra mỗi Chi 4 vị, như Chi Pháp có 4 vị Thời quân là: Tiếp
pháp, Khai pháp, Hiến pháp và Bảo pháp; Chi Đạo có 4 vị Thời quân là Tiếp
đạo, Khai đạo, Hiến đạo và Bảo đạo; Chi Thế có 4 vị Thời quan là Tiếp thế,
Khai thế, Hiến thế và Bảo thế. Thực tế hiện nay, cơ quan Hiệp Thiên đài chỉ
hoạt động với nhiệm vụ là cơ quan bảo vệ pháp luật của đạo Cao Đài, giám sát
cơ quan Cửu Trùng đài hoạt động theo pháp luật của đạo.
Cửu Trùng đài là cơ quan hành pháp của đạo Cao Đài, thực hiện các
nhiệm vụ truyền đạo, hành đạo, tổ chức thực hiện công việc đạo và giáo hóa
nhân sinh tu hành. Cơ quan Cửu Trùng đài ở Hội thánh gồm có các cơ quan Cửu
viện nam phái, Cửu viện nữ phái và các cơ quan giúp việc cho chức sắc phẩm
Giáo tông, Chưởng pháp và Đầu sư. Chức sắc cơ quan Cửu Trùng đài có 9
phẩm, đứng đầu là phẩm Giáo tông, 9 phẩm chức sắc này đối phẩm với Cửu
phẩm Thần Tiên nơi Bát Quái đài: 1. Giáo tông đối phẩm với Thiên Tiên (Phật
vị); 2. Chưởng pháp đối phẩm với Nhơn Tiên; 3. Đầu sư đối phẩm với Địa Tiên;
4. Chánh Phối sư và Phối sư đối phẩm Thiên Thánh; 5. Giáo sư đối phẩm với
Nhơn Thánh; 6. Giáo hữu đối phẩm với Địa Thánh; 7. Lễ sanh đối phẩm với
Thiên Thần; 8. Ban Trị sự đối phẩm với Nhơn Thần; 9. Đạo hữu đối phẩm với
Địa Thần. Cơ quan Cửu Trùng đài phân ra làm 2 phái: phái nam và phái nữ.
Chức sắc mỗi phái có quyền hành riêng biệt. Chức sắc nữ phái có phẩm cao nhất
là Đầu sư. Chức sắc bên nam phái được chia làm 3 phái: Thái, Thượng, Ngọc.
Cơ quan Cửu viện nam phái dưới quyền phụ trách trực tiếp của các chức sắc
phẩm Chánh Phối sư. Chức sắc phẩm Thái Chánh Phối sư phụ trách 3 Viện: Hộ
viện, Lương viện, Công viện; chức sắc phẩm Thượng Chánh Phối sư phụ trách 3
Viện: Học viện, Y viện, Nông viện; chức sắc phẩm Ngọc Chánh Phối sư phụ
trách 3 Viện: Hòa viện, Lại viện, Lễ viện. Tổ chức hành chính đạo cơ quan Cửu
Trùng đài nữ phái cũng có 9 Viện như nam phái, nhưng nữ phái chỉ có một vị
Nữ Chánh Phối sư, nên vị này phụ trách tất cả Cửu viện nữ phái.
Các tổ chức giáo hội cấp Trung ương của đạo Cao Đài tập trung chủ yếu
tại địa bàn Nam Bộ, với 08 Hội thánh, 01 Pháp môn tu hành. Ở miền Trung, đạo
Cao Đài có 02 Hội thánh.
2.2.2. Tổ chức cấp cơ sở
Tổ chức hành chính cấp địa phương của đạo Cao Đài có 4 cấp gồm: Trấn
đạo, Châu đạo, Tộc đạo và Hương Đạo. Trấn đạo là khu vực địa lý được giao
phụ trách nhiều tỉnh, thành phố có đạo Cao Đài do chức sắc phẩm Giáo sư đảm
nhiệm gọi là Khâm Trấn đạo. Châu đạo là địa bàn một tỉnh, thành phố có đạo
Cao Đài do chức sắc phẩm Giáo hội đảm nhiệm gọi là Khâm Châu đạo. Tộc đạo
là địa bàn một huyện, quận thuộc tỉnh, thành phố do phẩm Lễ sanh đảm nhiệm
gọi là Đầu Tộc đạo. Hương đạo là địa bàn hành chính của một xã, phường do
phẩm Chánh Trị sự đảm nhiệm được các chức việc Bàn Trị sự Hương đạo bầu
lên gọi là Đầu Hương đạo.
