Trang

Thứ Ba, 11 tháng 11, 2014

92. BNS THÔNG LIÊN 57: CHÁNH TỰ ĐĐTKPĐ.


TÌM HIỂU NGUỒN GỐC
CHÁNH TỰ ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ.

“Hay là sự nên hình của chữ quốc ngữ”.
(tt và hết)

***: VÀI THÔNG TIN CẦN ÍCH VỀ CHỮ QUỐC NGỮ.
1- Chúa Nguyễn Phúc Lan ra lệnh trục xuất giáo sĩ Alexandre de Rhodes và đe dọa sẽ xử tử những ai còn dám đưa giáo sĩ tới. Ngày mồng 3-7-1645 ông từ biệt Đàng Trong để về Macao.
Ông viết trong nhựt ký hành trình: "Xác tôi rời bỏ Đàng Trong và Đàng Ngoài, nhưng thực ra lòng tôi vẫn quyến luyến cả hai nơi, và tôi chắc rằng không bao giờ lòng tôi lại quên được hai Xứ này".

2- Việt Nam Cộng Hòa đặt tên đường Hàn Thuyên đối diện với với đường  Alexandre de Rhodes (qua đường Thống Nhất- nay là đường Lê Duẫn) ở trước cửa Dinh Độc Lập là rất có ý nghĩa vậy. Bởi vì Ông Hàn Thuyên là người rất có công với chữ Nôm, còn Ông Alexandre de Rhodes lại là người rất có công với chữ quốc ngữ.
2.1- Ông Nguyễn Thuyên (sinh 1229 tại xã Lai Hạ, Huyện Lương Tài, Tỉnh Bắc Ninh- Không rõ năm mất). Đỗ Tiến Sĩ năm 1247, làm quan đến chức Thượng Thư Bộ Hình đời vua Trần Nhân Tông. Ông là người rất giỏi chữ Nôm.
Theo Đại Việt Sử Ký toàn thư thì khi quân Nguyên xâm lược nước ta lần thứ 2 (1282) có cá sấu đến sông Lô rất nhiều. Vua truyền ông làm bài văn tế cá sấu ném xuống sông. Cá sấu đi mất, vua xem việc nầy giống như việc ông Hàn Dũ (768-824 “bên Tàu”) làm bài văn đuổi cá sấu. Vua lấy tích nầy ban cho ông họ Hàn. Ông là người có công lớn trong việc phát triễn và phổ biến chữ Nôm trong nước.
2.2- Tháng 10 năm 1619, giáo sĩ trẻ tuổi Đắc Lộ đặt chân lên miền đất thuộc Ấn Độ. Lúc đó ngài thông thạo ba tử ngữ và ba sinh ngữ. Tạm gọi là ba tử ngữ, nhưng thực ra là ba ngôn ngữ cổ: đó là tiếng Do Thái, tiếng Hy Lạp và tiếng La tinh. Trong chương nhất cuốn Văn phạm của ngài, khi bàn về các phép các âm vận, giáo sĩ Đắc Lộ đã so sánh tiếng Việt với tiếng Do Thái hai lần, với tiếng Hy Lạp mười một lần và với tiếng La tinh năm lần. Về sinh ngữ, giáo sĩ thông thạo tiếng Pháp, sau đến tiếng Ý (là tiếng nói trong thủ đô Giáo hội La Mã) và cuối cùng là tiếng Bồ Đào Nha. Bởi vậy cũng trong chương nhất cuốn Văn phạm Việt ngữ, ngài đã nhắc đến những ngôn ngữ đó, nhất là tiếng Bồ và tiếng Ý. Người ta nhận thấy rằng tuy tiếng Pháp có thể gọi là tiếng mẹ đẻ của ngài, song trong công cuộc truyền giáo ngài ít có dịp dùng tới: các văn từ, đơn khế thường được thảo hoặc bằng tiếng La tinh hay tiếng Ý, đa số bằng tiếng Bồ Đào Nha.
…..Giáo sĩ Đắc Lộ tỏ ra không thông thạo chữ Hán, chữ Nhật và chữ nôm điều đó sau này có lẽ chỉ đưa lại ích lợi cho chúng ta.
