Giáo sư Janet Hoskins, Đại học Nam California viết nhiều bài về Đạo Cao Đài. Trong dó có nhiều điểm rất sáng và cũng có những điểm mờ. Đây là bài viết bằng Việt Văn của GS. BBT trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc.
Trong bài số 5569 BBT cũng có phổ biến bài của GS quý vị có thể tìm thêm thông tin. Kính
Con
Người và Khả Năng Sáng Tạo Thần Học của Phạm Công Tắc
Janet
Hoskins
Một trong những đoạn trích kinh thánh của
một giáo sĩ trong các nghiên cứu hậu thực dân, “Nắm Bắt Tín Hiệu Cho Những Kỳ
Quan” (“Signs taken for Wonders”) của Homi Bhabha, được một nhà truyền giáo
người Ấn Độ bắt đầu mô tả bao quát về những tác động khi phân phát những quyển
Kinh Hindu vào năm 1817 dưới một gốc cây ở ngoại ô Dehli. Hứng khởi vì cuối
cùng đã có thể trực tiếp đọc được những lời của Thượng Đế, bằng chính tiếng mẹ
đẻ của mình, gần như tất cả mọi người đều đã muốn có một quyển, và chẳng bao lâu,
họ đã lập được nhóm riêng, tất cả đều mặc quần áo trắng, để thực hiện những
giáo lý trong quyển sách đó. Nhưng họ từ chối không làm bí tích thánh thể, vì
họ đã đọc được rằng đó là lúc uống máu và ăn thịt Chúa Cứu Thế (Christ), và họ
biết rằng những người Cơ Đốc (Christians) ăn thịt bò. Họ giải thích cho nhà
truyền giáo đang nản lòng rằng họ không bao giờ có thể trở nên không sạch sẽ
như vậy. Cũng trong năm đó, một nhà truyền giáo khác đã than rằng mặc dù mọi
người đều muốn có sách Kinh Thánh, một số người xem kinh thánh vì tò mò, những
người khác xem nó là một nguồn thu nhập, và một số người thậm chí còn dùng nó
làm giấy loại. Bhabha lập luận rằng ngay sau khi có thể tiếp cận được Sách
Thánh bằng chính ngôn ngữ của mình, cuốn sách đã “sẵn sàng để cho thuộc địa lấy
làm của riêng” (1985:159).
https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2025/01/5569-ban-dich-sang-viet-van-janet.html#more
https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2025/01/5611-thu-so-1-kinh-goi-ba-janet-hoskins.html#more
Những phong trào tôn giáo --- được đồng
nhất với những ý tưởng siêu việt của đoàn kết, ngấm quyền lực luân lý và sự tìm
kiếm công lý, cho phép tiếp cận với kiến thức siêu phàm --- thường là tiêu điểm
của những trận chiến về tư tưởng, và thậm chí cả những cuộc chiến quân sự đẫm
máu, trong bối cảnh thực dân. Tuy nhiên, lý thuyết hậu thực dân đã ít chú ý đến
tôn giáo, như được ghi trong lịch sử tân thời về chủ nghĩa hậu thực dân: “Lãnh
vực này nổi bật lên nhờ chủ nghĩa thế tục không thể hòa giải, đối lập và kiên
định loại bỏ các tôn giáo đảm đương chuyện chính trị khi cung cấp các hệ
thống-giá trị thay thế cho những thứ đó ở phương tây” (Young 2001:338, cũng xem
ở Chakrabaty 2000).
Đạo Cao Đài được gọi là “ít được hiểu rõ
nhất trong tất cả các phong trào của Việt Nam ở thế kỷ thứ 20” (Popkin 1979:
193, cũng xem ở Wolf 1968, Smith 1971, Taylor 2001, Woodside 2006). Rập khuôn
là một “phong trào truyền thống”, “nổi lên từ những chiều sâu thần bí của Đồng
Bằng Sông Mê Kông”, và bao gồm những nông dân “chỉ chờ cho ý Trời thay đổi, khi
(vì vậy mà họ được củng cố lòng tin) người Pháp sẽ biến mất và toàn thể nhân
dân Việt Nam sẽ trở thành người theo Đạo Cao Đài hay Hòa Hảo” (Fitzgerald 1972:
59), đạo Cao Đài đã liên kết một cách sai lầm với tính thụ động. Tôi thì lại
cho rằng một trong những sáng kiến quan trọng của Cao Đài phổ độ là tính chủ
động trong đó, việc dẫn đầu những ý tưởng mới về quyền công dân và sự trong
sạch cá nhân của nó đã hợp nhất cái mà Bhabha gọi là “cho thuộc địa lấy làm của
riêng” với các dạng tổ chức khác và một chương trình nghị sự chống thực dân.
Nhân vật được xác nhận nhiều nhất trong việc hợp nhất những nguyện vọng và giáo lý tôn giáo ở Việt Nam là vị lãnh đạo Cao Đài đầy sức lôi cuốn nhưng gây tranh cãi Phạm Công Tắc, Hộ Pháp hay “Người Bảo vệ Đức Tin” của Tây Ninh Vatican hay Tòa Thánh. Ông đi theo mốt của thời đại hoàng kim hiện đại dự định để phát triển một cơ quan mới, cho người Việt Nam lòng tin rằng họ sẽ thay đổi quá trình diễn biến của lịch sử và, thật ra, đã dẫn đến việc này. Cầu đến sức mạnh của một lời tiên tri cũ “một ngày, một nước trong vòng nô lệ, vì ta mà làm chủ nhân loại”, (Hiếu 1968: 242), các giáo lý Cao Đài coi con mắt trái của Thượng Đế (Thiên Nhãn) là sự mạnh mẽ, tiến triển và hiện đại (dương), đảo lộn những lời sáo rỗng rập khuôn của người theo Chủ Nghĩa Phương Đông và hoàn thiện chúa Jesus thành một vị thần Á Châu bằng cách chỉ định cho ông ta làm con của Ngọc Đế. Sinh ra ở những vùng đô thị Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định, đạo Cao Đài trở thành một phong trào đại chúng lớn nhất ở Đông Dương của Pháp bằng cách thiết lập số người ủng hộ cùng ở các
HẾT TRANG 01
vùng của
Đảng Cộng Sản Đông Dương, và đôi khi, chính nó cũng có chức năng là một lực
lượng chính trị (Werner 1980). Nhưng thay vì tranh luận (như một số nhà quan
sát của Pháp) rằng đây là một “đảng giả trang làm tôn giáo”, tôi sẽ thử đặt Đạo
Cao Đài trong ghi chép về dân tộc học của những tôn giáo mới đang đẩy mạnh biểu
tượng, chuyện kể, và kỹ nghệ của các nhà nước dân tộc hiện đại.
Xây dựng trên phản ánh và thuyết giáo tự
truyện của ông Tắc, tôi trình bày một hoàn cảnh kết hợp giữa nghệ thuật viết
kịch (các buổi biểu diễn kịch trong lễ nghi của ông Tắc) và nghệ thuật quản lý
nhà nước (xây dựng “Việt Nam” thành một vùng tôn giáo tự trị, “một nhà nước bên
trong một nhà nước”). Dự án không tưởng này đã ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc
lập bằng cách cung cấp kho tàng những khái niệm để tưởng tượng ra nền độc lập
dân tộc, và một bộ máy quyền lực riêng để cố gắng đạt được chúng¹. Thay vì nhấn mạnh đến những hoạt động
chính trị của ông Tắc, điều đã được lưu văn bản đầy đủ trong những nghiên cứu
trước (Blagov 2001, Fall 1954, Werner 1976), tôi tập trung vào đọc các bài
thuyết đạo, những bản sao chép và những lời dẫn giải, bài lịch sử từ đàn cơ
được xuất bản cả ở Việt Nam và Hải Ngoại (Đỗ Văn Lý 1989, Đồng Tâm 2002, Huệ
Nhẫn 2002, Huỳnh Tâm 1990, Trần Văn Rang 1971, Trần Mỹ-Vân 2001), và những buổi
nói chuyện với người Cao Đài ở cả trong nước và hải ngoại khi đang thảo luận
vấn đề đưa thi hài ông trở về có thích hợp hay không. Ông Tắc là một trong
những nhà sáng tạo tôn giáo quan trọng, người đã gây dựng đàn cơ và một kiểu
kinh thánh mới. Sau nhiều thế kỷ của các tác phẩm cơ bút Tàu-Việt, những đàn cơ
của ông nhận được thông điệp không phải bằng dấu vết chữ Tàu ghi trên cát mà
theo chữ thảo kiểu Roman quốc ngữ, dạng chữ viết để có thể chép chính tả
cả bằng tiếng Việt và tiếng Pháp, và vì vậy nó được tuyệt đối đón nhận vào hoàn
cảnh hai nền văn hóa và song ngữ của các phạm vi tâm linh ngay từ buổi đầu của
những đối tượng thuộc địa trẻ được giáo dục trong những trường dạy tiếng Pháp.
Tuy nhiên, là một đồng tử, ông chưa bao giờ đòi “tác quyền” cho những phát minh
mới này, tất cả được cho là nhờ thần thánh hướng dẫn. Nhưng kiểu mà ông trình
bày để hội luận với thần thánh, chứ không đơn giản là chỉ phục vụ như một
phương tiện (“tiếng nói” hoặc “bàn tay” của tâm linh khi đọc thánh ngôn), có
ngụ ý sâu sắc trong học thuyết Cao Đài². Nó phát triển theo những hướng mới mẻ trong gần 35 năm khi ông đóng vai
trò cột trụ để làm rõ giáo lý của Đạo Cao Đài, và tôi cho rằng sự khéo léo tinh
tế của ông về vấn đề tác quyền là một trong những chiến lược lãnh đạo quan
trọng nhất của ông.
Việc hình thành một bộ máy quyền lực thay
thế có thể được thấy là có mối quan hệ với những phong trào bản xứ khác chống
lại các nhà nước chiếm đóng, giống như nhà tiên tri Bản Xứ Hoa Kỳ Handsome
Lake, đã dẫn đầu một nhóm người tin có thời đại hoàng kim Seneca và nói rằng đã
chuyện trò khi xuất thần cùng với George Washington, nói chuyện tại nhà của
Washington khi Vị Tổng Thống Đầu Tiên đang chơi với con chó của ngài trên ban
công (Kehow 1989, Wallace 1970). Bằng cách kết hợp và chiếm hữu những yếu tố nhất
định của quyền lực của những ông chủ thuộc địa, những nhà lãnh đạo tôn giáo tạo
ra một mô hình cạnh tranh bắt nguồn từ lực thuyết phục từ khả năng của cả việc
bắt chước và đồng hóa các dạng quyền lực khác. Bằng cách thâu nạp và lĩnh hội
Victor Hugo và Jêann d’Arc, Tòa Thánh Cao Đài phản chiếu vào quyền lực thuộc
địa Pháp một dân tộc hiện đại tưởng tượng rằng việc xây dựng nó đang sắp ra
đời. Kế hoạch tổng thể của nó, hệ thống thứ bậc hành chính phức tạp là bằng
chứng của khả năng tạo ra cái gì đó mới mẻ của phong trào tôn giáo mới này, để
nắm bắt sự hiện đại ở cả những khía cạnh Á Châu và Âu Châu --- tổ chức, dạng
kiến thức, kiểu quyền lực, và tương lai sáng chói --- bằng những gì giống như
nó. Chính bản sao trở nên nguyên bản, một mô hình mới cho một thứ bậc mới của
sự tồn tại.
Tuy nhiên, sự nghiệp của ông Tắc không nên được xem là một nguyên mẫu của toàn thể Đạo Cao Đài. Ralph Smith đã có lời mô tả nổi tiếng về ông Tắc với tư cách là nhà lãnh đạo Cao Đài “nổi bật nhất, nhưng không nhất thiết là quan trọng nhất” (1971), và các cuộc tranh cãi xung quanh việc đưa thi hài ông trở lại Việt Nam một lần nữa đã khơi dậy những cuộc tranh luận này. Rất nhiều vị Cao Đài đương thời biểu lộ mâu thuẫn trong tư tưởng về sự nổi bật về chính trị thời gian sau này của
HẾT TRANG 02
Phạm Công Tắc, mặc dù tất cả đều thừa nhận tầm
quan trọng của ông trong việc hình thành một tôn giáo mới. Một trong những bài
phê bình nghiêm ngặt nhất của Đồng Tân (2004), lưu ý rằng “Phạm Công Tắc chính
là người do Đức Cao Đài sử dụng ban đầu trong công cuộc khai cơ lập giáo”. Nhưng
những tín hiệu của sự ly giáo bắt đầu từ rất sớm, bởi vì những gì mà nhiều nhà
phê bình đã gọi là “tính cách mạnh mẽ” của ông Tắc, nỗ lực của ông để thành lập
cơ quan có thẩm quyền tôn giáo riêng và ước muốn dùng những bài thánh giáo để
vận động số đông chống lại ách thống trị của thực dân.3
Một nhà sử học về Cao Đài tranh luận rằng
ông Tắc “đã muốn làm cố vấn tôn giáo cho Ông Hoàng Bảo Đại ngang tầm như vị trí
của Richelieu đối với Vua Louis XIV” (Đỗ Văn Lý 2005). Thậm chí còn
nặng nề hơn, những người khác cho rằng ông đi đến chỗ tưởng tượng mình còn
ngang tầm với cả Louis XIV: “Cao Đài, đó là tôi” --- làm lu mờ ý tưởng truyền
huệ quang thần bí cho các con chiên và độc quyền hóa sự liên lạc với thần thánh
bằng những đồng tử được huấn luyện đặc biệt trong Phạm Môn được lấy tên ông
(Đồng Tân 2006). Cùng lúc đó, một số tín đồ của ông xem ông là Jesus đầu thai
(Chong 1999) hoặc Đức Phật (Danny Pham 2006), những người khác cho rằng ông
biển thủ ý định nguyên thủy của Pháp Chánh Truyền Cao Đài (mà bản thân ông nhận
được khi làm đồng tử và đã xuất bản) và làm hại đức tin khi trói buộc nó vào
nghị sự chính trị và quân sự.