Tộc đạo là cấp cơ sở của đạo Cao Đài hay còn gọi là Họ đạo. Mỗi Tộc đạo
có một Thánh thất để thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế và quy tụ tín đồ tổ chức sinh
hoạt tôn giáo. Về tổ chức hành chính, Tộc đạo có văn phòng giúp việc Đầu Tộc
đạo do Đầu Phòng văn đảm nhiệm, nếu không có Đầu Phòng văn thì cử một Thư
ký giúp việc Đầu Tộc đạo. Mỗi Tộc đạo hay Thánh thất có Ban Tứ vụ để điều
hành việc đạo. Ban Tứ vụ gồm 4 vụ: Hộ vụ phụ trách việc thu chi tài chính; Lễ
vụ phụ trách việc nghi lễ và sắp xếp các ban trực thuộc: lễ, nhạc, đồng nhi thực
hiện tang sự cho người đạo; Lương vụ phụ trách về lương thực và quản lý nhà
bếp; Công vụ phụ trách việc xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự và nhà làm việc
của Tộc đạo. Ngoài ra, Lễ vụ còn có các ban chuyên môn trực thuộc gồm: Ban
nhạc, Ban lễ sỹ, Ban đồng nhi, Ban kiểm đàn. Ban nhạc do một nhạc sỹ phụ
trách. Ban lễ sỹ do một Lễ sỹ phụ trách. Ban đồng nhi do một Giáo nhi phụ
trách. Ban kiểm đàn có nhiệm vụ sắp đặt và gìn giữ trật tự trong đàn cúng.
Thực tế hiện nay, tổ chức hành chính của đạo Cao Đài có một số thay đổi.
Cấp Trung ương giáo hội tại Toà thánh có cơ quan Thượng hội và Ban Thường
trực Hội thánh (hoặc Thường trực, Hội đồng Chưởng quản, Ban Điều hành)
cùng cơ quan Cửu viện nam nữ và các cơ quan giúp việc Hội thánh tại Toà
thánh. Cấp địa phương không còn Trấn đạo và Hương đạo. Châu đạo được gọi là
Ban Đại diện Hội thánh hoạt động trên địa bàn một tỉnh, thành phố có nhiệm vụ
hướng dẫn Ban Cai quản các Họ đạo trên địa bàn phụ trách hoạt động theo Hiến
chương, luật đạo của Hội thánh. Đứng đầu Ban Đại diện Hội thánh ở tỉnh, thành
phố là Trưởng Ban Đại diện. Tộc đạo được gọi là Họ đạo hoạt động trong phạm
vi Thánh thất có Ban Cai quản phụ trách. Đứng đầu Ban Cai quản là Cai quản,
có Phó Cai quản và Thư ký hoạt động theo nhiệm kỳ 3 năm hoặc 5 năm. Ngoài
ra, Họ đạo còn có bộ phận Tứ vụ giúp việc Ban Cai quản và các thành viên
Chánh Trị sự, Phó Trị sự, Thông sự cùng Ban Nghi lễ.
Tại các tỉnh, thành phố có đông chức sắc, tín đồ được thành lập Ban Đại
diện hoặc Đại diện để giúp Hội thánh ở trung ương hướng dẫn các hoạt động tôn
giáo ở cơ sở là Họ đạo. Hiến chương Cao Đài Tây Ninh quy định: “Ở tỉnh, thành
phố có nhiều Họ đạo Cao Đài Toà thánh Tây Ninh thì Hội thánh bổ nhiệm Ban
Đại diện Hội thánh; Ban Đại diện Hội thánh gồm 01 Trưởng ban và 02 đến 05
Phó Ban, chọn từ hàng Giáo hữu nam, nữ và tương đương trở lên do Hội thánh
bổ nhiệm; Ban Đại diện Hội thánh có phận sự truyền đạt và hướng dẫn các Ban
Cai quản Họ đạo thông hiểu và tổ chức thực hiện đúng các Đạo lịnh, Thánh lịnh,
Huấn lịnh, Thông tri về Đạo sự của Hội thánh tới các Họ đạo,...”. Hiện nay, đạo
Cao Đài có 64 Ban Đại diện, 16 Đại diện ở 35/38 tỉnh, thành phố.