Mặc dầu giáo sĩ có lẽ không viết được Hán tự, song ngài có thể tạm nói được tiếng Trung Hoa (và có lẽ cả tiếng Nhật). Tắt một lời, trong cuốn Văn phạm chúng tôi kể ở trên, ngài đã có lần so sánh các âm vận Nhật ngữ và Hoa ngữ với Việt ngữ.
Với tiếng Việt, hình như ngài đã sinh ra để học nói và học viết. Quả vậy, khi ngài vừa bước xuống đất liền ở cửa Thuận Hóa, cảm tưởng đầu tiên của ngài đối với tiếng Việt, là một cảm tưởng đẹp đẽ. Ngài viết:
“Vừa tới miền Nam và nghe người bản xứ nói với nhau, nhất là phụ nữ, thì tôi tưởng như được nghe chim líu lo hót, đồng thời tôi tưởng không bao giờ có thể học được thứ tiếng đó”.
Thật vậy, khi đọc kỹ quyển Văn phạm của giáo sĩ Đắc Lộ, người ta thấy tác giả, trong khi nghiên cứu âm vận Việt ngữ, đã không bị ám ảnh bởi một hình ảnh độc tôn nào. Với tinh thần phổ quát, với sự hiểu biết nhiều ngôn ngữ cổ kim, có thể nói ngài là con người quốc tế. Như trên, chúng tôi đã nói ngài biết tiếng Do Thái, tiếng Hy Lạp, tiếng La tinh, ngài còn biết tiếng Pháp, tiếng Ý và tiếng Bồ Đào Nha. Bởi thế, với ý chí đi tìm sự thật và sự ích lợi cho người Việt Nam, ngài đã đem tất cả những kiến thức về các ngôn ngữ ấy để tìm ra cách ghi âm vận cho tường tận, xác đáng, tỉ như:
Q thì đọc như tiếng La tinh trong QUA hay QUI.
X thì đọc như tiếng Bồ, hoặc như Sc của tiếng Ý.
R không đọc cuồn cuộn như tiếng Bồ, song đơn như tiếng Ý.
PH đọc như chữ PHI trong tiếng Hy Lạp.
U đọc như tiếng La tinh.
B đọc như chữ Bêta Hy Lạp, nhất là như chữ Beth Do Thái.
NG đọc như Ngaðn của tiếng Do Thái…
Dấu sắc, huyền, ngã lấy trong dấu sắc, huyền, ngã Hy Lạp, dấu nặng lấy ở chữ iota dưới, còn dấu hỏi thì lấy ở chấm hỏi La tinh. Riêng về Pháp ngữ chúng tôi không thấy tác giả đề cập tới một cách tỏ tường, mà thực ra, âm vận Việt ngữ thích hợp với âm vận La ngữ và mấy tiếng trực thuộc La ngữ như Ý, Bồ hơn là Pháp, trừ trường hợp chúng tôi đã trích ở trên về chữ sang.
Bởi thế, theo thiển ý chúng tôi, thì đây là một trong lý do chính làm cho công cuộc phiên âm của giáo sĩ Đắc Lộ đạt tới kết quả và là kết quả bền bỉ, bất chấp cả thời gian. Tác giả không trói buộc mình vào một hệ thống nào riêng biệt, một ngôn ngữ nào độc tôn, trái lại căn cứ vào cách phát âm đặc biệt của Việt ngữ, ngài đã tìm trong hết các ngôn ngữ mà ngài được biết ngõ hầu ghi cho xác đáng. Nếu tiếng này không phù hợp thì ngài dùng đến tiếng kia, nếu âm vận ngôn ngữ này xem ra phiền toái, thì ngài không ngần ngại cầu cứu đến ngôn ngữ khác, mặc dầu ngôn ngữ ấy không phải ngôn ngữ riêng của ngài, tiếng mẹ đẻ của ngài. Quả thật, con người quốc tế, tinh thần quốc tế đã giúp ngài rất nhiều và vì thế công cuộc đã thành tựu và như trên chúng tôi đã nói, sẽ thành tựu lâu bền.