Mục đích của tôi không phải là giải quyết
những cuộc tranh luận này, mà là để đặt chúng vào trong mối quan hệ với lý
thuyết nhân loại học và chủ nghĩa hậu thuộc địa về dân tộc chủ nghĩa, kháng
chiến chống thực dân, và những vị lãnh đạo đang hoạt động cả trên lĩnh vực tâm
linh và trần tục. Sự nghiệp của ông Tắc đôi khi được so sánh, cả thiện chí lẫn
không có thiện chí, như sự nghiệp của M.K. Gandhi ở Ấn Độ. Ông là một nhân vật
xuất chúng, mà chưa ai có thể có ảnh hưởng tương tự như ông, nhưng sự lãnh đạo
của ông đã bị chia rẽ sâu sắc: Ngày nay, 500 trong 1300 nhà thờ Cao Đài ở Việt
Nam thuộc “nhà thờ mẹ” Tây Ninh, và hầu như nhà thờ nào cũng cung kính đặt ảnh
Hộ Pháp phía sau điện thờ, đối diện với bàn thờ Thiên Nhãn. Đối với tám trăm
nhà thờ khác (và có lẽ là đối với đa số tín đồ Đạo Cao Đài ở Việt Nam), ông Tắc
là một nhân vật quan trọng nhưng là người sáng lập có nhiều vấn đề, để lại di
sản vừa tích cực vừa tiêu cực. Cũng giống như Gandhi, ông Tắc cố gắng dùng “Chủ
Nghĩa Phương Đông” ( một bài phát biểu phương tây về sự khác biệt giữa Đông và
Tây) chống lại chế độ thực dân, nhưng cách ông làm không dễ dàng cân bằng giữa
việc đòi hỏi các động lực mạnh mẽ, tiến bộ của viễn cảnh “Yang” (dương, liên
quan đến con mắt trái) Á Châu và hợp nhất những yếu tố Cơ Đốc Giáo Âu Hóa vào
trong một học thuyết tổng thể.
Cuộc Đời Công và Tư của ông Tắc: Lịch Sử
và Tự Sự
Phạm Công Tắc sinh ngày 21 tháng Sáu năm
1890, ở làng Bình Lập, Châu Thành, ở Long An, nơi cha ông làm viên chức nhỏ cho
chính quyền thực dân. Ông là con thứ tám trong gia đình có chín người con, và
vì cha ông theo đạo Công Giáo, ông đã được rửa tội khi mới sinh, mặc dù mẹ ông
là người theo Đạo Phật (Huỳnh Tâm 1990:20, Trần Mỹ Vân 2000:3). Ông Tắc kể lại
rằng cha mình là một viên chức trong chính quyền thực dân Pháp, người đã có địa
vị tốt nhưng “phản đối mạnh mẽ các nhà cầm quyền khi họ không công bằng” (Thuyết
Đạo # 18, ngày 6 tháng Giêng, 1949, trang 56). Cha bị đuổi việc khi ông Tắc
được bốn tuổi, và cha ông phải về kinh doanh buôn bán để nuôi gia đình, “một
đàn con trong cái ổ tả tơi”. Là con trai út, ông Tắc nhận mình là “người phải ở
cùng cha mẹ bởi vì con áp út phải sống với gia đình”, và người con út lại là
con gái. Ông nhớ lại thời niên thiếu lúc ông làm sứ giả hòa bình trong gia
đình, cố gắng thuyết phục các anh chị mình không cãi nhau.
Ông là một học sinh giỏi, tham gia các trường Công Giáo và rất khỏe mạnh, nhưng cũng hay giận dai, ngủ kỹ, thỉnh thoảng kèm theo sốt và có thị lực lạ lùng. Mẹ ông rất lo lắng về tình trạng này và đã cố gắng chạy chữa nhưng không khỏi (Trần Mỹ Vân 2000:3). Cha chết khi ông Tắc mười hai tuổi, và ông còn nhớ nỗi sợ hãi thời niên thiếu là mẹ ông sẽ mất sớm. Năm lên mười sáu tuổi, ông được nhận vào học trường trung học danh tiếng của Pháp Lycée Chasseloup Laubat ở Sài Gòn. Ở
HẾT TRANG 03
đây ông dính líu tới quan điểm chính trị sinh viên dân tộc chủ nghĩa, và đặc biệt là Phong Trào Đông Du do Phan Bội Châu dẫn đầu. Sau khi Nhật thắng quân Nga năm 1905, con đường độc lập của Nhật dẫn đến nền văn minh tạo nguồn hứng khởi cho một số nhà lãnh đạo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam, bao gồm Hoàng Tử lưu vong Để và Châu, những người muốn đưa một thế hệ sinh viên mới sang Nhật để “được biến đổi cả về tư duy và tầm nhìn”(Châu 1983:43, Trần Mỹ Vân 2000:4). Ông Tắc được chọn đi ở nhóm thứ tư, và nhận được bảo trợ tài chính để theo đuổi việc học tập ở Nhật với mục đích là sẽ được đào tạo trở thành lãnh đạo trong các tổ chức tìm độc lập cho Việt Nam.
Nhưng các lực lượng Sureté của Pháp hay
tin phong phanh về ý đồ này và đột kích vào tổng hành dinh của Phong Trào Đông
Du tại Sài Gòn, lấy được các tài liệu trong đó có tên ông Tắc được liệt kê là
người nhận học bổng. Sợ bị bắt, ông Tắc chạy khỏi thành phố và đến sống tại nhà
ông bà của mình ở làng An Hòa, huyện Trảng Bàng, Tỉnh Tây Ninh. Ông nhận ra
rằng cơ hội để ông đi du học đã sụp đổ bởi vì người Pháp đã ký quan hệ đồng
minh với Nhật, trục xuất Phan Bội Châu và tất cả những sinh viên quốc tịch Việt
Nam khác. Năm 1949, bốn mươi năm sau đó, ông Tắc nói với chút ít hối tiếc về
“con em của các gia đình thượng lưu đã đủ may mắn để được đi du học” (Thuyết
đạo # 24, 27 tháng Hai, 1949, trang 76) và kinh nghiệm đó dường như đã để lại
vị đắng trong miệng ông và tiến triển thành cam kết mạnh mẽ đối với cuộc đấu
tranh dân tộc. Tuy nhiên, các bài thuyết đạo của ông không đả động trực tiếp
chút nào về những cơ hội học tập mà ông đầu tiên được hưởng và rồi bị rút ngắn
bởi các hoàn cảnh chính trị.
Bị đuổi học khỏi trường trung học danh
tiếng, ông Tắc hoàn thành việc học tập ở Tây Ninh và trở lại Sài Gòn làm bồi
bàn trong nhà hàng nổi tiếng Continental. Ở đây, ông gặp ông Chánh Sở Thương
Chánh khi ông này đặt món ăn và ông đã gây ấn tượng với ông này bằng thứ tiếng
Pháp trôi chảy của mình. Vào năm 1910, ông được thuê làm thư ký riêng cho ông
Chánh này và bắt đầu sự nghiệp làm nhân viên dân sự (Đồng Tân 2005:36). Ông
cũng học âm nhạc truyền thống Việt Nam và thỉnh thoảng trình diễn cùng nhóm hát
dân ca “Pathé”.
Ông Tắc lấy bà Nguyễn Thị Nhiều vào ngày
30 tháng Năm, 1911, và chẳng bao lâu thì có con. Sau này ông nói về chuyện đi
làm từ năm 17 tuổi để nuôi gia đình, cuối cùng chọn cách làm việc cho cơ quan
chính quyền bởi vì anh rể của ông khuyên ông là không có “danh giá” khi làm nhà
buôn (Thuyết đạo #18). Ông Tắc nhớ rằng mẹ ông qua đời khi ông 22 tuổi, trong
lúc vợ đang mang thai, và nói rằng nỗi đau khổ của ông lúc đó được an ủi chỉ
bởi vì ý nghĩ rằng bà “nhập vô hình thể thiêng liêng” (Thuyết đạo # 20, ngày 16
tháng Giêng, 1949, trang 62). Không còn cha mẹ, ông trở nên thân thiết với anh
rể (“bao nhiêu cái thương nồng nàn chỉ để nơi một mình anh rể, thương hơn cả
anh ruột nữa”) và người em gái của mình, nhưng cả hai người này đều chết một
vài năm sau đó. Nỗi thương tiếc của ông vì mất người thân không dịu bớt mãi cho
đến khi ông được “huệ quang chiếu” và theo Đức Chí Tôn, người đã “giao tình
thương yêu nồng nàn hơn muôn triệu lần của gia đình nữa” (Thuyết đạo # 18, ngày
6 tháng Giêng năm 1949, trang 57).
Ông Tắc và vợ ông có cả thảy tám người
con, sáu người chết từ nhỏ (Đồng Tân 2006: 36), nhưng chuyện riêng tư về không
có người nối dõi này không được đề cập đến trong những bài thuyết đạo của ông.
Ông cũng chưa bao giờ nói rõ sự thật rằng hai người con sống sót lại là hai
người con gái, vì vậy mà ông không có người nối dõi trực tiếp cho dòng họ Phạm.
Một số bình luận gia đã ngụ ý rằng việc ông tạo ra “Phạm Môn” hay hiệp thiên
đài (tên có thể được diễn giải là “cửa Phật” hoặc như tên họ của ông) là một cách
bảo đảm tài sản tinh thần của ông sẽ tiếp tục tiếp diễn, thậm chí khi ông không
có người con trai thật sự nào (Đồng Tân 2005:36).
Cũng có những ý kiến cho rằng ông trách cứ
người Pháp về những người con trai đã mất, đáng ra đã có thể tiếp tục nối dõi
ông. Ông Tắc làm việc cho Sở Thương Chánh của Pháp, đầu tiên được đặt tại Sài
Gòn, rồi Quy Nhơn, sau lại trở về Sài Gòn. Werner ghi lại:
HẾT TRANG 04
Sau khi làm thư ký được 18 năm, “thiên
hướng về tâm linh” của ông, (như nhận xét khô khan trong hồ sơ Surete) và việc
ông dính líu vào đạo Cao Đài đã bị phát hiện, vào thời điểm đó ông đột ngột bị
chuyển từ Sài Gòn sang Phnom Penh, và có lẽ bị giáng chức. Điều này hiển nhiên
là một cú đánh mạnh bởi vì ông đang tìm cách chăm sóc đứa con bị bệnh ở Sài Gòn
mà sau này đã chết (Werner 1976:96, trích dẫn Lalaurette và Vilmont, “Le
Caodaisme” trang 62-63 – tôi ghi lại một bài báo của Pháp đã nhắc đến người
con trai, một bé trai)
Ông Tắc bị thuyên chuyển năm 1926, và cuối
cùng ông quyết định bỏ việc ở Phnom Penh mà không báo trước vào năm 1928 để có
toàn thời gian làm các bổn phận tôn giáo của mình tại Tòa Thánh Tây Ninh. Cấp
trên người Pháp nhận xét về ông là “thông minh nhưng không ổn định”.
Ở Quy Nhơn, ông Tắc giúp thành lập tờ Văn
Dân Thị Xã trong khoảng thời gian 1915-1920, xuất bản nhiều bài báo dưới bút
hiệu Ái Dân (“Người yêu nhân dân”). Ở Sài Gòn, ông viết cho hai tạp chí Việt
Nam khác (“Nông Cổ Mín Đàm” vào năm 1907, “Công Luận” và “Lục Tỉnh Tân Văn” năm
1908), cũng như viết bằng tiếng Pháp cho tờ La Voix Libre (1907) và La Cloche
Felée, tất cả những tờ báo này đều chỉ trích chính quyền thực dân. Một bài báo
trong tờ La Cloche Felée năm 1907 mang tựa đề “Thượng Bất Chánh, Hạ Tắc Loạn”, xuất hiện cùng với những bài viết của Nguyễn
Ái Quốc, là Hồ Chí Minh sau này (Jammes 2006: 184). Những bài phê bình tương tự
về sự lộng hành của thực dân sau này được tìm thấy trong các thánh ngôn mà ông
Tắc đã nhận được từ Victor Hugo và những nhân vật văn chương và lịch sử khác
của Pháp.
Sự ra đời của Đồng Tử: Các Đàn Cơ riêng ở
Sài Gòn.
Vào năm 1925, ở tuổi 32, ông Tắc đã thành
lập nhóm tâm linh gồm các nhà thơ và nhạc sĩ nổi tiếng, Cao Quỳnh Cư và cháu
của ông này là Cao Hoài Sang, cùng làm việc ở Sở Thương Chánh Sài Gòn. Khởi
đầu, đơn giản họ chỉ bị kích thích bởi mốt tâm linh của Âu Châu, và hứng thú
thực hành nó với hi vọng cho ra đời nhiều tác phẩm văn chương, tìm trong những
vần thơ bất tử hứng thơ cho mình. “Có tâm hồn thơ, và sâu thẳm trong trái tim
họ là sự oán giận khi phải sống ở đất nước bị đô hộ, bộ ba này ấp ủ thú vui gọi
hồn, gõ bàn để hỏi về tương lai của đất nước, để làm thơ trao đổi và giải trí”,
như bà Hương Hiếu, vợ ông Cư và là người thứ tư trong các đàn cơ, đã nhớ lại (Hiếu
Đạo Sư, trang 6). Ông Tắc, với tính khí riêng, là người đa nghi nhất trong
số họ, bởi vì lúc đầu ông “không có chút đức tin hay tín ngưỡng nào”, và chỉ
đơn giản vì tò mò muốn kiểm tra sự hiện hữu của thế giới vô hình (Thuyết đạo,
17 tháng Tám, 1953, trích dẫn ĐĐTKPĐ 1995, trang 2).