Họ đạo là cấp cơ sở của đạo Cao Đài, nơi nào có 500 tín đồ trở lên được
lập một Họ đạo có Thánh thất làm nơi thờ tự. Ban Cai quản có nhiệm vụ quản lý
công việc tại Thánh thất, phụ trách 4 phòng Công - Lương - Thơ - Lễ. Ban Trị
sự gồm các chức việc có nhiệm vụ lo về luật đạo giúp đỡ tín đồ chấp hành tốt và
lo việc từ thiện chăm sóc cuộc sống của tín đồ tại địa phận quản lý.
2.3. Thực trạng hoạt động tôn giáo của các Hội thánh Cao Đài
Hiện nay, các tổ chức giáo hội Cao Đài trải qua năm nhiệm kỳ hoạt động
nên hoạt động đạo sự từng bước đi vào nề nếp và tuân thủ pháp luật. Đa số chức
sắc các Hội thánh đã thích ứng với cơ chế hoạt động theo Hiến chương và đường
hướng hành đạo mới. Các lễ hội lớn trong đạo Cao Đài được duy trì tổ chức
hàng năm như Hội Yến Diêu Trì Cung, Kỷ niệm ngày khai đạo Cao Đài, Ngày
vía Đức Chí Tôn... thu hút hàng trăm ngàn chức sắc, tín đồ tham dự. Các hội
nghị, kỳ họp thường niên của Thượng hội, Hội thánh, Hội Nhơn sanh và Đại hội
nhiệm kỳ của các Hội thánh được tổ chức trang trọng, đúng pháp luật. Các Hội
thánh Cao Đài có quá trình hoạt động gắn bó với dân tộc đã tổ chức các cuộc
giao lưu hành đạo trên một số lĩnh vực tôn giáo như xuất bản Tạp chí Cao Đài,
tham gia các hoạt động nhân đạo, từ thiện xã hội, mở lớp bồi dưỡng giáo lý hạnh
đường, tổ chức các ngày lễ theo truyền thống của một số phái Cao Đài nhằm
giáo dục chức sắc, tín đồ phát huy tinh thần phụng đạo, yêu nước.
2.3.1. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, chức việc
Việc đào tạo chức sắc, chức việc của đạo Cao Đài được thực hiện ở các địa
phương với chương trình ngắn hạn mang tính bồi dưỡng là chủ yếu, chưa có
điều kiện tổ chức tập trung thành trường đào tạo chính quy. Các Hội thánh đã đề
ra chương trình phát triển giáo dục, bồi dưỡng giáo lý, đào tạo nhân tài để củng
cố đức tin cho hàng chức sắc, chức việc và toàn thể tín đồ vững vàng tu hành,
đáp ứng cơ bản được nguyện vọng nhơn sanh.
Các Hội thánh và tổ chức Cao Đài hàng năm đã mở được các khóa Hạnh
đường bồi dưỡng chức sắc với nhiều hình thức như: khóa hạnh đường, lớp giáo
lý, lễ nhạc đường… mỗi năm có trên 500 lớp giáo lý hạnh đường, trên 20 khóa
hạnh đường và có trên 2 vạn chức sắc, chức việc, đạo hữu tham dự học tập, nâng
cao kiến thức, bồi dưỡng giáo lý.
2.3.2. Hoạt động phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển,
cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc, nhà tu hành
Việc phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển, cách chức,
bãi nhiệm chức sắc, chức việc, nhà tu hành hoạt động ở các địa phương được
thực hiện theo Hiến chương của đạo Cao Đài. Các Hội thánh kiểm tra về tư cách
công dân, đạo hạnh, kiểm tra, giám sát việc thực hiện theo Hiến chương, Luật
công cử. Theo Luật tín ngưỡng, tôn giáo các Hội thánh có trách nhiệm thông
báo, đăng ký với cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo hoặc Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh.
Việc phong phẩm của Cao Đài Tây Ninh được thực hiện vào mỗi dịp Đại
hội Nhơn sanh nhiệm kỳ (5 năm/1 lần), Đại hội Nhơn sanh nhiệm kỳ tổ chức
năm 2017, Cao Đài Tây Ninh đã phong phẩm Lễ sanh cho 1.169
chức việc và
thăng phẩm Giáo hữu cho 336 vị, Giáo sư cho 39 vị. Hội thánh Cao Đài Tây
Ninh căn cứ quy định của luật đạo để phong chức, phong phẩm cho chức sắc,
chức việc. Tùy theo từng phẩm, các chức sắc, chức việc sẽ được phong khi đủ
năm “công nghiệp hành đạo” (tối thiểu 5 năm) và đáp ứng các tiêu chí về đạo
hạnh, với các quy định tương đối chặt chẽ.