3- Để kết luận, trước hết chúng tôi phải thú thực rằng việc nghiên cứu về chữ quốc ngữ trong các tác phẩm của giáo sĩ Đắc Lộ mới còn trong thời kỳ phôi thai. Tuy nhiên, chúng ta cũng đã nhận ra mấy điểm chủ chốt sẽ quy hướng mọi công cuộc tìm tòi sau này, và đó cũng là điều cho chúng ta xem thấy rõ những thiếu sót hay sai lầm thường gặp trong mấy sách giáo khoa hoặc khảo cứu vội vàng về chữ quốc ngữ của giáo sĩ Đắc Lộ. Vậy căn cứ vào những tài liệu viết tay cũng như sách in kể ở trên, chúng ta có thể biết về việc thành lập chữ quốc ngữ những chi tiết sau đây:
3.1- Sự thành hình Việt ngữ phiên âm đã nằm trong một tình trạng chung, đó là chí hướng phiên âm các tiếng tượng hình tại Á châu vào thế kỷ XVI-XVII. Thực ra, người ta đã thấy công cuộc ấy được thực hiện trong Nhật ngữ và Hoa ngữ. Riêng về Hoa ngữ phiên âm, trước chúng ta gần nửa thế kỷ, người ta đã sáng chế ra các ký hiệu để ghi các thanh.
3.2- Không kể công cuộc dùng mẫu tự La tinh để phiên âm những tiếng kể trên, trước giáo sĩ Đắc Lộ, tại Việt Nam đã có những ướm thử, những dò dẫm, những việc sơ khởi phiên âm Việt ngữ, như chúng ta đã thấy những tài liệu vào năm 1631, 1645 và như hai tác phẩm của hai giáo sĩ người Bồ nay nguyên bản đã thất lạc, song giáo sĩ Đắc Lộ đã sử dụng để soạn quyển Tự điển Việt-Bồ-La của ngài.
Ông đã đạt tới đích, nhờ vào năng khiếu đặc biệt của ông trong vấn đề hiểu biết các sinh ngữ cũng như tử ngữ, và nhờ vào tinh thần có thể nói là của một công dân quốc tế của ông, nhờ vào trí óc không lệ thuộc vào một hệ thống từ ngữ nào của ông, nghĩa là không bắt Việt ngữ lệ thuộc vào một khuôn khổ ngôn ngữ nào, song khai thác hết khả năng của những từ ngữ khác, nhất là bằng vào trực giác sâu sắc nhất của ông về các âm thanh không những chung cho cả nước, song riêng cho từng miền, từng địa phương.
Ở nước ta, chữ Nôm và chữ viết theo mẫu-tự La-tinh đều là hai lối viết lên dọng nói của tiếng ta, vì thế cùng là viết quốc-ngữ cả. Nhưng chỉ vì một biến cố lịch-sử không có ở Tàu ở Nhật, mà tình-trạng thay đổi như ta thấy ngày nay. Số là sau khi chính phủ bảo-hộ và thuộc-địa bãi bỏ chữ Hán và lấy tiếng Pháp thay vào đó làm ngôn-ngữ hành-chính và văn-hóa, lấy ngôn-ngữ của người bảo-hộ mới để thay cho chữ viết của người đô-hộ cũ, thì chữ Hán không còn phải là con đường tiến-thân ở Việt-Nam nữa. Chữ Nôm vì quá tùy-thuộc vào chữ Hán, lại trước đó cũng chẳng được trọng-dụng như chữ Hán, cho nên cũng theo đó mà lu mờ đi, cho nên chỉ còn có lối viết theo mẫu-tự La-tinh là được gọi là quốc-ngữ mà thôi. Đã thế vào đầu thế-kỷ XX lại có một số sĩ-phu có tên tuổi đứng ra cổ-võ cho chữ quốc-ngữ ấy, vì thấy nó tiện lợi và dễ học hơn chữ Nôm. Và họ đã thành công. Ngày nay là gần một thế kỷ sau đó, chúng ta đã quá quen dùng chữ quốc-ngữ rồi, văn-chương của tiền-nhân hầu hết cũng đã chuyển sang chữ quốc-ngữ, rồi các sáng tác văn-học, khoa-học, thư-tín và giấy tờ hành-chính đều viết bằng chữ quốc-ngữ cả. Cho nên có lẽ không còn ai chủ-trương phải trở về chữ Nôm nữa: nó thật là thần-tình, nhưng vẫn còn nhiều khuyết-điểm và chưa được ấn-định cho chính-xác.