Họ dùng phương pháp tương tự như của
Victor Hugo trong các bản chép từ đàn cơ được xuất bản sau khi nhà văn này qua
đời (Chez Victor Hugo: Les Tables Tournantes de Jesey, 1923)4:
Các tâm linh thường sẽ rung bàn và làm cho nó gõ xuống sàn nhà, với mỗi tiếng
gõ liên lục ám chỉ một chữ cái trong bảng alphabet. Thông điệp đầu tiên, dưới
dạng một bài thơ, của cha ông Cư, người đã chết cách đây hai mươi bảy năm, và
thông điệp thứ hai, năm ngày sau đó, của một cô gái ở địa phương đã chết trước
khi lấy chồng. Sau khi khẳng định lại danh tính của cô gái bằng cách tìm mộ cô,
ba nhà theo thuyết duy linh nhận cô làm em gái tâm linh. Vào phiên thứ ba, một
thông điệp lạ đến dưới dạng câu đố về trái ớt (“càng nghĩ nhiều về nó, nó càng
cay”), và tâm linh, khi được hỏi về tuổi của mình, bắt đầu gõ lên sàn rất mạnh
và những nhịp gõ không thể đếm được. Ông Tắc lo lắng bởi câu trả lời này, và
muốn ngưng đàn cơ, và đòi tâm linh nói rõ xem ông ta đang ở đâu. Tâm linh trả
lời: “Nhà của ta là một đám mây xanh đậm, và xe của ta là một cần cẩu màu
trắng. Ta phối nhạc cho Tào bằng công cụ là lòng nhân đạo, và ban phúc cho các
môn đệ của mình để cho tình thương yêu có được nhiều” (Hiếu Đạo Sư, trang 6,
được dịch trong Bùi Đắc Hùm 2004).
Tuy nhiên, những câu trả lời khó hiểu này gợi cho thấy mức độ cao hơn của bài triết lý, cho nên ba người trở nên kính nể hơn, và theo lời chỉ dẫn của tâm linh, đã chuẩn bị một bữa đại tiệc vào dịp Tết Throng để mời Diêu Trì Kim Mẫu và chín tiên nữ về ăn tối cùng họ. Trong năm tháng, tâm linh này trả lời tên A Ă Â, ba chữ cái đầu tiên trong bảng chữ cái tiếng Việt. Vào đêm Giáng Sinh,
HẾT TRANG 05
ông tự tiết lộ ra mình là Ngọc Đế, cũng được
gọi là Đức Cao Đài, “tháp cao nhất”, người đã đến để lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Sự thật rằng Đức Chí Tôn che dấu danh tính
của mình bằng cách chọn ba chữ đầu tiên trong bảng chữ cái theo mẫu tự Roman có
ý nghĩa rất to lớn, và đánh dấu mối liên hệ quan trọng giữa “tư bản hóa ngành
in” mà Ben Anderson (1988) nhìn nhận là rất quan trọng đối với sự xuất hiện của
những ý tưởng dân tộc của “cộng đồng tưởng tượng”, và cái mà có thể được gọi là
“tâm linh hóa ngành in” được lan rộng đầu thế kỷ thứ 20 ở Việt Nam (McHale
2004). Sự biến đổi của các dạng văn chương và truyền thông đại chúng dưới sự
thống trị của Pháp được nhìn nhận là mở cửa cho kỹ nghệ tâm linh mới, cho phép
giao tiếp không những chỉ với những tâm linh vĩ đại trong truyền thống Á Châu
(người đọc những thông điệp bằng cách để lại vết chữ Tàu trên cát) mà còn đối
với những người Tây Phương Âu Châu (người viết bằng cách thảo chữ theo bảng chữ
cái alphabet).
Cao Đài là tôn giáo đầu tiên được phát
hiện đã dùng chữ Roman của một ngôn ngữ Á Châu (quốc ngữ) trong những
giáo lý của mình, và những bắt đầu hổ lốn đã bày tỏ rõ ràng, ở dạng văn chương
mới mà họ sử dụng, sự biến đổi sâu sắc trong giới trí thức Việt Nam đầu thế kỷ
20. Khởi đầu, chính ông Tắc dường như đã thấy việc đọc và nói tiếng Pháp còn dễ
dàng hơn là tiếng Việt, điều này có thể được chứng tỏ bằng những bản dịch tài
giỏi của thể thơ alexandrine mà ông đã sáng tác trong khi giao tiếp với tâm
linh Victor Hugo và những danh nhân Pháp khác5. Trong những đàn cơ
đầu tiên, đồng tử chính là ông Cao Quỳnh Cư, người đã viết nhiều bài hát nổi
tiếng và bị các chỉ điểm của Pháp nghi ngờ là những vần thơ “ma quái chắp bút”
(theo đúng nghĩa đen) nhận được từ tâm linh của người chết (1931 báo cáo Surêté
của Lalaurette). Bị thuyết phục bởi các chi tiết lộ ra chưa được những người
tham gia biết đến, chẳng bao lâu sau ông Tắc trở nên “mê mải và dồn hết tâm
trí” vào những buổi cầu cơ, được cho là người tài giỏi và cũng là đồng tử dễ
lãnh hội.
Tháng Giêng năm 1926, Ngọc Đế nghiêm khắc
thông báo với các môn đồ của ông rằng đây không phải là trò chơi trong phòng
khách hay là thú tiêu khiển vô ích, và ông dạy họ bằng Đạo Tào và bằng chính
trách nhiệm của họ. Vào tháng Mười Hai, ông đã bảo họ mượn Ngọc Cơ, một dụng cụ
đã được dùng nhiều thế kỷ trong văn chương tâm linh chữ Tàu, để nhận thông điệp
nhanh hơn. Cách viết “Phượng Bay”, cũng còn được gọi là phò loan, “phụng sự
chim loan thần thoại” theo truyền thống là dùng một cái giỏ có cần hay cánh đập
được hai đồng tử cầm để ghi dấu chữ Tàu lên cát (Clart 200, Jordan và Overmeyer
1986, Lang 1998) và hưởng sự tái sinh trong nửa sau thế kỷ 19 ở cả Trung Quốc
và Việt Nam (Kelly 2007).
Ông Tắc và những người bạn của ông mượn
cái giỏ của Âu Kiệt Lâm, đồng tử sáng lập ra Lý Minh Đạo, và nó trở thành dụng
cụ duy nhất cho việc giao tiếp với tâm linh trong tương lai. Âu Kiệt Lâm là
người lai Tàu, và có thể đọc và ghi lại thông điệp bằng cả tiếng Tàu lẫn tiếng
Việt, nhưng ông Tắc và những thành viên khác của thế hệ của ông chỉ nhận được
thông điệp bằng chữ quốc ngữ, và --- tăng dần, đối với ông Tắc, bằng
tiếng Pháp. Dùng ngôn ngữ của những ông chủ thực dân để chỉ trích họ với một kỹ
nghệ --- tâm linh --- cũng có nguồn gốc từ Âu Châu đã trở thành tính chất đặc
biệt của những đàn cơ mà chẳng bao lâu sau do ông Tắc dẫn đầu, sau cái chết của
Cao Quỳnh Cư năm 1929.
Liên Kết với Những Vị Lãnh Đạo Khác: Phái
Vô Vi – Phái Phổ Độ
Vào đêm Giáng Sinh, trước khi Tam Kỳ Phổ Độ soi rạng là buổi “giới thiệu” tâm linh của Lý Thái Bạch, nhà thơ dưới triều Tăng có những vần thơ bất diệt và có thói uống rượu nặng, đã làm nên tên tuổi của ông trong giới Tàu cổ. Ông nhanh chóng nhận vai trò làm chủ xướng của các buổi lễ và buổi cầu cơ, giới thiệu những người khác và truyền bá chỉ dẫn của Đức Chí Tôn, và sau này được bổ nhiệm làm “Giáo Tông Vô Vi” của đại đạo. Sự hiện diện của ông là “hán hóa” rõ ràng các đàn cơ Cao Đài, chẳng bao lâu sau đã giữ chân được các nhân vật của thế hệ đồng tử trẻ hơn được giáo dục ở các trường dạy tiếng Pháp quỳ gối trước nhà hiền triết Á Châu, và rồi cả Âu Châu nữa,
HẾT TRANG 06
chờ được dạy bảo và hướng dẫn. Những bài phát biểu quyền uy tuôn chảy
xuống từ những thế kỷ xa xưa, nhưng rất nhiều chỉ dẫn là những lời rất thực tế
về cách làm sao tổ chức một phiên bản cởi mở, thế tục và năng động của những
hội kín trước đây đã chịu sự đàn áp của Pháp.
Những nhà theo chủ nghĩa duy linh Sài Gòn
được chỉ dẫn đi đến gặp hai cư dân có tiếng của thành phố: người theo chủ nghĩa
duy vật gộc cội Lê Văn Trung, đã một thời là doanh gia thành công được biết đến
do ông nghiện rượu, gái và thuốc phiện, và người đã là thành viên Việt Nam duy
nhất trong Thượng Nghị Viện, và người thần bí khổ hạnh Ngô Văn Chiêu, người
được báo là có cảnh mộng thấy Con Mắt Trái của Thượng Đế (Thiên Nhãn) trên đảo
Phú Quốc.
Sự thù địch của ông Tắc đối với những ai
ủng hộ sự thống trị của Pháp mãnh liệt đến nỗi sau này ông thú nhận rằng ông
không thích Lê Văn Trung, và lưỡng lự không đến gặp ông này tại nhà riêng của
ông ta thậm chí cả sau khi được đàn cơ hướng dẫn làm như vậy: “Lê Văn Trung
đang làm Thượng Nghị Viên của hội đồng Thượng Nghị Viện đời Pháp lớn lắm. Ông
là người Nam duy nhứt làm đến bực đó thôi. Ông là người quá sức đời, tôi và Cao
Quỳnh Cư không hạp chút nào. Tôi kỵ hơn hết, nhứt định không làm điều đó được.
Một ông quan trong thời mất nước không thể tả hết. Khi chúng tôi ôm cái cơ đến
nhà Ngài đặng Đức Chí Tôn độ, mục đích của chúng tôi là Đức Chí Tôn bảo đâu làm
đó vậy thôi.” (Trần Văn Rang 1971). Ông Trung được biết đến bởi sự thù nghịch
của ông đối với tôn giáo, nhưng ông đã tham gia vào nhiều đàn cơ trước đó nơi
ông nhận được những thông điệp từ Lý Thái Bạch, người đã khuyến khích để ông
tin rằng có thể chữa cho đôi mắt không nhìn được của ông. Bất ngờ, khi ngọc cơ
bắt đầu chuyển động, ông Trung thấy thị lực của mình phục hồi, và Đức Chí Tôn
dạy rằng: “Bây giờ con đã nhìn được rồi, và con nên nhớ lý do tại sao con có
thể nhìn được!” Ông Trung trở thành tín đồ Cao Đài ngay lập tức, và chẳng bao
lâu sau được thánh phong Đầu Sư và sau đó là Quyền Giáo Tông. Ông cũng đã tự bỏ
được thói quen thuốc phiện và bước vào cuộc sống mới, ăn chay và tu khổ hạnh.
Ngô Văn Chiêu là học giả rất được tôn
trọng, là Công Chức Huyện Phú Quốc và được biết đến vì đạo đức cao cả của mình
và nhiều năm tham gia các đàn cơ của thuyết hổ lốn Tào. Ông Chiêu đã nói với
những nhà theo thuyết duy linh trẻ về giấc mộng của mình, trong đó có Con Mắt
Trái xuất hiện trên bầu trời cùng lúc với mặt trăng, sao bắc đẩu và mặt trời
mọc, và chỉ cho họ thấy bàn thờ ông đã xây ở nhà mình để thờ Ngọc Đế bằng hình
ảnh này. Theo những lời chỉ dẫn họ nhận được ở đàn cơ với ông Chiêu, những nhà
theo thuyết duy linh Sài Gòn đã lập một bàn thờ tương tự tại nhà ông Trung, và
vào đêm giao thừa Tết 1926, họ nhận được thông điệp chính thức của Ngọc Đế, mở
ra Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Vì ông Chiêu nhận được tín hiệu đầu tiên,
và ông vẫn còn được xem là “tín đồ đầu tiên” của Cao Đài, nhưng chẳng bao lâu
sau ông rút lui mọi nỗ lực để lập thành phong trào của số đông. Trong một đàn
cơ, ông được mời làm Giáo Tông, nhưng ông từ chối khi thấy rằng không phải là
lời mời này, mà là những cám dỗ trần tục khác làm ông không lấy việc tự đắm
mình vào tìm kiếm tâm linh là quan trọng nhất. Thay vì vậy, ông về hưu ở Cần
Thơ, nơi ông dạy các tín đồ khác về môn phái mà sau này được biết đến là “phái vô
vi” (cũng được gọi là nội giáo tâm truyền). Ông chưa bao giờ viết lại
bất cứ học thuyết hay giáo lý nào, và chỉ hành đạo theo cách cổ điển của đạo
Tào, bằng cách tự nói với một số học sinh, những người này sau đó tiếp tục
truyền miệng những lời giảng đạo của ông đến những người mà họ thấy có những
giới hạn khổ hạnh nghiêm ngặt (ăn chay trường, sống độc thân, có những buổi tu
dài trong ngày).
Phái phổ độ của Đạo Cao Đài (hay ngoại giáo công truyền) đi theo hướng hoàn toàn trái ngược: các đàn Tuần hành được tổ chức để tuyển hàng ngàn thành viên mới, lập quy định dễ dàng hơn cho hầu hết các tín đồ (ăn chay mười ngày trong tháng), và bắt đầu nhập đạo tập trung vào việc cấp cứu tế cho hàng triệu người trước đe dọa ngày tận thế cho thế giới hiện tại. Việc cải đạo của ông Trung kích động hàng trăm người khác đi theo thỉnh cầu, và chẳng bao lâu số đông nhân viên dân
HẾT TRANG 07
sự, thân hào nhân sĩ và
giáo viên đã tham gia đức tin mới này. Vào tháng Mười năm 1926, ông Trung đã
trình bày bản tuyên bố chính thức, được 28 tín đồ --- nhân viên của chính quyền
thuộc địa, giáo viên và nhà kinh doanh, tất cả đều được học hành và nhiều người
trong số họ rất giàu có --- ký tên gởi cho Thống Đốc Le Fol, đề nghị chính thức
công nhận Đạo Cao Đài là một tôn giáo mới ở Nam Bộ. Le Fol lịch sự nhưng không
cam kết gì, và sau này đã đến thăm nhà riêng của ông Ngô Minh Chiêu để tham gia
vào một đàn cơ riêng xem thử cách dùng cơ bút này ra sao (Đồng Tân 1967). Nhưng
hành động đã thực hiện trong lời tuyên bố này là một hành động cách mạng: Nó đã
tập trung được sự liên minh của hàng trăm đoàn thể bí mật, thực hành nghệ thuật
vô vi trong bóng tối và dưới sự đe dọa điều tra của Pháp, ra hoạt động công
khai, và đòi hỏi sự bảo vệ của pháp luật dựa trên các ý tưởng của người Pháp về
tự do tôn giáo.