2.3.3. Đại hội, hội nghị của đạo Cao Đài
Các phái Cao Đài đã tổ chức Đại hội nhiệm kỳ đảm bảo đúng quy định của
pháp luật và Hiến chương, Điều lệ của các Hội thánh Cao Đài. Thông qua các kỳ
đại hội nhiệm kỳ, các Hội thánh Cao Đài thực hiện sửa đổi Hiến chương, Đạo
quy, Quy chế hoạt động. Trong quá trình thực hiện, Ban Thường trực, Hội đồng
Hội thánh, Hội đồng Chưởng quản của các Hội thánh Cao Đài đã lựa chọn, giới
thiệu chức sắc lãnh đạo đảm bảo về uy tín, năng lực, sức khỏe. Qua thời gian
thực hiện, đến nay các phái Cao Đài cơ bản có sự kế thừa giữa chức sắc lớn tuổi
và chức sắc trẻ tham gia lãnh đạo giáo hội. Đồng thời, những chức sắc lãnh đạo
của các Hội thánh Cao Đài được chính quyền các cấp giới thiệu tham gia các tổ
chức chính trị xã hội ở trung ương và địa phương.
Đối với đại hội cấp cơ sở ở các Họ đạo Cao Đài đều thực hiện theo quy định
của pháp luật và Hiến chương các Hội thánh Cao Đài. Trong thời gian qua, các
Họ đạo cơ sở của các Hội thánh Cao Đài đã tổ chức Đại hội nhiệm kỳ cấp cơ sở
đảm bảo an toàn, đúng pháp luật. Thông qua Đại hội đã kiện toàn Ban Cai quản,
Ban Trị sự Họ đạo và lựa chọn nhân sự lãnh đạo ở cơ sở có năng lực, trình độ
được nhơn sanh tín nhiệm. Hằng năm, các Họ đạo Cao Đài cũng thực hiện việc tổ
chức hội nghị thường niên cấp cơ sở để tổng kết năm đạo và đề ra chương trình
hoạt động của năm đạo kế tiếp theo kế hoạch, hướng dẫn của Hội thánh.
2.3.4. Hoạt động quốc tế của đạo Cao Đài
Cao Đài Tây Ninh có nhiều hoạt động quan hệ quốc tế với các tổ chức tôn
giáo có mối quan hệ từ trước như: tổ chức Oomoto giáo ở Nhật Bản; tổ chức
Tiên Thiên Cứu Giáo Hồng Vạn ở Đài Loan; dự Đại hội Tôn giáo thế giới tại
Hàn Quốc năm 2014; tham gia hoạt động tôn giáo ở Singapo; thăm một số cơ sở
Cao Đài tại Mỹ, Canada,... Cao Đài Tây Ninh có mời một số tổ chức tôn giáo ở
nước ngoài và tín đồ là người nước ngoài về Tòa thánh Tây Ninh tham dự Đại lễ
Hội Yến Diêu Trì Cung. Cao Đài Tây Ninh đã công nhận 07 Họ đạo trực thuộc
ở nước ngoài.
2.4 Hoạt động an sinh xã hội của đạo Cao Đài
2.4.1.
Hoạt động từ thiện nhân đạo
Theo báo cáo của các Hội thánh Cao Đài hằng năm đã đóng góp trên 100
tỷ đồng vào các hoạt động từ thiện. Đa số chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài đều tham
gia hoạt động từ thiện xã hội, coi đây vừa là trách nhiệm, vừa là hoạt động thể
hiện tinh thần tôn giáo đối với cộng đồng và xã hội.
Hoạt động từ thiện của đạo Cao Đài được thực hiện theo quy định của đạo
thu hút được đông đảo tín đồ tham gia. Những năm gần đây, hoạt động từ thiện
của đạo Cao Đài ngày càng phát triển và tích cực tham gia các hoạt động chung
của xã hội. Tuy nhiên, hoạt động từ thiện của đạo Cao Đài còn mang tính tự phát
chưa được tổ chức chặt chẽ. Mỗi khi có việc thì cùng chung tay làm rất tích cực
nhưng sau đó lại trở lại bình thường mà không duy trì hoạt động từ thiện thường
xuyên. Đạo Cao Đài còn hạn chế về nguồn lực nên muốn thay đổi cách làm từ
thiện cần thiết phải xây dựng các cơ sở sản xuất, cơ sở trồng trọt tạo ra các vật
dụng, nông sản để làm từ thiện, đóng góp cho xã hội thì mới bền vững và huy
động được nhiều hơn nữa tín đồ tham gia.
