Nguyên văn Tờ Phúc Sự là Pháp Văn, Hội Thánh Cao Đài đã dịch ra Việt Văn. Trong Tờ Phúc Sự nầy có luận về Thiên Chúa Giáo và Khổng Giáo và làm sao để dung hòa niếm tin tôn giáo... Có rất nhiều điều để học hỏi hậu tấn có thế tìm thấy nhiều nội dung đầy cảm hứng, có thể viết thành nhưng luận án đạo học. BBT
Bản dịch Việt văn
của Hội Thánh:
ĐẠO CAO ĐÀI hay
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Phật giáo Chấn
hưng Đại Ân Xá kỳ 3 của Thượng Đế ở phương Đông
Tòa Thánh Tây Ninh
TỜ PHÚC SỰ
của Hội Thánh Đạo
Cao Đài gởi cho
Ông Chủ trưởng Ủy
Ban Điều Tra
các Thuộc địa và
bổn dịch văn.
________________
Hội Thánh Đạo Cao
Đài, nhờ Ngài hạch vấn, về duy tân chánh sách Thuộc địa Lang sa, xin trước kiếu
lỗi cùng Ngài, chúng tôi buộc lòng phải đem pha lẫn điều bí ẩn huyền vi đạo
giáo trong tố chương đã kiến thức: Hội Thánh sẽ nhận bỏ một đôi điều hầu có thể
hiệp ý cùng các vị tự do tư tưởng và xin các vị ấy cũng nhường nhận cho rằng:
chẳng hề khi nào một nền tôn giáo thành lập mà không có sự cực kỳ tín ngưỡng.
Muốn bênh vực nó,
chúng tôi mạn phép xin nhắc đến những người mà giá trị triết lý không còn
phương chi từ chối đặng: Tỉ như Allan Kardec, Léon Denis mà cũng còn tin tưởng
những điều bí ẩn của cõi Hư Vô và nếu chúng tôi kể tên ra đây, là vì nơi cõi
Thái Tây, duy các danh nhơn ấy thiên lệch những tôn chỉ của Phật giáo mà chúng
tôi đang hành đạo.
Trong sự mơ màng
hầu trọn, nơi cõi đời đang sống, nơi con người khi mãn phần thì phải thế nào,
chẳng chi hay hơn là một luận thuyết kín đáo, chỉ xin luận thuyết ấy đừng đè
nén các luận thuyết khác?
Lẽ chí lý có phải
chăng trong một hoàn võ mà ta có dịp thấy chán chường những kẻ tiểu nhơn sống
với một phần sang trọng vinh hiển, còn người quân tử thì chịu khổ não truân
chuyên, mà tưởng rằng sẽ có sự công bình thường bồi lại cho kiếp khác hoặc là
có kẻ phải chịu quả báo của nợ tiền khiên?
HẾT TRANG 01
Về mặt nạp dụng
công lý chúng ta, là do nơi sự công bình ấy mà sản xuất, với nhờ tư tưởng đó mà
đảm bảo. Nếu chẳng có sự công bình và tâm lý ấy trong toàn thể mọi người mà
chúng ta lại gọi Công lý thì Công lý chẳng hề ra hiện hữu. Điều đó chẳng phải
người tu thấy xung quanh mình trong kiếp sống mà nó nhủ cho ta để ý lạc hứng
hầu tin rằng nó quả có thật.
Cái Đức tin nơi
Công lý, nghĩa là tin nơi sự công bình cao thâm chẳng phải là vô lối và nó làm
cho sanh sản thêm điều tận thiện, vì thoảng như chẳng vậy thì chúng ta cần chi
phải làm lành mà sự lành ấy đòi phen chẳng làm cho chúng ta hoan tâm, nếu không
đặng hưởng một phần thưởng chi tất cả.
Con người chẳng hề
sống trong một ngày mà không làm việc với Đức tin. Nơi đây chẳng phải nói về
Đức tin đạo đức mà nói về Đức tin trơn thôi.
Những người vô tín
ngưỡng, mỗi ngày họ có làm theo Đức tin của họ chăng, chỉ nói họ đọc báo chương
là đủ?
Thầm hiểu rằng:
một cái tánh đức sáng suốt chừng nào thì ít cần làm theo Đức tin chừng nấy; mà
một người chẳng đủ toàn tri toàn năng, theo những nơi khuyết điểm của họ thì họ
cũng còn phải buộc mình làm theo Đức tin của những người lịch lãm hơn họ.
Hạng dốt nát, trái
lại, làm theo Đức tin cả ngày và suốt cả đời.
