Trang

Chủ Nhật, 26 tháng 1, 2025

5625. Thư số 2; gởi Giáo Sư Janet Hoskins Đại Học Nam California.

 

Hoa Kỳ ngày 20-01-2025.
Thư thứ hai.
Dương Xuân Lương

Kính gởi giáo sư Janet Hoskins, Đại học Nam California.
e-mail: jhoskins@usc.edu

Tôi rất vui và cảm ơn giáo sư đã gởi 04 câu hỏi ngày 18-01-2025 để cùng nhau tiến đến sự thật. Tôi xin gởi tiếp một số thông tin hy vọng giáo sư vui lòng kiểm chứng với bài viết: A Posthumous Return from Exile: The Legacy of an Anticolonial Religious Leader in Today’s Vietnam. Link: PosthumousReturnfromExileKyoto2012.pdf

Để hiểu được bài viết Tôi nhờ Google dịch từ Anh Văn sang Việt Văn, trong trường hợp bình thường chắc cũng không sai lệch ý chính.

Tôi nhận thấy bài viết trên đây của giáo sư có những điểm sáng rất quý, nhưng cũng có những điểm mờ về sự kiện cần thảo luận để đem sự thật đến cho người đọc.


1/- Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc.

Phần nầy có mấy việc cần làm rõ.

1.1/- Đức Hộ Pháp sinh năm 1890.

Trang 220 giáo sư viết: Phạm Công Tắc sinh ngày 21 tháng 6 năm 1893 …. (hết trích)

Theo trích dẫn trên thì Đức Hộ Pháp sinh năm 1893.

Nhưng phần tham khảo cho thông tin Đức Hộ Pháp sinh năm 1890. Trang 244: 2006a. Le Saint Siège Caodaiste de Tây Ninh et le Médium Phạm Công Tắc (1890–1959): …. Trang 245: 2000. Đạo Cao Đài, Độc lập và Hòa bình của Việt Nam: Cuộc đời và Thời đại Phạm Công Tắc (1890–1959). Academica Sinica: Tài liệu nghiên cứu Prosea số 38…. (hết trích)

Như vậy năm 1890 hay 1893 là đúng?

Đức Hộ Pháp sinh năm Canh Dần, nên năm đúng là 1890; và triều thiên năm 1959. Trong bài thài Lễ kỷ niệm triều thiên hằng năm câu số 4: Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi … xác định Đức Hộ Pháp sinh năm 1890.

Trang 222 giáo sư viết: Năm 1925, ở tuổi 32, Phạm Công Tắc đã thành lập một nhóm theo thuyết tâm linh với … (hết trích)

Đó là tính theo năm 1893, xin giáo sư vui lòng chỉnh lại là năm 35 tuổi. Bởi vì từ 1890 đến 1925 là 35 năm.

Thứ nữa đêm 30-9-Đinh Hợi (1947) tại Đền Thánh Đức Hộ Pháp giảng: vì hai chữ QUỐC ĐẠO mà Phạm Công Tắc chết năm 35 tuổi.

1.2/- Trang 221 viết: Phạm Công Tắc và vợ cuối cùng có tám người con, sáu người trong số họ mất khi còn nhỏ (Đồng Tân 2006, 36), nhưng những mất mát cá nhân về con cháu này không được đề cập đến trong các bài giảng của ông... (hết trích)

Chẳng biết ông Đồng Tân căn cứ vào đâu mà viết Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc có tám người con. Rồi lại viết: sáu người trong số họ mất khi còn nhỏ nên Tôi không tin. Nếu giáo sư có thông tin đáng tin cậy về sáu người mất khi còn nhỏ vui lòng chia sẻ để Tôi có thêm hiểu biết.

Trong tiểu sử bà Nguyễn Thị Nhiều (là bạn đời của Đức Hộ Pháp) cho biết bà sinh ba lần nhưng chỉ nuôi được hai người, là Cô ba Phạm Hồ Cầm và Cô tư Phạm Tần Tranh.

Xin chia vui với giáo sư: Trong phần tham khảo trang 247 giáo sư có tham khảo sách của Trần Thu Dung. 1996. Le Caodaisme et Victor Hugo [Đạo Cao Đài và Victor Hugo]. Tiến sĩ luận án, Paris. (hết trích)

Trần Thu Dung là tác giả cuốn sách Đạo Cao Đài & Victor Hugo (Nhà xuất bản Thời Đại Trung Tâm Văn Hóa Ngôn Ngữ Đông Tây phát hành năm 2011).

Trang 151 viết: ...Vidal càng trở nên thân tín và chỉ đạo Hộ Pháp Phạm Công Tắc, khi kết hôn Phạm Thị Tốt – con gái của Phạm Công Tắc. Phạm Thị Tốt vừa là thành viên của FB3 vừa là Đầu Sư của Đạo Cao Đài. Chức Đầu Sư là chức sắc lớn nhất của phái Nữ trong Đạo Cao Đài. Bà đã biến Phạm Môn thành nơi tập hợp kín của các thành viên FB3. Hộ Pháp Phạm Công Tắc chẳng nhẽ không có mặt ở Phạm Môn hàng ngày làm việc, không biết gì về hoạt động của tổ chức bí mật này.

Trang 152 viết: Nguyễn Phan Long phụ trách liên hòa Tổng Hội – một chi nhánh của Đạo Cao Đài là nhân chứng cho đám cưới của Vidal và Phạm Thị Tốt. (hết trích)

Đó là bà Trần Thu Dung bịa đặt ra nhân vật Phạm Thị Tốt vì Đức Hộ Pháp có hai người con gái như trên thì làm gì có người con nào tên Phạm Thị Tốt. Trong Đạo Cao Đài cũng không có Đầu Sư nào thế danh là Phạm Thị Tốt. Bà Trần Thu Dung cũng không biết luật pháp Đạo Cao Đài là vào hàng phẩm chức sắc rồi phải rời bỏ gia đình để đi hành đạo tại các địa phương; Vậy làm sao một Nữ Đầu Sư lại có thể lập gia đình, có thể tổ chức đám cưới?

