Trang

Thứ Tư, 11 tháng 2, 2015

211. CHUYÊN ĐẾ 01 (tt). BNS TL 84.


CHUYÊN ĐỀ 01 (tt)..

07-02-2013 08:19 AM#81
trần văn chíThành Viên Tích Cực
Thông tin Tham gia ngày Dec 2012.
Bài viết. 72
ĐẠO PHÁP HIỆN HỮU (tt).


4/- Trở pháp thể hiện: Nội luật Thượng Hội.
Đại-Từ-Phụ lại trở pháp, giao quyền ấy cho Cửu-Trùng-Đài như thế nào?
Xem trong nội Luật Thượng Hội:

4.1-         Điều thứ nhất:
Ðiều Thứ Nhất: Thượng hội thì có.
1- Giáo Tông …. Hội Trưởng.
2- Hộ Pháp .. Phó Hội Trưởng.
3- Thượng Phẩm .. Nghị viên.
4- Thượng Sanh …. Nghị viên.
5- Ba vị Chưởng Pháp. .. Nghị viên.
6- Ba vị Ðầu Sư Nam Phái. … Nghị viên.
7- Ðầu Sư Nữ Phái. ….. Nghị viên.
Trong Thượng Hội có 03 phẩm của Hiệp Thiên Đài là: Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh.
Mà PCT và Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài  không có qui định con đường công cử chức sắc Hiệp Thiên Đài lên 03 phẩm nầy.
Như vậy trên thực tế vào hội chỉ còn có 08 vị bên Cửu Trùng Đài.
Bát Tiên có nhiệm vụ trấn giử Bát Quái Đài. Trong Bát Tiên có 01 vị nữ: Hà Tiên Cô.
08 bức tranh ở Bao Lơn Đài có một vị nữ: Tây Thi. (Riêng bức tranh Vua Vũ trị thủy không vẽ rõ Nam Nữ nhưng thiễn nghĩ thời đó chắc là Phụ Nữ không tham gia vào việc công nặng nhọc như thế).
   So với 08 vị trong Cửu Trùng Đài vào dự Thượng Hội (trên thực tế) có 01 vị Nữ: Nữ Đầu Sư...
Ba thể pháp nầy có thể kiên kết lại để liên hệ và đào sâu hơn một chút có gượng gạo gọi là tìm hiểu đến bí pháp chắc các vị cũng không nỡ trách là lố.
08 vị bên Cửu Trùng Đài vào Hội Thượng Hội xong rồi thì Giáo Tông vào Đại Điện có một mình và cũng có một mình trở ra và công bố những điều Ngài quyết định.
Như vậy sự nghiệp của ĐĐTKPĐ có diện mạo hay giá trị thế nào trước nhân loại là do Cửu Trùng Đài quyết định.
+ Giá trị của Bát Quái Đài do Cửu Trùng Đài thể hiện trước nhân loại mà có.
Nói BQĐ do Trời làm chủ mà nhân sự hành đạo không thể hiện phẩm chất thiên phong thế thiên hành hóa; thì có đem yếu tố thần bí ra biện bạch nó cũng chỉ gạt được người mê tín chớ chánh tín họ chẳng tin. Người hiểu biết họ còn nói rõ Đức Hộ Pháp dạy: Đó là những người lăng mạ Thánh Thể Đức Chí Tôn.
Thời đại ngày nay không thể cậy vào yếu tố thần linh hay huyền bí mà tạo nên sự phi thường hay để che lấp yếu kém. Phi thường phải theo qui luật là cùng sống và vươn lên rồi qua công nghiệp tạo được mà nhân loại nhìn nhận là phi thường.  Mà cái giá trị chi do nhân loại tự nguyện nhìn nhận được thử thách qua thời gian thì Chí Tôn nhìn nhận. Đó là nguyên tắc dâng công đổi vị thời Tam Kỳ Phổ Độ.
Bằng chứng đâu mà nói thế?
Xin thưa xem lại các vị được tôn vinh là Giáo chủ của các tôn giáo thời Nhị Kỳ ta thấy ngay từ lúc mới sinh các vị đã mang yếu tố thần linh. Phật mới sanh ra đi bảy bước, Lão Tử ở trong thai bào mấy chục năm mới nhảy trong nách ra, Đức Chúa được thụ thai bởi Đức Mẹ Đồng Trinh Maria... 
Cho nên giáo chủ của ĐĐTKPĐ sanh ra rất bình thường, là con của dòng thứ, ăn học, đi làm việc kiếm tiền, xây dựng gia đình có con cái đều bình thường như bao nhiêu người khác. Từ cái bình thường đó nhìn vào người đời, nhìn vào xã hội rồi không ngừng suy nghĩ về ý nghĩa đời người về cá nhân và xã ước về thế giới vô hình....rồi gặp được duyên lành (là gặp đạo) và quả quyết phế bỏ tất cả công danh phú quí giả tạo, phù du để theo đuổi lý tưởng mà mình ngộ được cho đến hơi thở cuối cùng.
