Năm 1954 Đức Hộ Pháp đi Châu Âu cố vấn cho Quốc trưởng Bảo Đại về Hội Nghị Geneve. Đến 1-8-Giáp Ngọ (28-8-1954) đi công du Á Châu đến 16-9-Giáp Ngọ (12-10-1954) về Việt Nam.
Hiền huynh Sĩ Tải Bùi Quang Cao là Thư Ký và nhiếp ảnh viên.
Viết tại Trí Huệ Cung
Ngày 25-9-Giáp Ngọ (21-10-1954)
https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2025/01/5551-sach-lich-su-quan-phu-ngo-van.html#more
CUỘC DU HÀNH QUA ĐÀI LOAN.
Ngày mùng 1-8-Giáp Ngọ (dl 28-8-1954)
Sau 10 ngày ở Sài gòn, Văn phòng Chánh Trị Đạo, kể từ ngày 20-7-Giáp
Ngọ, để lo cả giấy tờ cho Phái đoàn sang Đài Loan, chỉ đến ngày mùng 1-8-Giáp
Ngọ mới lên máy bay.
Nhộn nhịp thay từ buổi chiều ngày 30-7-Giáp Ngọ, Chức
sắc Phước Thiện , vài vị Chức sắc Thiên phong Hành Chánh và Sĩ quan Quân đội
đến Sài gòn để tiễn đưa Đức Ngài cùng cả Phái đoàn lên máy bay.
Phái đoàn được chọn cử sang Đài Loan gồm có :
A. Phía Huê nhơn :
- 1. Ông Hứa văn Hiệp : Cựu Đại Tá Quốc Dân Đảng, khi
trước có ở Tòa Thánh làm Cố Vấn Đường Nhơn và Tùy Viên Tự Vệ V.N.P.Q.H. và hiện
nay là Cố Vấn Quân Sự cho Tỉnh Trưởng Châu Đốc.
- 2. Ông Yu Kia Ling : Đạo Hữu Huê nhơn, học lực Thạc
sĩ ở Pháp về, liên lạc viên giữa Chánh phủ Đài Loan và Đức Hộ Pháp.
- 3. Ông Hiền Tài Trương lê Đông ở Chợ Lớn.
- 4. Ông Giáo Hữu Ngọc Trôi Thanh : Phái Đường nhơn ở
Hội Thánh Ngoại Giáo.
- 5. Ông Ông-Dình : Một thương gia Huê kiều.
- 6. Ông Lao trọng Thăng : Một Giáo viên Huê kiều ở
Chợ Lớn đi theo với phận sự Thơ Ký cho Phái đoàn.
B. Phía người Bổn quốc: Gồm có:
- 7. Cô Giáo Hữu Phạm Hương Tranh: góp phần ăn uống
cho Đức Ngài.
- 8. Lễ Sanh Thượng Minh Thanh : Đại diện Cao Đài Giáo
ở Pháp quốc.
- 9. Giáo Nhi Ngự : phụ sự cho Cô Tư (Giáo Hữu Phạm
Hương Tranh).
- 10. Sĩ Tải Bùi quang Cao : là Thơ Ký, vừa là Nhiếp
ảnh viên cho Phái đoàn.
Sau bữa tiệc thân mật và vui vẻ do Hội Thánh Huê nhơn
tổ chức tại Văn phòng Chánh Trị Đạo 107 Trần Hưng Đạo, để thết đãi tiễn đưa Đức
Ngài cùng Phái đoàn và để mời đáp chư vị Lãnh Sự Trung Hoa ở Sài gòn, vì nơi
Lãnh Sự Quán vài hôm trước đã có thết tiệc đãi cả Phái đoàn trước khi lên đường
sang Đài Loan.
Tiệc vừa tan lúc 10 giờ đêm. Vị Tổng Lãnh Sự Đài Loan
cho tin rằng : Hiện nay không phận Đài Loan có bão nên chưa thể định chắc giờ
máy bay sang Đài Loan được, mặc dầu đã có một chiếc máy bay 2 động cơ chực sẵn
để rước Phái đoàn sang Đài Loan, đã đến phi trường Tân Sơn Nhứt ngay chiều ngày
29-7-Giáp Ngọ.
Đúng 8 giờ sáng ngày mùng 1-8-Giáp Ngọ, Lãnh Sự Quán
Đài Loan cho hay rằng bão đã yên, Đức Ngài có thể đi lúc nào cũng được, từ 8
giờ đến 11 giờ mơi. Lập tức cả Phái đoàn sửa soạn để lên phi trường.
Chức sắc Nam Nữ Hành Chánh, Phước Thiện lối 20 vị cùng
Sĩ quan ở Sài gòn đồng đến phi trường để tiễn đưa và đoàn xe đến phi trường lúc
9 giờ 20, đình lại phi trường để chờ ghi giấy tờ xuất ngoại và chờ Ông Yu Kia
Ling đến trễ. Mãi đến 11 giờ 15, Đức Ngài cùng Phái đoàn mới lên máy bay.
Đây là một chiếc máy bay 2 động cơ của Hàng Không
C.A.T. (Civil Air Transport) do lịnh của Chánh phủ Đài Loan để dành riêng chở
Đức Ngài và Phái đoàn sang Đài Loan. Máy bay quay nhè nhẹ và chạy đến đầu sân
để rồ máy kiểm điểm lại máy móc trước khi cất cánh. Song sau hơn 5 phút rồ máy,
phi công lắc đầu tỏ vẻ thất vọng, nhìn giờ và nói rằng : máy bay có chút trục
trặc, không hoàn toàn êm thấm và hiện giờ đã trưa, nên quanh lại chỗ đậu cũ và
đề nghị để hôm sau sẽ đi sớm là tiện hơn và có đủ thời giờ sửa chữa máy móc lại
cho kỹ càng hơn.
Đức Ngài và Phái đoàn phải trở xuống và đi xe hơi về
Văn phòng 107 để chờ hôm sau.
Cảm động hơn hết là vị Tổng Lãnh Sự Đài Loan , một
người đã 60 tuổi, bị bịnh tê hết nửa thân người mà vẫn chống gậy ráng sức đến
phi trường để tiễn đưa Đức Hộ Pháp cũng vẫn ở lại phi trường để chờ máy bay cất
cánh xong mới chịu trở về. Ông vẫn đứng chống nương nơi cây gậy để chờ mãi, chờ
chẳng thấy máy bay cất cánh bay lên. Chức sắc đi đưa thấy vậy bảo Ông nên ngồi
nghỉ hay cứ về trước nghỉ ngơi kẻo đứng lâu mệt nhọc. Ông đáp rằng Đức Hộ Pháp
tuổi già hơn tôi mà còn lặn lội đi lo việc nước, còn tôi có lẽ nào không ráng
đợi để đưa Đức Ngài đi, và khi máy bay cất cánh xong, tôi sẽ về, như vậy mới
thật yên lòng.
Khi trở lại để ra xe, Đức Ngài rất cảm động trước cử
chỉ của vị Tổng Lãnh Sự và Đức Ngài cùng Phái đoàn về đến 107 Trần Hưng Đạo
đúng 12 g trưa và nghỉ đến hôm sau.
Ngày 2-8-Giáp Ngọ (dl 29-8-1954)
Sáng sớm Đức Ngài và cả Phái đoàn sắp sửa lên phi trường. Lần nầy cũng
còn các vị Chức sắc Phước Thiện, Hành Chánh và Sĩ quan Quân đội đến phi trường
tiễn đưa.
Chiếc phi cơ 2 máy hôm qua đã đến chực sẵn tại cửa vào
sân. Sau vài phút ghi các giấy tờ, Đức Ngài lên máy bay lúc 8 giờ 15. Máy bay
chạy đến đầu sân, rồ máy và từ từ cất cánh. Sau vài vòng đảo lộn quanh Sài gòn,
phi cơ trực chỉ về phía đông bay thẳng. Đây là một phi cơ hàng có băng bằng vải
ngồi hai bên hông. Tuy không có ghế dựa và bàn thấp hay hòm như các phi cơ 6
máy của hãng Air
Sau nửa giờ ngồi dựa vào các tấm băng vải, Đức Ngài
hơi mệt nên nằm xuống dãy băng, rồi lần lượt cả Phái đoàn đều nằm dài theo băng
để nghỉ.
Máy bay bay càng lúc càng cao đến 9 ngàn thước, như
lời của các phi công đã nói, bay ngang Quảng Ngãi, rồi thẳng tới Đài Loan,
chẳng ghé Hồng Kông. Vì gió xuôi, máy bay thêm tốc lực, bay tránh xa đảo Hải
Sau 4 giờ, máy bay vẫn bay đều đều và bỗng gặp mưa
lớn, máy bay tròng trành, nhảy lên nhảy xuống như tàu nhảy sóng lớn, Cô Tư rất
sợ sệt vì đi lần đầu tiên không quen bị nhảy nhồi như thế và chỉ trong vài phút
lướt qua khỏi chỗ mưa và mây dầy, máy bay trở lại êm ái. Trời trong, mây thưa
và dòm xuống chỉ thấy biển xanh mịt mờ vô tận.
11 giờ trưa, Phái đoàn ăn sáng trên máy bay bằng bánh
mì với fromage trái cây và uống nước suối đã đem theo.
Đây rồi, hiện xa xa có đất liền và một vài đảo xám đỏ
nổi lên giữa biển xanh xanh ngát. Đây Trân Châu đảo, kìa xa xa có vài cụm đảo,
và đúng 3 giờ rưỡi, máy bay hạ dần thấp xuống và quầng phi trường Đài Bắc. Vừa
đáp xuống phi trường, một nhóm người chừng đôi mươi có dựng một biểu ngữ đỏ
viết chữ Việt màu trắng đón tại sân.
Máy bay ngừng, Đức Ngài từ từ bước xuống.
Tôi đã lanh chân xuống trước để quay phim. Các Đại
diện Chánh phủ, Ngoại Giao Bộ và Việt kiều ở Đài Loan đến đón tiếp Đức Ngài.
Tấm biểu ngữ tiếng Việt " HOAN NGHINH ĐỨC GIÁO CHỦ ĐAÏO CAO ĐÀI "
phất phơ giữa nhóm người lăng xăng bao chung quanh Đức Ngài. Sau khi đến nhà
hàng tại phi trường , các nhiếp ảnh viên theo chụp ảnh không ngớt và các phóng
viên nhà báo đến phỏng vấn. Đức Ngài tuyên bố mục đích của cuộc du hành bằng
tiếng Pháp và một vị trong Bộ Ngoại Giao thông ngôn lại bằng tiếng Tàu.