Bởi những duyên cớ
trên đây, sao lại chối Đức tin đạo đức và huyền vi bí ẩn nơi cõi Hư Vô, trong
cơn phần đông nhiều kẻ đã chê bỏ nó mà chẳng chịu tìm hiểu cho tận cùng; còn
những người chuyên môn học thuyết ấy thì chỉ làm cho lấy có và đặng nơi tay rất
ít oi triệu chứng về công trình của người trước đã làm.
Chẳng cần bày bố
cho dong dài, chúng tôi xin nói quyết: Đạo và Đức tin nơi cõi Hư Vô là một vật
cần yếu cho dân sanh đó vậy. Hễ dân tộc nào càng khổ não hay là khốn đốn, thì
họ lại càng cần phải trông cậy sự bù đắp dành để cho họ buổi sau kia và phải
cần tin chắc rằng: sự bù đắp ấy chẳng phải là lời nói mộng.
HẾT TRANG 02
Sự thất vọng của
cá nhơn giục phải tự tử và sự thất vọng của toàn thể giục làm cách mạng.
Cái sở hành làm
cho trong tâm của mỗi người đang chịu đau đớn đặng bền giữ sự an ủi nầy là điều
khổ não của họ có chỗ kỳ cùng, ấy là một cơ quan trọng yếu nhứt; và thuộc phận
sự của những người sáng kiến là tin thật rằng có sự bù đắp ấy đặng bền để cái hy
vọng nơi tâm những kẻ đau thảm hầu làm cho nhẹ bớt sự khổ não của họ, ấy là cái
vai tuồng của chúng tôi đã định thi thố.
Vậy thì Thượng
quan cũng phải chịu với chúng tôi rằng: đối với một dân tộc tự trị, cái hy vọng
ấy rất nên hữu dụng, đối với một dân tộc bị chinh phục, nó lại thêm yếu trọng.
Lịch sử nói về sự
chinh phục và thâu thủ xứ nầy làm thuộc địa do bởi nhiều sử gia đã viết trước,
có đủ phương thế và đủ tài liệu sẵn để cho họ nghiên cứu, mà chúng tôi không
có, nên dám mạo hiểm đem chường ra nơi đây một sự học đòi thô kệch.
Nhưng chỉ về mặt
tinh thần mà chúng tôi chú trọng thôi, nên thử đem ra ánh sáng những lý lẽ thâm
thúy nó đã dắt hai dân tộc đến sự biến hóa cùng nhau mà ngày nay đã đến đỗi
nầy.
Chúng tôi tưởng
không làm cho một ai lấy làm lạ nếu nói rằng: chúng tôi thấy trong đoạn lịch sử
nầy, sự tương hội của hai văn hóa; sao lại chúng tôi cũng làm cho thiên hạ lấy
làm lạ hơn nữa là chỉ lấy cái tinh túy của hai văn hóa nầy đã sản xuất, nghĩa là
chỉ cho Ngài rõ rằng: chúng nó thật là hình bóng của hai nền tôn giáo.
Sự tương hiệp của
nước Pháp và nước Việt Nam, nếu chẳng phải đều do hẳn nơi sự tương tranh của
hai nền văn hóa thì thật ra là do sự xung đột của hai nền tôn giáo.
Hai nền tôn giáo
ấy: một đàng là Khổng giáo, một đàng là Thiên Chúa giáo.
Khổng giáo là một nền tôn giáo ở lý thuyết khoan hồng quảng đại đến đỗi tinh thần đạo đức của nó phải chịu từ bỏ nó, và những người tùng giáo thiếu phương che chở; rồi lại để cho duy trì, không phản đối những hành động tội tình của trường quan
HẾT TRANG 03
lại và chẳng
còn cho những người đã chịu cái ảnh hưởng nguy nan của nó còn phương tự bảo lấy
mình chắc chắn.
Nó đã đáo đến một
cảnh nhàn lạc, vui hứng của Épicur mà không có một cớ chi làm cho nó tỉnh mộng
hầu day hành động qua mặt tận thiện.
Thiên Chúa giáo
trái lại, là một nền tôn giáo ngược danh với cái trước, sốt sắng hăng hái, mê
mẫn, ganh gổ, độc quyền, đòi phen gây gổ, không chịu nhận nhìn cái hay của kẻ
khác ngoài cái biệt hiệu của nó, không có điều chi gọi là chơn lý ngoài cái tôn
chỉ của nó, lại buộc ai muốn tùng giáo phải hành đạo mới đặng.
Do những cử chỉ
ấy, quả chăng là một tôn giáo chinh phục?