Cá nhân hay tổ chức nào đã bịa đặt ra hồ sơ ấy là việc của họ; họ có quyền vẽ con rắn rồi thêm chân vào, ai chưa từng biết con rắn thì cứ tin là con rắn có chân. Bà Trần Thu Dung viết sách về Đạo Cao Đài, bà cho biết là đã phỏng vấn rất nhiều chức sắc Cao Đài, tham khảo nhiều đầu sách về Đạo Cao Đài mà lại không biết điều căn bản về pháp luật của Đạo Cao Đài nên tin vào những điều bịa đặt ấy, nó chứng tỏ cách làm việc không khoa học. Nhưng thật là chẳng may có ông tiến sĩ khoa học ở Pháp tên là Phạm Trọng Chánh lại tin vào sự bịa đặt ấy và đem ra truyền bá. Đó là những người viết về Đạo Cao Đài nhưng lại không biết bảng cửu chương của Đạo Cao Đài.

Tôi rất vui vì giáo sư tham khảo sách của Trần Thu Dung mà không sử dụng thông tin ấy; xin chúc mừng giáo sư.

1.3/- Hai con gái của Đức Hộ Pháp không bị bắt.

Trang 240 giáo sư viết: Vào ngày 19 tháng 2 năm 1956, các con gái của Phạm Công Tắc và một số nhà lãnh đạo tôn giáo khác đã bị bắt, nhưng bản thân ông đã trốn thoát. Ông đã liên lạc với những người theo mình vài tuần sau đó từ Phnom Penh, và sống ba năm cuối đời lưu vong ở Campuchia… (hết trích)

Ngày 05-10-1955 Tướng Nguyễn Thành Phương tuân lịnh Ngô Đình Diệm đem binh lính bao vây Hộ Pháp Đường như giáo sư viết.

Sự thật là hai người con gái của Đức Hộ Pháp đi Nam Vang ngày 15-02-1956 (Mùng ba Tết Nguyên Đán) và Đức Hộ Pháp đi Nam Vang lúc 03 giờ ngày 17-02-1956 (Mùng năm Tết Nguyên Đán). Cả hai chuyến đi do một một người lái xe là Giáo Hữu Thái Của Thanh. (Giáo Hữu Thái Của Thanh chính là người bị thảm sát trong vụ đập Liên đài năm 1975, Tôi viết trong Thư số 1).

Như vậy ngày 19-02-1956 hai người con gái của Đức Hộ Pháp ở Nam Vang với Đức Hộ Pháp, không có việc hai người con gái Đức Hộ Pháp bị bắt; giáo sư vui lòng kiểm chứng lại ngày tháng và sự việc.

Lúc 03 giờ ngày 17-02-1956 Đức Hộ Pháp khởi đi từ Hộ Pháp Đường, khi bật đèn xe thấy bên kia đường có lính gác của tướng Nguyễn Thành Phương, có xe của Phạm Môn theo đưa, xe đi qua nhiều trạm kiểm soát của tướng Phương; giáo sư hiểu là trốn thoát cũng là quyền tự do nhận định. Trang 03, Bản án ngày 20-7-1978 của cộng sản nhận định là có sự sắp xếp của các thế lực chính trị nên Đức Hộ Pháp mới ra khỏi vòng vây của tướng Phương cũng là quyền tự do.

Ngài Hồ Bảo Đạo là người có mặt trên chiếc xe đi Nam Vang với Đức Hộ Pháp viết chi tiết trong Văn Tịch Pháp Nhơn Luân Chi Đạo, Tôi tóm lược như sau:

Nhơn dịp Tết Nguyên Đán, vào ngày mùng hai (14-02-1956) Giáo Hữu Thái Của Thanh từ Kiêm Biên về đảnh lễ Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu... sau đó đến viếng Đức Hộ Pháp. Đức Ngài mới hỏi đường đi Kiêm Biên thế nào?

Giáo Hữu Thái Của Thanh thưa rằng người đi lại nhiều lần nên đi rất dễ và lãnh mạng đưa Đức Hộ Pháp đi an toàn. Đức Hộ Pháp cho Ông Giáo Hữu đưa hai người con là cô Ba Phạm Hồ Cầm và cô Tư Phạm Tần Tranh đi trước xem thể nào. Ngài Giáo Hữu đưa đi trót lọt và trở về phục lịnh trong ngày mùng ba. Do vậy nên Đức Hộ Pháp dạy sắp xếp và chuẩn bị đồ cần thiết chất lên xe để đêm mùng bốn rạng mùng năm Tết lên đường. 

Lúc 3 giờ khuya ngày 05-01- Bính Thân (17-02-1956), Đức Hộ Pháp rời Toà Thánh đi Nam Vang. Xe đi tự nhiên, có xe của Trưởng tộc Phạm Môn đưa đi. Cùng đi trên xe có: Giáo Hữu Thái Của Thanh lái xe. Ông Ba Hiệu và Cô 2 Đạm (nhân sự băng trước đều mặc áo dài trắng). Băng sau có Đức Hộ Pháp ngồi giữa (mặc đạo phục) Ngài Hồ Bảo Đạo (mặc đạo phục) ngồi bên trái; Ông Thoại (mặc áo dài trắng) ngồi bên phải và Ông Hồ Thái Bạch (mặc đồ hướng đạo) ngồi trên gói đồ ở trước mặt Ông Thoại.

Theo Ngài Hồ Bảo Đạo viết lại thì chuyến đi nầy Đức Hộ Pháp không chỉ định ai đi theo, chỉ có những người xin đi và được sự chấp thuận của Đức Hộ Pháp.