Ba chiếc xe đậu chực sẵn tại cửa, rước Đức Ngài và
Phái đoàn về chỗ nghỉ. Đoàn xe 4 chiếc chạy qua Kinh thành Đài Bắc, qua một
đồng ruộng đến một chợ nhỏ, rồi khởi đầu leo lên dốc núi lối 30 phút sau, xe
chạy quanh quẹo theo dốc núi rồi đậu lại trước một ngôi nhà mát ẩn trong kẹt
núi giữa rừng cây cối um tùm sát bóng nhà. Đây là nơi nhà trọ của Phái đoàn ,
gọi là Chiêu Đãi Sở của Tổng Thống ở Dinh Bắc Đầu trong dãy núi Dương Minh Sơn.
Đức Hộ Pháp vào phòng nghỉ và các nhân viên trong Phái
đoàn mỗi người đều có phòng riêng, lúc ấy đã 6 giờ chiều. Sau khi đã để đồ đạt
xong và tắm rửa nghỉ ngơi, Đức Ngài mới khởi đi dạo chung quanh nhà trọ.
Đây là ngôi nhà nghỉ mát của Tưởng Tổng Thống, kiến
trúc theo lối Nhựt, mái thấp, sàn cây, song rất ngăn nắp, mỹ thuật, để rước
những người tri kỷ. Trước nhà là một khe suối nước chảy róc rách ngày đêm. Một
chiếc cầu cây xinh xắn bắc qua khe suối nước trong xanh, rồi bước lên vài bực
đá thiên nhiên lót lại để bước vào nhà.
Vào trong, các người trong Phái đoàn phải cổi giày để
mang dép lào đi trên sàn, đến phòng khách đèn điện sáng trưng, ta đã thấy lối
bày trí nửa Nhựt nửa Âu với bàn ghế và sàn cây, các phòng có cửa đẩy lắp kiếng
và mành mành để đón muỗi. Đức Ngài ở nơi phòng số 1 rộng rãi, bên hông là một
ngọn suối lớn, nước đổ rì rào theo kẹt đá như tiếng trời mưa, cây cối um tùm
gần như che kín cả dãy nhà, de nhánh đến tận cửa, một bầu không khí yên lặng
vắng vẻ, ngoài ra chỉ còn tiếng suối chảy ồn ào, và nhạc sành, ve kêu văng vẳng
mà thôi.
Ra đường dòm lại quang cảnh nhà ở giữa hai sườn núi
cao dốc không thấy bóng nhà. Nhà trọ dường như ẩn trong kẹt đá, bị cây rừng che
khuất , thật là một nơi đẹp đẽ thiên nhiên, một nơi khi bước vào có cảm giác
rằng đã lọt vào một thạch động u tịch trang nghiêm mà người tu hành vào đây để
tịnh luyện.
Đêm đến, một bữa tiệc chay tại nhà trọ do Viên Ty
Trưởng và Lệ Ty Trưởng chiêu đãi. Viên và Lệ là 2 nhân viên cao cấp của Bộ
Ngoại Giao, phụ trách về xã giao và chiêu đãi, cùng vài nhân viên có phận sự
thường trực với Phái đoàn.
Bữa tiệc xong, sau nửa giờ đàm luận, Viên Ty Trưởng và
Lệ Ty Trưởng cáo biệt, chỉ còn lại 2 nhân viên đặc phái bên cạnh Phái đoàn. Ông
Jou Tchen Kao (Nhuế Chánh Cao) thông ngôn tiếng Pháp ra tiếng phổ thông , Ông
Bành, chuyên viên lo xã giao với các cơ quan đoàn thể bên ngoài khi Phái đoàn
cần đến.
Đức Ngài vào nghỉ và cả Phái đoàn đều ngủ ngon lành
đến sáng, sau trọn ngày trên máy bay mệt nhọc, trừ ra Cô Tư và em Ngự không
quen đi máy bay nên có vẻ mệt nhiều.
Ngày 3-8-Giáp Ngọ (dl 30-8-1954)
Sáng ngày điểm tâm xong tại nhà trọ, Đức Ngài và Phái đoàn khởi đầu từ 9
giờ 30 đến viếng Hành Chánh Viện Trưởng Hồng Quân (Thủ Tướng) tại Tổng Thống
Phủ. Đức Ngài được tiếp đón và hầu chuyện rất niềm nở trong nửa giờ, xong Đức
Ngài kiếu từ để viếng Ngoại Giao Bộ.
10 giờ , Đức Ngài ra xe đến Ngoại Giao Bộ, hội đàm
cùng Bộ Trưởng Diệp Công Triệu trong 1 giờ.
11 giờ , Đức Ngài viếng Bộ Nội Chánh, hầu chuyện cùng
Bộ Trưởng Vương Đức Phổ.
12 giờ, Đức Ngài trở về Chiêu Đãi Sở, dùng bữa trưa
đúng 1 giờ .
4 giờ chiều, viếng Phó Tổng Thống Trần Thành tại nhà
tư. Ông Trần Thành tiếp đãi rất trọng hậu và có mời dùng đồ ngọt.
5 giờ chiều, Đức Ngài trở lại Tổng Thống Phủ viếng
Tổng Tham Mưu Trưởng Bành Mạnh Tập chừng nửa giờ, có chụp hình chung.
5 giờ 40, Đức Ngài đến viếng Bí Thư Trưởng Trương Quân
của Tổng Thống taiï Phủ Tổng Thống.
Đến 6 g 20, ra xe về nhà trọ. Đến mỗi nơi, cuộc tiếp
rước vẫn tỏ ra một cách long trọng kính nể và cuộc đàm luận rất tâm đầu ý hiệp,
thật là tương đắc.
Mặc dầu Đức Ngài không nói được tiếng Tàu, chỉ nói
tiếng Pháp và nhờ Ông Jou Tchen Kao (Nhuế Chánh Cao) ở Bộ Ngoại Giao thông ngôn
lại bằng tiếng phổ thông Trung Hoa, mỗi nơi đều có quay phim ít nhiều để kỷ
niệm.
Ngày 4-8-Giáp Ngọ (dl 31-8-1954)
Sáng dậy sớm, điểm tâm xong tại nhà trọ, Đức Ngài và Phái đoàn đi viếng
Trung Liệt Tự và Văn Miếu Khổng Tử theo như chương trình của Bộ Ngoại Giao đã
sắp đặt.
Ngộ nghĩnh một điều là từ ngày Đức Ngài và Phái đoàn
đến Đài Loan, Bộ Ngoại Giao Đài Loan rất lo lắng để tiếp đãi Đức Ngài. Họ đã
sắp đặt sẵn một chương trình đi thăm viếng các nơi, từ ngày mới đến cho tới
ngày 11-9-1954, trong 10 hôm. (Vì lúc mới sang Đài Loan, Đức Hộ Pháp dự bị ở
Đài Loan 10 ngày). Mỗi ngày, để có sắp đặt giờ và nơi đi viếng, chương trình ấy
được Bộ Ngoại Giao in ra nhiều bổn, phát lại cho các nhân viên có phận sự chiêu
đãi Phái đoàn và mỗi người trong Phái đoàn đều biết cả.
Hôm nay, 9 giờ đến viếng Trung Liệt Tự.
Khởi hành từ 8 giờ ở nơi Chiêu Đãi Sở, Đức Hộ Pháp
cùng Ông Jou Chuyên viên Ngoại giao Bộ và tôi (Sĩ Tải Cao) đi trên chiếc xe
Lincoln đen số 15-0001 (12 máy) có cắm cờ Đài Loan và cờ Đạo Cao Đài gác tréo
trước đầu xe, chiếc xe nầy mang số 0001 là chiếc xe mang số đầu tiên ở đảo Đài
Loan, số 15 là số đặc biệt của Tỉnh Đài Loan, Chánh phủ Đài Loan dụng ý muốn
chiêu đãi Phái đoàn một cách đặc biệt , nên dùng chiếc xe mang số 0001 ấy dành
riêng cho Đức Ngài đi, mặc dầu xe ấy có hơi cũ song máy vẫn còn rất tốt, còn 2
chiếc xe Ford cho nhân viên đoàn tùy tùng thì là xe Location do Chánh phủ mướn
của hãng Phi Long, dành riêng cho Phái đoàn .
Xe mỗi lần đi là phải đến Châu Thành Đài Bắc, từ nhà
trọ đến Châu Thành phải mất hơn nửa giờ , vì phải xuống một đoạn đường núi
quanh quẹo nguy hiểm, như lên xuống đèo Blao ở Đà Lạt, hai bên đường thỉnh
thoảng cũng có xóm nhà ở vài nơi, người ta đào đất và đá trong núi để lấy chất
lưu huỳnh dùng làm thuốc súng, thật là một thổ sản dồi dào, chất ấy lộn trong
đất đá, có cả núi nho nhỏ đầy những chất ấy, đi ngang qua đây có một mùi tanh
tanh nặng mùi khó chịu xông lên từ các lò hầm ấy.
Hai bên triền núi, dân Đài Loan ban đất ra thành ruộng
ven từng cấp, ruộng ấy giữ nước lại được nên lúa vẫn tốt, xanh mướt, mặc dầu ở
triền núi cao có hơn 400 hoặc 500 thước. Xe xuống hết dốc núi đến một chợ nho
nhỏ, một Châu Thành ngoại ô kinh đô Đài Bắc "Bắc Đầu ", tiếng Tàu gọi
là "Pế Thầu", chạy ngang qua một đồng ruộng lúa xanh tươi vừa sức
bén. Nơi đây, ruộng phần nhiều rất ít nước, bờ đê ngay thẳng, lúa không cao
lắm, nhưng mà lúa xanh rì đều đều, không chòm cao chòm thấp. Xa xa có xóm nhà
mái thấp lợp ngói âm dương hay ngói xi măng, là đà ẩn trong chòm cây rậm hay
trong lũy tre xanh. Phong cảnh nầy mường tựa bên ta, như các cánh đồng ruộng
miệt Phú Lâm, An Lạc (Chợ Lớn) vậy. Xa xa là dãy núi không cao lắm, chạy dài
bao bọc Đài Bắc, Kinh đô của Đài Loan, hay nói rõ hơn là Kinh đô của Trung Hoa
Dân Quốc Tự Do, lưu vong đến Đài Bắc, một Kinh thành không lớn hơn Châu Thành
Sài gòn Chợ Lớn, mà có phần kém hơn, đường sá có phần chật hẹp, không trật tự,
chỉ có số ít đại lộ có trồng cây da, xem ra phố xá trệt có phần lộn xộn, một
vài phố có đôi từng lầu như Chợ Lớn. Đi trong phố, ta tưởng tượng như đi trong
Chợ Lớn, ồn ào, rộn rịp, xe cộ lăng xăng, song ít hơn Chợ Lớn nhiều. Xe hơi
toàn hiệu Huê Kỳ và Nhựt Bổn, xe lôi đạp kiểu xưa, xe máy kiểu Nhựt, một vài chiếc
mô tô. Đài Bắc, Kinh đô của Đài Loan, trước kia bị Nhựt lấy làm thuộc địa hơn
50 năm, sau khi đầu hàng Đồng Minh, mới trả lại cho Trung Hoa, và Đài Loan là
một Tỉnh của nước Tàu. Vì cớ, dân Đài Loan chịu ảnh hưởng của Nhựt nhiều hơn
Trung Hoa. Từ cách ăn mặc theo lối Âu Mỹ, sự kiến trúc theo lối Nhựt, nhưng
cách bày trí hỗn tạp vẫn còn giống theo người Tàu.