2.4.2.
Hoạt động khám chữa bệnh
Trong hoạt động khám chữa bệnh, đạo Cao Đài rất chú trọng chăm sóc sức
khỏe cho cộng đồng, đồng thời cứu giúp người dân khi đau yếu, bệnh tật với
tinh thần cứu khó trợ nghèo. Các cơ sở khám chữa bệnh của đạo Cao Đài đã
thực hiện tốt việc chăm sóc sức khỏe cho đồng đạo và người dân ở vùng có đạo
Cao Đài.
Đạo Cao Đài có 93 cơ sở phòng thuốc nam khám chữa bệnh, trong đó có
135 cơ sở bốc thuốc, 02 cơ sở chăm sóc chữa bệnh lâu dài tại cơ sở, có 11 cơ sở chăm sóc người già, tổng kinh phí thực hiện hoạt động khám chữa bệnh hằng năm
khoảng 200 tỷ đồng19. Ngoài ra, ở các tỉnh, thành phố, một số Họ đạo Cao Đài có phòng khám thuốc chữa bệnh, góp phần làm tốt công việc khám chữa bệnh ở tuyến cơ sở.
3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM ĐỐI VỚI ĐẠO CAO ĐÀI
HIỆN NAY PHỤC VỤ CÔNG TÁC THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN
3.1. Về tổ chức của đạo Cao Đài
Hiện nay, các Hội thánh Cao Đài có thay đổi về hệ thống tổ chức giáo hội,
so với quy định của Tân luật, Pháp Chánh truyền. Nguyên nhân, thứ nhất do khi
thành lập lại tổ chức giáo hội đều xây dựng mô hình tập thể lãnh đạo qua hình
19 Ban Tôn giáo Chính phủ (2018), Số liệu thống kê các Hội thánh Cao Đài năm 2018, Hà Nội, tr.9. Hoạt động
khám chữa bệnh của đạo Cao Đài cụ thể là: Cao Đài Ban Chỉnh đạo có 30 phòng chẩn trị y học dân tộc, châm cứu,
phục vụ sức khoẻ đồng đạo khi đau yếu. Phòng chẩn trị y học dân tộc Dưỡng Đường của Hội thánh Cao Đài Ban
Chỉnh đạo đã khám và điều trị miễn phí cho 180.611 lượt người, cấp 817.892 thang thuốc miễn phí, châm cứu cho
143.567 lượt người, thành tiền 5.738.188.000 đồng. Tổng hợp số liệu chung của các phòng chẩn trị như xem mạch
cho 1.268.685 người, bốc 118.030 thang thuốc, 198.326 lượt người được châm cứu miễn phí, trị giá là
5.998.659.670 đồng; Cao Đài Tiên Thiên có 18 phòng khám y học dân tộc, khám điều trị cho 5.098 bệnh nhân;
châm cứu, bấm huyệt cho 989 người; bốc thuốc miễn phí 12.377 thang thuốc; cấp phát 1.670 gói thuốc trị gan, đau
nhức; Cao Đài Chơn Lý có 2 phòng thuốc y học dân tộc ở Thánh thất Nha Trang (Khánh Hoà) và Thánh thất Thanh
Bình (Tiền Giang) là nơi phát thuốc chữa bệnh miễn phí cho đồng bào nghèo khó; Cao Đài Chiếu Minh Long Châu
có 3 phòng thuốc nam hoạt động trên 30 năm, đã xem mạch trị bệnh cho trên 10.825 lượt người, châm cứu cho gần
520 người, bốc 15.670 thang thuốc miễn phí; Cao Đài Bạch Y có 04 phòng thuốc Nam hoạt động từ thiện, châm
cứu 12.000 người, bốc 1.988.000 thang thuốc nam, trị giá 3.976.000.000 đồng,...
