MỪNG NGÀY TẾT NGUYÊN ĐÁN.
“Còn 96 ngày đến
10.04. Ất Mùi/2015: ĐẠI HỘI NHƠN SANH”.
Ngày 30.10.Bính Dần (1926) tiền bối
Dương Văn Ngọ nhập môn cầu đạo Thầy có cho một bài thi liên quan đến Ngọ &
Mùi RẤT LẠ:
Ngọ chưa lố bóng
kế Mùi sang,
Trông đặng vinh
huê đặng hưởng nhàn,
Như lúc Tử Nha
đưa cán trúc,
Câu thời câu vận
cá nào ăn?
Hôm 18.12.Giáp Ngọ (06-02-2015) kỷ niệm Ngài Hồ
Bảo Đạo mãn phần KNS có nhắc lại với đồng đạo...
Trong thư ông Nguyễn Thế Phương
(nhà báo Nam Đình) gởi Đức Hộ Pháp ngày 02.02.1955 có nhiều đoạn liên quan đến Ất
Mùi:
... Một đêm nọ Ngài Quyền Giáo Tông đem tôi
theo, lên Tây Ninh, ghé Phạm Môn vào lúc 02 giờ khuya chính Ngài chấp bút, Đức
Lý Thái Bạch giao tờ báo BẢO AN cho Tôi làm chủ bút, và ban cho 02 câu thơ,
cũng nói rằng: Đến Ất Mùi…
.... Năm nay
Ất Mùi đến lại là năm tuổi của Tôi, vả lại là năm mà Thầy đã nói 30 năm trước,
năm Ất Mùi đã đến. Đầu đã bạc sức lại yếu, Tôi không biết còn có có thể giúp
ích cho Đạo trong phương diện nào?
Tôi thiết tha
Ngài để ý đến năng lực của Tôi, và Ngài tin rằng: lúc còn nhỏ, Tôi còn có một ý
niệm về Đạo, về chánh trị và nhứt là không hề biết lợi dụng Đạo, thì bây giờ,
tuổi đã lớn, chắc Ngài tín nhiệm nhiều hơn nữa.
Thưa ngài,
Khi nào Ngài gọi đến: Tôi sẽ sẳn sàng trả lời: “Có Tôi đây”....
.... Tôi cho là tôi có phước lớn: còn Ngài, để nhận
định thành tâm và năng lực của Tôi.
Với năm Ất Mùi
nầy, Tôi tin chắc: Tôi sẽ được Ngài giúp về mặt tinh thần, để tôi có đủ phương
tiện truyền bá nền Đạo một cách đắc lực.
Tôi xin Ngài nhận nơi đây lòng tôn kính của Tôi.
Đạo sử cho thấy Đức Hộ Pháp rời
Tòa Thánh đi Nam Vang đêm 04 rạng 05 tết năm Ất Mùi (1955). Tính lại đã 60 năm.
KNS kính mừng quí đồng đạo thêm một
tuổi, hưởng nhiều ơn phước của Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu... tăng thêm công quả thực
hành theo Ngũ nguyện: Thánh Thất an ninh và Tứ nguyện: Thiên hạ thái bình....
Nay kính.
CÁO LỖI: Xin chỉnh đêm 04 rạng 05. Trước viết đêm 03 rạng 04 là SAI).
@@@
Nguyên văn lá thư ông Nguyễn Thế Phương (nhà báo Nam Đình) gởi Đức Hộ Pháp.
NGUYỄN
THẾ PHƯƠNG.
22 Rue Lamblardie
|
Paris, 2
Février 1955.
Kính gởi: Đức Hộ
Pháp
Chưởng
Quản Nhị Hữu Hình Đài.
Tòa Thánh
Tây Ninh.
Kính Ngài,
Ba mươi
năm qua hôm nay Tôi mới dám trịnh trọng để nhắc lại đêm đàn long trọng,
không tiền khoán hậu, tại nhà ông Quyền Giáo Tông đường Tổng Đốc Phương
trong Chợ Lớn.
Đêm ấy
tất cả là 19 người, Tôi lấy làm vinh hạnh được dự đàn cơ ấy.
Sau khi
Thầy xuống cơ trục xuất Ông Phủ Chiêu rồi Thầy nhập vào người Ông Cao Thượng
Phẩm, Tôi còn nhớ rõ ràng như mới đêm rồi, mặc dầu đã 30 năm qua.
Sau khi
Thầy nhập vào Ông Cao Thượng Phẩm rồi Thầy cầm nhang bước lên bàn thờ và khánh
thờ Thiên Nhãn.
Lúc bấy
giờ, xin lỗi Ngài, Ngài đứng sau không nhằm chổ.
Thầy cầm
nhang dầu không nói ra lời nhưng Thầy đã dùng huyền diệu của Thầy mà nói ra cho
Ngài biết rằng: “Chổ của Ngài là chính bàn thờ đối diện với bàn thờ Thầy”.