Đoàn xe đến Trung Liệt Tự, là nơi làm Đền thờ và Đài
Kỷ niệm Chiến sĩ Trận vong Trung Hoa Dân Quốc. Đài nầy dựng ở dưới chơn núi,
một chỗ thanh tịnh rộng rãi uy nghiêm. Một Đài dựng cao vọi giữa sân rộng , có
trồng cây kiểng lạ, hoa cỏ xanh tươi, ghi công ơn của các Chiến sĩ Trận vong,
và bên trong có một ngôi Đền nhỏ, sáng sủa, sơn son phết vàng mỹ thuật, bày trí
theo lối Tàu, thờ bài vị Chư Chiến Sĩ Trận vong. Đức Ngài vào thay áo đạo trắng
, đội mão Tam Quang trắng, bước lên đài đảnh lễ. Dài theo sau có Phái đoàn .
Làm lễ xong, Đức Ngài lui ra và đi vòng quanh xem qua phong cảnh. Tôi quay phim
xong quang cảnh đền đài, rồi Đức Ngài và Phái đoàn ra xe chạy đến Văn Miếu
Khổng Tử.
Xe chạy quanh quẹo trong Châu Thành một đổi rồi ngừng
trước một cửa ngõ cổ. Bên trong, xa xa có một tòa Miếu cổ, các vòm mái uốn cong
vẻ cổ kính. Đó là Văn Miếu Đức Khổng Tử.
Đức Ngài vào cửa ngõ, đi qua một khoảng vườn, vào một
cửa ngõ nữa, trong nền sân rộng có một Tòa Văn Miếu rộng rãi cất theo lối xưa
của Tàu, mái ngói âm dương uốn cong lên, các cây cột chạm trổ sơn son phết
vàng, xem rất uy nghi. Hai phía đều có Đông lang Tây lang, Hậu Điện và nhà
ngang bao vi, chính giữa là Điện Chánh.
Đức Ngài được rước vào Nhà Khách, dùng trà và vài phút
sau, Đức Ngài thay đồ Tiểu phục, mang Dây Sắc lịnh, đội mão, lên làm lễ Đức
Khổng Phu Tử. Ông Giáo Hữu Trôi mặc Đại phục đỏ đứng tiếp theo sau, và trong
những bàn thờ, bài vị bày trí lộng lẫy với đồ chạm trổ sơn son phết vàng.
Đức Ngài làm lễ xong rồi trở xuống Nhà Khách thay đồ
và tiếp chuyện cùng Ban Quản trị nơi Miếu độ nửa giờ. Xong Đức Ngài đi viếng
chung quanh Văn Miếu, ra sau vườn, có hồ sen, một chiếc cầu nhỏ bắc qua giữa
hồ, vài cây đa cổ thụ buông rễ lơ thơ xem rất u nhàn rộng rãi, mặc dầu ở trong
châu thành chật hẹp. Xong Đức Ngài gởi cúng hành hương 1000 đồng và ra xe đến
Kiều Ủy Hội viếng Ông Ủy Viên Trưởng Trịnh nhan Phân, kế tiếp đến Trung ương
Đảng Bộ của Trung Hoa Quốc Dân Đảng.
12 giờ, Trung Ương Đảng Bộ thết tiệc chiêu đãi Đức
Ngài cùng cả Phái đoàn.
Buổi chiều trở về nghỉ trọn buổi ở Chiêu Đãi Sở, Dinh
Bắc Đầu. Nơi Chiêu Đãi Sở đặc biệt có thứ nước nóng tự nhiên, Tàu gọi là Lưu
hoàng thủy, từ trong suối chảy ra gọi là Ôn Tuyền, dẫn đến nhà nghỉ, cho chảy
vào hồ để tắm. Nước nầy không nóng lắm, chảy luôn ngày đêm, tắm rất khoan khoái
và khỏe khoắn.
Ngày 5-8-Giáp Ngọ (dl 1-9-1954)
Hôm nay, sáng dậy sớm để điểm tâm và đúng 8 giờ xe đến rước Đức Hộ Pháp
và Phái đoàn đi viếng Xưởng Cơ Khí số 44 của Quân đội Đài Loan. Xe chạy vòng
quanh Đài Bắc và ra đến chân núi. Một dãy Cơ xưởng nổi hiện lên giữa nhà dân
chúng. Nơi đây có vị Tướng quan chưởng quản và 2 vị Tá quan đến dẫn giải Lịch
sử của Xưởng và các món khí giới chế tạo tại Xưởng như súng bắn hỏa tiễn, bích
kích pháo, súng liên thanh hạng nặng, hạng nhẹ, súng trường nổ liên tiếp kiểu
Carbine Mỹ, vv ... Vị Tướng quan dẫn giải các vị trí của Xưởng xong, Ông đưa
Phái đoàn đi xem từng dãy một, mỗi nơi làm một bộ phận. Những loại súng đều do
nơi đây chế tạo ra . Các hỏa tiễn cũng do nơi đây làm ra. Máy móc tối tân do Mỹ
viện trợ, nhơn công đều do thợ chuyên môn Đài Loan. Sự sản xuất mau chóng, máy
móc tối tân. Cả thảy đều chăm chỉ vào công việc.
Trung Hoa Tự Do đã giác ngộ rất nhiều trên đường kiến
thiết để mưu đồ khôi phục Đại lục, đến nỗi Đức Ngài xem rất chăm chú và không
ngớt khen ngợi. Xem các nơi xong xả, các vị Sĩ quan mời Đức Ngài xem bắn thử
hỏa tiễn, Mortier và súng liên thanh. Cả thảy đều nổ dòn, không lép một trái
hay một viên nào cả.
Mãi gần đến 12 giờ , Đức Ngài mới để lời cám ơn và từ
giã Đệ tứ thập tứ Binh Công Xưởng để về Đài Bắc dùng tiệc do các tôn giáo thết
đãi, nơi đây có mặt các Đại diện các Tôn giáo như : Phật giáo, Nho giáo, Hồi
giáo, Thiên Chúa giáo.
Mỗi vị Đại biểu đọc một diễn văn chúc mừng sự có mặt
của Phái đoàn Cao Đài sang Đài Loan trong buổi nầy.
Khi đọc dứt các bài diễn văn, Đức Ngài đứng lên đáp từ
và để lời dẫn giải sự hiệp đồng tinh thần thống nhứt các nền tôn giáo để đem
lại sự thương yêu và hạnh phúc cho nhơn loại. Một tràng pháo tay vang dậy sau
lời đáp từ của Đức Ngài.
Bữa tiệc gồm cả chư vị khách quí, vị Phật sống Tây
Tạng, như Cụ Bạch Sùng Hy, các vị Bộ Trưởng có Đạo, vv... kéo dài đến 2 giờ mới
ra về Dinh Bắc Đầu.
Đến 3 giờ , Đức Ngài cùng Ông Minh, Ông Hiệp, Ông Jou
và tôi đến viếng Ông Trịnh giới Dân tại nhà tư.
6 giờ, Đại Tướng Lý Mi mời Đức Ngài, Yu Kia Ling, Ngô
khai Minh và Hứa văn Hiệp dùng cơm tại tư thất.
Ngày 6-8-Giáp Ngọ (dl 2-9-1954)
Hôm nay, theo chương trình đi viếng ở Đài
Hai nhân viên Ngoại Giao Bộ : Ông Jou và Ông Bành đều
đến nhà trọ rước Phái đoàn đến phi trường Đài Bắc. Đến nơi, có chiếc máy bay
quân sự 2 máy đậu sẵn chực rước Phái đoàn. Sau khi sắp đặt hành lý xong xả,
đúng 10 giờ 15, máy bay khởi hành. Sau vài vòng lượn trên châu thành Đài Bắc,
máy bay trực tiến về phía
Đây là một chiếc phi cơ nhà binh sơn màu xám đất, có
vẽ cờ Trung Hoa Tự Do, dành riêng để đưa Phái đoàn đi Đài
Ngó ra phi trường , xa xa những chiếc phi cơ phản lực
nhỏ đậu dài theo bìa sân. Các Sĩ quan đưa Đức Ngài vào xem các phòng tổ chức
huấn luyện Không Quân do các Cố Vấn Mỹ điều khiển, vào nơi công xưởng lắp ráp
và sửa chữa máy bay phản lực, các chuyên viên Trung Hoa đã tự ráp và sửa lấy
những máy móc tối tân do Mỹ viện trợ.
Viếng các nơi xong, 3 chiếc xe có số thứ tự sẵn chờ
rước Đức Ngài và Phái đoàn đưa đến Tả Dinh, một căn cứ Hải Quân Trung Hoa trụ
tại Chiêu Đãi Sở "Tứ Hải Nhứt Gia"
Nơi đây một bữa tiệc trưa thết đãi Đức Ngài do Tổng Tư
Lệnh Hải Quân thết đãi, có các Sĩ quan cao cấp tham dự.
Đêm đến, một bữa tiệc chay tại nhà trọ do Viên Ty
Trưởng và Lệ Ty Trưởng chiêu đãi. Viên và Lệ là 2 nhân viên cao cấp của Bộ
Ngoại Giao, phụ trách về xã giao và chiêu đãi, cùng vài nhân viên có phận sự
thường trực với Phái đoàn.
Bữa tiệc xong, sau nửa giờ đàm luận, Viên Ty Trưởng và
Lệ Ty Trưởng cáo biệt, chỉ còn lại 2 nhân viên đặc phái bên cạnh Phái đoàn. Ông
Jou Tchen Kao (Nhuế Chánh Cao) thông ngôn tiếng Pháp ra tiếng phổ thông , Ông
Bành, chuyên viên lo xã giao với các cơ quan đoàn thể bên ngoài khi Phái đoàn
cần đến.
Đức Ngài vào nghỉ và cả Phái đoàn đều ngủ ngon lành
đến sáng, sau trọn ngày trên máy bay mệt nhọc, trừ ra Cô Tư và em Ngự không
quen đi máy bay nên có vẻ mệt nhiều.
Ngày 7-8-Giáp Ngọ (dl 3-9-1954)
Hôm nay là ngày đi viếng Lục Quân Quan Học Hiệu.