thức: Thượng hội, Ban Thường trực, Hội đồng Chưởng quản, Ban Điều hành,…;
thứ hai, do quá trình lâu dài không được phong chức, phong phẩm từ sau năm
1975 đến năm 1995 nên đa số các Hội thánh Cao Đài không đủ chức sắc hành
đạo theo quy định của luật đạo; thứ ba, chức sắc Cao Đài hiện nay không dám
đảm nhận phẩm vị cao trong tổ chức giáo hội như Giáo tông, Hộ pháp mà để vô
vi. Từ các nguyên nhân trên, dẫn đến thiếu hụt chức sắc điều hành tổ chức giáo
hội. Đồng thời mô hình tổ chức giáo hội hiện nay của đạo Cao Đài là mô hình
mới, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh hiện tại để giúp các Hội thánh Cao Đài
hoạt động ổn định theo Luật đạo.
3.2. Về hoạt động liên giao hành đạo
Đạo Cao Đài có hoạt động liên giao hành đạo là mô hình mới phát triển
trong khoảng 10 năm gần đây. Sự ra đời của hoạt động liên giao hành đạo của các
Hội thánh Cao Đài xuất phát từ dịp Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo tổ chức kỷ
niệm 60 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Thánh thất Cao Đài Thủ đô Hà Nội
vào năm 2006 tại Thủ đô Hà Nội. Nhân dịp này, đoàn đại biểu chức sắc lãnh đạo
các Hội thánh Cao Đài đã đến chào thăm Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết. Tại
buổi gặp mặt, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã khuyến khích các chức sắc
Cao Đài cần đoàn kết trong hoạt động tôn giáo để có sức mạnh lan tỏa hơn trong
các hoạt động tôn giáo của đạo Cao Đài. Thực hiện ý kiến của Chủ tịch nước, các
Hội thánh và tổ chức đạo Cao Đài đã có sáng kiến thành lập tổ chức liên giao
hành đạo để cùng giúp đỡ nhau trên con đường hành đạo về hoạt động từ thiện xã
hội, hoạt động báo chí, giáo dục đào tạo chức sắc. Đây là hoạt động tự nguyện của
các Hội thánh và tổ chức Cao Đài nhằm từng bước giải quyết những vấn đề cần
thiết của đạo Cao Đài trong giai đoạn hiện nay.
Với tinh thần đó, các Hội thánh Cao Đài đã tổ chức hội nghị liên giao lần
thứ nhất được tổ chức tại Thánh thất Thiên Cảnh đàn thuộc Hội thánh Cao Đài
Minh Chơn đạo tại tỉnh Cà Mau có 07 Hội thánh và 05 tổ chức Cao Đài tham gia.
Đến nay, các Hội thánh và tổ chức Cao Đài đã tổ chức 13 lần liên giao
hành đạo và phát huy tốt vai trò đoàn kết tôn giáo, gắn kết hoạt động tôn giáo
trên các lĩnh vực từ thiện xã hội, hoạt động báo chí, giáo dục đào tạo.
3.2. Về công tác quản lý hoạt động quốc tế của đạo Cao Đài
Công tác quản lý hoạt động quốc tế của đạo Cao Đài tạo điều kiện thuận
lợi cho các Hội thánh Cao Đài được công nhận tổ chức tôn giáo trực thuộc và
chức sắc, chức việc, tín đồ ở nước ngoài theo quy định pháp luật Nhà nước Việt
Nam và tuân thủ quy định pháp luật ở nước sở tại. Hiện nay, đạo Cao Đài ở
nước ngoài có 59 Thánh thất, Thánh tịnh, Điện thờ Phật Mẫu, tổng số tín đồ
khoảng 32.000 người. Phạm vi hoạt động ở 11 nước, gồm: Mỹ, Canada, Anh,
Pháp, Đức, Úc, Nhật, Thái Lan, Philippines, Malaysia,
Campuchia. Bên cạnh
hoạt động của các tổ chức Cao Đài ở nước ngoài có thái độ chống đối giáo hội ở
trong nước còn có hoạt động tiến bộ yêu nước. Các tổ chức Cao Đài ở nước
ngoài tích cực vận động chức sắc, tín đồ ở nước ngoài tham gia các hoạt động từ
thiện nhân đạo ở trong nước, hỗ trợ các Họ đạo xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự,
in kinh sách, xuất bản tài liệu của đạo Cao Đài,...