Trong khi ông Trung, một nhân vật đáng
kính của chính phủ ở độ tuổi sáu mươi, được đề cử là người đứng đầu phong trào
này (và được mô tả --- một cách sai lầm --- trong tài liệu thực dân là “Người
Sáng Lập” của phong trào), đã bị ông Tắc - người khoa trương sự lãnh đạo đối
với những đàn cơ và công bố những đổi mới về học thuyết, lôi kéo sự chú ý hơn
cho chính bản thân mình – đối xử hợm hĩnh bằng nhiều cách. Năm 1931, viên chức
thuộc địa Pháp Lalaurette nhận xét ông Tắc là “lực lượng lãnh đạo bất khuất đứng
đằng sau thuyết huyền bí Cao Đài tại Tòa Thánh và là đối thủ theo bản năng với
bất cứ thứ gì của Pháp”, và thế lực thật sự đứng đằng sau định rõ khuynh hướng
chính trị cho Đạo Cao Đài. Ông Tắc được tiếng là “thông minh và nói chung có
kiến thức rộng” (và được xem là năng động hơn ông Trung là người lúc đó đang
mang bệnh), nhưng lại bị chế nhạo là “cựu thư ký quèn” mong được mặc “áo quan
lại phong kiến”.
Bức hình đầu tiên chúng tôi có được của
những nhà tâm linh Sài Gòn cho thấy một nhóm nam giới và phụ nữ mặc đồ tây. Tâm
linh huyền bí A Ă Â dạy các môn đồ của mình mặc áo dài thắt eo ngang lưng để
làm lễ, nhưng dường như ông Tắc đã xuất hiện trong bộ đồ tinh xảo hơn nhiều, vì
trong một đoạn trích từ đàn cơ trước, Đức Chí Tôn đã cười hiền hậu khi ông tới,
nói với ông với giọng của người cha khoan dung nói với người con trai ăn mặc
lòe loẹt của mình: “Cười: Đáng lẽ nó phải sắm khôi giáp như hát bội, mà mắc
nó nghèo, Thầy không hiểu.” (TNHT 2005:36). Tính chất thân mật của những
cuộc chuyện trò giữa các đồng tử trẻ tuổi với Ngọc Đế nhấn mạnh các cách mà
người thống trị từ xa trong vũ trụ được đem tới gần hơn, xưng danh cá nhân và
vai trò làm cha mẹ, chuyển đổi những học thuyết trừu tượng của “Tam Giáo” thành
dạng đạo một thần khác của Á Châu, trong đó quyền lực mạnh mẽ, nam tính của Con
Mắt Trái được liên kết với sự chấm dứt kỷ nguyên thực dân và Thời Đại Mới tự
quyết cho những người trước đây bị làm nô lệ.
Ông Tắc được thánh phong Hộ Pháp, “Người
Bảo Vệ Pháp Luật (Dharma)”, một nhân vật giám hộ thường đứng gần lối vào các
chùa Phật Giáo. Sự lựa chọn trang phục nhà binh của ông được bức chế một phần
cũng vì chức vụ này, nhưng bị ảnh hưởng bởi ý tưởng viết kịch của ông.
Ông biết rất rõ rằng nếu muốn đánh vào trí
tưởng tượng của những môn đồ, những người đang nghe ông, ông phải tự làm cho
mình tương xứng trong trang phục của một ông quan, cho nên ông đã chọn phục
trang truyền thống của nhà hát Tàu-Việt, bộ trang phục được một viên tướng
thống chế mặc. Ông còn mang cả kiếm, và ông đây, tinh thần và thể xác cống hiến
cả để thực hiện một vai trò trong tôn giáo mới: Hộ Pháp, Trưởng Nghi Thức và
Công Lý và Chủ Hiệp Thiên Đài (Lalaurette 1931).
Trang phục của mỗi chức sắc Cao Đài và bổn phận của văn phòng của họ, được nêu rõ trong Pháp Chánh Truyền, điều mà ông Tắc biên soạn, dịch và xuất bản làm Hiến Pháp Tôn Giáo Cao Đài (La Constitution Religieuse). Tài liệu này được soạn từ một loạt các thông điệp từ các đàn cơ nhận tại buổi lễ thành lập được tổ chức ở Chùa Gò Kén, tỉnh Tây Ninh năm 1926. Trích đoạn thánh ngôn được bổ sung bằng những lời giải thích và bình luận của Hộ Pháp, không chỉ ghi lại các lời hướng dẫn mà ông nhận được, mà còn --- kinh ngạc hơn --- những hạn chế và những cố gắng tùy theo sự
HẾT TRANG 08
kiện mà không
tuân theo do chính ông đề ra. Từ tài liệu này, điều rất rõ ràng là thay vì chỉ
đơn giản phục tùng như một đồng tử, ông Tắc trở thành người đàm thoại trực tiếp
trong những cuộc đối thoại này. Vì lý do này, ảnh hưởng của ông Tắc đối với đặc
quyền của thần thánh của đức tin lớn hơn rất nhiều so với ông Trung hay bất cứ
tín đồ sáng lập nào khác.
Trong một phần mà chẳng bao lâu sau trở
thành tâm điểm của tranh cãi, Hộ Pháp hỏi vị thánh đối thoại giải thích vai trò
của Đức Giáo Tông là “anh cả”:
“Thưa Thầy, theo như luật lệ thánh Giáo
Gia Tô Thầy truyền tại thế, thì Thầy cho Giáo Tông trọn quyền về phần hồn và
phần xác; Người nhờ nương quyền hành cao trọng đó, Đạo Thánh mới có thế lực hữu
hình như vậy. Đến ngày nay, Thầy giảm quyền Giáo Tông của mấy con về phần hồn
đi, thì con e sợ cho người không đủ quyền lực mà độ rỗi chúng sanh chăng?
Thầy đáp: “cười! Ấy là một điều lầm lạc
của Thầy, vì nặng mang phàm thể mà ra. Thầy cho một người phàm đồng quyền cùng
Thầy về phần hồn thì nó lên ngai Thầy mà ngồi, lại nắm quyền hành CHÍ TÔN ấy,
đặng buộc nhơn sanh phải chịu lòn cúi trong vòng tôi tớ của các xác thịt hơn
nữa. Cái quyền hành quý hóa ấy, Thầy tưởng vì thương mà cho các con, nào dè nó
là một cây gươm hai lưỡi để giục loạn cho các con.
Nay Thầy đến chẳng phải lấy nó lại, mà
Thầy chỉ đến làm cho tiêu diệt cái tai hại của nó; nếu muốn trừ cái hại ấy thì
chẳng chỉ hay hơn là chia đôi nó ra, không cho một người nhứt thống.
Kẻ
nào đã nắm trọn phần hữu hình và phần thiêng liêng, thì là độc chiếm quyền
chính trị và luật lệ, mà hễ độc chiếm quyền chính trị và luật lệ vào tay thì
nhơn sanh chẳng phương nào thoát khỏi vòng áp chế. (Bản dịch của Bùi Đắc Hùm
1992: 17).
Ông Tắc, một thanh niên trẻ đã được rửa
tội và nuôi dưỡng trong Nhà Thờ Công Giáo, tranh luận về một Đức Giáo Tông
trung tâm, để lãnh đạo có hiệu quả hơn, và ông được cho biết rằng những lỗi
phạm phải khi dự định các cấp thứ bậc Công Giáo cần phải được chỉnh sửa, xác
định rõ ràng thành các quyền lực riêng rẽ hơn, trong hệ thống tâm linh quan
liêu có cấu trúc phức tạp.
Trong đoạn sau nữa, ông Tắc hỏi người đối
thoại với mình, người đã ra đạo nghị định rằng Đạo Cao Đài sẽ lập các quyền
bình đẳng cho nam và nữ chức sắc, bằng câu hỏi nếu đã như vậy thì tại sao phụ
nữ không được làm Chưởng Pháp hay Giáo Tông. Đức Chí Tôn trả lời: “Thiên Địa
hữu Âm Dương, Dương thạnh tắc sanh. Âm thạnh tắc tử. Cả Càn Khôn Thế Giái nhờ
Dương thạnh mới bền vững; cả chúng sanh sống bởi Dương quang, ngày nào mà Dương
quang đã tuyệt, mà bị tiêu diệt. Nam ấy Dương, Nữ ấy Âm, nếu Thầy cho Nữ Phái
cầm quyền Giáo Tông làm chủ nền Đạo thì là Thầy cho Âm thắng Dương, nền Đạo ắt
bị tiêu tàn ám muội.” (Pháp Chánh Truyền, bản dịch của Bùi Đức Hùm.
1992:119). Thậm chí sau khi có sửa đổi nghiêm khắc này, Hộ Pháp còn nhấn mạnh
một lần nữa đòi được giải thích về cái gọi là không thống nhất trong học thuyết
về bình đẳng phái tính, và Đức Cao Đài tức giận trả lời: “Lẽ Thiên Cơ đã định”,
rồi kết thúc tranh luận và bỏ dở đàn cơ.
Cả hai đoạn này nói rằng ông Tắc muốn giới thiệu một số ý tưởng ảnh hưởng của Âu Châu (trọng tâm hóa hệ thống thứ bậc trong giáo hội, các quyền của phụ nữ) vào sự quan liêu tâm linh truyền thống của đạo Nho đứng đầu là Lý Thái Bạch là “Đại Tiên” quản lý bộ máy hành chính phức tạp. Người đàn ông ở độ tuổi ba mươi, đã muốn được đi học ở Nhật Bản là một chiến binh cho cuộc cách mạng được giảng giải chẳng rõ ràng chút nào rằng ông phải học tính kiên nhẫn và hợp nhất phối cảnh nhiều sắc thái hơn và tuần tiến hơn để thay đổi thế giới. Nhưng, như được chứng tỏ bằng các sự kiện ngay sau đó, sự ly giáo và bỏ đạo chẳng bao lâu đã đặt ông Tắc vào một vị trí bỏ qua lời khuyên mà ông nhận được từ những Thầy Tàu cổ xưa và xin lời
HẾT TRANG 09
khuyên thêm từ
những nhà văn và những vị nữ anh hùng Pháp, người sẽ ủng hộ những sáng kiến của
ông.
Tội ly giáo và hình phạt: Con Đường đến
Bát Đạo Nghị Định
Theo truyền thuyết Cao Đài, ba ngày lễ tổ
chức để khai thông “Đại Đạo” năm 1926 cuối cùng kéo dài thêm đến gần ba tháng,
và thu hút con số khổng lồ những người hành hương, cả người xem và người cải
đạo, bao gồm cuộc viếng thăm của hàng ngàn người Cam Pu Chia đã vượt qua biên
giới quỳ gối trước tượng Phật Thích Ca Mâu Ni khổng lồ trên một con ngựa trắng.
Gần như ngay lập tức, những hình phạt của chính quyền được áp đặt để giới hạn
sự mở rộng của đạo, các viên chức thuộc địa Pháp từ chối cấp phép cho việc xây
đền thờ mới, và nhà vua Cam Pu Chia kêu gọi dân chúng trở lại trong khi có
những lời đồn rằng một vị lãnh đạo tôn giáo mới có thể sẽ cố gắng chiếm đoạt
lấy quyền lực của ông. Một số nhà phân tích người Pháp lưu ý với lo ngại rằng
lòng tin đại chúng vào Chúa cứu thế có tiềm năng tạo ra “một Gandhi khác”
6 (vì M.K Gandhi lúc đó đã nắm quyền lãnh đạo của Đảng Quốc Hội bằng cách
liên minh những người theo đạo Hindu và đạo Hồi trên cơ sở hợp nhất những ý
tưởng tôn giáo và dân tộc chủ nghĩa). Những người khác liên tưởng Cao Đài đến
các vùng và những người kích động chính trị chịu trách nhiệm cho những cuộc
khởi nghĩa vũ trang, sợ rằng đó là “cộng sản giả trang tôn giáo” (Thompson
1937:474).
Sự thống nhất theo cảm hứng, ngắn ngủi của
một số nhóm tạp nham bắt đầu tan rã vào đầu những năm 1930, khi ông Lê Văn
Trung chiếm chức giáo hoàng và giành hàng triệu tín đồ. Nhiều vị lãnh đạo có
khả năng lôi cuốn từ Đồng Bằng Sông Mê-Kông, hầu hết đã liên quan vào các hội
kín Minh Sư, cuối cùng trở về với lãnh thổ nơi họ sinh sống chứ không chấp nhận
ở lại làm Đầu Sư tại tòa “Vatican” ở Tây Ninh. Người đầu tiên trong số này là
ông Nguyễn Văn Ca, mà sau này trở thành Giáo Tông của một nhánh Đạo Minh Chơn
Lý bất đồng ý kiến ở Mỹ Tho. Kẽ nứt nghiêm trọng nhất liên quan đến sự bội giáo
của ông Nguyễn Ngọc Tương, Đốc Phủ Sứ Cần Giuộc, và ông Lê Bá Trang, một
viên chức của Chợ Lớn, bởi vì ông Tương đã được gợi ý có thể là người kế vị ông
Trung. Ông Tắc buộc tội họ là “Francophiles” (những người chuộng Pháp) và đã
không đứng dậy chống lại những hạn chế mà thực dân áp đặt vào việc mở rộng Đạo
Cao Đài, và ông Trang đã nộp đơn kiện ông Trung ra tòa án Pháp. Ông Trung đồng
ý bước xuống tạm thời, viện lý do không đủ sức khỏe, và chỉ định bốn người khác
--- các ông Tắc, Tương, Trang và bà Đầu Sư Lâm Thị Thanh thay thế cho ông.
Chính phủ Pháp nâng cao những hình phạt, và năm 1934, chính ông “Quyền Giáo
Tông” bị Pháp bỏ tù vì tội không theo nguyên tắc tài chính, và ông đã phản ứng
dữ dội bằng cách trả lại huy chương
Legion d’Honneur của mình. Chẳng bao lâu sau khi được thả, ông Trung trở bệnh
và chết, đúng vào ngày mà ông Tương và ông Trang triệu tập hội nghị “chỉnh
đạo”. Khi ông Tương và ông Trang cố trở lại để dự đám tang, hai ông này không
được phép vào Tòa Thánh, và bị bỏ đứng ngoài mưa với lời nhắn là ông Trung là
không muốn nhìn mặt họ sau khi quy tiên.