Sáng 8 giờ, sau khi điểm tâm ở Tả Dinh, cả Phái đoàn
được xe đưa đến Phụng Sơn để viếng Trường Quân Bị và Bộ binh. Từ Tả Dinh, đoàn
xe chạy dài gần 15 cây số, giữa đồng bằng phẳng, hai bên trồng mía tốt xanh rì.
Đến Phụng Sơn, xe tiến vào đậu trước Trường Quan Học Hiệu.
Ông Hiệu Trưởng Hinh tiếp rước long trọng. Ông trình
bày đây là một Trường Huấn luyện sinh viên sĩ quan , trước kia là Trường Hoàng
Phố, đã có từ mấy mươi năm về trước , ở trong Đại lục, sau khi Đại lục bị Trung
Cộng chiếm cứ, Trường phải dời ra Đài Loan, lập lại y như trước để tiếp tục .
Sinh viên sĩ quan được huấn luyện đầy đủ về quân sự đối với Bộ binh, đã đào tạo
rất nhiều sĩ quan xứng đáng gương mẫu về hai mặt thực dụng lẫn tinh thần.
Sau khi xem các nơi, một bữa cơm chay được dọn ra ngay
tại văn phòng của vị Hiệu Trưởng để thết đãi Đức Ngài và Phái đoàn. Sau bữa
trưa, Đức Ngài được đưa đi xem các tổ chức trong trường, lối học tập và thực
hành, nơi làm việc cùng nghỉ ngơi, cả thảy đều trang hoàng trật tự.
Châu vi trường rộng lớn, có đến 10 cây số.
Đến 3 giờ , đoàn xe đưa Đức Ngài đến viếng Đệ lục thập
Binh Công Xưởng ở Cao Hùng, cách trường vài cây số. Nơi đây có đủ dụng cụ dạy
về môn tập trận, những xưởng chế tạo vũ khí nặng nhẹ, những lớp học thực hành,
mỗi mỗi đều trang hoàng đầy đủ, cách trình bày mỹ thuật khéo léo.
6 giờ , Phái đoàn từ giã Phụng Sơn, trở về Cao Hùng.
Đoàn xe trước khi đưa về Tả Dinh, lại chạy vòng quanh chợ Cao Hùng, đến bến
tàu, qua căn cứ quân sự, rồi đến chỗ yếu trọng để phòng thủ mũi đảo, và sau
rốt, xe đưa Đức Ngài về Tả Dinh.
Bữa cơm chiều đã dọn sẵn và đồ chay nơi đây do một
người đầu bếp chuyên môn rước từ Đài Bắc xuống để nấu riêng cho Đức Ngài.
Và đêm nay, bữa hát đặc biệt tổ chức do sinh viên Hải
và Lục quân Quan Học Hiệu tại Câu Lạc Bộ Hải Quân. Đức Ngài vừa đến, bước vào
rạp hát thì một tràng pháo tay nhịp nhàng tiếp đón. Cả sinh viên trên năm sáu
trăm vị ngồi chật hết cả ghế nhỏ đều đứng dậy vỗ tay chào mừng Đức Ngài và Phái
đoàn có hơn 5 phút, và trên sân khấu, một tấm biểu ngữ đỏ chữ vàng giăng ngang
qua đề chữ : " HOAN NGHINH TỔNG GIÁO CHỦ CAO ĐÀI GIÁO"
Đức Ngài, các Sĩ quan cao cấp và Phái đoàn ngồi vào
hàng ghế danh dự. Xong xả, vị Trưởng Ban Tổ chức đứng ra giới thiệu tuồng hát
và rất hân hạnh được Đức Ngài chẳng nại mệt nhọc đến dự buổi hát.
Đức Ngài đứng dậy đáp từ và ngỏ lời cám ơn thạnh tình
của các Trường Quân Quan Hải và Lục quân Trung Hoa đã khéo léo tổ chức để chiêu
đãi Đức Ngài.
Tuồng hát khởi diễn, màn vừa kéo lên, một con khỉ đột
do người đội lốt nhảy ra trừng trợn, tay che mắt dòm xa, tướng điệu láo liên,
một tay gãi lông dường như ngứa ngái nóng nảy, nhảy qua nhảy lại, nhào lộn tài
tình. Ấy là Tôn Ngộ Không hay Tôn Hành Giả trong một đoạn tuồng của Truyện Tây
Du lúc trừ yêu cứu người con gái của một vị Viên ngoại bị yêu quái hăm bắt để
làm vợ.
Cả kép hát do sinh viên các Trường Quân Quan chọn ra,
hát rất tài tình, điệu bộ khéo léo gọn gàng, lối múa nhảy, đánh võ rất ngoạn
mục, nhứt là vai Tôn Hành Giả, nhảy nhót liến xáo không khác nào khỉ đột. Nếu
so sánh các tuồng Tàu hay hát bội bên ta thì buổi hát hôm ấy có phần xuất sắc
hơn mọi phương diện, khó thể bì kịp, mặc dầu đào kép chỉ là những sinh viên của
Trường Võ bị mà thôi.
Hết lớp Tây Du, tiếp sang một đoạn tuồng về Trung Tiết
Nghĩa. Cả vai đóng tuồng rất đáng khen tặng, những tràng pháo tay vỡ rạp nổi
lên từng hồi, Đức Ngài vẫn khen luôn miệng.
Đến 11 giờ, sau 1 giờ 15 phút hát, buổi hát tan. Đức
Ngài ra về giữa tràng pháo tay không dứt trước 5 phút.
Đêm nay còn trọ ở Tả Dinh như đêm vừa qua.
Ngày 8-8-Giáp Ngọ (dl 4-9-1954)
Sáng hôm nay, điểm tâm sớm lúc 7 giờ và cả Phái đoàn sắp soạn để lên Đài
Trung. Vì còn dư thì giờ , bởi đến 10 giờ, phi cơ mới đưa Phái đoàn đi Đài
Trung, nên Đức Ngài dự định đi xem sơ Châu thành Đài Nam và các thắng cảnh,
những nơi cổ tích.
Đoàn xe 3 chiếc chạy vòng quanh Châu thành Đài Nam,
đến Cao Hùng, đoàn xe dừng trước Miếu thờ vị đã tạo dựng Tỉnh Đài Loan và Cổ
miếu ngó thẳng ra phi trường Đài Nam, nơi phi cơ đã đậu hôm đến.
Sau đó, xe đưa Phái đoàn ra phi trường. Tới nơi, có
rất đông Sĩ quan cao cấp Hải và Không quân đưa Đức Ngài lên phi cơ , và cũng
chiếc máy bay hôm đưa xuống đã trở lại đưa riêng Phái đoàn lên Đài Trung.
Sau 35 phút bay êm tịnh, phi cơ đã quầng sân Đài Trung
và nơi đây có sẵn vị Thị Trưởng Đài Trung cùng vài nhân vật khác đến rước về
trọ nơi Thiết Lộ Điếm (Hotel de la Gare) ở trung tâm Châu thành Đài Trung.
Đức Ngài lên phòng rửa mặt, thay đồ nằm nghỉ.
12 giờ trưa, xe đến, chư vị nhân viên Ngoại Giao Bộ
lên mời Đức Ngài xuống Nhà hàng tại Khách sạn dùng tiệc do Cụ Khổng Đức Thành,
cháu 77 đời của Đức Khổng Tử, thết đãi.
Đây là phòng tiệc của Khách sạn. Trước một cái bàn lớn
hình hột xoài chưng hoa rực rỡ, Cụ Khổng Đức Thành tuổi ngoài 40, tác người cao
lớn, gương mặt chữ điền, da mặt hồng hào, đi đứng khoan thai, thật là cổ nhân
ta có nói rằng : "Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh",
thật không sai vậy.
Cụ ra chỗ cửa vào đón tiếp Đức Ngài và Phái đoàn. Vị
Ngoại giao Bộ giới thiệu từng người khách quan cho Phái đoàn biết. Xong Cụ
Khổng Đức Thành và Ông Thị Trưởng Đài Trung mời Đức Ngài và cả quan khách ngồi
vào bàn.
Cụ Khổng Đức Thành và Ông Thị Trưởng đứng lên ngỏ lời
chào mừng Đức Ngài đã chẳng nệ đường xa mệt nhọc, đến viếng Đài Trung, và kế
tiếp Cụ Khổng, bằng một giọng nghiêm nghị từ hòa, tiếp lời chào mừng, được Đức
Ngài đến Đài Trung là một dịp may mắn cho nơi đây, và Cụ lấy làm vinh hạnh được
hầu chuyện cùng Đức Ngài, một bực Giáo Chủ một nền tôn giáo mà căn bản lại là
Nho Tông.
Đức Ngài đứng lên đáp từ, chẩm rãi để lời cảm tạ quan
chức hữu quyền và Cụ Khổng đã chiếu cố rất nhiều đến cuộc du hành của Đức Ngài
ở Đài Trung và Đức Ngài giảng giải đến sự liên quan mật thiết giữa Đạo Cao Đài
và Đạo Nho của Đức Khổng Tử, để tạo lập hạnh phúc thương yêu cho nhơn loại đại
đồng.
Đức Ngài dứt lời, một tràng pháo tay vang dậy nổi lên
và Đức Ngài cùng các quan viên quí khách đồng ngồi vào tiệc. Nơi đây dọn ăn
theo lối Mỹ, mỗi người mỗi phần, riêng chỉ có 6 phần chay, còn lại đều dọn mặn.
Bữa tiệc kéo dài đến 2 giờ rưỡi mới mãn và trước khi
chia tay, Đức Ngài hứa sẽ còn gặp gỡ nữa trong buổi chiều nầy.
Đức Ngài lên phòng thay đồ rồi nghỉ.
Đến 4 giờ, nhân viên Ngoại Giao Bộ đến rước Đức Ngài
đi xem nơi Cổ Cung Bảo Vật Quan Cổ Vật. Đoàn xe 2 chiếc chạy ra khỏi Châu thành
rồi rẽ vào một ngõ hẹp ngoằn ngoèo giữa đồng ruộng và xóm nhà để đi đến một
chơn đồi. Xe ngừng trước một ngôi nhà mát kiến trúc theo lối Nhựt. Nơi đây đã
có sẵn Cụ Khổng Đức Thành đón rước Đức Ngài để đưa đến xem nhà chứa đồ cổ. Nơi
đây, sự thật là những nhà nhỏ cất núp dưới đồi lẫn trong tàn cây, hay đúng hơn
là những kho chứa để cất giấu một kho tàng quí báu, cả bảo vật của nước Trung
Hoa gom góp hơn mấy ngàn năm, hôm nay vì thời cuộc chiến tranh loạn lạc, nên từ
trong Đại lục chuyển đi ra hải đảo Đài Loan cất giấu, được tin Đức Ngài đến nên
trong Hội mới mở cửa và bày trí một phần nho nhỏ để cho Đức Ngài và Phái đoàn
xem mà thôi.