Đàng nầy, liền
khởi xung đột với đàng anh là Khổng giáo, đã dựa nương một cổ sử, lại cũng toan
phương tranh đoạt danh thể và quyền lực của đàng anh.
Sự xung đột phát
khởi.
Người ta có thể
chia sự xung đột nầy ra 3 thời kỳ:
1/. Thời kỳ trước
và ngay buổi hỗn độn thâu phục.
2/. Thời kỳ trị
bình.
3/. Thời kỳ hiệp
tác.
KHOẢN THỨ NHỨT
Chúng tôi đã chỉ
rõ rằng: dân tộc Việt Nam đang theo Khổng giáo rất quảng đại, nên tinh thần của
nó không đủ phương kềm thúc những điều tham tàn của trường quan lại, thành thử
không tìm đặng sự bảo bọc trong tôn giáo của tổ phụ họ. Khổng giáo thiếu quyền
năng của Thiên Chúa giáo đã hữu định, trong buổi vương quyền độc chiếm, khi nó
đã làm cho các vua chúa phải cúi đầu dưới quyền trục xuất hay là hăm trục xuất
ra khỏi Đạo, và lại đã làm cho dân tộc Pháp nhờ nhỏi biết bao.
Chẳng hề buổi nào Khổng giáo dám phản động mạnh bạo như thế, nó chẳng làm chi khác hơn là kêu gọi nhơn sanh vào đường chí thiện,
HẾT TRANG 04
bởi cách khuyên nhủ, không hăm dọa sa thải khỏi
cửa Khổng những kẻ không trọn tùng tôn chỉ.
Kết cuộc, một số
khá đông người bất phước chán ngán với tôn giáo của tổ phụ, bởi nó không thể
bênh vực họ trong điều quá quyền của quan lại, rồi nghe những thầy truyền giáo
của đạo Thiên Chúa dạy một giáo lý cũng vẫn tốt đẹp là Đạo của Christ, nên họ
liền theo giáo lý ấy một phương cách dễ dàng vì bởi nó cần mẫn họ hơn.
Những vị thay mặt
cao trọng của giáo lý mới mẻ nầy, nhơn danh của Chánh phủ Pháp, đến tận triều
Nam và nhờ đấy mà Đạo đặng rộng phép và các thầy truyền giáo đặng ân tứ nhiều
sở lợi vĩ đại.
Nhiều nhà chung
đặng khai mở mọi nơi và những cơ nghiệp ấy biến thành Thánh địa, bởi cớ, liền
đó, nhiều kẻ tùng giáo đến trú ngụ đặng tránh sự tham tàn của quan lại.
Hại thay, nơi làm
chỗ đình trú cho những người Việt Nam bị quan lại tham tàn áp bức, lại cũng
dùng làm nơi trú ngụ ho những kẻ trốn tránh tội tình đáng trừng trị, nên dân
tâm người Việt Nam khởi ra sôi nổi rằng: các nhà chung che chở những chánh phạm
thoát vòng công lý của các quan viên tập nả.
Nhiều phản động dữ
dội khởi dấy lên đối với các tín đồ và các vị giáo sĩ: lưu huyết. Đã có tử đạo
vì đức tin Thiên Chúa giáo và nước Pháp buổi ấy, vốn là trưởng nữ nhìn nhận của
Đền Thánh, nhứt định báo thù sự lưu huyết của các vị truyền giáo, nên thừa cơ
hội ấy, chinh thâu một phần đất khá lớn nơi Lục Tỉnh và buộc nước Việt Nam tùng
quyền bảo hộ.
Thật ra là trận
giặc của Thiên Chúa giáo chiến đấu với Khổng giáo, gọi nhục danh là: Bụt Thần.
Trong buổi chinh
phục, nước Pháp nhờ thổ nhơn của nhà chung vùa giúp.
Mà nếu ai để ý suy
nghĩ: trong buổi Pháp – Nam chiến đấu, những người Việt Nam ra giúp Pháp đều là
hạng người vì tư lợi, không còn ngần ngại gì mà không phản Chúa của họ đặng
theo kẻ nghịch.
HẾT TRANG 05
Vậy thì, họ cũng
không phải đặng một tâm đức cao thượng hơn những kẻ cho vai tuồng ấy là trái
nghịch với lương tâm.
Nếu tưởng rằng
quốc dân Việt Nam không có lòng ái quốc thì thật là lầm lạc đó, nhiều cớ tố
trần và một cớ nầy, đến thời gian sau đây, họ đã diễn ra nhiều tấn tuồng theo
những cổ tích hùng dũng buổi xưa.