Có một chi tiết đặc biệt mà chỉ có người tham dự mới biết, nhân chứng đó là Ngài Hồ Bảo Đạo viết tại trang 61: Ngày 16-02-1956 cánh Cao Đài tách ra từ trước để theo cộng sản (tướng Mạnh và Đại tá Đờn) định đến Hộ Pháp Đường áp lực Đức Hộ Pháp đi đường rừng lên Campuchia (mà thật ra giữ Đức Hộ Pháp trong rừng để làm con tin), nhưng đang đi đến Tòa Thánh thì xe bị hư nên cho người liên lạc nhờ cho xe rước. Ngài Hồ Bảo Đạo trả lời bây giờ không có xe và chỉ vào nhà xe trống rỗng rồi nói vậy mai vào cũng được… thì 03 giờ khuya Đức Hộ Pháp khởi đi Campuchia. Do vậy Ngài Hồ Bảo Đạo cho rằng đó là sự sắp xếp của Thiêng liêng, Tôi cũng tin như vậy.

1.4/- Cận vệ không bị tướng Phương tước vũ khí.

Trang 240 giáo sư viết: Vào tháng 10 năm 1955, Ngô Đình Diệm đã ra lệnh cho Tướng Cao Đài Phương xâm lược Tòa thánh và tước bỏ mọi quyền lực thế tục của Phạm Công Tắc. Ba trăm cận vệ của ông đã bị tước vũ khí và Phạm Công Tắc trở thành tù nhân thực sự của chính quân đội của mình … (hết trích)

Điểm rất sáng là giáo sư viết: Ngô Đình Diệm đã ra lệnh cho Tướng Cao Đài Phương xâm lược Tòa thánh đây là điểm mà rất nhiều người không nhìn thấy. Xin cảm ơn giáo sư đã làm sáng sự thật nầy.

Giáo sư viết: … và tước bỏ mọi quyền lực thế tục của Phạm Công Tắc... theo thiển ý cần phân biệt hai phương diện:

Về Quân đội Cao Đài: ngày 02-5-1955 Đức Hộ Pháp và thủ tướng Ngô Đình Diệm đã ký kết quốc gia hóa Quân đội Cao Đài. Toàn bộ chiến sĩ Cao Đài, đã thuộc về quốc gia thì Đức Hộ Pháp không còn quyền lực gì với Quân đội Cao Đài; ông Diệm không thể tước quyền mà Đức Hộ Pháp không còn. Xin mời đọc Thánh Lịnh 704 ngày 02-5-1955:

Điều thứ nhứt. Từ đây Quân Đội Cao Đài đã quốc gia hóa tức là thành Quân Đội Quốc Gia dưới quyền chánh phủ Việt Nam điều khiển, nên Hộ Pháp không còn làm Thượng Tôn Quản Thế cho Quân Đội nữa.

Điều thứ nhì. Các chiến sĩ đã dày công hạn mã thâu hồi độc lập cho Tổ Quốc Việt Nam đã trót 10 năm chinh chiến đặng trọn quyền lựa chọn hoặc vào hàng ngũ Quân Đội Quốc Gia Việt Nam hay là trở về cùng Đạo.

Quyền trong đạo: ông Ngô Đình Diệm muốn hủy diệt quyền trong đạo của Đức Hộ Pháp; nên sai tướng Phương họp với Hội Thánh để truất quyền của Hộ Pháp; nhưng quyền Hộ Pháp do Pháp Chánh Truyền qui định nên ông Ngô Đình Diệm không đạt được ý muốn. Đến khi Đức Hộ Pháp triều thiên (17-5-1959), Ông Diệm cấm Hội Thánh Cao Đài không cho phát tang. Đến Lễ Đại Tường ông Ngô Đình Diệm cũng ra lịnh cho tỉnh trưởng Tây Ninh cấm không cho hành lễ. Khi chế độ ông Diệm sụp đổ người Đạo Cao Đài mới được thọ tang Đức Hộ Pháp (1964).

Trong Đạo Cao Đài sau khi Đức Hộ Pháp triều thiên thì quyền của Hộ Pháp còn cao trọng hơn nữa: cầm quyền phong thưởng cho chức sắc Hiệp Thiên Đài và Phước Thiện tại Cung Đạo, Tòa Thánh Tây Ninh.

Ngài Hồ Bảo Đạo viết trong Văn Tịch Pháp Nhơn Luân chi đạo:

Đang ở Trí Huệ Cung hay đặng tin nầy, Đức Hộ Pháp cấp tốc trở về Hộ Pháp Đường, kêu bọn cận vệ hầu Đức Hộ Pháp đem nạp hết võ khí cho Đức Hộ Pháp, chưa hay biết gì nên bọn cận vệ vâng lịnh đem nạp hết võ khí cho Đức Ngài.

Độ một tiếng đồng hồ sau thì hai tướng lãnh Phương và Tất kêu quân về bao vây Hộ Pháp Đường. Bọn cận vệ nổi nóng muốn chống lại nhưng tay không đành phải thúc thủ.

Thì ra Đức Hộ Pháp đoán trước nếu tướng Phương bạo hành sẽ có cuộc xô xác đổ máu giữa bọn cận vệ và bộ hạ của Phương, có thể làm cớ cho chánh quyền Ngô Đình Diệm cho quân đội chánh qui vào chiếm đóng Tòa Thánh luôn, với danh nghĩa là giữ trật tự an ninh trong nội bộ của Cao Đài… (Trang 59)

Tôi có hầu chuyện với nhiều vị tiền bối là cận vệ Đức Hộ Pháp nên biết rất rõ là các vị được lịnh nạp vũ khi vào kho trước khi tướng Phương đến. Cận vệ không còn vũ khí thì làm sao tướng Phương tước vũ khí của họ? Một chứng cứ nữa là không có tài liệu nào trong Đạo Cao Đài ghi nhận có việc nổ súng hay bắn nhau khi tướng Phương và Tất bao vây Hộ Pháp Đường.

Cũng trong trang 59 Ngài Hồ Bảo Đạo cho biết thêm:

Tướng Phương ra lịnh cấm nhặt không cho ai vô Hộ Pháp Đường và tuyên bố cho đặt 4 quả mìn lớn cho giựt nổ một lượt sập nát nhà nầy, nếu ông Tắc là Phật thật thì không chết còn không thì cho chết luôn. Cô Ba Cầm nghe vậy sợ chạy lại rào kêu ông Bảo Thế ra năn nỉ mà Tất còn hậm hực, Đệ Tử cũng thấy và nói với tướng Tất: “Tôi chưa thấy mìn nổ lần nào, vậy cho tôi qua Hộ Pháp Đường với Đức Hộ Pháp coi mìn nổ ra sao”.