Nơi nhà chứa đồ cổ, vào trong ta thấy những đồ đồng,
đồ kiểu quí giá vô ngằn, có tấm bình phong chạm bằng ngọc thạch đáng giá bằng
mấy chục ngàn Mỹ kim, đồ xưa nhiều món đã có từ năm sáu ngàn năm về trước ,
nhưng cũng không kém mỹ thuật.
Đi vòng lên xem các kho sách vở tài liệu, một ít đồ
kiểu được bày ra cho Đức Ngài xem, nhiều bức họa tuyệt mỹ, nhiều quyển sách và
kinh bằng lụa chữ thêu nổi, nhiều tài liệu vô giá. Kho chứa cất 2 dãy dài lợp
ngói, vách tường đều sơn màu đất cho hợp với màu cây đá để tránh dội bom. Toàn
những thùng đóng kỹ lưỡng để chứa cổ vật, chất chồng đến tận nóc, đầy ắp cả 2
dãy kho.
Vị Chưởng quản kho tàng dẫn đường dẫn giải đồ cổ tích
cho Đức Ngài và Phái đoàn nghe và Đức Ngài đã đi xem hết cả mấy dãy kho, rồi
trở xuống nhà mát, chỗ để xe đậu, dùng nước.
Nơi đây, Đức Ngài đàm luận với Cụ Khổng Đức Thành,
uống trà, ăn trưa. Bên ngoài trời mưa to và mãi đến 6 giờ rưỡi, mưa mới dứt.
Đức Ngài và Phái đoàn ra xe để về khách sạn.
Bữa cơm chiều dọn tại khách sạn, dùng cơm xong, Đức
Ngài lên phòng nghỉ liền vì trọn ngày đi đứng mỏi mệt.
Chúa nhựt, Ngày 9-8-Giáp Ngọ (dl 5-9-1954)
Buổi sáng hôm nay, sau khi điểm tâm, chư vị Ngoại Giao Bộ đưa đến viếng
Phường Thổ địa cải cách ở Đài Loan.
Đoàn xe ra ngoại ô Châu thành Đài Trung để đến trụ sở
của Ủy Ban Thổ địa cải cách, xa Châu thành lối một ngàn thước. Nơi đây vị
Trưởng Ban cùng vị Phó Thổ Trưởng đồng ra ngõ tiếp đón Đức Ngài và Phái đoàn
vào nơi văn phòng làm việc. Vị Trưởng mời Đức Ngài và Phái đoàn dùng rượu và
dẫn giải phương chước cải cách điền địa cùng kết quả đã thu hoạch.
Xong, xe đưa đến viếng một nhà nông dân của Phường cải
cách thổ địa mới, giữa cánh đồng bằng, lúa xanh man mác chạy đến chân đồi.
Trong những lũy tre xanh, một chòm nhà ngói nhỏ nhỏ mái thấp, đây là những gia
đình nông nghiệp sống nhàn hạ giữa những thửa ruộng xanh tươi, nguồn sống duy
nhứt của gia đình họ, nhờ phương pháp cải cách điền địa, nên mỗi người dân đều
có ruộng cày đồng đều, không ai quá nhiều, mà cũng không ai quá ít. Cả thảy đều
vừa dư sống, huê lợi ít nhiều do sự chăm lo kỹ lưỡng cùng không của người cày.
Nhìn những nét mặt hân hoan mộc mạc của dân nhà nông, ta cảm thấy đời họ vừa
nhàn hạ, vừa no đủ. Đây cũng là một diễm phúc của người dân đang sống trong
thời loạn.
Ban cải cách lại chỉ cho người cày cách thức chọn
giống gieo mạ, cấy lúa, trừ sâu rầy, gặt lúa và cách phơi lúa, giữ gìn theo
phương pháp khoa học, thành ra nghề nông đã tiến triển khá cao trong sự đổi mới
nhờ cải cách.
Lẩn quẩn xem các kho lúa, các trại nông nghiệp, thì đã
đến 11 giờ rưỡi, cả Phái đoàn kiếu từ về nhà hàng.
Hôm nay, vị Thị Trưởng thết tiệc chiêu đãi Đức Ngài và
Phái đoàn cùng mấy vị quan khách hôm qua, nhưng không có mặt Cụ Khổng Đức
Thành, vì người bận dạy học, một nghề lưu truyền từ mấy ngàn năm qua.
Đến 1 giờ rưỡi, tiệc mới xong và Đức Ngài về phòng
nghỉ an giấc. Đúng 3 giờ , nhân viên Ngoại Giao Bộ đến rước Đức Ngài luôn Phái
đoàn và cả hành lý để đến viếng Nhựt Nguyệt Đàm, cách Châu thành Đài Trung 80
cây số.
Xe ra khỏi Châu thành chạy giữa cánh đồng bằng, lúa
xanh rì đến tận đàng xa, mờ mờ khuất chân đồi. Dân sự ở rải rác khắp nơi trong
các lũy tre xanh cao vút, nhà mái thấp và ngang, lợp bằng ngói xi măng màu xám
đất là đà trong các hàng rào tre, nhìn qua ta tưởng tượng một cánh đồng nhà quê
bên ta chẳng khác.
Đi một đổi trên 10 ngàn thước thì đến chân đồi, và
đoàn xe khởi đầu lên dốc, quanh co uốn khúc, mặc dầu đã thuộc về rừng núi, song
hai bên đường vẫn còn thấy ruộng lúa xanh tốt vô cùng. Ở đây người ta phá sườn
núi ra để làm thành những đám ruộng nhỏ, có bờ vững chắc ngăn nước, những ống
dẫn nước từ trên núi đổ róc rách vào các ruộng cao, cheo leo và sắp thành từng
nấc (Champs en gradins).
Xe đã bắt đầu leo núi theo đường quanh co, lên đèo
xuống ải, chạy cặp theo dòng nước đổ rầm rì, mùa có phai phái sương mù bao phủ,
làm cho cảnh rừng núi thêm vẻ âm u, mấy chòm tre cao vút thẳng thắng nên thơ,
làng mạc tản mác dựa bên đồi. Xe có lúc phải chun qua đường hầm ba bốn lượt,
rồi chạy dài theo đường cặp bên sườn núi, qua những chiếc cầu treo nên thơ, bắc
qua các dòng thác như Tiên Nhơn Kiều, Quan Âm Kiều. Xe cộ đôi khi qua lại khiến
các con đường, dầu ở giữa núi cao rừng sâu, nhưng không đến nỗi vắng tanh, lạnh
lẽo. Xe vẫn quanh lộn qua cầu và đôi khi gặp cảnh nên thơ, xe bèn ngừng lại để
ngắm và luôn dịp đợi xe sau. Xe bắt đầu lên đèo, đường khúc ẩn khúc hiện, quanh
lộn theo sườn núi, có xóm nhà lơ thơ của các sở trà rậm rạp ở đỉnh đồi. Xe vẫn
chạy trên đường đèo, và rồi đây, trên 800 thước bề cao, một hồ nước mênh mông
hiện ra, ấy là Nhựt Nguyệt Đàm.
Hồ Nhựt Nguyệt, một nơi thắng cảnh nhứt ở đảo Đài Loan
. Xe chạy dọc theo bờ hồ gần 1 ngàn thước, thấy lô nhô xóm nhà hiện lên và chạy
quanh lên một ngọn đồi, và một tòa nhà khá rộng lớn hiện ra. Ấy là nhà hàng Hàm
Bích Lâu, một nhà hàng xinh xắn cất theo lối kiến trúc của Nhựt trên một ngọn
đồi cao nhìn xuống hồ. Du khách dầu khó tánh đến đâu, trước cảnh sơn thủy hữu
tình, cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ, cũng cảm thấy tâm hồn lâng lâng thơ thới.
Đức Ngài xuống xe và vào nhà hàng nghỉ nơi phòng rộng
lớn ở phía Đông và cả Phái đoàn đều tá túc nơi đây.
Bây giờ đã 6 giờ chiều, cảnh vật âm u quanh hồ lại
càng lặng lẽ. Sương đã bắt đầu bao phủ rừng cây chung quanh hồ, gió thổi lai
rai mát lạnh.
Sau khi nghỉ và tắm rửa xong xả, Đức Ngài, Ông Giáo
Hữu Trôi và tôi, ở phòng phía Đông, dùng cơm chay dọn tại phòng. Cơm nước xong,
Đức Ngài nằm nơi một ghế dựa dài giống như cái chỏng bên ta, ngó mong xuống hồ.
Trước phong cảnh hữu tình gợi nguồn thơ, Đức Ngài bèn biểu tôi lấy giấy lại
chép bài thi của Đức Ngài sắp đọc.
Bài thi ấy như sau :
Đây hồ Nhựt
Nguyệt tại đầu non,
Một nửa vòng câu, một nửa tròn.
Xanh biếc điểm màu tòng lộn đảnh,
Trắng ngần lộng sắc nước soi gương.
Đầu gành lăng líu chim ca hát,
Kẹt đá ro re suối khảy đờn.
Những khách phong lưu, ai để bước ?
Cảnh nhàn như thế, cảnh nào hơn ?
Và một bài thi Tứ tuyệt bằng chữ Nho :
Sơn đầu hữu
thượng thủy,
Vân vũ tạo tú khí.
Đài Trung Nhựt Nguyệt đàm,
Thắng cảnh nhứt vô nhị.
Đêm nay trời lạnh, Đức Ngài vào giường ngủ một giấc
ngon lành sau một ngày đi đứng mệt nhọc.
Ngày 10-8-Giáp Ngọ (dl 6-9-1954)
Sáng sớm, sau khi điểm tâm xong, Phái đoàn sắp soạn để đi du hồ. Một
chiếc ghe đã mướn sẵn nơi mé hồ. Đức Ngài đi bộ xuống dốc để đến ghe. Đây là
một chiếc ghe thuộc loại cho mướn đi du hồ, chạy bằng máy nhỏ, trên có để băng
ngồi hai bên. Xuống ghe máy xong, ghe tách bến chạy cặp quanh hồ, rồi băng qua
đến xóm Tù Trưởng họ Mao. Đến nơi, Đức Ngài lên đi bộ, che dù, đi từ bãi hồ đến
xóm chừng 200 thước.
Đây là vùng cao sơn, một số dân tộc thiểu số, dân Thái
trắng, dưới quyền dìu dẫn và bảo hộ của vị Tù Trưởng họ Mao. Họ sống nơi đây
với đủ nghề và phần đông đều buôn bán đồ thổ sản như : Gậy, đủa, đồ kỷ niệm,
các thứ hoa quí trong rừng núi. Vị Tù Trưởng hôm ấy đi vắng, chỉ có mấy người
con gái của vị Tù Trưởng ở lại nhà.