Ấy là tổng số của
thời kỳ thứ nhứt đem đối diện Khổng giáo xưa mỏi mê với Thiên Chúa giáo oanh
liệt mà những 231 người Việt Nam đứng ra làm danh thể cho nó không phải là hạng
đúng mực chọn lựa.
KHOẢN THỨ NHÌ: Trị
bình.
Nước Pháp đắc
thắng, và vì lẽ ấy, quyền hành các nhà chung tăng thêm hằng buổi, trong cơn
Khổng giáo thối bộ từ từ.
Hại thay, những cổ
tục Việt Nam không thay đổi và quan lại cũng không canh cải chánh sách, nhưng
phần đông của quốc dân vẫn còn đeo đuổi theo tục lệ xưa mãi.
Thiên Chúa giáo
thì buộc phải từ bỏ những sự tín ngưỡng ngoại đạo, ấy là điều trọng hệ. Phải từ
chối hẳn đền thờ của tổ phụ và sự tế tự đã roi truyền, đặng đến quì lạy trước
những đền thờ mới mẻ mà người Việt Nam chỉ vì mục đích tư danh tư lợi, tìm tàng
đến đặng trốn lánh.
Những người giả
đạo ấy không lầm trong sự hy vọng của họ, bởi vì họ đặng miễn thuế, đặng đất
địa và trở nên gia chủ những nơi mà kẻ khác chỉ làm tá điền hay là làm tớ mà
thôi.
Khi có điều gì khó
khăn xảy đến, thì các Cha, Cố đạo đến lo với quan Công Sứ Pháp và mọi điều đặng
hoan hỷ theo ý muốn của họ. Các nhà chung vụ tất sự tom góp theo mình những nhà
đạo giàu có và quảng huợt.
Vì vậy mà sự vào
đạo là căn nguyên của quyền lợi.
Trái ngược lại,
trong đám dân, phần nhiều gồm những người chơn chất và trung thành cùng tục lệ
của họ thì chịu khốn khó, nhưng vẫn cao thượng, vì đã từ chối những điều mà
lương tâm của họ biếm trách.
HẾT TRANG 06
Sự tranh đấu lại còn
trở nên thúc nhặt giữa nền tôn giáo mới mẻ hưởng đủ đặc ân, dẫu rằng vi cánh
của nó đều không trọn định bởi một tinh thần đạo đức hẳn hòi [2],
còn đàng kia thì thử chường mặt chống chỏi, dẫu rằng những đảng phái của nó
chẳng chịu sửa đổi chánh sách gian ngược
(2)/- Câu nầy
chẳng chỉ trích những người Thiên Chúa giáo đời sau.
Cuộc tương tranh
dường ấy, còn chỉ rằng tôn giáo: tôn giáo chỉ là một khẩu thuyết, một viện lẽ,
một đại kỳ, một biểu hiệu hiệp đảng mà tinh thần đạo đức đã vắng, duy lưu lại
đều là những sự dị đoan mê tín.
Vậy thì, trong khi
ấy, không còn chỗ nào mà chấn hưng tôn giáo để cho hạng người chơn thật, hạng
lao động không phiền hà và không so đo biết kỉnh trọng những dấu tích xưa của
tiền nhơn để lại, và họ cũng vẫn sẵn lòng kính trọng giáo lý tận thiện bất cứ là
nơi nào họ gặp đặng, miễn là vì lẽ ấy không làm cho họ phải buộc mình coi Đạo
nhà là thô hèn.
Có cần tạo cho
những kẻ ấy một nơi đình trú tinh thần mới mẻ vừa theo tâm đức của họ mà tư
tưởng mạnh mẽ chỉ trích cái hám tâm của đôi đàng bất cứ hình bóng khuôn khổ nào
của nó mà họ đã gặp, hầu trọn gìn tinh thần cao thượng và thanh bai chăng?
Ấy là điều mà Đạo
Cao Đài đã làm thử và người ta sẽ dễ hiểu rõ ràng: nó đã bị những người đạo
Thiên Chúa tố giác là do nó làm cho họ thất phận rất nhiều, còn quan lại Phật
giáo thì bị nó biếm trách những chánh sách gian ngược. Nhưng mà bây giờ chúng
ta chẳng cần vội luận, vì Đạo Cao Đài sản xuất ra trong thời kỳ sau xa kia mà.
KHOẢN THỨ BA: Hiệp
tác
Đây đã đến thời kỳ
thứ ba: là thời kỳ hiệp tác.
Tiếng hiệp tác nầy
là của ông A. Sarraut, Tổng Thống Toàn Quyền Đông Dương đã thuyết ra trong một
bài diễn văn của người và nó đã truyền hình đến tận cùng nơi thôn quê sằn dã.