Ông Trung đã tuyên bố trước khi qua đời
rằng ông Tắc là người duy nhất được chỉ định để đảm đương quyền lực của ông làm
nhà lãnh đạo của đức tin, ngay cả khi ông Tắc, vì đã được thánh phong Hộ Pháp,
không thể thực sự đảm đương chức vụ Giáo Tông. Ông Tương và ông Trang cuối cùng
thành lập một nhánh lớn thứ hai của Đạo Cao Đài, “Ban Chỉnh Đạo”, và vào năm
1935 một hội đồng các chức sắc còn lại ở Tây Ninh công bố ông Phạm Công Tắc là
“Giáo Chủ” của “nhà thờ mẹ của Đạo Cao Đài”, mặc dù chức danh tôn giáo của ông,
làm Đồng Tử đứng đầu “hiệp thiên đài” thần bí vẫn không thay đổi.
Làm sao một tôn giáo được thành lập với hai nhánh tách rời “Cửu Trùng Đài” và “Hiệp Thiên Đài” lại chỉ được một người quản lý? Câu trả lời cho câu hỏi này được ông Tắc trình bày trong một bài dẫn giải có kết cấu khôn khéo trong Pháp Chánh Truyền, giải thích về biểu trưng của y phục Hộ Pháp được dùng để “thể hiện” sự liên hiệp của những nhánh khác nhau được phong chức từ trước trong các đạo nghị định ban hành năm 1926. Tại những buổi đại lễ, Hộ Pháp mặc áo giáp màu vàng được tô điểm công phu với kim khôi đinh ba “Tam Sơn” khi ông ngồi trên ngai đối diện
HẾT TRANG 10
với nhân vật Khí
(hơi thở, sinh lực). Tay trái của ông cầm gậy “Giáng Ma Xử”, để yểm trừ yêu
quái, trong khi tay phải cầm chuỗi hạt từ bi. Đọc lời giải thích cho việc này:
Điều này có nghĩa là Hộ Pháp giữ quyền lực của cả công việc tâm linh và thế
tục” (Pháp Chánh Truyền 1992: 190-191). Dùng cách bình luận chính xác cho biểu
tượng trên lễ phục của mình, ông Tắc tranh cãi với những người phê bình ông
trong nội bộ đạo Cao Đài, những người chống đối cho rằng ông đã “độc quyền hóa”
quyền lực mà lẽ ra phải được phân chia. Bộ lễ phước lập nên chỉ thị tâm linh
cho ông, và điều này khẳng định hình ảnh về những quyền lực của ông đối với tất
cả mọi người có thể đang không thừa nhận ông.7
Bày tỏ bằng hình ảnh thường tinh tế hơn và
nhiều sắc thái hơn so với bày tỏ bằng lời nói. Trong những năm sau đó, Hộ Pháp
hầu như thường chọn xuất hiện trước công chúng trong chiếc áo choàng lụa màu
vàng đơn giản hơn, không có những trang trí công phu hoặc dấu hiệu của vị tướng
mà ông đã thường xuyên mặc trong những năm trước đó trong đạo. “Người gác tâm
linh” dùng cây kiếm và cây bút ở tuổi ba mươi hai, lúc này tự xưng là “bần đạo”
ở độ tuổi năm mươi và sáu mươi, trở nên khiêm tốn hơn và tự châm biếm bởi ông
đã lên chức vị lớn hơn quyền thế tục. Tuy nhiên, trang phục hùng dũng trong
những năm đầu, gợi lại mẫu rập khuôn của những kẻ chuyên quyền phương Đông, địa
chủ phong kiến và thái ấp trung cổ tiếp tục ám vào hình ảnh trước công chúng
của ông, và làm cho việc thuyết phục công chúng Âu Châu (và sau này là Mỹ) rằng
ông thật sự là một nhà tiên tri của hòa bình và bất bạo lực trở nên khó khăn
hơn.
Không một nhà lãnh đạo Cao Đài nào khác,
thậm chí cả những đồng tử được tôn sùng nhất của các nhánh khác, mặc trang phục
gần giống như trang phục của ông Tắc. Đồng tử nổi tiếng thứ hai của Cao Đài vào
những năm 1920, 1930, Liên Hoa, người đã nhận được thông điệp trong “Đại Thừa
Chơn Giáo”, đi theo kiểu Tàu-Việt thông thường. Chưa bao giờ nghe thấy tiếng
nói thật của ông Hoa trong chính những thông điệp. Ông “nói tiếng bụng” những
lời dạy của các bậc thầy vĩ đại của tôn giáo, bao gồm những nhân vật như Đức Phật,
Lão Tử, và Khổng Tử, các nhân vật này không nói trực tiếp ở những đàn cơ ở Tây
Ninh do ông Tắc tổ chức. Chính ông Hoa mặc áo thụng đen tuyền của Minh Lý Đạo,
một ngôi đền nhỏ ở Sài Gòn nơi ông thường ẩn dật ở đây để tu, hoặc mặc màu
trắng tinh được các đồng tử dùng ở nhóm miền trung Việt Nam (Hội Thánh Truyền
Giáo Trung Việt). Những đoạn trích trong “Kinh” vô vi này là hàng loạt những
lời dạy bảo về luân lý, trong truyền thống của Tàu về giáo lý đạo đức (Clart
2002, Jordan & Overmeyer 1989, Kelley 2006), được rải rắc theo lối cách
ngôn đạo Tào “Cao Đài không phải Cao Đài mới thật sự là Cao Đài”, giống như câu
của Lão Tử: “Con Đường không phải là con đường mới thật sự là con đường”) và
những lời tiên đoán về ngày tận thế.
Trong nhiều năm, Đạo Cao Đài, một tôn giáo
hòa hợp đã ở trong tình trạng khủng hoảng. Năm 1930, Tòa Thánh Tây Ninh ra một
loạt đạo nghị định để thiết lập chủ nghĩa tuân giáo. Các đàn cơ không được tổ
chức bên ngoài khu vực thánh của Cung Đạo trong Tòa Thánh, và chức sắc và tín
đồ không có quyền không thừa nhận kinh của giáo hội. Một thời gian sau đó, để
trả lời cho sự bỏ đạo và lập các nhánh mới, ông Tắc ban “Bát Đạo Nghị Định”,
rút phép thông công của các nhóm ly giáo và đối xử với họ như những người bội giáo.
Được đồng ký tên tại một đàn cơ với “Giáo Tông Vô Vi” Lý Đại Tiên, tài liệu này
đã chứng tỏ là một trở ngại lớn nhất trong nhiều thập kỷ đối với những nỗ lực
để thống nhất lại nhiều nhánh của Đạo Cao Đài. Thành viên của nhiều nhóm nhỏ
hơn khác đã cam kết cố gắng đạt được sự hợp nhất mới, nhưng họ đã không lôi kéo
được những nhà lãnh đạo Tây Ninh đến các buổi họp bằng bất cứ quyền chính thức
nào, quan điểm của ông Tắc, che khuất tất cả những người kế vị ông, là “nhà thờ
mẹ chờ sự trở về của những đứa con sai lầm của bà”, nhưng “những đứa con” không
thể tự khởi đầu cho cuộc tái hợp nhất.
Những bài thuyết đạo của ông Tắc nói về ba lần trong cuộc đời khi ông rất tuyệt vọng: sự ra đi của những người thân trong gia đình khi ông còn nhỏ, khi ông bị Pháp bắt và đi đày biệt xứ (1940-46), và “khi đạo đang ở trong tình thế khẩn cấp và sắp sụp đổ” (Thuyết đạo # 18, trang 58).
HẾT TRANG 11.
Điều tập trung của ông là làm sao “cống hiến đời mình cho tôn giáo này” và
được “an ủi” vì đã làm như vậy, nhưng điều không nghi ngờ có ý nghĩa là ông chỉ
nói đến sự xung đột bên trong và bị đi đày là nguyên nhân của nỗi khốn khổ, và
vì vậy mà không nhấn mạnh vào vai trò bao quát của ông trong chính trị dân tộc.
Ông Tắc đã chứng tỏ mình là một nhà quản
lý có năng lực và cẩn trọng, người đã tái thiết hệ thống thứ bậc tôn giáo ở Tây
Ninh (nhờ một số đồng tử trung thành trong Phạm Môn) và cùng lúc đó ông đã xây
dựng cấu trúc tôn giáo bản xứ lớn nhất và ấn tượng nhất ở Việt Nam. Mặc dù các
nhà phê bình người Pháp mô tả ông là một người rất đa cảm (“Ông rất dễ xúc động
mạnh, lời nói, ý nghĩa cho thấy vẻ bề ngoài như ai đó đang say mê”), ông tự cho
mình là người hiện đại hóa và cải tổ, người đầu tiên tìm cách làm lành vết
thương của chủ nghĩa thực dân thông qua thuyết phục và thỏa hiệp. Trong khi ông
được mô tả năm 1931 như là một nhân vật của quá khứ (“Trong việc giao tiếp hàng
ngày với các đồng tín ngưỡng, trông ông giống như thầy phù thủy/pháp sư già của
những hội kín từ xưa và việc ông vẫn giữ như vậy đã kích thích sự lôi cuốn của
thời xưa”, Lalaurette 1931), năm 1935 Thống đốc mới của Nam Bộ Pagès thừa nhận
Cao Đài không phải là một thành tích của một kỷ nguyên khác, mà “sự chuyển vị
vào thế giới hiện đại của những hệ thống đức tin xưa” (Blagov 2002:32). Trong
một vài năm, lúc đầu dưới thời của Tổng Thống Đốc Robin và sau đó là chính
quyền cánh hữu Front Populaire, Cao Đài được phép hưng thịnh.
Những mẩu đối thoại với Tâm Linh Âu Châu:
Victor Hugo và Tâm Linh Gia Tộc
Tiếng tăm của Cao Đài đối với thuyết hổ
lốn và vay mượn từ truyền thống Âu Châu gần như hoàn toàn là kết quả của công
lao ông Phạm Công Tắc, vì không một nhánh khác nào mong có được sơ lược tiểu sử
“quốc tế” tương tự hoặc nhận được nhiều hướng dẫn luân lý và tôn giáo từ những
nhân vật không phải người Á Châu như vậy. Clifford Geertz mô tả là “syncretisme
à l’outrance”, nơi có sự pha trộn giữa phương Đông và phương Tây quá mức,
gần như là lạm dụng các dạng kịch tính thu hút nhiều sự chú ý và nhạo báng từ
các nhà quan sát ngoại quốc. Victor Hugo và Jeanne d’Arc, hai “vị thánh Âu
Châu” nổi tiếng nhất trong đạo Cao Đài, đều là những tâm linh chỉ nói chuyện
với ông Phạm Công Tắc, từ chối “bước xuống” đàn cơ nếu ông Tắc không có mặt ở
đó làm đồng tử “đón tiếp” họ.8
Cho đến lúc bấy giờ, Victor Hugo là nhà
văn có tác phẩm được phổ biến rộng rãi nhất ở thuộc địa Đông Dương, rất nổi
tiếng đối với người Việt Nam cũng như người Pháp, và được mạnh mẽ khẳng định là
người bảo vệ chống áp bức và là người chỉ trích việc giám sát và bỏ tù. Những
bài thơ thần bí của Hugo và việc thực hành tâm linh gây cảm hứng ý thức thừa
nhận trong các độc giả trẻ tuổi của ông ở Sài Gòn, người đã xem ông là khám phá
giao điểm của truyền thống phương đông và phương tây. Hugo có những tầm nhìn “
bao la” về sự thông thái Á Châu lan sang Âu Châu, và đùa nghịch với thuyết ăn
chay và ý tưởng đầu thai trong những vần thơ của ông, mà chưa bao giờ tạo ra
một đức tin mạch lạc hay có hệ thống dựa trên những mối liên kết này.
Sự bao gồm cả những nhân vật lịch sử và
văn học Âu Châu vào các vị thần Cao Đài đi quá xa việc tô điểm cho văn hóa
Phương Đông. Trái lại, nó vinh danh một vài linh hồn dũng cảm trong khi dò tìm
những hồi chuông báo tử cho sự thống trị toàn quyền phương Tây. Cho nên Victor
Hugo, kẻ thù vĩ đại của Napoleon Đệ Tam khi ông còn sống, nói chuyện trong
những đàn cơ để buộc tội cuộc xâm lược Đông dương và “hành động bạo ngược của
những kẻ thống trị”. Joan of Arc, một cô gái làng quê đã nghe thấy những tiếng
người khuyên cô đứng dậy chống lại quân chiếm đóng, nói rằng “một người bị áp
bức, một khi đã nâng cao ý thức sẽ chứng tỏ rằng không thể bị đánh bại”.
Shakespeare, mặc dù được khen ngợi là đã truyền cảm hứng cho một đế chế “không
biên giới và ngừng bắn” (sans arrêt et sans trêve), cũng được thông báo
rằng những ngày vinh quang của Á Châu Anh Quốc đã qua, và sau cuộc chiến tranh
vĩ đại chính quyền thuộc địa vô thần sẽ “tiến vào vực thẳm” (marche vers le
gouffre) và cũng tàn lụi (Les Messages Spirites 1962:58, 90, 108).
HẾT TRANG 12
Victor Hugo là vấn đề tranh cãi trong Đạo
Cao Đài ngày nay không phải bởi vì những tác phẩm của ông vẫn đang được ngưỡng
mộ rộng rãi trong giới cao niên trí thức Việt Nam, mà bởi vì những thông điệp
quy cho ông trong đó ông ủng hộ những cuộc đấu tranh của ông Tắc với lời nhận
xét của ông: “Trò được ban phước, trong khả năng là đồng tử của mình ... Mặc dù
những tâm linh ở thế gian không trung thành với trò, những cánh cổng của Thiên
Đàng đang hoan nghênh những việc làm của trò” (Les Messages Spirites
1962: 85-86). Việc ông Tắc đảm đương vai trò lãnh đạo ở Tây Ninh cũng được bảo
vệ bởi tâm linh của La Fontain, nhà văn viết truyện ngụ ngôn của Pháp có câu
chuyện về những con kiến đen chăm chỉ dùng để chỉ trích những “con kiến vàng
lười nhác” người muốn đạt những thứ bậc chỉ dựa trên thâm niên và cấp bậc mà họ
có trong chính quyền thuộc địa Pháp. “các em trai” của Hiệp Thiên Đài được cho
rằng thuyết phục “nhờ làm việc cần cù và thông minh”, trong khi những người lớn
tuổi hơn tự thổi phồng “với niềm hãnh diện mà sẽ chứng minh là sớm diệt vong” (Les
Messages Spirites 1962:75).