Đức Ngài đến nơi có ký tên vào Sổ Kỷ Niệm nơi ấy. Hai
người con gái của vị Tù Trưởng mời Đức Ngài vào chụp hình kỷ niệm. Vừa sửa soạn
thì vị Tù Trưởng vừa về tới. Đức Ngài bèn mời người vào chụp hình chung. Lấy
ảnh xong, Đức Ngài biếu lại một số tiền để đáp lại thạnh tình tốt đẹp của các
cô đón tiếp.
Hai cô gái ấy cùng cô khác đồng ý tổ chức một buổi múa
hát để chào mừng Đức Ngài và Phái đoàn. Vị Tù Trưởng chấp thuận.
Rồi các cô gái Thái ấy thay đổi y phục, quần áo sặc sỡ
màu mè đỏ xanh, gọn gàng đồng kéo vào Ca Vũ Thất (Nhà hát).
Đức Ngài và Phái đoàn đều vào bên trong Ca Vũ Thất để
xem múa hát. Từ trong buồng, 7 cô đều ra một lượt, mỗi cô đều ăn mặc giống
nhau, nhưng quần áo bông hoa rực rỡ, màu sắc khác nhau, tay mỗi cô đều cầm
chày, đang quây quần chung quanh thớt cối đá, nhịp trong cối với các chày dọt
gạo (như giã gạo) theo lối người Miên bên nước mình. Tiếng chày nện vào cối đá
rập ràng, hòa với tiếng hát trong trẻo thanh tao của các cô sơn nữ, thành ra
một âm điệu dòn tan. Rồi kế tiếp các điệu múa ca nhịp nhàng, màu sắc quần áo
sặc sỡ, miệng hát thêm duyên dáng dịu dàng, uyển chuyển nhẹ nhàng, lối múa lộn
đi lộn lại uốn co, nhưng mỗi mỗi đều ăn theo nhịp, làm cho cả Phái đoàn dường
như đang thưởng thức được sự chơn thật trong cảnh tự nhiên của loài người,
không tranh đua vật chất quyền lợi.
Sau hơn 10 điệu múa hát, một vũ nữ ra để lời cảm tạ và
xin cáo lỗi vì buổi múa hát đã dứt. Một tràng pháo tay đáp lại để khen tặng các
cô thiếu nữ vùng cao sơn.
Đức Ngài đi ra dạo chung quanh, hai bên lộ từ bờ hồ
chạy lên những túp lều nho nhỏ dọn hàng xinh xinh. Các cô sơn nữ chào mời mua
hàng. Họ buôn bán gần như giống nhau như : Gậy, đủa, mâm cây, giỏ đan, sò ốc,
hoa rừng, đồ kỷ niệm nơi ấy, vv... Mỗi món đều có vẻ mỹ thuật riêng. Cả Phái
đoàn ai ai cũng mua giúp chút ít đồ để làm kỷ niệm.
Mua xong, Đức Ngài và Phái đoàn từ giã vị Tù Trưởng và
các cô sơn nữ. Họ chào đáp lễ vẫy tay đưa đến bờ hồ trong tình chơn thật quyến
luyến.
Ghe đò mở máy chạy dọc theo bờ hồ, rồi băng qua để đến
một ngõ lên. Ghe tắt máy ngừng lại. Đức Ngài và Phái đoàn xuống bực hồ và cùng
nhau bước lên các cấp bực để đến Văn Võ Miếu. Đức Ngài mặc dầu tuổi đã cao, sức
đã yếu, song vẫn hăng hái bước từng cấp đi lên. Hai nhân viên Ngoại Giao Bộ
theo phò trợ và che dù cho Đức Ngài. Đường lên toàn là cấp bực để bước, song
đường rất dài, dốc rất cao, có đến sáu bảy trăm cấp đứng. Ta chỉ thấy một ngõ
hẹp nhỏ cấp thang cao vút giữa rừng cây rậm rạp um tùm và mát mẻ. Đức Ngài phải
nghỉ hơn bốn năm lần mới lên tới sân miếu.
Đây là một Cổ miếu đẹp đẽ vô cùng. Miếu cất hơi thấp,
mái uốn cong và cao hước lên. Từ ngoài vào trong, mỗi nơi đều có chạm trổ. Bàn
ghế, biển đều sơn son phết vàng lộng lẫy. Kèo cột đều có chạm trổ xinh đẹp, mỹ
thuật.
Đây là Văn Võ Miếu. Như tên Miếu nêu rõ, thờ Đức Khổng
Phu Tử thuộc về Văn, và Đức Quan Thánh Đế Quân thuộc về Võ. Đến nơi, Đức Ngài
quá mệt, nên được Ông Từ tiếp ngồi nghỉ dùng trà giải khát độ 15 phút. Đức Ngài
đi rửa mặt đoạn vào làm lễ 2 vị Thánh. Làm lễ xong, thấy có sẵn ống Xăm ở trước
, Đức Ngài liền cầu nguyện 2 vị Thánh để cho biết kết quả cuộc du hành thế nào
? Đức Ngài tiếp lấy ống xăm, lắc độ vài lần. Một cây xăm vọt ra. Đức Ngài lấy
lá xăm trở ra nhà trước ngồi nghỉ để xem xăm.
Vị Thủ tự nơi miếu liền lấy sách đoán và giải quẻ xăm
đưa lại cho Đức Ngài xem. Lá xăm rất tốt, Quẻ Thượng thượng. Nguyên văn Hán tự
như sau :
Đệ cửu thập
cửu sấm
Quí Nhâm thượng thượng.
- Quí nhân tao ngộ thủy vân hương,
- Lãnh đạm giao tình tư vị trường.
- Hoàng cáo khai thời diên cố khách,
- Hoa lưu ứng đắc tụ khang trang.
Sau khi bàn xăm rồi, Đức Ngài bảo Phái đoàn cúng một
số tiền hành hương, rồi cả Phái đoàn đi xuống ghe máy trở về nhà hàng Hàm Bích
Lâu. Về đến bến, có xe hơi đến rước lên nhà hàng lúc 1 giờ trưa. Thay đồ và
nghỉ mệt một lát, Đức Ngài dùng cơm trưa và vào giường nằm nghỉ, vì đã đi xem
quá nhiều buổi sáng.
Đến 3 giờ, hai nhân viên Ngoại Giao Bộ mời Đức Ngài đi
viếng Nhà máy Phát điện, cách hồ Nhựt Nguyệt 20 cây số. Đức Ngài không muốn đi,
vì sợ đi bộ phải leo dốc, nên hỏi lại đường có phải đi bằng cách leo dốc như
buổi sáng nữa không ?
Ông Jou thưa : Đây đi đến đó đi bằng xe hơi, nên Đức
Ngài vui lòng đi và đoàn xe hơi 2 chiếc khởi hành. Xe chạy khỏi nhà hàng thì
thấy đường quanh quẹo lên dốc núi luôn. Đường đi đến Nhà máy Thủy điện quanh co
ngoằn ngoèo hiểm trở, lại phải chun qua các hang núi đến năm sáu lần. Đường
vắng, núi cao dốc đứng, hai bên hầm hố, xóm nhà ở lai rai, chỉ có 20 ngàn
thước, mặc dầu xe chạy khá nhanh, tài xế thật giỏi, mà hơn 1 giờ 45 mới đến nơi
nhà máy chánh phát điện cho toàn cả tỉnh Đài Loan.
Nhà máy nầy ở vào một nơi hoàn toàn kín đáo. Vào đây
phải chạy qua 3 đường hầm xuyên qua núi mới đến ngọn suối chảy xuống như thác
đổ. Đến nơi, xe chạy thẳng lên Phòng làm việc của vị Tổng Giám Đốc Nhà máy Phát
điện. Vị Giám Đốc đón ở cửa, mời vào đãi trà. Ông liền dẫn giải lịch sử của Nhà
máy Thủy lực cơ, đã đào tạo ra khi còn Nhựt Bổn chiếm Đài Loan làm thuộc địa.
Sau trận chiến tranh Hoa Nhựt vừa qua, Nhà máy bị oanh tạc hư hại quá nhiều và
hôm nay sửa lại hoàn toàn mới, do máy móc tối tân của Mỹ quốc viện trợ, và điện
lực ở đây chạy khắp xứ Đài Loan, từ Bắc, Trung, dĩ chí đến
Vị Giám Đốc bèn mời Đức Ngài đi xem Nhà máy Phát điện.
Mỗi người trong Phái đoàn được lãnh mang nơi ngực một tấm thẻ riêng để được vào
xem Nhà máy.
Sau khi viếng Phòng liên lạc các vùng điện, ta thấy
máy móc tối tân do toàn chuyên viên Đài Loan điều khiển, việc làm rất có trật
tự và qui củ. Xem xong, vị Giám Đốc mời Đức Ngài qua Văn phòng để dùng trà và
mời Đức Ngài ký tên vào Sổ Kỷ Niệm.
Đức Ngài để lời khen tặng Chánh phủ Đài Loan đã phát
minh rất nhiều công trình vĩ đại có lợi ích chung cho toàn thể nhân dân trong
xứ, và tiếp theo, vị Kỹ sư chuyên môn mời Đức Ngài đến xem máy phát điện dưới
nhà hầm.
Đây là 5 giàn máy lớn y kiểu nhau kéo 5 nồi phát điện
to tướng. Lực đẩy của nước làm chạy máy móc, đã dẫn nước từ trên núi cao có đến
ba hoặc bốn trăm thước, trong những ống nước to lớn có bề trực kính hơn 1 thước
rưỡi.
Hồ chứa là Nhựt Nguyệt Đàm, dẫn đến đây có hơn mười
mấy ngàn thước. Các ngọn suối, dầu nhỏ dầu lớn, đều bị chận lại và cho chảy vào
các hồ gần đấy, có đoạn người ta phải đục đá núi để cho nước chảy qua mau. Thật
là một công trình vĩ đại. Người ta biết dùng sức mạnh thiên nhiên, biết lợi
dụng nước trên núi, thậm chí cho đến một khe nước chảy nhỏ mà người ta vẫn
không bỏ, gom góp vào hồ để đẩy máy phát điện. Từ Châu thành lớn đến chợ nhỏ,
cùng các nhà trong xóm đông đúc cũng như hẻo lánh, đều có điện dùng trong nhà.
Điện đã giúp cho sáng sủa, mát mẻ, sạch sẽ, tiện lợi, thêm rẻ tiền, mà còn giúp
cho tiểu công nghệ thêm phần phát đạt. Quang cảnh ngày cũng như đêm đều có điện
xài. Cột dây điện lớn nhỏ giăng cùng khắp trong xứ, từ trên núi xuống đồng
bằng.