HẾT TRANG 07
Quốc dân Nam ngần
ngại không chịu tin, dân chinh phục Lang sa duy trì thực hành chủ nghĩa, nhưng
mà hột giống ấy gieo xuống đã rồi, nó bèn khởi mọc một cách chậm lụt, chậm lụt
tưởng lẽ theo sở hám của người Việt Nam mà đôi bên dân sanh đều nghe đặng tiếng
kêu gọi ấy và nội tâm của họ đều vội vàng hưởng ứng.
Một viên chức nơi
Thượng Nghị Viện, ngày nay đã qui liễu là ông Lê Văn Trung, người mà năm 1933,
ông A. Sarraut, Tổng Trưởng Bộ Thuộc Địa buổi ấy, giữa Hạ Nghị Viện Pháp triều,
đã gọi rằng bạn thân thiết của Ngài, muốn cho tiếng kêu gọi ấy đừng chịu lẽ đồng
thinh bất tương ứng.
Hèn lâu, người đã
hoài tâm tìm tỏi đặng làm cho hiện tướng cái mơ mộng của quan Tổng Thống Toàn
Quyền của người đã gieo trồng trong tâm lý, và một ngày nọ, người học theo
phương cách của bên Pháp, gọi là Khảo cứu Thần Linh Học, người đặng một cái bí
truyền cho người một phương giải xong toán pháp ấy.
Cái cơ quan hiệp
tác đó tưởng thế nào cũng bất thành, dẫu rằng vị chúa tể của thuộc địa đã hứa,
nhưng muốn cho đoạt đặng thì phải làm thế nào cho hai nền văn hóa Âu Á tương
hợp cùng nhau, mà muốn cho nó tương hợp thì phải dung hòa hai nền tôn giáo đã
xung đột.
Lấy theo lý
thuyết, điều ấy tưởng là nghiễm nhiên, vì chưng đôi đàng đều trông cậy cho có
một tinh thần đạo đức cao thượng đặng khai mở một hòa địa sẵn sàng dành để.
Cái triết lý của
Khổng Tử thì dịu dàng và dung túng, còn triết lý của Christ thì khoan hồng và
tận mỹ.
Trong cái chơn vi
của hai nền tôn giáo ấy chẳng có chi phản khắc, mà hỡi ôi! đôi đàng cũng vậy,
tinh thần đạo đức thì ở sau, còn lợi lộc lại đứng trước, bởi cớ mà toán pháp ấy
khó giải quá chừng, mãi đến ngày nào mà người ta có thể nói với môn đệ đạo Phật
rằng: Phải tùng theo tinh thần đạo đức của Christ; còn nói với tín đồ Thiên
Chúa rằng: Phải đến mà hiệp tác trong đường tận thiện dưới bóng của tôn chỉ dịu
dàng và quảng đại của Khổng gia.
HẾT TRANG 08
Tận thiện và Tận
mỹ không có nhãn hiệu, vậy thì không có quê hương, không có tôn giáo nào đặng
tranh đoạt nó làm của riêng đặng, cái triết lý của Chí Tôn cũng vậy, nó cũng
như ánh mặt trời, nó là của chung toàn thiên hạ.
Vậy ngày nào mà cả
quốc dân Nam được giữ vẹn sự tín ngưỡng và sự hành đạo của tổ tiên họ để lại,
đáng kính trọng và tôn sùng một nền Đạo mới mẻ nào cho họ có phép hành đạo theo
tinh thần của Christ mà lời qui hiệp đại đồng của nước Pháp đã kêu gọi nơi cõi
xa muôn trùng biển cách, ngày nào một đàng, dân chinh phục thấu đáo đặng cái
quảng đại bao la của Phật giáo đối với đồng loại cùng mình và chẳng còn lấy chữ
“Quyền hành” như trùng nghĩa với “Tận thiện” và “Chơn lý” thì ngày ấy vấn đề
khó khăn sẽ giải quyết đặng.
Vậy, chúng ta phải
làm thế nào cho có sự dung hòa giữa hai nền tôn giáo hầu biến thành một tôn chỉ
chấn hưng, có sẵn sự quảng đại bao la của Phật giáo và có sẵn sự tín ngưỡng sốt
sắng của Thiên Chúa giáo, mà muốn cho cái xa vọng và tham tàn đã tràn lan đầy
dẫy trong trí não họ tiêu tận thì phải khuyến giáo họ cần hiệp hòa trong một
cảnh giới đạo đức tinh thần thanh bai trong sạch, nơi mà đôi đàng đều tìm đặng
sự Tận mỹ, Cao thượng và Vô tâm.