Trong các truyền thống Trung quốc, các
đồng tử thường được các tâm linh mà họ nói chuyện “nhận làm con nuôi”, làm cho
họ trở thành một phần của gia đình vô hình9. Tuy nhiên, trong khi
Victor Hugo nói với ông Phạm Công Tắc bằng giọng tình cảm của người thầy dạy
học thuộc hàng cha chú, hai tín đồ khác ở Phnom Penh được chỉ định ở đàn cơ là
con tâm linh của ông: Đặng Trung Chữ là con trai lớn Charles và Trần Quang Vinh
là con trai thứ François.
Mối quan hệ tâm linh ruột thịt này được tuyên bố vào tháng Mười Hai năm 1931,
khi ông Vinh trở về sau khi đã ở Pháp nhiều tháng, giúp dựng Triển Lãm Thuộc
Địa Quốc Tế ở Paris cho chủ công ty của ông, Musée Sarrault of Indochinese Art.
Điều được tiết lộ là Hugo, Chưởng Đạo của Hội Thánh Ngoại Giáo, đã cử Vinh đi
công tác tôn giáo để giành sự ủng hộ chính trị cho tôn giáo mới, và để thăm
nhóm mười lăm người Paris đang hành đạo ở thủ đô giáo khu. Cả hai người con
trai tâm linh của Hugo sau này đều lên chức Phối Sư.
Thật thú vị khi tìm hiểu về sự phân nhánh
của những dạng khác nhau khi xác định quan hệ tâm linh ruột thịt trong Đạo Cao
Đài. Trong các thuyết đạo của mình, ông Tắc lưu ý rằng các truyền thống của đạo
Tào và đạo Phật xác định thầy tâm linh là “Thầy”, trong khi đạo Cơ Đốc dạy các
môn đồ của mình gọi Thượng Đế là “cha”. Trong Thuyết Đạo # 17, Hộ Pháp hỏi
người cố vấn Victor Hugo (“Chưởng Đạo”) “Vậy thì tại sao Đức Chí Tôn lại tự
xưng là Thầy?” Ông được trả lời bằng một bài thơ: “Cha thì đáng cha, thầy thì
đáng thầy” (trang 53). Những mẩu đối thoại thân mật, tình cảm mà ông Tắc (là
một đồng tử) nhận được và ban hành lại thành luật cho ông Vinh và ông Chữ lại
không có ông Tắc trong đó. Những người con trai tinh thần của Victor Hugo được
xem như là các con người Pháp của ông đầu thai, và giống như những người con
trai Pháp của Victor Hugo, họ lớn lên và thành nhà văn và nhà cách mạng, những
người sáng tác thơ và giữ vị trí bảo vệ cho cuộc kháng chiến chống thuộc địa.
Giống như con trai Pháp của Hugo François, người đã chép lại các đàn cơ của cha mình và sau đó dịch các tác phẩm
của Sheakpeare, người con trai Việt của Hugo là ông Vinh chép lại các đàn cơ, chọn lọc những vần
thơ sau khi chết của ông trong một cuốn tuyển tập được xuất bản năm 1960, dịch
sang tiếng Việt từ nguyên bản tiếng Pháp, và kỷ niệm ngày sinh nhật lần thứ 167
của Hugo vào ngày 22 tháng Năm, 1937 với lễ tôn phong một đền thờ ở Phnom Penh
bao gồm một bức chân dung của người cha tâm linh của mình.10 Trong cuốn tự truyện của mình, ông Vinh
lưu ý rằng ông nhận được tin về việc bổ nhiệm ông làm phận tâm linh đặc biệt mà
ông không thể từ chối (Vinh 1969). Theo con đường trần tục, ông Vinh sau này
trở thành người sáng lập Quân Đội Cao Đài năm 1945 và Bộ Trưởng Quốc Phòng của
miền Nam Việt Nam năm 1950.
Trái lại, Hộ Pháp, tìm thấy phận cho riêng mình làm lãnh đạo theo hướng siêu trần hơn và một lần nữa ở cùng trình độ với các thần thánh. Lời thề sống độc thân không được thảo luận rõ ràng trong các thuyết đạo của ông, nhưng sự cần thiết của nó để gột sạch thân thể và chuẩn bị để nhận các thánh ngôn thì được thừa nhận, và ông đã không có thêm con sau khi được thánh phong. Một con người, Hộ Pháp lưu ý trong thuyết đạo của mình là “vị thiên thần cưỡi một con vật” (Thuyết đạo #21, ngày 9 tháng Hai năm 1949 trang 65). Những nguyện vọng tâm linh đến việc tu tiên và tu thần
HẾT TRANG 13
phản ánh “giục thúc
bỏ con vật đặng tạo ra phẩm vị Phật” (#21, trang 67), để “phương pháp của tinh
thần quyết thắng vật chất” (#22, trang 69) vì hạnh phúc thật sự không hữu hình,
nó là tâm linh, không nhất thời (hoặc vật chất) mà là vĩnh viễn.
Trong bài thuyết đạo đưa ra năm 1949 vào
ngày giỗ của Hugo, ông Tắc khám phá ra rằng chính Victor Hugo nổi lên từ giòng
dõi tâm linh của Nguyễn Du. Theo cách này, Hugo được “làm cho bớt xa lạ” và có
mối ràng buộc đến một nhân vật văn học vĩ đại của Việt Nam, còn Nguyễn Du trở
thành người “toàn cầu” và thấy tài năng của mình có tầm quan trọng ngang hàng ở
Pháp. Khuynh hướng mới này đến vào khoảnh khắc chính trị khi những nỗ lực đổi
mới một ký kết xã hội và hàn gắn vết thương của chủ nghĩa thuộc địa nhường lại
cho nhận thức sau Đại Chiến Thế Giới Thứ Hai rằng việc trao nền độc lập cho
thuộc địa là không thể tránh khỏi. Nó cũng đánh dấu một thay đổi cho chính
triển vọng của ông Tắc, người đã một thời làm sinh viên đọc những tác phẩm của
các nhà nghiên cứu nhân văn của Pháp, nhưng sau đó đã thấu hiểu trên phạm vi
hẹp nhờ ảo mộng hoàn thiện hơn của tôn giáo Á Châu. Đặt Hugo vào vị trí mới là
“em trai” của Nguyễn Du chỉ có thể được xem là một cố gắng để bác bỏ vai trò
khai hóa quy cho chủ nghĩa thuộc địa.
Dùng Chủ nghĩa phương Đông chống lại Thực
Dân: Thần Học theo Bài Phê Bình về Chính Trị và Văn Hóa.
Khi học giả Hoa Kỳ Virgina Thompson thăm
Thuộc Địa Đông Dương trong những năm 1930, bà thấy Đạo Cao Đài là “một phong
trào xây dựng bản xứ ở Việt Nam” (1937:475) và đặc biệt khen ngợi hết lời những
gì Hộ Pháp đã làm cho Tây Ninh, xây trường học, in báo và những cỗ máy máy dệt
lụa “mang màu sắc Gandhi trong việc tạo dựng cộng đồng tự cung tự cấp”
(Thompson 1937:474). Cả Gandhi và ông Tắc đã xem cận cảnh chủ nghĩa văn hóa dân
tộc như chiến lược chính trong cuộc kháng chiến chống thực dân. Khái niệm về sự
trở lại của những truyền thống thuần túy, bản xứ với sự nhấn mạnh đến một số
dạng sức mạnh luân lý và đạo đức nhất định. Bị ảnh hưởng bởi Chủ Nghĩa Xã Hội
Darwin, Gandhi tranh luận rằng người Ấn Độ gây ra sự suy đồi của Ấn Độ vì những
lỗi lầm luân lý của chính mình và sự a dua theo những kiểu cách tiêu thụ nước
ngoài. Ông Tắc vin vào những lời tiên tri truyền thống trước đây rằng người
Việt tự chuốc lấy chế độ thuộc địa như là một hình phạt cho những tội lỗi của
họ, nhưng bây giờ đã trả những món nợ nghiệp chướng và sẽ được ban thưởng cho
sự chịu đựng của họ dưới ách thuộc địa và trở thành “một nước làm chủ nhân
loại.”
Paul Mus, khi thử giải thích tại sao “Đạo
Thần Bí” Cao Đài có xu hướng tự tách khỏi hướng thực dân, đã lập luận rằng
người Pháp hiểu lầm nội dung tôn giáo của chủ nghĩa siêu tự nhiên Việt Nam:
“Chúng ta đã nhầm phép bói toán với phép phương tiện” (1952:292). Những thầy
bói của truyền thống Á Đông tìm cách phân biệt kiểu hài hòa chứ không thay đổi
chúng thông qua trung gian siêu nhiên nào đó. Cho nên những ý tưởng triết học
và tôn giáo của những người thầy vĩ đại được dùng để chẩn đoán sự khó
chịu Tây Phương chứ không hành động trực tiếp chống lại nó. Mus giải thích:
“Những ý tưởng của con người, mà họ là một phần của phương tiện và nỗ lực, sẽ
không có nghĩa gì khi họ không diễn giải ý tưởng về cân đối hài hòa, tiên lệnh
đủ mạnh để làm cho họ thành công. Sự giúp đỡ phải rơi xuống từ trên trời hoặc
mọc lên từ dưới đất. Để xây dựng khôi phục tôn giáo của một Việt Nam thần bí,
bắt rễ từ những đức tin phổ biến của số đông vẫn còn ngâm trong quá khứ, đầu
tiên cần thiết phải chứng minh rằng điều này là có hiệu quả” (1952:292-293).
Ông phê phán những nỗ lực của Pháp để “chứng minh” quyền lực siêu cao của họ
bằng kỹ nghệ còn nổi bật hơn là các lực lượng quân sự Hoa Kỳ, như những học trò
của ông như Francis Fitzgeral sau này đã nói thêm.
Khi nói về “chủ nghĩa yêu nước, giống như tôn giáo của họ, là tài tiên đoán” của Việt Nam (1952:293), Mus lập luận rằng nó gắn với những nỗ lực để phân biệt những yếu tố rộng rãi hơn trong cơ cấu vũ trụ. Bảo vệ mảnh đất của cha ông khỏi sự xâm lược của ngoại bang biểu hiện như là một nhiệm vụ tâm linh. Bởi thờ ông bà là “tôn giáo duy nhất không có hoài nghi”, Mus tranh luận rằng
HẾT TRANG 14
máy bay trở nên bất lực trước những đoàn quân du
kích bảo vệ mảnh đất quê hương, bởi họ tin rằng chính ông bà tổ tiên cho họ sức
mạnh bằng cách ở lại trong thân xác của người nối dõi và được thấy trong mỗi
nén nhang thắp lên trước bàn thờ gia đình.
Nhưng ông đã không tính đến được những cải
tiến trong chủ nghĩa yêu nước của Việt Nam đã được phái phổ độ Đạo Cao Đài của
ông Tắc giới thiệu. Hộ Pháp thành lập một dạng đàn cơ nhiều công cụ hơn, không
những để hiểu thế giới mà (theo lời của Marx) để thay đổi nó. Cùng lúc đó,
những giáo lý này được bắt rễ từ truyền thống và tự nó thức tỉnh lòng mộ đạo,
giới thiệu một hệ thống mới để đánh giá khuynh hướng văn hóa và đặt nhiều thói
quen văn hóa ngoại biên vào trung tâm. Học thuyết trung tâm của Cao Đài là một thỉnh
cầu thời hoàng kim rằng kết thúc của Thời Kỳ Thực Dân cũng là kết thúc của chu
kỳ vũ trụ, và các dân tộc trước đây bị làm thuộc địa (và đặc biệt là dân tộc
Việt Nam) sẽ lên làm lãnh đạo tâm linh mới cho thế giới. (Ngày kia, có một nước
trong vòng nô lệ vì ta mà làm chủ nhân loại). Vin vào những gì Nandy gọi là
“những yếu tố thụt lùi của đạo Cơ Đốc”, cũng quan trọng như trong thông điệp
của Gandhi (Nandy 2005:74), họ tranh luận rằng những người hiền lành không chỉ
kế thừa trái đất mà họ còn có thể dùng ý nghĩa của ưu thế luân lý của người bị
áp bức làm một trong những vũ khí quan trọng nhất của họ.
Khác xa “cargo cult” thờ những nguồn quyền
lực và của cải ngoại quốc và khen ngợi những thứ đó, những học thuyết Cao Đài
dạy rằng việc chống lại hệ tư tưởng thực dân và những thông lệ vật chất sẽ cho
phép người Việt tự tách ra và hưởng tái sinh, khi đó họ đầu thai để phục hồi
lại tình trạng cổ xưa cho những giá trị văn hóa Á Đông. Gandhi đã nhanh chóng
nhìn thấy Thuyết Thông Thiên Học này, và một ý niệm lý tưởng hóa của những giá
trị tâm linh phương Đông, có tiềm năng chính trị lớn, và ông dùng tiềm năng đó
để tự liên kết mình với Qui Tắc Trong Nhà của Annie Besant cho Hội Đoàn Ấn Độ
đồng thời tập trung ít hơn vào chính chủ nghĩa thực dân so với sự ưu việt luân
lý và văn hóa của nền văn minh Ấn Độ. Ông Tắc cũng sở hữu cái mà chúng ta cho
là không hợp thời gọi là “những bài diễn thuyết phản văn hóa” từ
“Annamophiles”(chuộng Việt) trong những
tâm linh Pháp và giới Thông Thiên Học, và nâng lên một chiến dịch quan hệ công
chúng được phối hợp từ xa để bắt buộc Pháp cho phép mở rộng Đạo Cao Đài.