4- Nguyễn Trường Tộ và chữ quốc ngữ.
Ông Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) là một người yêu nước, một nhà thông thái và cải cách, dâng nhiều bản điều trần để canh tân đất nước. Thế kỷ 19 thì chữ quốc ngữ đã lớn mạnh và bản thân ông là tín đồ Thiên Chúa Giáo nhưng ông cũng không cái duyên với chữ quốc ngữ.
Đề-nghị của ông về chữ viết của nước ta được trình bày rõ ràng trong điều thứ 4, khoản thứ 5 của Tế cấp bát điều (Tám việc cần làm gấp), về việc dùng quốc-âm.
Sử gia Trương Bá Cần đã nêu lên: Nguyễn Trường Tộ là người công giáo. Ông thừa biết rằng chữ quốc ngữ, theo mẫu tự La tinh, được sử dụng phổ biến trong giới công giáo từ thế kỷ 17-18, là một mẫu tự đơn giản và dễ học hơn “chữ Hán quốc âm” nhiều.
Nhưng ông không đề nghị lấy chữ Quốc ngữ làm chữ viết cho cả nước. Ông giải thích điều đó: “Chả lẽ nước ta không có ai giỏi có thể lập ra một thứ chữ để viết tiếng ta hay sao? Vì ta dùng chữ Nho đã lâu nên không cần thay đổi tất cả, sợ làm cho người ta lạ tai lạ mắt”.
Ông cũng không nói gì đến chữ Nôm là chữ Quốc âm được thành hình từ thời Phùng Hưng (Bố Cái Đại Vương) thế kỷ thứ 8, và phát triển với Hàn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Chu Văn An, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu.. . Chữ Nôm cũng được sử dụng rộng rãi trong giới công giáo từ thế kỷ 17-18.. .Chữ Nôm đúng ra cũng còn phức tạp.
Sau khi nêu ra cái tai hại của lối học khoa cử và lối văn chương chơi chữ, ông đề nghị dùng “chữ Hán quốc âm”, đại khái như sau: “Tôi tính quốc âm ta ước chừng hơn một vạn tiếng, trong đó chỉ có lối ba ngàn tiếng không thể viết như chữ Hán. Trường hợp đó ta dùng những chữ Hán tương tự rồi thêm hiệp vần vào một bên mà thôi. Đó gọi là “chữ Hán quốc âm” (...) Như vậy người học sau này chỉ học mặt chữ thôi, không phải tốn nhiều công phu học cái tiếng chẳng phải Hán chẳng phải ta.
Về cái tiện lợi của chữ Hán quốc âm, ông giải thích: “Nay ta không có chữ viết riêng mà chỉ dùng chữ nho để viết thay. Về phát âm đã không theo đúng giọng Trung Quốc cũng không phải tiếng phổ thông của nước ta. Người mới học phải thuộc mặt chữ bằng mắt lại phải vận dụng trí nhớ để nhớ những phát âm lạ tai. Âm vận của thứ chữ này chỉ có ai học mới biết, không học thì nghe cũng như vịt nghe sấm mà thôi. Thế có phải phí hơn một nửa công phu trí óc không? Nay nếu học sách quốc âm, học sinh ở nhà đọc đàn bà con nít nghe cũng hiểu, như vậy tuy không đi học mà cũng học được. Hơn nữa nếu dùng quốc âm thì lúc nhỏ đã có cha mẹ dạy, lớn lên đi học chỉ học nét viết mà thôi. Thế có phải giảm bớt được một nửa công phu không ?’’.
Đề nghị cụ thể của ông như sau: “Vậy xin dùng chữ Hán làm mẫu, lựa âm của chữ nào hợp với âm tiếng ta, nhất định không thay đổi thì đọc như tiếng ta không cần giải nghĩa. Chữ nào có âm gần giống tiếng ta thì thêm nét phụ vào rồi đọc ra tiếng ta. Ngoài ra gộp hết tiếng ta lại chia thành môn loại, làm tự điển, trước tiên ban hành trong các cơ quan chính quyền và trường học cho người học dễ dàng sử dụng (...) Còn các nhà văn ai muốn dùng chữ Hán theo âm nho tùy ý nhưng trong công việc làm thì phải dùng thứ chữ Triều đình đã ban hành. (...) Bây giờ ta cứ lấy chữ Hán chuyển đọc ra quốc âm, không cần học nghĩa, thế cũng vẫn dùng chữ Hán có gì mà không được? Thí dụ như chữ “Thực phạn’’ thì đọc là “ăn cơm’’, hoặc viết chữ “ăn cơm’’ thay chữ “Thực phạn”.
Thiết tưởng không cần dài dòng về vấn đề đó, vì tuy đề nghị có lý sự rõ ràng, nhưng những người được đọc lại không muốn theo, dù có người muốn theo, nhưng cũng chưa ai làm cả. Rất có thể là đề nghị đó cũng chỉ là “mách qué” đối với những người trọng Nho như vua tôi nhà Nguyễn. Thiết tưởng cũng nên nhắc lại rằng cách-thức đó đã sinh ra “chữ Hán quốc âm” của người Nhật-bản: thí dụ họ viết chữ “nhân” (người) rồi đọc ra tiếng Nhật là “hito” hay đọc theo âm Hán là “jin”, viết chữ “mộc” (cây) rồi đọc ra tiếng Nhật là “ki’’ hay đọc theo âm Hán là “moku’’.