Một túp lều tranh gọn sạch, ta lại thấy có chấp chóa
vài bóng đèn mà tiếng âm thanh văng vẳng của máy phát thanh (Radio), thật là
một cảnh nhàn hạ vô cùng. Nơi nước ta giàu nguồn lợi thiên nhiên, đến chừng nào
mới có được như thế ư ?
Đức Ngài không ngớt khen ngợi. Thật là một cuộc đi
quan sát lý thú, đã làm cho ta thấy thêm những cái vĩ đại. Nơi xứ sở ta có thể
làm được mà hiện giờ rất thiếu.
Đến 6 giờ Đức Ngài xin cáo từ ra về. Ban Giám Đốc và
các kỹ sư đưa ra tận xe. Đoàn xe chạy về một đổi thì trời đã sẩm sẩm tối, sương
mù đã bao phủ các ngọn núi cao, đường đã mờ sương lạnh buốt lọt vào trong xe.
Hai chiếc xe mở đèn sáng vẫn chạy trên đường vắng vẻ quanh quẹo đèo dốc nguy
hiểm.
Sau 1 giờ xe chạy không ngừng mới về đến nhà hàng. Đức
Ngài lên phòng nghỉ vì mệt mỏi, kế dùng cơm tối, xong Đức Ngài và Phái đoàn đều
lên phòng nghỉ.
CUỘC DU HÀNH SANG TRIỀU TIÊN
Ngày 26-8-Giáp Ngọ (dl 22-9-1954)
Cuộc khởi hành sang Triều Tiên (Nam Hàn), Đức Ngài đã dự định đi từ hôm
xin lá xăm tại Văn Võ Miếu ở Nhựt Nguyệt Đàm (Đài Trung) vì quẻ xăm Thượng
thượng của Đức Ngài rất tốt, đại ý cho biết sẽ đem lại kết quả khả quan trong
chuyến viễn hành, nên khi về Đài Bắc, Đức Ngài đã giao cho Ngoại Giao Bộ và ông
Jou Kia Linh cùng ông Minh lo sắp đặt, gởi thơ sang Nam Hàn để tỏ ý định của
phái đoàn muốn sang viếng Cao Ly và Nhựt Bổn.
Trong vòng một tuần lễ chờ đợi thơ mời của Nhựt Bổn và
Cao Ly trả lời, chỉ đến ngày 21-9-1954 mới được thơ trả lời của ông Matusita ở
Nhựt trả lời rằng : Việt kiều ở Nhựt Bổn muốn Đức Ngài lấy tro cốt hài của Cố
Kỳ Ngoại Hầu Cường Để về Việt
Vì không muốn làm nhọc lòng thêm Chánh phủ Trung Hoa
Dân Quốc, nên phái đoàn đi sang Tiều Tiên chỉ có 4 người : Đức Ngài, ông Minh,
Cô Tư và tôi. Vì vậy, Đức Ngài định đi máy bay hàng, chớ không muốn làm tốn
thêm cho Chánh phủ Đài Loan bằng một chiếc máy bay riêng dành để cho Đức Ngài
và phái đoàn. Vả lại chuyện đi sang Triều Tiên của phái đoàn dường như Chánh
phủ Trung Hoa Dân Quốc không thật tâm muốn cho đi.
Vì Đức Ngài định sang Nhựt Bổn trước khi qua Triều
Tiên, nhưng khi thương lượng trở lại thì Đức Ngài mới định lại là đi sang Cao
Ly trước, khi trở về mới ghé Nhựt Bổn, nên ông Minh và ông Jou mới đi mua vé
máy bay của hãng hàng không C.A.T. (Civil Air Transport).
Giờ máy bay cất cánh đi Nhựt và qua Nam Hàn là 10 giờ
đêm ngày 22-9-1954. Hành lý đã sắp soạn sẵn từ nhà trọ ở Dinh Pế-Thầu (Bắc
Đầu). Đúng 9 giờ đêm khởi hành đến phi trường Đài Bắc. Khi đi có ông Trung
Tướng Lý Di và ba vị ở Ngoại Giao Bộ đến tận Chiêu Đãi Sở để tiễn đưa.
Bốn chiếc xe nối đuôi chạy xuống núi để đưa cả phái
đoàn và người tiễn đưa đến phi trường Đài Bắc lúc 9 giờ rưỡi đêm. Đến nơi đã có
sẵn Ông và Bà Sứ Thần Cao Ly đến đưa Đức Ngài lên máy bay. Tất cả nhân viên
trong phái đoàn Huê nhơn còn ở lại đều đi đưa đông đủ tận nơi phi trường. Sau
khi chờ đợi đem hành lý lên máy bay, Đức Ngài cùng Ông Bà Sứ Thần đàm luận nơi
nhà hàng phi trường.
Chuyến máy bay đi Cao Ly là một máy bay 4 động cơ từ
từ đến cửa ra sân và đúng 10 giờ rưỡi, khi phái đoàn lên máy bay thì phi cơ cất
cánh.
Đây là chiếc phi cơ 4 máy chuyên chở hành khách từ Nữu
Ước sang Đài Loan, đến Nhựt Bổn và sang Cao Ly. Cách trình bày rất đẹp, có trổi
hơn chiếc phi cơ của hảng Air France đi Pháp, song ghế chỉ để dựa chớ không
phải ghế dành để ngủ. Máy bay bay đều đều êm ái. Từ giã Đài Loan với đèn lốm
đốm chiếm lấy một khoảng rộng trong đêm đen mờ, và một mạch bay thẳng trong đêm
trời trong, sao chấp chóa. Đức Ngài nằm ghế dựa ngã ra để ngủ và trong 1 giờ
sau, tất cả người trên máy bay đều lim dim ngủ, đèn chỉ rọi mờ mờ.
Máy bay bay rất êm, chỉ có hơi lúc lắc một đôi nơi và
mãi đến 5 giờ sáng, máy bay đã vào nội địa Nhựt Bổn. Trời đã hừng sáng, sương
mù đã bao bọc cả một lớp mây trắng dầy, che khuất vạn vật. Trong 1 giờ sau, máy
bay đáp xuống phi trường Đông Kinh, kinh đô Nhựt Bổn.
Ngày 27-8-Giáp Ngọ (dl 23-9-1954)
Nơi đây, vị Lãnh Sự Trung Hoa đã chực sẵn đón rước Đức Ngài và Phái đoàn
tại sân bay và đưa vào phòng hành khách chờ đợi tại phi trường . Vừa bước vào
trong, có Ông Matusita, Giám Đốc hãng Đại Nam ở Nhựt và Ông Nikochi Oda đón
tiếp Đức Ngài, vì Ông đã tiếp được điện văn của Phái đoàn đã gởi sang cho biết
giờ đến Nhựt.
Sau khi giới thiệu xong, Ông Matusita rất cảm động và
cùng Đức Ngài trò chuyện rất thân mật.
Hôm nay là ngày lễ Egiunoxe ở Nhựt Bổn nên Ông
Matusita có dắt 2 đứa con theo và có một người Nhựt theo chụp ảnh, Ông nầy gốc
là người Bắc Việt ở Việt
Đúng 8 giờ rưỡi, máy bay sắp đi Hán Thành, cả Phái
đoàn từ giã Ông Matusita để lên máy bay. Phen nầy Cô Tư mệt vì phải xách thêm
đồ do Ông Matusita tặng : Trái cây, bánh và hoa.
Máy bay cất cánh, bay băng qua nước Nhựt, rồi ra biển,
bay êm ái một mạch đến Nam Hàn. Nơi đây đã xa đường xích đạo và ở trong vùng
khí hậu lạnh, mây trắng bao phủ giống như từ Marseille máy bay đến
Một điều rất khổ cho cả Phái đoàn, trừ Ông Minh ra,
nơi nầy chỉ có tiếng bổn quốc và tiếng Anh ; tiếng Pháp thì rất ít người biết.
Vị Hội Trưởng Ngoại Giao chỉ nói tiếng Anh, thành ra trên xe, cả Phái đoàn đều
ngồi im vì không thể nào trao đổi một ý kiến gì cả. Ra khỏi phi trường một đoạn
đường thì thấy cảnh tàn phá sau một trận nội chiến tàn khốc, nhà cửa hư sập
chưa sửa chữa kịp, cầu kỳ đứt đoạn, đường sá hư hao, dân chúng trên nét mặt còn
vẻ lo âu khổ não, thành phố có vẻ đìu hiu vắng vẻ.
Một điều bất ngờ là trong lúc đi thì gặp cả dân chúng,
các hạng thợ thầy, sinh viên Nam Nữ, lao công, binh sĩ đang biểu tình đi trong
các con đường của Thành phố Hán Thành một cách rất có trật tự, những biểu ngữ
bằng chữ Nam Hàn và chữ Anh, những xe có gắn máy phóng thanh tung hô phản đối
việc rút lui quân đội Mỹ và yêu cầu Quân đội Mỹ đóng giữ trở lại.
Nguyên do, sau khi Liên Hiệp Quốc đình chiến để đem
lại sự an ninh cho Cao Ly, hai khối Liên Hiệp Quốc, tức là Mỹ và Nga (Trung
Cộng và Bắc Hàn) đã ký kết trong một thời hạn nhứt định, Nga sẽ rút hết quân
tình nguyện Trung Cộng ở Triều Tiên và về phía Mỹ sẽ rút hết quân đội Mỹ về
nước, sẽ có một Ban Kiểm soát đặc biệt để kiểm điểm sự rút quân ấy. Hôm nay,
ngày giờ rút quân đã cận, Nam Hàn lo âu nên biểu tình phản đối.
Xe hơi đưa Đức Ngài, Cô Tư và tôi chạy rất chậm, khó
khăn để vô nhà hàng, vì xe cộ bị chận nghẹt đường ứ đọng lại, đường sá bị đám
biểu tình đi chật cả lối, xe cộ đều ngừng lại, còn xe nầy phải len lỏi chạy đại
để tìm ngõ đi, có lúc phải băng qua đám người biểu tình làm họ bất bình. Vị Hội
Trưởng có vẻ bực tức giận dữ và cho đến hơn nửa giờ sau, xe mới đến nhà hàng
Bando Hotel, một nhà hàng đặc biệt của người Mỹ trước Toà Lãnh Sự Mỹ ở Hán
Thành.
Xuống xe vào nhà hàng, nơi đây chỉ nói rặt ròng tiếng
Anh, thành ra lẩn quẩn trong 10 phút mới được biết rằng có phòng trọ. Tại đây,
Bộ Ngoại Giao Nam Hàn có sắp đặt vài người đón tiếp, có tổ chức một cô gái Nam
Hàn đến dâng hoa cho Đức Ngài.