Ông Tắc dùng điều kiện thuận lợi của ông ở
Pháp và ước muốn của ông là dựa vào kho vũ khí thực dân để lập biểu đồ cho con
đường trong đó một thanh niên tây hóa đầy ngụ ý chống thực dân dần dần được
hướng dẫn bởi những tâm linh trong chân lý Á Châu, và đi lên từ việc làm “bàn
tay” hay “cây bút” cho các thượng đế, thành đối tác đàm luận và thậm chí ---
trong những hình ảnh về sau này --- một chiến sĩ năng động, đánh đuổi các thế
lực quỷ sứ 11. Một ông Phạm Công Tắc lớn tuổi hơn, chín chắn hơn
không còn lấy những bài học từ các nhân vật văn chương Pháp mà ông học ở các
trường thuộc địa nữa. Ông không còn tìm cách đổi mới chủ nghĩa thực dân bằng
cách hòa giải các tư tưởng khai sáng của Pháp với những hành động của các nhà
quản lý đầu óc hạn hẹp nữa. Thay vì vậy, ông tự đưa mình vào chuyến đi riêng
của ông đến phương đông, tránh sự tìm kiếm của người theo thuyết cho rằng dân
sinh ra ở địa phương vượt trội hơn người nhập cư để tìm di sản của một tầm nhìn
thế giới về đức tin theo thuyết hổ lốn, hợp nhất.
Paul Mus mô tả Đạo Cao Đài là một “tôn
giáo lật ngược” (religion de remplacement) trong đó những chủ thể thuộc
địa đến để thay thế những ông chủ của họ: “Trong khi cố gắng phục hồi đế chế
Việt Nam, những môn phái chính trị thần quyền không chỉ ra ngoài những ý tưởng
của chúng ta, mà còn tiêu diệt những ý tưởng đó” (Mus 1952:248). Ông tranh
luận, trên cơ sở đó, cách nhìn về sự thay đổi của họ cấp tiến hơn cộng sản theo
nhiều cách, những người “nằm trong ranh giới về cách nhìn nhận thế giới của
chính chúng ta”: “Những thế lực chống
thực dân “bảo thủ”, và đặc biệt là những thế lực có khuynh hướng thần bí, có
thể đấu tranh cùng chúng ta chống cộng sản, nhưng họ coi sự ảnh hưởng văn hóa
của chúng ta cũng tương tự như sự ảnh hưởng này từ cộng sản, là những người
thừa kế vô ơn của chủ nghĩa vật chất phương tây” (Mus 1952:249).
HẾT TRANG 15
Robert Young lập luận rằng, trong khi ông
Tắc (giống như Grandhi) thường được thấy thuyết giáo “phản hiện đại”, và nói về
việc khôi phục những giá trị truyền thống, sự thật là, “sự phản hiện đại của
ông được chứng minh là hiện đại nhất trong những nhà hoạt động chống thực dân”
(2001: 334). Trong thập niên cuối của đời mình, Hộ Pháp bắt đầu thực hiện một
cuộc chiến tranh truyền thông, dùng nhóm trình diễn làm vũ khí bí mật của mình.
Ông có một loạt các buổi họp báo, gặp các thông tín viên ngoại quốc, đi Geneva
và Nhật Bản, Đài Loan và Hà Nội với tư cách là “đồng tử ngoại giao”, liều lĩnh
chống đối việc chia cắt đất nước.
Bernard Fall thăm Phạm Công Tắc vào tháng
Tám năm 1953 để hỏi ông về triển vọng đối với tiến trình trao trả tự do cho
thuộc địa. Người lãnh đạo Cao Đài đã gây ấn tượng sâu sắc đối với Bernard Fall,
như được ghi lại trong lá thư ông Fall gởi cho vợ mà mãi đến năm nay mới được
xuất bản: “Người đàn ông có trí thông minh nhức nhối và sự tiếp cận của ông đến
mọi thứ đều rất thực tế. Trong ba tháng rưỡi, anh học được nhiều về Đông Dương
còn hơn tất cả những gì anh đã học trước đây. Khi nghĩ đến chuyện ông ta ngồi
đây và nói với anh về nhu cầu được Pháp giúp đỡ sau khi ông ta đã có năm năm bị
Pháp đưa đi biệt xứ ở Madagascar. Người đàn ông này rất hấp dẫn và anh có thể
thấy lý do tại sao hai triệu người lại nghĩ chính ông ta là người đứng cạnh
Thượng Đế --- và trong số này bao gồm rất nhiều người Âu Châu có học” (Dorothy,
Mùa Thu 2006: 77-78). Fall đã mô tả ông Tắc một cách nổi tiếng là “nhà chính
trị sắc sảo nhất Việt Nam”, nhưng vẫn còn nghi ngờ về việc ông này có thể dùng
nền tảng tôn giáo để hòa giải hai thế lực ngày càng trở nên phân cực mà sau này
trở thành Việt Nam Dân Chủ và Việt Nam Cộng Hòa (Mùa Thu 1955:249).
Năm 1953-1954, ông Phạm Công Tắc có nhiều
cuộc họp báo ca ngợi cả Bảo Đại và Hồ Chí Minh và kêu gọi thống nhất dân tộc.
Khi quân Pháp bị đánh bại ở Điện Biên Phủ năm 1954, ông kêu gọi sự hòa hợp giữa
những nhà dân tộc miền nam với cộng sản miền bắc. Ông Tắc tin rằng tôn giáo hòa
hợp của ông sẽ tạo ra hoàn cảnh thương lượng lý tưởng, đưa những nhóm chính trị
khác nhau của Việt Nam xích lại gần nhau, và ông hy vọng Pháp và Hoa Kỳ sẽ ủng
hộ tiến trình này. Ông đến Hội Nghị Geneva vận động hành lang tuy nhiên, ở đó
đề nghị của ông đã không thành khi Pháp và Việt Minh đồng ý “phương pháp tạm
thời” chia cắt đất nước ở vĩ tuyến 17.
Ông Tắc và rất nhiều người theo đạo Cao
Đài khác đã sẵn sàng hợp tác với Bảo Đại, nhưng khi Ngô Đình Diệm tiến tới củng
cố quyền lực của riêng mình nhờ hậu thuẫn của Hoa Kỳ, những nhà theo chủ nghĩa
dân tộc không liên kết bị ép buộc giải tán. Vào tháng 10 năm 1955, ông Diệm ra
lệnh cho Tổng Tư Lệnh Cao Đài là ông Phương xâm chiếm vào Tòa Thánh và lấy đi
của ông Phạm Công Tắc toàn bộ quyền lực trần tục. Ba trăm lính gác giáo hoàng
của ông bị tước vũ khí và ông Tắc trở thành tù nhân thực sự dưới đội quân của chính
mình. Ngày 19 tháng Hai năm 1956, những người con gái của ông Tắc và một số
lãnh đạo tôn giáo khác bị bắt, nhưng bản thân ông thì trốn thoát. Ông đã liên
lạc với những môn đồ của mình nhiều tuần sau đó từ Phnom Penh, và sống ba năm
cuối của cuộc đời lưu vong tại Cam Pu Chia.
Bất bạo lực mà ông Tắc kiên định thuyết
giáo trong những năm cuối của cuộc đời và khái niệm mà ông đã thăm dò rất nhiều
về “chung sống hòa bình” dĩ nhiên chưa bao giờ bê nguyên học thuyết của Gandhi
về kháng chiến thụ động. Mặc dù ông không biết về việc thành lập Quân Đội Cao
Đài trong suốt hơn năm năm lưu vong trong các nhà tù thuộc địa của Pháp bên
ngoài miền duyên hải Phi Châu (Madagascar và Các Đảo Comores), sự chấp nhận của
ông Phạm Công Tắc để quân sự hóa đạo Cao Đài, đối với rất nhiều người trong Đạo
Cao Đài cũng như người ngoài, là khía cạnh gây tranh cãi nhiều nhất trong sự
nghiệp của ông. Ông Tắc gọi du kích Cao Đài là “lửa ở trong tim sẽ đốt cháy và
hủy hoại nó” (tâm nuôi hỏa) (Bùi Đắc Hùm & Beck 2000:85) và ngay lập
tức đưa trụ sở quân đội ra khỏi Tòa Thánh, nhưng ông không thấy tính thiết thực
chính trị của việc có “lực lượng phòng vệ” để bảo vệ các môn đồ và cho ông lực
đòn bẩy trong nhiệm vụ cân bằng tạm thời, treo giữa Pháp và Việt Minh.
HẾT TRANG 16
Ông Tắc khăng khăng rằng đạo Cao Đài cần
phải giữ thế “độc lập”, từ chối liên minh với cả hai bên và tìm con đường hòa
bình thông qua tiến trình trao trả tự do cho thuộc địa. Đã từ lâu, Đạo Cao Đài
nuôi dưỡng một viễn cảnh không tưởng là được tồn tại như một cộng đồng tự trị,
vì sự khác biệt với cả chính phủ thực dân Pháp và Việt Minh. Trong khoảng thời
gian từ năm 1946-1954, họ nhích gần hơn đến việc biến giấc mơ thành sự thật,
bởi vì Pháp đã đồng ý tạo ra một “nhà nước bên trong một nhà nước”, nơi những người
Cao Đài có chính quyền riêng của họ, thu thuế riêng cho họ, hưởng tự do tôn
giáo, nhận vũ khí của Pháp và luyện quân cho mình. Những người lính Cao Đài
phục vụ dưới quyền tư lệnh của riêng họ, và họ được giao nhiệm vụ làm lính gác
ở những nơi lân cận Tây Ninh, nhưng không được cử đi đánh Việt Minh ở miền bắc.
Điều này tạo ra một tiểu chính trị thần quyền trong tỉnh Tây Ninh, nơi ấn tượng
sâu sắc của việc thực hành quyền lực có thể được diễn giải như một nỗ lực để
biểu lộ giấc mơ dân tộc chủ nghĩa của quyền tự trị, ngay cả khi việc đó được
chính quyền thuộc địa Pháp dàn xếp cho sẵn.
Một số đông Cao Đài khác, kết giao với
những chi phái như Minh Chơn Lý, Minh Chơn Đạo, Ban Chỉnh Đạo, và Tiên Thiên,
đấu tranh cùng Việt Minh để chống Pháp. “Công Ước Pháp – Cao Đài” thương lượng
với Nhà Thờ Tây Ninh không lo liệu việc thả những nhà lãnh đạo Cao Đài khác từ
nhà tù hoặc từ hình phạt đày biệt xứ, và vì lý do này nó chia rẽ chứ không
thống nhất tôn giáo. Những nỗ lực làm người hòa giải của ông cuối cùng đã không
thành công, và việc đề cao nguyên tắc “chung sống hòa bình” đã gạt ông ra khỏi
sự đồng thuận với những nhà lãnh đạo chống cộng mạnh mẽ. Mặc dù ông Tắc tự nhận
mình theo “cùng con đường với Gandhi” (Thuyết Đạo 20), thậm chí những người
thông cảm với mục đích chính trị của ông thấy rằng sự chọn lựa cách diễn đạt
quân sự của ông chứng tỏ “cái tôi và tìm kiếm quyền lực bản thân là phần nhiều”
so với nhà lãnh đạo độc lập Ấn Độ.
Gandhi coi việc chia cắt Ấn Độ trên một
mức độ là sự thất bại của bản thân, và bài viết cuối cùng ông Tắc nghe như một
lưu ý tương tự, nói rằng những người Cao Đài, và toàn thể nhân dân Việt Nam,
nên chuộc lại sự bất hòa của họ.12 Yêu cầu trước khi nhắm mắt của
ông đối với Vua Sihanouk là không đưa ông trở lại Việt Nam cho đến khi đất nước
được “thống nhất, hoặc theo đuổi chính sách hòa bình và trung lập mà theo đó
tôi đã cống hiến đời mình”¹. Nhưng ngay cả khi thấy rất nhiều hy vọng của mình tiêu tan, Hộ Pháp vẫn
biết cách ý thức về tội lỗi của con người một cách sáng tạo: Ông hứa với những
tín đồ của mình một chiến thắng luân lý bằng cách vin vào cái tôi không bạo lực
của những người hiển nhiên chiến thắng để tạo ra sự nghi ngờ về chiến thắng của
họ. Trên mức độ đạo đức, những câu nói cuối cùng của ông vang vọng công thức
của Romain Rolland “Chiến thắng luôn là thảm họa cho người chiến thắng hơn là
cho kẻ chiến bại” (Nandy 2005). Sự chịu đựng của người bị đánh bại có thể đề
cao phẩm chất đạo đức của họ và làm cho họ mạnh mẽ, trong khi việc ăn mừng
chiến thắng của đối phương có thể mở ra con đường cho sự mục nát và suy đồi.
Kết luận: Nghệ Thuật Viết Kịch và Nghệ
Thuật Quản Lý Nhà Nước
Những cuộc tranh luận sôi nổi mà tôi đã
chứng kiến khi đưa thi hài của Hộ Pháp hồi hương vào tháng Mười Một năm 2006
phản ánh nhiều tầm cỡ khác nhau của “tái cấu trúc đối thoại của văn hóa” rất
đặc trưng cho Việt Nam sau chiến tranh (Lương 1994: 79-117). Hiểu ông Phạm Công
Tắc là người biểu diễn, dựa trên “các kho kiến thức” khác nhau và hợp nhất
chúng lại trong một đạo luật có hiệu quả của một bài diễn thuyết về quyền lực,
cũng cho phép sự phân tích của chúng tôi xích gần đến những học giả đương thời
về tôn giáo Á Đông, những người đã lập luận rằng Đạo Nho, Đạo Tào và Đạo Phật
là --- theo như kinh của Cao Đài dạy --- gần gũi với “kho kiến thức” hơn là
“tôn giáo” bởi những học thuyết của họ không riêng biệt đối lập lẫn nhau và
chúng được hiểu đúng hơn như là các nguồn văn hóa từ đó những cá nhân sắp xếp
những ý tưởng và thông lệ khác nhau vào những thời điểm khác nhau (Campany
2003, 2006).