4- Chữ quốc-ngữ và chữ Nôm
Chữ Nôm và chữ quốc-ngữ là hai lối viết tiếng Việt, một lối theo mẫu người Tàu, một lối theo mẫu người Tây. Thực ra cũng không phải người Tây sáng chế ra lối viết theo mẫu-tự như thế, nhưng họ cũng là học lại của người miền Trung-Đông thời Thượng-cổ. Và hiện nay cũng có nhiều dân-tộc trên thế-giới dùng lối viết theo mẫu-tự.
Chữ Nôm đã “vang bóng một thời’’, nó kết tinh nỗ-lực của ông cha ta trong mươi thế-kỷ để thiết-lập một nền văn-hóa Việt-Nam có bản-sắc riêng, tuy có chịu ảnh-hưởng của văn-hóa người Hán tộc, lại muốn có vốn để “đi ăn riêng’’, nhưng còn gặp nhiều khó khăn. Chữ quốc-ngữ là do ảnh-hưởng của người Âu-châu, nhưng đã giúp cho người mình thực-hiện được cái ý muốn độc lập đó.
Ngày nay ta không dùng chữ Nôm trong đời sống thường nhật, và cũng không thấy có dấu nào nói lên rằng dân ta muốn trở lại dùng chữ Nôm, vì thực ra cũng có nhiều cái bất tiện, lại tốn công, tốn của, tốn thì giờ. Tuy vậy đó vẫn là kho tàng văn-hóa không thể bỏ qua, mà trái lại cần được bảo-tồn. Đó là chương-trình của Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm và của cơ-quan “Vietnamese Nôm Preservation Foundation’’. Trong việc sưu tầm sách vở chữ Nôm thời xưa, xem chừng còn ít người biết và để ý đến số sách Nôm do người công-giáo đã biên soạn trong hơn ba thế-kỷ. Điểm quan-trọng của số sách này là ở chỗ nó cho ta biết khi bắt đầu tiếp-xúc với tư-tưởng người Âu, thì các ý-niệm và quan-niệm của Tây phương được chuyển sang tiếng Việt như thế nào.
Như đã nói trên đây, tự-vị Taberd, cũng như tự-vị của Pigneaux de Béhaine, có cái sáng-kiến hay của nó, là vừa có đối chiếu chữ quốc ngữ với chữ Nôm, vừa có cách thức thuận tiện để chuyển từ loại chữ này sang loại chữ kia. Vì xếp theo thứ-tự các mẫu-tự Latinh, nên ta biết đọc thế này thì phải viết làm sao. Ngược lại, muốn biết chữ viết thế này phải đọc làm sao, thì đã có bảng xếp các chữ theo các bộ chữ Hán. Cho nên từ sau đó các tự-vị chữ Nôm đều tiếp nhận cái sáng-kiến ấy.
Tự-vị Taberd đã góp phần vào việc định hình cho chữ quốc-ngữ ta dùng bây giờ, và còn giúp ta trong việc nghiên-cứu chữ Nôm. Cho nên nó đáng được một chỗ đứng trong lịch-sử phát-triển văn-hóa Việt-Nam.
nhưng Đắc Lộ đã cho biết: "Tôi vận dụng công việc của các giáo sĩ khác cũng thuộc Dòng Tên, nhất là của Gasparo d'Amiral và Antonio Barbosa. Cả hai ông nầy, mỗi ông đều làm một cuốn tự điển. Ông Gasparo d'Amiral làm cuốn Annamiticum - Lusitanium; ông Antonia Barbosa làm cuốn Lusitanum - Annamiticum. Nhưng tiếc rằng cả hai ông đều chết sớm. Tôi vận dụng công việc của cả hai ông viết ra cuốn tự điển mới, có chua thêm tiếng La tinh, mục đích để giúp người bản xứ học tiếng La tinh theo lệnh của các đức hồng y.".