Ngài bước
lên đứng ở chổ Đức Hộ Pháp phải đứng từ đây mổi lần có đại lễ.
Thưa
Ngài,
Đêm đàn
long trọng và tôn nghiêm ấy Thầy thâu tất cả 19 người: chính Thầy cầm nhang
vẽ bùa trên đầu mổi người quì xuống tuyên thệ.
Tôi được
danh dự tuyên thệ trong đêm ấy; dầu đến chết tôi cũng không quên.
Thưa
Ngài,
Trước khi
Thầy thâu nhận lời tuyên thệ của 19 người, có bao nhiêu Đấng Thiêng Liêng xin
cho Ông Phủ Chiêu, Thầy không cho.
Thầy “đi”
với 02 Bạch Hạc đồng tử mê…không biết gì lúc đó. Quang cảnh đêm đàn ấy giờ nầy
Tôi viết lại, Tôi cảm thấy lạnh lùng sợ hãi làm sao.
Quan Thế
Âm Bồ Tát nhập vào một người quì xuống van lạy Thầy, xin Thầy tha thứ cho Ông
Phủ Chiêu. Rồi tiếp tục bao nhiêu Đấng Thiêng Liêng xuống trần đêm đàn ấy trở
thành đêm đàn lịch sử của Đạo.
Thưa Ngài
Chưởng Quản,
Chính đêm
ấy sau khi tôi tuyên thệ rồi, Tôi cảm thấy như Tôi được phúc đức thế nào mới
được chứng kiến Thầy xuống trần
Bảy hôm
sau nhằm đêm đàn lệ cũng tại nhà Ông Quyền Giáo Tông, Ngài và Cao Thượng Phẩm
phò loan Thầy xuống cơ không biết Ông Quyền Giáo Tông bạch với Thầy làm sao
không biết mà Thầy cho Tôi một bài thơ, chừng mãn đàn tất cả các bài thơ khác
ai cũng giãi thích được hết, riêng bài của Tôi chính Ngài và Cao Thượng Phẩm
phải thắc mắc rất lâu mới tìm hiểu được bốn câu thơ ấy rằng: “Phương ở ngoài
giúp Đạo đắc lực hơn ở trong. Sau rồi các con sẽ biết rõ hơn”.
Thưa
Ngài,
Sau đó,
Tôi tình nguyện theo Ngài Quyền Giáo Tông làm bí thơ cho Ngài hai năm trường đi
khắp lục tỉnh trong thời gian ấy việc làm có ý thức nhứt của Tôi là viết tất cả
ba chục bài diễn văn cho Ngài Quyền Giáo Tông, một bài quan trọng nhứt là khai
trương Ban Kiểm Duyệt Kinh Sách Đạo nhóm tại Thánh Thất Cầu Kho và sáu bức thơ
lịch sử gởi các nước cho hay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ chánh thức thành lập ở Việt
Nam.
Thưa Ngài
Chưởng Quản.
Một đêm
nọ Ngài Quyền Giáo Tông đem tôi theo, lên Tây Ninh, ghé Phạm Môn vào lúc 02 giờ
khuya chính Ngài chấp bút, Đức Lý Thái Bạch giao tờ báo BẢO AN cho Tôi làm chủ
bút, và ban cho 02 câu thơ, cũng nói rằng: Đến Ất Mùi…
Thưa
Ngài.
Những
việc vừa kể trên giữa Ngài và Tôi như hình với bóng, Tôi không phải nói nhiều
nữa làm gì.
Kịp đến
lúc thực dân tấn công Đạo triệt để, Tôi đã không ngại về Tòa Thánh nhiều đêm để
cùng Ngài dự bị đối phó việc “vây Tòa Thánh” và “khám xét giấy tờ” (1936).
Việc phải
đến đã đến.
Vài hôm
sau, Ngài xuống Thánh Thất Chợ Lớn. Chính tôi đã khẩn khoản với Ngài suốt 02
đêm trường, để yêu cầu Ngài lánh mặt đừng để bị bắt, bị đày. Ngài cương quyết
với khẩu hiệu “tử vì đạo” nên không đi, (riêng một ông giáo Sư Thái…và Tôi trốn
ở lại nên không bị đưa đi dưới chiếc Lamette Picquet).
Thưa
Ngài,
Trở về
Tòa Thánh, Tôi lên yết kiến Ngài nhiều lần: trong một bửa tiệc chay Ngài cầm ly
nâng lên cao để nói với Tôi mấy lời rất cảm động…
Kịp đến
khi Thống Đốc không cho Ngài tiếp tục cất Thánh Điện:
Ai biết
khổ tâm của Ngài hơn Tôi, khi Ngài kiếm từ bao ciment để trông nom công việc
xây dựng Đền Thánh.