Hiểu ý Đệ Tử nên một lúc sau Tướng Tất dịu giọng rồi dẫn toàn quân rút lui. Việc bạo hành của hai tướng lãnh quá đột ngột làm cho toàn Đạo dao động không ít nhưng vẫn bất nhứt không phương nào đối phó.

Đáng thương và đáng mến là mấy em thợ hồ do ông Tổng Giám Võ Văn Khuê cầm đầu, tay không xung phong vượt qua vòng vây của tướng Phương vào trong vòng rào Hộ Pháp Đường canh gác không cho quân lực của Phương xâm nhập vào trong... (trang 59)

Tướng Tất đây chính là Lê Văn Tất là nhân vật trong Thư số 01 Tôi có nhắc đến; sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ ông Lê Văn Tất là tỉnh trưởng Tây Ninh xây Cổng Chánh Môn năm 1965, Hội Thánh không khánh thành; mãi đến 03-6-1997 chi phái 1997 mới tung chiêu bài khánh thành cổng Chánh Môn nhưng thực ra là mở cửa rước pháp nhân của chi phái 1997.

Danh nghĩa tướng Phương và Tất.

Hai vị nầy xuất thân từ Quân đội Cao Đài; nhưng ngày 02-5-1955 Đức Hộ Pháp đã ký Thánh Lịnh số 704, Quốc Gia hóa quân đội Cao Đài, như đã trích dẫn bên trên. Nghĩa là từ ngày 02-5-1955 Đạo Cao Đài không còn một vị tướng nào. Tướng Phương và Tất đã lãnh lương chính quyền của thủ tướng Ngô Đình Diệm 05 tháng trước khi được ông Ngô Đình Diệm điều động về khủng bố Đức Hộ Pháp. Như vậy họ là tướng của chính quyền Ngô Đình Diệm chứ không còn là tướng Cao Đài. Tôi hiểu như vậy, nhưng tôn trọng ý kiến của giáo sư.

1.5/- Đức Hộ Pháp bị đày sang Madagascar (1941-1946):

Trang 232 giáo sư viết: khi ông bị bắt và bị người Pháp lưu đày (1940–46), và “khi Đạo đang trong tình trạng khẩn cấp và sắp sụp đổ” (hết trích).

Theo Đạo sử: ngày 28-6-1941. Pháp vào Tòa Thánh bắt Đức Hộ Pháp và các vị Chức sắc Thiên phong.

Ngày 27-7-1941 Pháp đày Đức Phạm Hộ Pháp và 5 vị Chức sắc: Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa. Ngài Phối Sư Thái Phấn Thanh, Phối sư Ngọc Trọng Thanh, Giáo sư Thái Gấm Thanh và Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển sang Madagascar (Phi Châu).

Nhờ có Nội Ứng Nghĩa Binh nên Pháp bắt buộc phải ký hiệp ước hợp tác ngày 09-6-1946 để đưa Đức Hộ Pháp và các vị bị đày ở Madagascar về Việt Nam, trả lại Tòa Thánh Tây Ninh.

Đức Hộ Pháp về Sài Gòn ngày 22-8-1946. Về Toà Thánh ngày 30-8-1946. Giáo sư vui lòng kiểm chứng lại năm Đức Hộ Pháp bị đày.

1.6/- Trang 224 giáo sư viết: Phạm Công Tắc và những người bạn đồng hành đã mượn một chiếc giỏ từ Âu Kiệt Lâm, người sáng lập ra Minh Lý Đạo, và đây đã trở thành công cụ chính cho các giao tiếp tinh thần trong tương lai. (hết trích).

Chiếc giỏ đây chính là Đại Ngọc Cơ để dùng trong việc phò cơ.

Theo Đạo sử: Từ ngày 01-10-1925 ba vị tiền bối của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang mượn Đại Ngọc Cơ từ ông Phán Tý (là láng giềng của ngài Cao Quỳnh Cư) để sử dụng.

Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu viết trong Đại Đạo Căn Nguyên trang 29, bản năm 1930: … nên vào lối thượng tuần tháng tám, năm Ất Sửu, một vị Tiên Cô xưng là Thất Nương nhập bàn dạy phải kiếm Ngọc Cơ mà dùng. Ông Cư hỏi thăm mượn được cơ của ông ký Tý (cũng ở đường Bourdais) … (hết trích).

Pháp môn soạn sách Lịch Sử Quan Phủ Ngô Văn Chiêu trang 31, bản in 2006 viết: … Rồi kế đó có vị Tiên cô xưng là Thất Nương dạy phải kiếm ngọc cơ mà dùng cho tiện.

… Tiên-Cô lại chỉ dẫn cho cách phò ngọc-cơ nữa. May lúc đó mấy ông mượn được ngọc-cơ của ông Tý cũng ở chung đường Bourdais (nay đường Calmettle) ... (hết trích).   

Cả hai nguồn xác định: ba vị tiền bối mượn Đại Ngọc Cơ từ ông Tý, không phải mượn của ông Âu Kiệt Lâm; Giáo sư vui lòng kiểm chứng lại việc nầy.

Thảo luận thêm: Do đâu ông Tý có Đại Ngọc Cơ.

Ông Phan Văn Tý quê ở Thủ Dầu Một (Bình Dương), là người theo đàn Minh Thiện Thủ Dầu Một; là thông gia của ông Trần Hiển Vinh, chủ đàn Minh Thiện (chùa Hội Khánh). Ông Vinh tạo ra 12 cây Ngọc Cơ. Ông Phán Tý thỉnh một cây Ngọc Cơ. Ông Tý cho ông Âu Kích (Âu Liệt Lâm) pháp danh Âu Minh Chánh mượn. Ông Tý là láng giềng ông Cư, thấy các vị láng giềng xây bàn thỉnh tiên rất chậm nên có ý giúp, đến khi ông Cư hỏi mượn Ngọc Cơ thì ông Tý đi gặp ông Âu Kiệt Lâm lấy về cho ông Cư mượn.