Ngài phi thường ở chổ: Khi đã ngộ đạo thì quyết chí làm theo (cẩn nhi hành chi). Người bình thường thì ngộ đạo rồi để đó hay lúc làm lúc nghỉ (nhược tồn nhược vong).
+ Cái giá trị của việc xây dựng cá nhân và tôn giáo, xã hội của ĐĐTKPĐ được thể hiện ở đâu?
Thiễn nghĩ đó là 08 bức tranh ở Bao Lơn Đài trước Đền Thánh. 08 bức tranh chia làm 02 chương trình và 08 công thức.
02 chương trình: xây dựng cá nhân (bên ông Thiện) và xây dựng xã hội (bên ông Ác).
08 công thức chia đều cho 02 chương trình.
Xây dựng cá nhân có 04 công thức:
+ Lý Mật chăn trâu ham học nên đem sách cột trên sừng trâu để rãnh thì lấy ra học. Cái tên của Ông (lý kín, sự mật) và công việc thể hiện công thức: Học vấn và cần mẫn.
+ Hứa Do và Sào Phủ: công thức thanh liêm.
+ Bá Nha và Tử kỳ: từ tri âm thành tri kỷ và cách cư xữ của Bá Nha thể hiện cho Tín Nghĩa.
+ Khương Thượng và Võ Kiết nói lên rằng từ già đến trẻ, từ Thầy đến trò, từ trí thức đến lao động chân tay đều phải có chữ nhẫn và đi đến Chí nhẫn.
Xây dựng xã hội có 04 công thức:
+ Vua Vũ trị thủy: xây dựng hạ tầng phải làm trước.
+ Vua Nghiêu tìm ông Thuấn: Chương trình canh nông để tạo cuộc sống ấm no.
+ Thợ rèn và đục bản gỗ: Có câu đối:
Hổn độn sơ khai tòng tiên giác.
Văn minh thành lập khải hậu sinh.
Thể hiện chương trình giáo dục và khoa học kỷ thuật.
+ Phạm Lãi và Tây Thi.
Hai người ngồi trên hai đầu của một chiếc thuyền tượng cho quan bình âm dương trong mọi lãnh vực. Trong xã hội nó là đầu ra  và đầu vào của nền kinh tế, của tài chánh trong một công ty... thể hiện cho kinh tế và thương mại: Kinh Thương.
Đi sâu vào thì còn phải tính đến việc tại sao 08 bức tranh bố trí tại đó (tiếp giáp với Bát Quái Đài vô vi hay hướng về Đại Đồng Xã)? Đối xứng với BQĐ thế nào? Tại sao nó lại nhô ra? Bên dưới của 08 bức tranh có gì cố định, có gì di động (luân chuyển mà vẫn cố định), bên trên có gì....
02 chương trình và 08 công thức của Đức Chí Tôn dạy được thể hiện qua kiến trúc (thể pháp). Trong suốt chu kỳ của ĐĐTKPĐ không ai có quyền thay đổi. Còn bí pháp thực thi thì thay đổi không ngừng tùy vào tài nguyên và môi trường sống của Đạo và xã hội (nhân loại).
Đây là điều mà chỉ có Tam Kỳ Phổ Độ mới có. Nó ứng khớp với nguyên lý Tam Kỳ: Đạo đi từ hữu hình trở lại vô vi.
Nên khi khai Đạo Đức Chí Tôn dạy mở thể pháp trước. Thể pháp là cố định thì ai phá nổi thể pháp của Thầy?
Thể pháp không phải đơn giản là công trình kiến trúc cho nên nếu cường quyền có chiếm Đền Thánh, có phá hủy Đền Thánh đi nữa thể pháp vẫn tồn tại trong lòng người đạo. 
Qua 02 sự trình bày ngắn gọn trên đây thiết tưởng phần nào thể hiện được ý nghĩa của 08 nhân sự Cửu Trùng Đài trong Thượng Hội và Bát Tiên trấn Bát Quái Đài qua thể pháp.
4.2-         Ðiều Thứ Mười Bốn:
Sau khi hội Thượng Hội thì Giáo Tông và Hộ Pháp phải đình Hội lại 15 phút đồng hồ đặng hai người vào Ðại Ðiện mật nghị rồi phải trở ra cho Thượng Hội hay những điều của hai đàng nhứt tâm quyết định.
&&&
4.3-         Một mình Giáo Tông quyết về chánh trị đạo.