Chính
nhiều vị chức sắc không dám trực tiếp yêu cầu Ngài ngưng công việc xây dựng Đền
Thờ, vì lúc bấy giờ Thống Đốc Nam Kỳ “bố” triệt để, các ông mới nhờ Tôi: nửa
đêm Tôi cầm bánh xe hơi, nhà tôi- người đã cùng Tôi chung thỉ phụng sự cho đạo-
lúc nào cũng ở gần bên tôi- nữa đêm sương gió, lên tận Tây Ninh yêu cầu Ngài
nhiều lần, nhiều đêm.
Ôi! Những lúc Đạo bị tấn công triệt để như
thế, những lúc thuyền gặp sóng gió vậy hỏi có ai với ai?
Ngài cực
khổ, từ cột kèo chạm trổ của Tòa Thánh mà ngày ngày Ngài theo trông nom đặng
làm.
Chừng
Ngài xuống tàu rồi, thưa Ngài, ai đứng ra vận động với Decoux?
Trạng sư
Conget, Lalung Bonnaire, vv… đứng ra lo, cùng với Tôi lên Decoux nhiều lần.
Việc làm
tuy thất bại nhưng Tôi tự xét: Tôi không hổ thẹn, vì Tôi đã tranh đấu đến hết
sức Tôi, dẫu rằng: không có mặt Ngài.
Thưa Ngài
Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài
Lúc khó
khăn nhứt là năm 1925, Ngài còn viết được La voie dibre dưới bút tự Tây Sơn Đạo và Công Luận
thay, ai biết Ngài tranh đấu độc lập khi rất nhiều người còn ngũ.
La voie
dibre là báo của Ganofky.
Công luận là báo
của Ch. Séc, ai ở gần bên Ngài cùng với Ngài tâm sự hiểu biết nhau?
Thưa
Ngài,
Hôm nay
tôi tự nghĩ lúc thực dân mạnh, Ngài và tôi còn không biết sợ, huống hồ ngày
nay, nó đã yếu sức?
Tôi ân
hận có một điều: không biết có cái gì -ở dưới- ngăn cản không cho gần Ngài.
Thưa
ngài,
Suốt cuộc
đời Tôi, chưa hề biết lợi dụng Đạo. Nếu không góp được một phần xây dựng nào,
Tôi cảm thấy khó chịu trong lòng thay?.
Năm nay
Ất Mùi đến lại là năm tuổi của Tôi, vả lại là năm mà Thầy đã nói 30 năm trước,
năm Ất Mùi đã đến. Đầu đã bạc sức lại yếu, Tôi không biết còn có có thể giúp
ích cho Đạo trong phương diện nào?
Tôi thiết
tha Ngài để ý đến năng lực của Tôi, và Ngài tin rằng: lúc còn nhỏ, Tôi còn có
một ý niệm về Đạo, về chánh trị và nhứt là không hề biết lợi dụng Đạo, thì bây
giờ, tuổi đã lớn, chắc Ngài tín nhiệm nhiều hơn nữa.
Thưa
ngài,
Khi nào
Ngài gọi đến: Tôi sẽ sẳn sàng trả lời: “Có Tôi đây”.
Thưa Ngài
Chưởng Quản,
Tôi thấy
tôi còn nhiều năng lực giúp Ngài nếu được Ngài nhớ đến.
Ba mươi
năm đã qua, hỏi vậy còn có mấy người được biết Ngài?
Khi còn ở
quê nhà, lắm lúc muốn bỏ hết việc trần thế để theo một ý định của mình, về việc
phổ độ nhưng còn ngại ở hai tiếng: “nó chạy theo”. Có thế và lắm khi buồn chán
vô cùng.
Gặp Ngài
nhiều lần, nhưng Ngài bận nhiều việc, không dám làm mất thì giờ của Ngài, Tôi
phải chịu ân hận.
Nay ở tại
Paris Tôi nghĩ rằng: năm 1925 tôi còn viết thơ cho ông Daladier, Blum vv… để
Ngài Quyền Giáo Tông ký tên gởi qua Pháp giải thích ý nghĩa của Tam Kỳ Phổ Độ;
thì bây giờ, đầu đã bạc, và có mặt tại Paris không biết làm sao để thiệt hiện ý
muốn của mình 30 năm trước?
Tôi nghĩ
còn có Ngài, một mình Ngài.
Tôi cho
là tôi có phước lớn: còn Ngài, để nhận định thành tâm và năng lực của Tôi.
Với năm
Ất Mùi nầy, Tôi tin chắc: Tôi sẽ được Ngài giúp về mặt tinh thần, để tôi có đủ
phương tiện truyền bá nền Đạo một cách đắc lực.
Tôi xin
Ngài nhận nơi đây lòng tôn kính của Tôi.
(Đã ký
tên).
22 Rue
Lamblardier.
Nhà báo Nam Đình, Nguyễn Thế Phương có quyền HỒI KÝ NAM ĐÌNH rất mổi tiếng.