Lời cảm ơn trân trọng và chân thành.

Trang 236 giáo sư viết: Paul Mus, khi cố gắng giải thích lý do tại sao “chủ nghĩa thần bí” của những người theo đạo Cao Đài có xu hướng tách rời khỏi dự án thực dân, đã lập luận rằng người Pháp đã hiểu sai nội dung tôn giáo của thuyết siêu nhiên Việt Nam: “Chúng tôi đã nhầm lẫn phép thuật bói toán với phép thuật công cụ” (1952, 292). (hết trích).

 Theo Tôi cảm nhận phép thuật bói toán và phép thuật công cụ đây là nói về cơ bút.

Cơ bút xuất hiện trong xã hội từ trước, thường dùng để xin thuốc, bói toán … và xa hơn nữa là các hình thức xin xâm, lắc quẻ, xin keo âm dương, bói dịch … cũng xu hướng về “bói toán” là chính.

Năm 1926, Thượng Đế dùng cơ bút lập ra Đạo Cao Đài là dạy lập một Tôn giáo mới, với các công thức xây dựng xã hội, bộ máy nhân sự để xây dựng xã hội hòa bình, dân chủ tự do … Thượng Đế dùng cơ bút dạy lập ra Hiến pháp với quyền lập pháp, tư pháp và hành pháp phân minh. Cơ bút dạy lập ra Hội Thánh Cao Đài, lập ra hệ thống hành chánh, dạy lập ra Châu Thành Thánh Địa …. Nghĩa là Thượng Đế dùng cơ bút làm công cụ để xây dựng nền văn minh mới, một trật tự mới.

Rất cảm ơn giáo sư đã viết tại trang 237: Hộ Pháp đã thiết lập một hình thức cầu hồn mang tính công cụ hơn, không chỉ tìm cách hiểu thế giới mà (theo lời của Marx) còn muốn thay đổi thế giới. (hết trích).

Rất tuyệt vời! Không dừng ở đó, giáo sư quan sát thực tế và nhận xét tác dụng, thành quả của tính công cụ trong cơ bút Đạo Cao Đài tại trang 219: Quy hoạch tổng thể, hệ thống phân cấp hành chính phức tạp của nó là bằng chứng cho thấy khả năng tạo ra điều gì đó mới mẻ của phong trào tôn giáo mới này, nắm bắt tính hiện đại ở cả khía cạnh châu Á và châu Âu của nó - các thể chế, hình thức kiến ​​thức, phương thức quyền lực và tương lai rạng rỡ - bằng cách giống như bản sao của nó. Bản sao đó trở thành bản gốc, một mô hình mới cho một trật tự mới của sự tồn tại. (hết trích).

Ngay từ trang đầu tiên (213) giáo sư cho đó là không tưởng và nhắc lại tại các trang 216, 218, 223, 229 … cũng là điều hiểu được và đáng trân trọng, bởi vì nó cho thấy giáo sư đã quan tâm tìm hiểu đến tính khả thi, khả năng trở thành hiện thực của tôn giáo.

Nhưng máy bay mà chúng đang dùng để đi lại hiện nay trước kia cũng là không tưởng; con dao mổ hiện nay của bác sĩ thay tim, thay thận ngày xưa cũng là không tưởng; điện thoại thông minh của chúng ta xài hằng ngày hằng giờ hiện nay thì trước kia cũng không tưởng. Biết bao điều không tưởng ngày trước đã là hiện thực hôm nay.

Kinh Thánh viết Chúa chữa lành người mù, đi trên mặt biển như trên đất bằng khi đó cũng là không tưởng. Nhưng khoa học kỹ thuật ngày nay đã làm những điều viết trong Kinh Thánh thành hiện thực. Năm 1926 Đức Cao Đài Thượng Đế đến dạy lập một nền văn minh mới, một trật tự mới được hiểu là không tưởng là điều hoàn toàn bình thường. Ngày nay các tổ chức xã hội dân sự đang đi theo hướng đó; Đạo Cao Đài cũng là một tổ chức xã hội dân sự để người giàu có về tinh thần tự nguyện hợp tác nhau để lo cho nhau và mở rộng vòng tay đến phần còn lại của nhân loại. Giáo sư đã đến Châu Thành Thánh Địa, Tôi xin thưa tất cả các con đường như bàn cờ ở đó đều do người Đạo Cao Đài tạo ra … từ niềm tin vào trật tự mới.

Khái niệm về xã hội dân sự hiện nay là tổ chức, tổ chức và tổ chức để người dân tự lo cho nhau đang là mô hình tiến bộ, thể hiện quyền lực của hạ tầng cơ sở trước thượng tầng kiến trúc.

Nhìn lại năm 1926 khi Việt Nam còn bị Pháp đô hộ, Đức Thượng Đế đến dùng cơ bút lập ra Đạo Cao Đài. Đạo có hiến pháp với tam quyền phân lập; hiến pháp đóng đinh thượng tầng kiến trúc về số lượng nhân sự, cấp bậc, công khai quyền hạn và đặc biệt là giao quyền cho người đạo kiểm soát. Hiến pháp của Đạo Cao Đài là hiến pháp thành văn và cấm sửa đổi dưới mọi hình thức.

Thượng Đế lại phân quyền cho hạ tầng cơ sở phát triển không giới hạn để làm đối trọng với thượng tầng, không cho thượng tầng lấn quyền hạ tầng. Thượng Đế dạy Hội Thánh Cao Đài tổ chức, tổ chức và tổ chức qua các cấp hành chánh mà giáo sư đã ghi nhận. Thượng Đế dạy Đạo Cao Đài tự tạo ra tài nguyên và môi trường để xây dựng xã hội mới trật tự mới trong Bác Ái – Công Bằng. Hiện nay khoa học kỹ thuật và môi trường xã hội hoàn toàn thuận lợi cho Đạo Cao Đài. Khi yếu tố tự thân của đạo gặp gỡ môi trường và tài nguyên hiện đại thì điều không tưởng thành hiện thực là rất khả thi.