Hộ Pháp đã về thiêng liêng vị thì Giáo Tông vào đại điện có một mình. Giáo Tông vào đó tự quyết xong rồi trở ra công bố quyết định của Ngài (cũng có một mình).
Về hữu hình Giáo Tông trọn quyền quyết định chánh trị đạo.
Giáo Tông đã nắm quyền hành chánh đạo (theo PCT), giờ trọn quyền quyết định chính trị đạo.
Đó chính là thể hiện câu:
Đại-Từ-Phụ lại trở pháp, giao quyền ấy cho Cửu-Trùng-Đài.
Quyền ấy là quyền gì?
Đó là quyền CẦM SỐ MẠNG NHƠN SANH.
CẦM SỐ MẠNG NHƠN SANH khi đã lập thành chánh giáo nặng về thực thi (hành chánh) đã được lập thành.
LẬP THÀNH CHÁNH GIÁO (thiên về chánh trị đạo) là rất khó nên phải cầm quyền giáo chủ mới lập được.
Không có quyền Giáo Chủ thì lấy chi để bảo đảm là những điều khi lập thành chánh giáo sẽ bị đời sau sửa đổi.
Thí dụ như có một vị Giáo Tông nào đó ra một Đạo Luật nghịch với sự sinh hoạt của Nhơn Sanh (theo ý trong PC chú giải) thì nhơn sanh làm sao bảo vệ mình?
Phải chờ các vị Chưởng Pháp.... can thiệp theo hành chánh....
Nhưng còn một lẽ trực tiếp: Nhơn sanh sẽ căn cứ vào lời dạy của Giáo Chủ mà thẳng tay bác bỏ.
...Nhơn sanh thấy thất đạo thì xô xuống... (theo lời Đức Hộ Pháp- 1937) thì ai dám cản họ? Ai dám cản đầu xe lửa?
Chánh giáo của Thầy được bảo đảm trong thất ức niên chính là nhờ có Giáo Chủ Hữu Hình đứng ra làm mẫu mực.
Những người muốn biến cải chánh giáo của Thầy hoàn toàn bế tắc trước trận địa của Giáo Chủ Hữu Hình bài bố.
Chức sắc A chống chức sắc B hay C thì có thắng có thua.
Nhưng chưa có một ai chống lại nhơn sanh mà khỏi thua. Mà Nhơn Sanh thì họ tin vào Đức Hộ Pháp, tin vào Giáo Chủ Hộ Pháp Phạm Công Tắc.   
Nói ví dụ cho dễ hiểu thì:
Đức Chí Tôn ví như ông chủ muốn lập nhà máy nên trù tính sẽ cung ứng sản phẩm chi, rồi định qui mô, chương trình, ra bản vẽ….(CẦM CHÁNH GIÁO).
Hiệp Thiên Đài được giao cho nhiệm vụ coi bản vẽ…. mà xây dựng. Khi thực hành nhiệm vụ thì được giao đủ quyền chọn nhân công, mua vật liệu… cho đến khi hoàn thành. (LẬP THÀNH CHÁNH GIÁO).
Cửu Trùng Đài có trách nhiệm vận hành nhà máy để cung ứng sản phẩm cho xã hội (nhơn sanh). Xã hội tốt xấu, no đói chi chi cũng do nơi Cửu Trùng Đài. Ấy là CẦM SỐ MẠNG NHƠN SANH đó vậy.
Theo thiễn ý hiểu vậy là phù hợp với câu: khi Ngọc-Hư định cho Hiệp-Thiên-Đài cầm số-mạng nhơn-sanh, lập thành chánh-giáo, thì Đại-Từ-Phụ lại trở pháp, giao quyền ấy cho Cửu-Trùng-Đài.
Nhân sự Toà Thánh Tây Ninh vẫn truyền miệng câu nói của Đức Hộ Pháp: Khi xây dựng xong Toà Thánh Bần Đạo sẽ rút dàn trò ra.
Câu nói rất đơn giản và thực tế. Đơn giản vì ai cũng hiểu, thực tế vì chẳng có ai xây xong căn nhà lại để dàn trò ngỗn ngang chình ình ra đó.
Nhưng ngẫm nghĩ thì nó rất đúng với việc Đức Chí Tôn giao cho Ngài được toàn quyền (giáo chủ hữu hình) để LẬP THÀNH CHÁNH GIÁO. Lập xong thì  cả êkip rút lui giao lại cho Cửu Trùng Đài.
***: Kết luận nhỏ.
+ Văn bút qua 03 giai đoạn.
-                     Đức Chí Tôn không giao chánh giáo cho tay phàm.
-                     Ngọc-Hư Cung định cho Hiệp-Thiên-Đài cầm số-mạng nhơn-sanh, lập thành chánh-giáo,
-                     Đại-Từ-Phụ lại trở pháp, giao quyền ấy cho Cửu-Trùng-Đài.
+  Đối chiếu với Châu Tri 21.
+ Đối chiếu với Nội luật Thượng Hội.
Thì ta thấy tất cả đều đúng với thiên thơ.


&&&

(CÒN TIẾP
SỐ 5: ĐỨC LÝ GIÁO TÔNG XÁC NHẬN: ĐÚNG).