(Cao Đài = đền thờ
cao, đức tin lớn.)
Dưới quyền năng
của Chúa Cứu Thế, kinh đô Huế cũ kỹ đã chê bỏ lúc nọ, sẽ cần mẫn đến đám bần
dân, và nơi bước của Khổng Tử, quyền hành của nước Pháp sẽ quảng đại nhân từ mà
trừ bỏ cái tài độc chiếm.
Ấy là mối dây liên
lạc giữa Á và Âu, nước Việt Nam của đế chủ sẽ mở rộng chủ nghĩa dân quyền, và
đế nghiệp của Pháp triều sẽ thi hành dân luật và nhơn hậu cho quốc dân bị chinh
phục.
Ấy vậy, nền tôn
giáo nào quảng đại hơn phải nghinh tiếp cái giáo lý của đàng kia, vậy thì phần
bên Đức Khổng Phu Tử phải mở rộng cửa nhà mình đặng rước Chúa Christ và đem để
lên đồng bàn cùng Người.
Ngày ấy là ngày
Đạo Cao Đài đã sản xuất.
HẾT TRANG 09
Ngày nay con đường
khá dài đã trải qua. Hèn lâu bị bắt buộc, nhưng chúng tôi ráng chống chỏi với
một sự nhẫn nại bền bỉ, mắt ngó lom lom Mẫu quốc và hiểu chắc rằng: cái Tận
thiện chẳng lẽ phải chịu hạ mạt hoài.
Chúng tôi thường
thông công, về mặt tư tưởng, cùng các bạn chúng tôi bên Pháp triều; chúng tôi
chỉ cho cả tín đồ của chúng tôi hiểu biết trí định nhơn hậu và phi phàm của họ,
và chúng tôi lấy làm hân hạnh vừa rồi hiểu đặng mãi mãi chút ít kết liễu và sự thật
hành tôn chỉ của họ.
Chúng tôi đặng nói
rằng: Cả quốc dân Việt Nam đều bị trọn vẹn tư tưởng Lang sa thâu phục; còn
những kẻ, dường như chống chỏi nghịch với chánh phủ thì cũng vẫn còn hoan
nghinh với dấu hiệu tương thân của các Ngài, chẳng khác nào như họ đến cùng các
Ngài mà khải ca quốc thiều các Ngài và trương cây cờ nước Pháp làm niêu hiệu.
Những tín đồ Cao
Đài chẳng chịu chung hợp vào các phương ấy vì họ là hạng người bình tịnh nên từ
nan những cuộc biểu tình quốc sự.
Mà họ đã có đấy
đặng chỉ vẽ cho các Ngài và nói cho các Ngài hiểu rằng: những người dường như
phản đối chẳng phải kẻ nghịch hẳn của các Ngài và một ngày kia các Ngài sẽ có
thể thâu tâm họ đặng.
Hiện nay, các Ngài
đã đồng ngôn ngữ với họ, các Ngài duy làm cho phù hợp nghĩa lý của lời nói, vì
chưng cái ngôn ngữ đôi đàng chưa có thuyết minh ra thật trúng điệu.
Một đàng thì còn
pha lẫn ý tứ Annam mà các Ngài gọi là ngông ngôn; nó báo cho khẩu tài không thế
biểu diễn ra đặng.
Còn một đàng thì
có lẽ còn chất chứa một phần tục ngữ của đám chinh quân lưu lại.
Mà rồi chúng ta đã
đáo đến một mực mà nếu còn nói rằng: không hiểu nhau nữa là tại chúng ta không
muốn hiểu.
Dưới tài cảm hóa của các Ngài, ngôn ngữ đặc sắc và oai quyền của Mẫu quốc sẽ làm cho cả thảy đều tùng theo một ngày một ít;
HẾT TRANG 10
hàng quan lại lang sa và bổn quốc sẽ cùng nói và
toàn dân cũng sẽ trả lời một cách rõ rệt hẳn hòi.
Thoảng đến chừng
ấy, mà còn một ai phản loạn thì chính những người đồng hương của họ sẽ rõ thông
mà xử đoán.
Có một điều mà
những bậc hữu học của quốc dân Nam không thể không hiểu và khi gặp dịp thì
chúng tôi sẽ nhắc nhở đến là trong hạng thanh niên VN đã phát sinh ra lần lần
một hạng dân trí học theo văn hóa Lang sa và đặng những cấp bằng tốt nghiệp đã
thâu thủ bên chánh quốc, sẽ chịu trọn bề thất bác khi quốc gia chinh phục đổi
dời và nếu thay đổi quốc văn thì là điều đại hại cho họ.