Nguồn gốc của không tưởng thành hiện thực là do bộ não và tâm linh. Đạo Cao Đài xuất phát từ tâm linh đồng tử hiệp với từ trường điển lực của tạo hóa, của thiêng liêng để tạo ra hiểu biết cho bộ não thì nền văn minh Cao Đài Giáo có đầy đủ cơ sở để thành hiện thực.

Trang 228 giáo sư đã trích dẫn Pháp Chánh Truyền Chú Giải qua đó cho thấy: Thượng Đế xác nhận Ngài đến để lập ra một trật tự mới mà không đụng chạm, vào trật tự trước đó và Thượng Đế ban cho con người quyền tự do để đối thoại hay chất vấn Thượng Đế.

"Theo giáo lý của Công giáo, Giáo hoàng có toàn quyền đối với thể xác và tinh thần. Vì quyền lực rộng lớn này, Công giáo có nhiều ảnh hưởng vật chất. Nếu ngày nay, bạn loại bỏ một phần quyền lực đối với tinh thần, tôi sợ rằng Giáo hoàng sẽ không đủ thẩm quyền để hướng dẫn nhân loại cải đạo. Sư phụ của ông trả lời, mỉm cười: "Đó là lỗi của tôi. Khi tôi mang một cơ thể vật chất, tôi đã trao cho một người nhập thể cùng một thẩm quyền đối với tinh thần như chính tôi. Người đó đã trèo lên ngai vàng của tôi, nắm lấy các quyền lực tối cao, lạm dụng chúng và biến con người thành nô lệ của chính cơ thể mình. Hơn nữa, tôi đã không nhận ra rằng những quyền lực quý giá mà tôi trao cho bạn vì tôi yêu bạn tượng trưng cho một con dao hai lưỡi khuyến khích bạn tạo ra sự hỗn loạn giữa chính mình. Hôm nay, tôi không đến để lấy lại những quyền lực này mà là để phá hủy tác động có hại của chúng …. Cách tốt nhất là phân chia những quyền lực đó để ngăn chặn chế độ độc tài …. Một khi những quyền lực này thuộc về tay một người, con người hiếm khi thoát khỏi sự áp bức.” (Tòa Thánh Tây Ninh 1972c, Pháp Chánh Truyền, Bùi dịch. 2002, 17) (hết trích)

Cũng tại trang 228 giáo sư trích dẫn và nhận xét:

Trong phần sau, Phạm Công Tắc thách thức người đối thoại của mình, người đã ra sắc lệnh rằng Cao Đài giáo sẽ thiết lập quyền bình đẳng cho các chức sắc nam và nữ, bằng cách hỏi tại sao, nếu đây là trường hợp, phụ nữ không thể trở thành Hồng y Kiểm duyệt (Chưởng Pháp) hoặc Giáo hoàng (Giáo Tông). Đấng Tối Cao trả lời: “Trời và Đất có hai yếu tố cấu thành là âm và dương (âm-dương). Nếu dương thống trị, mọi thứ đều sống, nếu âm thống trị, mọi thứ đều chết …. Nếu một ngày nào đó dương biến mất và âm trị vì, vũ trụ sẽ suy tàn và bị hủy diệt …. Nếu tôi cho phép nữ học viện nắm giữ quyền lực của Giáo hoàng trong tay, tôi sẽ chấp thuận sự chiến thắng của âm trên dương, để giáo lý thánh thiện sẽ bị hủy diệt” (ibid., 119). Ngay cả sau sự sửa chữa nghiêm ngặt này, Hộ Pháp một lần nữa thúc giục giải thích cho một sự không nhất quán trong học thuyết về bình đẳng giới, và vị thầy thần thánh trả lời một cách giận dữ "Luật trời được đặt ra như vậy", kết thúc cuộc thảo luận và rời khỏi buổi cầu hồn một cách đột ngột. (hết trích)

 Giáo sư cảm nhận Thượng Đế giận dữ … trong khi đối thoại, Tôi tôn trọng nhận xét đó và hiểu rằng đó là bình thường. Tôi xin nói thêm rằng có lẽ do bức tường ngôn ngữ nên khi trích dẫn đoạn trên giáo sư không cảm nhận được ý vị của người Cha, người Thầy mà giáo sư đã viết tại trang 234. Đó là đoạn Đức Victor Hugo trả lời Đức Hộ Pháp về Thượng Đế: Làm Cha nuôi nấng âm thầm, Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần ngôi Tiên…

Tôi đọc tiếng Việt đoạn trích dẫn từ Pháp Chánh Truyền Chú Giải trên đây và cảm nhận Thượng Đế dạy điều thật theo thực tế để thực hiện được, không mị chúng sanh. Thật vì Thái Dương Hệ ta đang sống chỉ có một mặt trời, ngọn núi chỉ có một đỉnh, một vòng tròn chỉ có một tâm, một đoạn thẳng chỉ có một trung điểm. Thượng Đế dạy điều thật, để chúng sanh làm được, cho chúng sanh dùng bánh thật; không đưa nhơn loại vào ảo ảnh. Đặc biệt là câu cuối: Bởi chịu phận rủi sanh, nên cam phận thiệt thòi, lẽ Thiên cơ đã định, Thầy chỉ cậy con để dạ thương yêu binh vực thay Thầy kẻo tội nghiệp.

Nhìn vào xã hội để lấy một vài thí dụ: bóng đá nữ và nam phải tách riêng ra thì mới công bằng, nếu cho bóng đá nữ tranh với bóng đá nam rồi bảo là công bằng thì không thực tế. Bóng chuyền, bơi lội cũng có giải riêng cho nữ phái và nam phái mới thực tế.