3.4. Kỹ năng giao tiếp
Trong giao tiếp hàng ngày, người đạo Cao Đài xưng hô với nhau thân
thiện, gần gũi không tạo khoảng cách giữa cấp trên và cấp dưới. Giáo tông là
người đứng đầu trong tổ chức tôn giáo, xưng danh là anh Cả, còn các vị chức
sắc xưng danh với tín đồ là anh, là chị. Tín đồ gọi chức sắc là anh lớn, chị lớn.
Đức Cao Đài khi xuất hiện qua “cơ bút” xưng danh với các đệ tử là “Thầy”, có ý
nghĩa như là người hướng dẫn, chỉ dạy cho tín đồ.
Cách xưng hô trong đạo Cao Đài được quy định chức sắc lớn hơn được
gọi là hiền huynh, hiền tỷ, gọi người chức sắc nhỏ hơn là hiền đệ, hiền muội.
Trong văn bản hoặc khi giao tiếp quy định từ tín đồ đến phẩm Giáo hữu sử dụng
chữ Ông, từ phẩm Giáo sư trở lên dùng chữ Ngài. Tuy nhiên thực tế hiện nay,
người tín đồ Cao Đài thường gọi nhau là anh lớn, chị lớn để thể hiện sự thân mật
trong giao tiếp và hàm nghĩa tôn trọng phẩm vị chức sắc trong tôn giáo. Quy
định trong giao tiếp xã hội hoặc tại gia đình, họ hàng, người đạo Cao Đài vẫn
xưng hô bình thường gọi là ông, bà, cô, dì, chú, bác, anh, chị, em, cháu,...
Đây là cách xưng hô thể hiện trong đạo Cao Đài không có sự phân biệt
giai cấp trong sinh hoạt hàng ngày, họ sống dân chủ, bình dân trong giao tiếp và
trở thành những người tu hành sống chan hoà không có khoảng cách người trên,
kẻ dưới, người đồng đạo coi nhau như
anh em.
Trong công tác tôn giáo, không gọi chức sắc Cao Đài là “Thầy”, có thể gọi
trực tiếp phẩm vị tôn giáo như: Lễ sanh, Giáo hữu, Phối sư, Đầu sư,.., hay chức
vụ của họ như; Trưởng ban, Phó Trưởng ban, Cai quản, Phó Cai quản, Hội
trưởng, Phó Hội trưởng,.., hoặc gọi thân mật là ông, bà.
3.4. Kỹ năng ứng xử
Tôn trọng những nhu cầu chính đáng của chức sắc, chức việc, tín đồ và tổ
chức tôn giáo của đạo Cao Đài.
Trong giao tiếp, ứng xử, trao đổi công việc với chức sắc, chức việc, tín đồ
đạo Cao Đài thực hiện bằng sự chân thành, tình cảm không nên khoa trương,
hứa hẹn mà không thực hiện. Bởi chức sắc, chức việc, tín đồ đạo Cao Đài chủ
yếu là thành phần nông dân, có tính cách thật thà, tin người nhất là đối với cán
bộ, công chức Nhà nước được họ tôn trọng.
Quan tâm giải quyết những thủ tục hành chính của đạo Cao Đài theo quy
định của pháp luật, có lý, có tình.
Biết lắng nghe và kịp thời giải quyết những nguyện vọng chính đáng, hợp
pháp của chức sắc, chức việc, tín đồ đạo Cao Đài.
Kiên quyết xử lý những đối tượng cố tình vi phạm pháp luật và có thái độ
coi thường kỷ cương, phép nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Cơ quan Phổ thông Giáo lý (2005), Lịch sử đạo Cao đài, quyển 1, Nhà
xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
- Cơ quan Phổ thông Giáo lý Đại Đạo (2008), Lịch sử đạo Cao Đài, quyển
2, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
- Nguyễn Thanh Xuân (2015), Đạo Cao Đài hai khía cạnh Lịch sử và Tôn
giá (tái bản lần thứ nhất), Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Đặc điểm nào cần chú ý của đạo Cao Đài trong công tác thông tin, tuyên
truyền?
2. Trong ứng xử,
giao tiếp đối với chức sắc, chức việc, tín đồ đạo Cao Đài,
tính cách nổi bật nào của họ cần chú ý? Vì sao?
3. Tại sao đạo Cao Đài phân chia thành nhiều tổ chức, hệ phái khác nhau?
4. Những hoạt động xã hội nào của đạo Cao Đài cần tuyên truyền, lan tỏa
trong xã hội hiện nay? Phân tích?