Hạng dân trí nầy,
chẳng lẽ để mình chịu thiệt thòi cho một phần ít hạng cấp tiến đã học ngôn ngữ
tha bang vui hưởng.
Còn những kẻ mơ
mộng độc lập thì đã tìm đặng một bài học rất khắt khe trong trận Hoa-Nhựt chiến
tranh và những người biết suy nghĩ thì coi như sự hòa bình của nước Pháp bảo
đảm là trọng giá.
Họ sẽ hiểu rằng:
với giá mắc của đồ binh khí đương thời, nếu xứ Đông dương tự mình gìn giữ đặc
an thì chẳng hề khi nào đối thủ lại kẻ nghịch ngoại bang xâm lấn. Họ sẽ tự nhận
rằng nếu không có nước Pháp với quân bị phú cường và oai quyền toàn cầu đặng gánh
vác cho họ thì quốc dân sẽ làm mọi cho các xưởng binh khí chớ không mong mỏi
hưởng đặng một điều hạnh phúc nào tất cả.
Tín đồ Đạo Cao Đài
chúng tôi đồng biết điều ấy, chúng tôi sẽ dạy và cho họ hiểu rằng: trong các
điều kiện nầy, cái gánh của họ đã mang thật ra nhẹ nhàng lắm đấy.
Ấy là trí ý của
chúng tôi, ấy là mục đích của chúng tôi đáo đến, ấy là cái thượng đạt của chúng
tôi.
Những điều ước
vọng của chúng tôi:
Cái nguyện vọng yếu thiết của chúng tôi là Pháp triều hải ngoại biến thành như hình chánh quốc. Nó sẽ thay tướng mỗi ngày dưới tài hành động hay ho của Mẫu quốc và cả lực lượng
HẾT TRANG 11
của chúng tôi chú trọng về sự tăng tiến nầy làm thế nào cho các đồng
hương chúng tôi thấy đặng và hiểu đặng.
Một nguyện vọng
riêng nữa mà nguyện vọng nầy liên hiệp với tài cảm hóa Lang sa là, trong phận
sự của chúng tôi khỏi bị khuất nhược đối với các nền tôn giáo khác, vì cả người
tùng giáo có thể bị quấy tưởng rằng lòng phước thiện của chúng tôi không chơn
thật bởi không thể biểu diễn nó ra đặng.
Đã trải qua mấy
năm rồi, vì không hiểu luật pháp Lang sa thi hành nơi cõi Đông dương, chúng tôi
nong nả lập một Dưỡng lão đường, một Ấu trĩ đường, một cơ quan công nghệ cho
hạng trai tráng và thất nghiệp và tìm muôn chước mong nâng đỡ các bạn chúng
tôi, vì họ cần cho chúng tôi vùa giúp.
Chúng tôi đã bị
buộc tội ra trước tòa án, và vì riêng chịu hại mà đặng hiểu rằng: Phước Thiện
là điều độc chiếm của quốc gia hay là riêng để cho một phần người thôi.
Sự thi hành luật
pháp nầy phản khác với tôn chỉ cũ kỹ, quảng đại của Nho giáo và cũng là cái trở
lực làm cho chúng tôi không thể tuyên truyền tư tưởng Pháp triều cho những hạng
người chơn chất đến chúng tôi với tấm lòng chơn thật và trí ý đơn giản trong điều
Tận thiện. Họ không quen với Machiavel [1] và họ cũng không hiểu cái
ý định của lẽ quốc chánh là gì?
(1)/- Mưu thần của
Ý Đại Lợi, nghĩa là xảo trá và gian ngược.)
Trước mắt họ, có
hiển nhiên nhiều điều nghịch hẳn với tâm lý công bình của họ, khi đã thấy những
kẻ tùng giáo Gia Tô đặng bày bố các cơ quan Phước Thiện mà lại đặng nhờ chánh
phủ trợ giúp, còn Đạo Cao Đài đeo đuổi theo mục đích đại đồng và sự hành tàng
với nguyên liệu hẹp hòi của họ mà cũng không đặng quyền lập cơ thể tương trợ
lấy nhau, rất cần yếu cho những kẻ nghèo hèn, là vì Đạo thiếu quyền chủ sản
(Personnalité civile).
Những huê lợi của
chúng tôi đã bị phá tán ngay khi nó mới nảy sanh ra, vì Đạo Cao Đài chẳng đặng
làm chủ sản nghiệp chi của nó, chưa đặng nhìn nhận về chánh thể và cũng không
tạo đặng một hội giáo hầu làm chủ sản nghiệp.