Trong Đạo Cao Đài Thượng Đế dạy lập cho Nữ phái một hệ thống hành chánh riêng để hành đạo, đó là điều rất thực tế. Có thực tế mới có thể làm được, có làm được mới có cơ hội xây dựng một trật tự mới. Tóm lại rất cảm ơn giáo sư và rất vui khi viết những dòng này.

Hai vấn đề cần minh bạch.

Thưa giáo sư.

Đôi khi Tôi bị khựng lại trước bức tường ngôn ngữ, Tôi tự hỏi không biết có hiểu đúng ý của giáo sư viết hay chưa? Nhưng có tiếng nói từ bên trong là cái gì biết thì nói là biết, cái gì chưa xác định được thì cứ nói là chưa xác định được.

Như hai điều kế đây xin nêu ra để giáo sư tham khảo mà thôi, giáo sư vui lòng hiểu rằng đây chỉ là trình bày để hiểu cho chính xác về sự việc cụ thể, còn trong bài viết của giáo sư không có gì phải điều chỉnh.

Hơn nữa giáo sư không có mục đích phân định Đạo Cao Đài lập năm 1926 và các chi phái Cao Đài nên phần này như câu chuyện của quả bóng ngoài giờ.

1/- The professor wrote: and see him as an important medium in the early years who later tried to monopolize access to spiritual communication. (Page 214)

Giáo sư viết: … và coi ông là một phương tiện quan trọng trong những năm đầu, người sau này đã cố gắng độc quyền tiếp cận giao tiếp tâm linh…. (trang 214)

Theo Tôi hiểu giáo sư nhận xét và đề cập đến phò loan (cơ bút) trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Tôi hy vọng là hiểu đúng ý giáo sư nhưng cũng xin thưa rằng những chia sẻ của Tôi dưới đây cũng là phần bóng ngoài giờ. Bởi vì phần đặc biệt của cơ bút trong Đạo Cao Đài Tôi đã chia sẻ bên trên.

Cơ bút có từ lâu trong xã hội, nhưng khi Thượng Đế dùng cơ bút lập ra Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ nói tắt là Đạo Cao Đài vào năm 1926 thì có những qui định về cơ bút khác hẳn với cơ bút trong xã hội.

Đức Thượng Đế chọn 16 đồng tử phò cơ và công bố trước xã hội. Thượng Đế chỉ giáng cơ qua 16 đồng tử và dạy rõ: Vậy các con khi nghe nói Cao Đài nơi nầy, Cao Đài nơi kia đừng vội tin mà lầm mưu Tà-Mị (Phổ Cáo Chúng sanh, ngày 13-10-1926, trang 06)

Thượng Đế ban cho con người quyền tự do quyết định con đường công quả của mình; trong 16 đồng tử có người siêng năng, có người không được siêng năng. Thượng Đế là Đấng cầm cân công bình nên Ngài tùy vào tâm hạnh môn sinh mà dạy; người siêng năng chịu hành đạo thì được giao hết việc nầy đến việc khác chớ chẳng lẽ giao cho người không siêng năng. Mời giáo sư xem thêm tại link:

https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2024/10/5473-vntb-phep-thu-ve-co-but-trong-ao.html#more

Theo Tôi biết chính Đức Hộ Pháp là người binh vực quyền dùng cơ bút để học tập riêng, nhưng cấm truyền bá hay lấy cơ bút làm lịnh. Link: https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2019/12/2986phuoc-thien-xin-cau-co.html

Tóm lại: Trong 16 đồng tử của Thượng Đế chọn có ai kêu nài hay than phiền Đức Hộ Pháp độc quyền giao tiếp với thiêng liêng chăng? Trong ĐĐTKPĐ có ai ra văn bản nào kêu nài với Đức Chí Tôn chăng? Nếu có giáo sư vui lòng cho biết để Tôi có thêm hiểu biết.

Cơ bút từ chi phái: có 4 chi phái tách ra từ Tòa Thánh Tây Ninh là là Minh Chơn Lý (1931), Minh Chơn Đạo (1932), Tiên Thiên (1932), Ban Chỉnh Đạo, Bến Tre (1934). Còn các chi phái khác là do 4 chi phái trên đây phát sinh ra.

 Khi bốn chi phái tách ra, các vị đều tạo ra đồng tử để có cơ bút riêng, đó là quyền tự do của các vị. Các chi phái có đủ quyền cầu cơ và có đủ quyền không nhìn nhận cơ bút từ Đức Hộ Pháp; ngược lại Đức Hộ Pháp có đủ quyền không nhìn nhận cơ bút của chi phái; hai quyền ấy ngang bằng nhau. Không ai cấm được ai thì làm sao có vấn đề độc quyền?

Sự thật là đồng tử của các chi phái không cầu xin được bài kinh nào để sử dụng, nên đến năm 1936 phải copy Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo của Hội Thánh Cao Đài về sử dụng. Đó là do các vị không được ban Kinh chớ Đức Hộ Pháp đâu có ép buộc họ phải lấy Kinh về sử dụng rồi lại bảo rằng độc quyền giao tiếp với Thần linh.

Đức Hộ Pháp là một đồng tử để thiêng liêng ban Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo. Do mặc cảm ấy mà họ gán cho Đức Hộ Pháp là độc quyền chăng? Giáo sư viết Đức Hộ Pháp đã cố gắng độc quyền tiếp cận giao tiếp tâm linh … vậy giáo sư có văn bản của Đức Hộ Pháp cấm các chi phái giao tiếp chăng mà viết như thế?

Hiện nay các chi phái và Hội Văn Hóa Đồng Tân có mặt ở Mỹ, Pháp, Úc, Canada … là những xứ có tự do tôn giáo thì các vị có đủ quyền dùng cơ bút để xin với Thiêng Liêng ban cho Kinh hay dạy những việc khác, Đức Hộ Pháp đâu có cấm mà bảo là độc quyền tiếp cận với thần linh.