5- Sau khi chiếm được Việt Nam thì thực dân Pháp chia nước ta làm ba kỳ: Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
Nghị định ra ngày 6-4-1878 “về việc dùng tiếng An Nam bằng mẫu tự Latin” do thống đốc Nam Kỳ Lafont ký và ban hành. Đến ngày 01-01-1882 chính quyền Pháp buộc Nam Kỳ (lúc đó là xứ thuộc địa của Pháp) phải dùng chữ quốc ngữ trong hành chánh. Việc bắt buộc nầy có liên quan đến nhiều vấn đề, một trong những vần đề đó là làm cho chữ quốc ngữ phát triễn hoàn chỉnh nhanh chóng và mạnh mẽ hơn.
@@@

Lời cuối: BBT tham khảo từ nhiều nguồn nhưng đặc biệt là từ trang web vietcatholic (số bài của ông Nguyễn Khắc Xuyên và một số tác giả khác về chữ quốc ngữ) để đúc kết thành bài trên. Có phần thì rút gọn, có phần thì giữ nguyên văn, có chổ ghi lại suy luận của BBT cho phù hợp với trọng tâm bài viết…Nếu bạn đọc thấy có điều chi chưa tin tưởng cần kiểm tra lại hay bổ cứu thêm xin vui lòng vào trang web trên để xem xét.
Nay kính.

BNS THÔNG LIÊN số 57 ra ngày 29-12-2011.