HẾT TRANG 17
Vì những người Cao Đài đã hình thành các
công ước với hàng loạt liên minh đã không thể đưa họ đến thắng lợi, có thể lập
luận rằng những vị lãnh đạo Cao Đài như ông Tắc có thể đã trau dồi, có lẽ với
chút cơ hội, một “thần học của kẻ bị đánh bại”, ban ân cho người có thẩm quyền
luân lý của những người bị áp bức và không ngừng làm theo ý muốn lúc chiến
thắng được tiên đoán sẽ đến. Trong khi những điều đó có thể là sự thật, cũng có
thể là thần học có định kỳ --- như con chim phượng thần thoại là thần tượng của
trung tâm huyền bí --- tìm cách tự tái sinh và lấy lại tính chất thuyết phục
luân lý của nó tại những điểm nối nguy kịch. Đối với nhiều người Cao Đài ở Tây
Ninh, việc hồi hương thi hài của Hộ Pháp vào tháng Mười Một năm 2006 là một
trong những điểm nối đó, và có thể điều này mang ý nghĩa và vẫn còn được xem
thử tâm linh Hộ Pháp có “đẩy bánh xe nghiệp chướng sang hướng khác” (như một
trong những môn đồ của ông gần đây nói với tôi) hay không.
1 Sự hiểu biết này nhờ những cuộc nói chuyện với
những người Cao Đài ở California, Pháp và Việt Nam, và cũng từ những cuộc trao
đổi với Jeremy Jammes ở Pháp năm 2005, và nhờ đọc bài luận văn năm 2006, một
tác phẩm đứng trung gian giữa các cộng đồng ở Việt Nam và Hải Ngoại và góp phần
lớn vào sự hiểu biết của tôi về Đạo
² Mục đích của hư ảo tôn giáo thật ra có
thể hơi giống mục đích của nhà văn viết tiểu thuyết, không tìm cách để thay đổi
thực tế mà để thay thế thực tế đó --- để đưa ra một cuộc sống mới, phú cho nó
những thuộc tính của mình, đó là được sáng tạo để làm mất lòng tin vào cuộc
sống thật sự, để đưa ra sự thay đổi cho cõi trần tục. Những tầm nhìn này phục
vụ để “lại bỏ bùa mê” cho thế giới, để đặt nó trong khung cảnh thiên đàng rộng
lớn hơn, và để truyền cho nó những ý nghĩa bên ngoài những thứ được nhận thức.
Chính thể không tưởng thường thất vọng bởi vì những mục đích của họ không thể
đạt tới được trong suốt thời gian đề xướng. Tôn giáo không tưởng, cũng luôn
thảo kế hoạch cho những mục đích này vào một thế giới khác, không làm mất uy
tín bằng cùng một tiến trình.
³ Những nhà phê bình trong Đạo Cao Đài
không phủ nhận những quyền lực thuyết phục của ông, nhưng thay vì tranh luận
rằng tâm linh của riêng ông trở nên quá mạnh mẽ để trở thành mạch chảy cho
những thông điệp của Đức Cao Đài. Những bài báo cáo của ông Tắc đã thành công
trong việc chữa lành bệnh bằng đôi tay và những tâm linh xua tà ma (Đồng Tân
2006:44-46) đã được giới thiệu để chỉ rõ cách ông đã theo công thức huyền bí
được lập bởi những truyền thống tôn giáo lâu đời hơn (Huyền Thoại Cựu Giáo)
không nhất quán với dạng hiện đại của giáo lý Cao Đài (Đồng Tân 2006:49)
4 Hugo mô tả các đàn cơ là “những tác phẩm do chủ
định của tôi đối với thế kỷ hai mươi” (Chambers 1998:180), đó “có lẽ là nền
tảng của tôn giáo mới” một khi những tác phẩm đó được xuất bản. Những đàn cơ
được tổ chức ở đảo Jersey trong nhiều tháng trong năm 1854 được xuất bản năm
1923, gần 50 năm sau khi Hugo qua đời, bởi vì “tâm linh của Thần Chết” đã
khuyên ông dàn rộng hơn cho những tác phẩm sau khi chết của mình để ông có thể
“nói khi đã chết, trò sẽ đánh thức ta dậy năm 1920, năm 1940... năm 2000” (Chambers
1998: 178-179). Hugo cũng đoán rằng khi những lời ghi chép lại này xuất hiện,
“nó sẽ được phát hiện rằng thiên khải của ta đã được soi rạng” (Chambers 1998:
180). Những người theo Đạo Cao Đài giải thích những tác phẩm này như là cách
tiên đoán sự xuất hiện của một tín ngưỡng mới bảy mươi lăm năm trong tương lai.
5Phúc trình Surêté năm 1931 có nói đến việc công
nhận đầy mâu thuẫn về khả năng văn chương của ông Tắc: “Ông có tài năng thơ
phú: ông viết những vần thơ bằng chữ quốc ngữ và tiếng Pháp theo phong
cách của Victor Hugo và đôi khi ông đã bắt được nhịp điệu, hình ảnh, và những
dòng thơ thể alexandrine của nhà thơ này. Hứng khởi với Sự Lãng Mạn Tuyệt Vời,
ông đã truyền những thông điệp Hiệp Thiên Đài từ bên kia đặt lại nơi ông nhờ
ngọc cơ.” Học giả từ Pari Trần Thu Dung đã xuất bản một tác phẩm văn chương
phân tích những thông điệp của Victor Hugo do ông Tắc nhận được (1997).
6 Những mối quan tâm này được nêu trong Rapports
mensuels du résident de Tây Ninh, 1929-1933, Box 65553, 7F68, Centre D’Archives
d’Outre Mer, Aix-en-Provence, France.
HẾT TRANG 18
7Ngày 30 tháng Năm 1948, trong khi Hộ Pháp đang đưa
ra những bài Thuyết Đạo ở Tây Ninh, một đàn cơ được tổ chức trong đó Giáo Tông
Vô Vi Lý Đại Tiên đã giải thích rõ ràng chức vụ của ông và hơn nữa còn chỉ định
ông làm “Hộ Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài” --- “người Bảo Vệ Đức Tin có
quyền lực tối cao đối với nhị hữu hình đài”, nghĩa là Hiệp Thiên Đài (Đài Liên
Hiệp Với Thiên Đường, hay Cơ Quan Lập Pháp/Đồng Tử) và Cửu Trùng Đài (Đài Chín
Thiên Thể hay Cơ Quan Hành Pháp). Thông điệp này có câu “Nhị Kiếp Tây Âu cầm
máy tạo”, có thể được hiểu rằng “ở kiếp trước, ông đã truyền thông điệp này ở
Âu Châu.” Một số người giải thích câu này là bằng chứng rằng ông Tắc là Chúa
Jesus đầu thai, nhưng thật sự vẫn còn mơ hồ về người “Âu Châu” nào đã đầu thai
thành ông Tắc. (Thánh Ngôn Sưu Tập Quyển 3-4, trang 22).
8Khi ông Tắc đi tù ở Madagascar, ông Trần Quang
Vinh đã nhận được một thông điệp ngắn của Victor Hugo tại một đàn cơ không
chính thức tại Căn Cứ vào ngày 19 tháng Mười năm 1944, nhắn ông hãy cẩn thận
nhưng cố gắng kiên gan bền bỉ (Vinh 1973:164). Sau khi Hộ Pháp trở về, sự thật
về việc thành lập Quân Đội Cao Đài nhờ thánh chỉ được khẳng định lại trong một
đàn cơ tổ chức nơi Cung Đạo Tòa Thánh vào ngày 9 tháng Tư 1948 trong đó Giáo
Tông Vô Vi Lý Thái Bạch và Giáo Tông Trung đã gửi thông điệp, trong đó chính ông
Hộ Pháp làm đồng tử chính (Vinh 1973:187-189)
9Theo thông lệ đồng tử của Trung Hoa, đồng tử được
gọi là tang-ki (tiếng Việt là Đồng Tử), nghĩa đen là “đồng tử trẻ”, nhưng sự
liên kết mật thiết với thượng đế sở hữu đồng tử được biểu lộ bằng cách gọi họ
là “con nuôi theo lễ nghi của vị thần” (Seaman 1980:67). Cha mẹ đẻ của đồng tử
cho đứa trẻ này đi phục vụ thượng đế, và đồng tử phải học để ứng xử như “người
có danh tiếng cao của thánh cha để được xem xét” (Seaman 1980:68).
10Những người con trai của Victor Hugo chết trước
khi ông qua đời khá lâu. Charles (đầu thai làm Đăng Trung Trữ, người sau này
thành phối sư năm 1946), đã phục vụ làm đồng tử chính ở các đàn cơ ở Jersey,
chết khi ở tuổi 44 vì bị đau tim kèm theo xuất huyết nặng gây ra do mập phì, vì
đã quá miệt mài và những đêm dài mùa đông bồng súng đứng gác bảo vệ Paris trong
các phong trào khởi nghĩa chính trị (Robb 1997: 462). Ông và em trai François đã bị bỏ tù trong Conciergerie năm
1851, khi nhà tù đã trở thành “Trường Đại Học không chính thức của xã hội chủ
nghĩa” nơi Victor Hugo tiên đoán một cuộc cách mạng sẽ dẫn đến “Hiệp Chủng Quốc
Hoa Kỳ của Âu Châu” (Robb 1997: 290). François, người con trai thứ (đầu thai thành
Trần Quang Vinh), dịch thơ Shakespeare sang tiếng Pháp và bảo vệ cuộc nổi dậy
năm 1848, cuối cùng chết vị ho lao hai năm sau đó (Robb 1997: 490). Trong khi
cả hai người đều có cuộc đời tương đối ngắn ngủi, cuộc đời họ đầy sóng gió
chính trị, khát khao văn chương và những ước vọng tâm linh.
11 Những thuyết đạo của ông Tắc lên đến cực điểm
trong bản trần thuật những chuyến đi của ông lên thế giới bề trên, trong những
“xe Phật Pháp” giống như máy bay đi từ đám mây này sang đám mây kia, nơi ông
gặp Kim Quang Sứ, được ông mô tả là “Vị thần bất tử”, người mà “gần ngang tầm
với Đức Phật” nhưng rất thất vọng bực tức vì tham vọng quá lớn và cố gắng để
cho quyền lực cá nhân phá hỏng sự thiêng liêng của mình. Bình luận của ông Tắc
dẫn chúng ta đến đọc đoạn này như là một lời bình về cuộc đấu tranh của chính
ông để giành kiểm soát Đạo Cao Đài. Vào lúc khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Kim
Quang Sứ cũng được “ân xá” (khả năng cứu thế) và những cánh cổng xuống địa ngục
đã chính thức đóng lại. Cho nên Kim Quang Sứ có mặt lúc ngôi đền đầu tiên được
dựng lên ở Gò Kén, và “khi mở đạo, Ngài cầm cơ viết tên Ngài, rồi Ngài liền
thăng” (thuyết đạo #33, trang 115), nhưng ông luôn là một lực lượng gây bất
hòa, để lại đằng sau một bài thơ lúc bấy giờ khi “không có tâm tánh gì phản
động, chưa có một mảy may gì gọi là loạn” (#33, trang 114), và gợi ý cho một
kết luận:
Cửu phẩm
Thần Tiên nể mặt ta
Thích Ca
dầu trọng khó giao hòa
Cửa Kinh
Bạch Ngọc năng lui tới,
Đường Đạo
Tây Phương thử chánh tà. (#33, trang 114).
Đức Chí Tôn cho phép Kim Quang Sứ “đã thi hành trong hai mươi mấy năm, đủ mưu lược, đủ mưu chước” (#33, trang 115) bởi vì con người phải thực hiện mong mỏi tự do của họ, họ phải chọn giữa Tào và những lựa chọn khác. Sự cám dỗ của Kim Quang Sứ cung cấp lãnh vực trong đó ứng xử tiết hạnh sẽ là một lựa chọn có ý thức chứ không hẳn là một phản xạ đơn giản. Tại những cánh cổng lên
HẾT TRANG 19
Thiên Đàng, Lê Văn Trung chiến đấu với Kim Quang Sứ
xuống với một cây gậy, nhưng mỗi khi ông đánh, đòn chỉ làm kẻ thù bị chẻ làm đôi.
Được sự giúp đỡ của một chức sắc Cao Đài khác, ông đã chiến thắng vang dội,
trong đó chính Hộ Pháp cuối cùng cũng bắt buộc phải ra tay. “Ông mặc đồ
Đại-Phục, cầm cây Kim-Tiên định vẽ vòng gom lại thì chẳng khác nào vãi chài
vậy. Tôi cầm cây Kim-Tiên định thần gom lại, vừa gom thì nó thúc nhặt mặt trận
ấy lại, nhỏ lần lần thấy đằng ta đã thắng. Kim Quang Sứ hóa hào quang đằng vân
bay mất” (#33, trang 117).
Tự khắc sâu trong tâm trí là vị anh hùng
trong thiên hùng ca giống kiểu Tây Du Ký, ông Tắc trong đoạn này bước ra khỏi
vai trò thông thường là Tam Tạng, “Bần đạo chỉ có cầu nguyện với Đức Chí Tôn
cũng như hồi trước Tam Tạng đi thỉnh kinh nơi Ấn Độ” (#28, trang 92), người
mang kinh phật cho một tôn giao mới, và hành động rất giống Tề Thiên Đại Thánh,
nhảy vào nơi ấu đả. Thật hấp dẫn là, nhiều học giả gần đây (Seaman 1986: 488,
Yu 1983) đã đưa ra ý kiến khác nhau về những giải thích thông thường về tôn giáo
Trung hoa về những chuyến đi siêu nhiên (Tây Du Ký, Bắc Du Ký) có thể tự họ có
thể phát triển ra ngoài các đàn cơ, trong đó đồng tử là --- như chúng ta thấy
trong đoạn này --- “nắm mọi vai trò” hoặc ít ra thuật lại chuyện này cho độc
giả của họ.
12 Thánh ngôn của Lý Đại Tiên mà Hộ Pháp
nhận được vào ngày 9 tháng Tư 1948, nhắn
rằng ông Tắc “hiền hữu khuynh tâm vì Lão và Thượng Trung Nhựt lập quân
đội khi hiền hữu vắng mặt”,
mà chấp nhận nó như là một phần của Thiên Cơ
(máy trời). Tuy nhiên ông cẩn trọng rằng những thử thách chính đang ở
trước mặt , vì “mà lại đố kỵ chẳng dám cứu đời”, và nếu người Việt không
đáp lại lời gọi của tôn giáo, họ sẽ không thể được cứu (Vinh 1997: 188-89).