Trang 233, giáo sư viết: Victor Hugo và Jeanne d’Arc, những “vị thánh châu Âu” nổi tiếng nhất trong đạo Cao Đài, đều là những linh hồn ban đầu chỉ trò chuyện với Phạm Công Tắc, từ chối “xuống” một buổi cầu hồn nếu không có ông ở đó như một phương tiện để “tiếp nhận” họ

Điều đó là các đồng tử và thiêng liêng quyết định, Tôi không hiểu là Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc can dự chi vào đó mà hiểu là có sự độc quyền?

2/- The professor wrote: Within the Caodai community, some 800 temples display his image facing the great altar and see him as the human being who came closest to achieving divinity. (Page 214)

Tiếng Việt: Trong cộng đồng Cao Đài, khoảng 800 ngôi chùa trưng bày hình ảnh của ông đối diện với bàn thờ lớn và coi ông là con người đã đến gần nhất với việc đạt được sự thần thánh… (trang 214).

Tôi rất cảm ơn Giáo sư đã có nhiều bài viết về Đạo Cao Đài, Tôi nghĩ trong khi tìm hiểu giáo sư đọc bài viết bằng Anh Văn là chủ yếu, do vậy đôi khi nó không truyền tải được cái hồn của Tiếng Việt. Nghĩa là giáo sư có thể cũng gặp bức tường ngôn ngữ như Tôi khi đọc bài viết của giáo sư bằng Anh Văn vậy. Do vậy Tôi xin trình bày thêm trường hợp cụ thể nầy.

Theo Tôi hiểu chữ ngôi chùa là chỉ vào các Thánh Thất Cao Đài; bàn thờ lớn là Bàn Thờ Đức Thượng Đế. Như vậy hình ảnh Đức Hộ Pháp trưng bày đối diện với Bàn Thờ Thượng Đế có 2 cách hiểu: Trưng bày hình ảnh nhưng không phải là Bàn Thờ Hộ Pháp, và trưng bày hình ảnh Hộ Pháp là Bàn Thờ Hộ Pháp. Từ hai cách hiểu trên có mấy việc phải làm rõ.

2.1/- Bàn Thờ Hộ Pháp của Đạo Cao Đài lập năm 1926.  

Thánh Thất nào của Đạo Cao Đài 1926, dù lớn hay nhỏ cũng có Bàn Thờ Hộ Pháp với chữ KHÍ, đối diện với Bàn Thờ Thượng Đế. Bàn Thờ Hộ Pháp chỉ có chữ KHÍ và mười lễ phẩm khác như: bông hoa, trái cây, và nhang đèn … Khi hành lễ Thượng Đế xong thì quay lại xá chữ KHÍ là cội sống của nình và nhân loại. Thánh Thất không được phép trưng bày hình ảnh Đức Hộ Pháp trên Bàn Thờ Hộ Pháp. Xin mời xem ảnh chụp Bàn Thờ Hộ Pháp.

2.2/- Bàn Thờ Hộ Pháp của chi phái Cao Đài 1997.

Nếu đến bất cứ Thánh Thất nào có hình ảnh Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc (dù đứng hay ngồi) đối diện với Bàn Thờ Thượng Đế kèm theo nhang đèn hay các lễ phẩm khác như ảnh dưới đây thì đó là Bàn Thờ Hộ Pháp tại các Thánh Thất của chi phái 1997 mà thôi. Bàn Thờ Hộ Pháp của chi phái 1997 bỏ chữ KHÍ mà thay vào đó là ảnh Đức Hộ Pháp.

Trong thư số 01 Tôi nhấn mạnh Chi phái 1997 không phải Đạo Cao Đài, nếu căn cứ vào tổ chức không phải Đạo Cao Đài (là chi phái 1997) để tìm hiểu Đạo Cao Đài thì rất đáng tiếc. Chi phái 1997 là công cụ của nhà nước Việt Nam lập ra để tiêu diệt Đạo Cao Đài. Do vậy chi phái 1997 làm cho sai lệch giáo lý, ý nghĩa thờ phượng, tạo ra mê tín dị đoan là cách diệt đạo rất tinh vi. Nó cũng giống như nước mặn và nước ngọt để trong hai cái ly giống nhau nên không thể phân biệt được, phải nếm trải mới biết ly nào là nước mặn và ly nào là nước ngọt. Tôi có bổn phận nói sự thật, nên xin thưa rằng có một Tề Thiên thật nhưng có rất nhiều Tề Thiên giả.

2.3/- Không phải Bàn Thờ Hộ Pháp: Một vài Thánh Thất Đạo Cao Đài 1926 treo ảnh Đức Hộ Pháp hay các vị tiền bối trên bức tường ở phía đối diện với Bàn Thờ Thượng Đế mà không có nhang đèn hay hoa trái cây…, cũng không phải trực diện với Bàn Thờ Thượng Đế. Đó là ảnh kỷ niệm, không có ý nghĩa bàn thờ.

2.4/- Đặc biệt ở Đền Thánh Tây Ninh: tượng Đức Hộ Pháp, Đức Thượng Phẩm, Đức Thượng Sanh đối diện với Bàn Thờ Đức Thượng Đế là để thể hiện nhiệm vụ của các vị chứ không phải để thờ (vì không có nhang đèn hay bông hoa, trái cây chi hết). Các Thánh Thất tuyệt đối không được phép có tượng nầy mà chỉ có Bàn Thờ Hộ Pháp với chữ KHÍ như đã trình bày bên trên.

2.5/- Pháp Môn Chiếu Minh Tam Thanh.

Mấy dòng tiếp theo sau trích dẫn trên đây (cũng trang 214), giáo sư có đề cập đến ngài Ngô Văn Chiêu. Theo Tôi biết trên Bàn Thờ Thượng Đế của Pháp Môn Chiếu Minh Tam Thanh có ảnh Ngài Ngô Văn Chiêu chung với Bàn Thờ Thượng Đế.

Câu chuyện đã dài, Tôi xin tạm dừng tại đây.

Rất cảm ơn giáo sư.

Trân trọng.

Dương Xuân Lương

Email: hoabinhchungsong220513@yahoo.com