HẾT TRANG 12
Kể một người phẩm
giá thường tình mà chống chỏi với dục tâm, có thể khai quyết rằng: “Cả của
cải nầy là của tôi” và đặng làm chủ vĩnh viễn gia nghiệp của họ đứng tên,
khi họ đã hiểu chúng tôi không có phương nào buộc tội họ trước tòa án thì mới
để tin sao đặng?
Chúng tôi cầu xin
thiết yếu cho điều khuất nhược ấy tiêu hủy và xin đặng phép lập một hội giáo
rồi lấy đó đứng làm chủ sản nghiệp đặng dùng để cứu giúp kẻ nghèo hèn.
Chừng đó, chúng
tôi sẽ có đủ quyền nói đến lòng nhơn hậu của Pháp triều và bày tỏ ra rằng tinh
thần Thiên Chúa giáo và Nho giáo không có phản khắc cùng nhau và tôn chỉ Lang
sa, nếu thật hành cho chánh đáng thì giúp hay cho sự mở mang và điều hạnh phúc
cho quốc dân Nam Việt. Sự tăng tiến nầy, quốc dân Nam chẳng hề trông nơi vương
quyền bạc nhược của họ mà có đặng.
Xin cho chúng tôi
có phương pháp đặng đeo đuổi theo thượng đạt của chúng tôi tức là cái thượng
đạt của các Ngài đó vậy, và đừng để cho chúng tôi chịu khuất nhược, dầu trong
xứ bảo hộ cũng vậy, là nơi mà Đạo của chúng tôi đã cảm hóa đặng chiến đấu với
sự tham tàn đương nhiên thành hại.
Ấy chẳng phải nhà
vua không muốn tôn chỉ của chúng tôi, mà tại các tham quan ô lại bị nó chỉ
trích, nên xung đột chiến đấu đặng làm cho ngăn trở cái tài cảm hóa của nó.
Ấy là Việt Nam tối
cổ của quan lại buổi xưa, ấy là xứ Cao Miên cũ kỹ với tục lệ lâu đời đã hiểu cả
giá trị tinh thần giáo lý của chúng tôi, mà do các quan lại phát nộ, e cho thất
phát tiểu lợi của họ. Thật chẳng hề khi nào phải chính nhà vua, vì nhà vua cũng
thường muốn cho cả quốc dân mình đặng hưởng hạnh phúc.
Chung quanh chúng tôi, xúm xít những hạng lao động về đất điền, hạng thương nhơn nho nhỏ, hạng người chơn thật chẳng biết mưu chước là gì, hạng người duy biết lành gọi là lành và chỉ trông mong nơi kết quả của sự làm lụng của họ; hạng đã đeo đuổi theo sự sanh hoạt “không trông công danh mà cũng không trông lợi lộc” tả theo lời của Edmond Rostand;
HẾT TRANG 13
tuy họ không có tìm kiếm cái đặc ân nào, duy ít
nữa muốn gìn giữ đặng cả của cải do bởi công trình làm lụng của họ.
Ấy vốn là những
người đã không chịu từ bỏ đức tin và thờ phượng tổ phụ của họ, dầu rằng nhiều
sở lợi họ có thể thâu thủ, ấy cũng là những hạng người mà họ trọng kỉnh sự phải
bất cứ nơi nào mà đến, và kể cho rằng: xa lánh một giáo lý cao thâm và tinh
khiết có thể gần gũi cùng Đạo nhà của họ là một điều thất đức.
Muốn làm cho ra
hiện tượng những phương cải cách ấy, chúng tôi định, cũng như mọi việc khác, là
duy để tín nhiệm trọn vẹn nơi Pháp triều vì lịch sử của Pháp đã đứng đầu văn
hóa, quyết định lẽ nầy, và chúng tôi trông đợi với tấm tình nhẫn nại cho qua
đỗi khảo đảo thử thất chúng tôi, và những điều liễu kết hay ho đã thành tựu, e
cho không thường trọn khai cho Pháp triều hiểu thấu.
Chừng ấy nước Pháp
sẽ nhìn nhận chắc rằng: do nơi tay của nước Pháp thâu hồi đặc ân trước nhứt
theo đường tấn hóa ban cho chúng tôi và trong cơn ấy nước Pháp sẽ ân hận lấy
mình là trễ rộng đưa tay mà dìu đỡ chúng tôi đó.
Lập tại Tòa Thánh
Cao Đài Tây Ninh.
(Ngày 12 tháng 11
năm 1937)
Ký tên: PHẠM CÔNG
TẮC
Giáo chủ Đạo Cao
Đài hay Phật giáo Chấn hưng.
HẾT (14 TRANG)