Nhân viên nhà hàng dẫn đi chỉ phòng trọ cho đến 3 lần
mới đến phòng thiệt thọ, 3 lần dời đồ 3 nơi đã chỉ. Bối rối, may ra gặp một
người Mỹ trước kia có ở Đông Dương làm nơi Lãnh Sự Quán Mỹ và hiện sang Hàn
quốc để quan sát tình hình kinh tế, nhờ Ông thông ngôn dùm và sau khi đến
phòng, Đức Ngài vào ngồi salon, một cô gái đến dâng hoa và nhờ người Mỹ ấy
thông ngôn.
Mười phút sau, Ông Minh về tới và cho biết rằng, ở phi
trường, Lãnh sự Mỹ và các nhân vật trọng yếu có tổ chức cuộc tiếp rước Đức
Ngài, có Quân nhạc và binh sĩ chào danh dự tại phi trường , song vì kẹt đường
sá do cuộc biểu tình nên đến trễ, luôn cả vị Thị Trưởng kinh đô Séoul.
Đức Ngài thay đồ ngồi nghỉ ở một gian phòng riêng biệt
rộng rãi, có phòng khách và phòng nghỉ. Nhà hàng nầy cao đến 7 từng, kiến trúc
theo lối Mỹ, bày trí mỹ thuãt, vẻ sang trọng. Cả 3 căn phòng đều ở lầu 4, đi
lên xuống bằng thang máy như nhà hàng Georges ở Pháp. Nơi đây hình như chỉ có
toàn người Mỹ ở.
6 giờ , Bộ Ngoại Giao cho hay rằng có vị Đô Trưởng Hán
Thành đến viếng Đức Ngài, và Ông đến với 4 cô gái nhỏ Nam Hàn, mặc quốc phục
màu mè, đến dâng hoa, có nhiều nhiếp ảnh viên của người Mỹ đến chụp ảnh. Bốn bó
hoa tươi đẹp dâng cho 4 người : Đức Ngài, Ông Minh, Cô Tư và tôi. Ông Thị
Trưởng hầu chuyện cùng Đức Ngài và Phái đoàn trong bầu không khí thân mật, do
Ông Minh thông ngôn ra tiếng Anh, và vị Đô Trưởng nói chuyện bằng Anh ngữ.
Ông nói rằng : Rất tiếc vì Ông không đón kịp ở phi
trường và nơi ấy không tổ chức kịp lễ rước. Sau đó Ông phải ở lại phi trường
chờ rước vài nhân vật Mỹ, nên phải về trễ và tiếp đến mừng Đức Ngài. Trong nửa
giờ hầu chuyện, Ông Thị Trưởng từ giã ra về. Đức Ngài rất vui vẻ, mặc dầu rất
mệt, sau một đêm mất ngủ trên máy bay.
Bữa cơm tối dùng nơi nhà hàng Tàu, vì chỗ nầy biết nấu
chay. Còn nhà hàng nầy chỉ dọn ăn theo lối Mỹ nên không biết nấu chay.
Đức Ngài, Cô Tư và tôi dùng cơm chay xong đến 8 giờ
tối. Đức Ngài về phòng thay y phục nằm nghỉ vì quá mệt mỏi.
Mặc dầu đêm nay tại nhà hàng nầy có cuộc trình bày
Quân nhạc Mỹ và ca xướng do những cô gái Nam Hàn, Ông Cựu Lãnh Sự Mỹ ở đây có
mời Đức Ngài và Phái đoàn đến dự, song Đức Ngài từ khước vì quá mệt mỏi.
Nơi đây, không khí hơi lạnh, gần như khí hậu ở Pháp,
cửa lắp kính tất cả. Đức Ngài nghỉ, còn Cô Tư về phòng riêng. Ông Minh và tôi
về ở chung phòng, ra dạo phố một vòng và về nghỉ, ngủ một giấc mê mệt đến sáng.
Ngày 28-8-Giáp Ngọ (dl 24-9-1954)
Sáng dậy, điểm tâm tại nhà hàng, Đức Ngài có nói rằng : Vì đêm hôm Qua
mệt nên không đi dự buổi dạ nhạc, Anh Cao Thượng Phẩm về trách. Đức Ngài dòm
xuống đường nhìn thấy dân chúng qua lại và luận về cách ăn mặc, đi đứng của dân
chúng Nam Hàn. Nơi đây, đa số đàn ông thì mặc Âu phục thắc cravate đàng hoàng;
phần phụ nữ đa số còn mặc quốc phục, áo cổ trịt như lối áo tràng của ta, song
rất ngắn, độ chừng 2 hoặc 3 tấc tới chớn thủy, tay dài và rộng, mặc quần trắng
cụt và choàng một cái củng lên tới ngực, rộng thênh thang, một sợi dây cột
ngang chớn thủy, giống như các nàng Tiên theo hình vẽ. Cách ăn mặc rất kín đáo,
rộng rãi, chỉ có một phần ít theo Âu, mặc chemise và jupe, song theo xứ lạnh
nên có áo choàng, da trắng, mặt trẹt và vuông giống như phụ nữ Phù Tang, tiếng
nói trong trẻo mường tượng giữa tiếng Nhựt và tiếng Tàu.
Đứng trên lầu cao nhìn xuống, số người ăn mặc lòe loẹt
rộng thênh thang, kín đáo, ta có thể tưởng tượng lại đời Thượng cổ Quần Tiên Dạ
Hội, và ta nhớ lại nơi đây là Triều Tiên, mà hình dung lại cái rực rỡ của thời
xưa, vì xứ nầy là một nơi đã có rất nhiều người tu Đạo Tiên đắc đạo mà truyện
Tàu thường nhắc đến.
Hôm nay, chương trình đúng 11 giờ, Đức Ngài hội kiến
cùng Tổng Thống Nam Hàn Lý Thừa Vản.
Lúc 10 giờ rưỡi, Bộ Ngoại Giao cho người đến rước Đức
Ngài và Ông Minh đi theo để thông ngôn, đến Tổng Thống Phủ. Cuộc đàm luận trong
vòng hơn nửa giờ , Đức Ngài trở về nhà hàng với gương mặt vui vẻ và khen ngợi
sự đàng hoàng củaTổng Thống Lý Thừa Vản. Tổng Thống có mời Đức Ngài dùng cơm
tối với Người tại Tổng Thống Phủ.
Dùng bữa trưa xong, Đức Ngài nghỉ đến 4 giờ rưỡi, tiếp
nói chuyện cùng Ông Cựu Lãnh Sự Mỹ ở Đông Dương. Đến 6 giờ rưỡi, Bộ Ngoại Giao
cho người đến rước Đức Ngài đi đến dùng tiệc tại Tổng Thống Phủ, và về đến nhà
8 giờ rưỡi tối.
Ngày 29-8-Giáp Ngọ (dl 25-9-1954)
Sáng điểm tâm nơi nhà hàng. Lúc 9 giờ có xe của Bộ Ngoại Giao đến rước
đi xem vòng quanh Châu Thành Séoul. Vì trời xấu nên chỉ ngồi trong xe hơi, xe
chạy chậm chậm vòng quanh Châu Thành, đến xem Khải Hoàn Môn, cửa Đông, cửa Tây.
Thành phố khá lớn, nhà cửa chen chúc, bị trận giặc vừa qua đã tàn phá rất nhiều
và vẫn còn lưu lại nhiều dấu vết, nhà cửa sụp đổ chưa sửa chữa lại kịp, cảnh
điêu tàn của họa chiến tranh vẫn còn hiện ra nhiều nơi, đường rộng lớn song bị
bom đạn phá hư thành ra đường gồ ghề lồi lõm.
Nhà cửa, dinh thự kiến trúc theo lối xưa, có đến 500
năm nay mà vẫn còn chắc chắn, mái ngói ống bằng xi măng uốn cong lên, chạm trổ,
sơn phết hoa hòe, trên trần nhà giống lối mỹ thuật của người Tàu. Hai bên phố
buôn bán sơ sài, song người ta vẫn tấp nập, xe cộ rần rần.
Xe hơi chở Đức Ngài và Phái đoàn đi đến 12 giờ kém 15,
Đức Ngài trở về để dùng tiệc với Ông Cựu Sứ Thần Mỹ ở Việt Nam thết đãi. Tôi và
Cô Tư dùng cơm nơi nhà hàng. Chiều 6 giờ rưỡi, Sứ Quán của Lãnh Sự Đài Loan mời
cả Phái đoàn dùng cơm tại Sứ Quán. Bữa cơm đãi chay lẫn mặn và bữa tiệc kéo dài
hơn 2 tiếng đồng hồ trong bầu không khí vui tươi thân mật.
Ngày 1-9-Giáp Ngọ (dl 26-9-1954)
Sáng ngày, như thường lệ điểm tâm nơi nhà hàng. Đến 9 giờ, Đức Ngài tiếp
chuyện cùng Ông Hội Trưởng Á Châu Phản Cộng Liên Minh ở Triều Tiên. Buổi hội
kiến không được trọn hiểu nhau, nhưng cũng kéo dài đến 11 giờ rưỡi trưa, và đến
12 giờ dùng cơm, mặc dầu buổi sáng hôm nay dùng để đi viếng thắng cảnh trong
Châu Thành Hán Thành (Séoul).
Buổi chiều, lúc 3 giờ , Ngoại Giao Bộ cho người đem xe
đến rước Đức Ngài và Phái đoàn đi viếng Đền Vua Cao Ly, một nơi cổ tích. Xe đến
cửa Đền Vua, vào một cửa ngõ rộng lớn, rất kiên cố như một cửa ngõ theo xưa.
Nhân viên Ngoại Giao Bộ hướng dẫn vào xem các đền đài vua chúa ở.
Đây là một đền đài kiến trúc trên 500 năm nay mà hiện
vẫn còn nguyên vẹn, trong một khoảnh vườn thiên nhiên rộng rãi, nằm giữa trung
tâm Châu Thành Séoul.
Đền Tả Hữu xây cất vách tường đá, lót cây thông, cột
cây, giàn sườn nóc chạm trổ, nóc ngói xi măng, mái hước lên . Đi vào trong cả
dãy Đền, từ căn phòng Cung Phi Mỹ Nữ, cho đến Điện Chánh... Lối trình bày như
Đền
Đền không lầu, dáng điệu chắc chắn, đồ sộ, nặng nề.
Xem bên trong xong, ra xe chạy chậm chậm chung quanh, vườn rộng lớn, cây cối um
tùm, đường lối quanh co, trời đã sang thu, lá vàng rơi rụng tơi bời, quang cảnh
vườn đó, nơi đây là chỗ cấm không cho dân chúng vào, chỉ dành để cho hạng
thượng lưu và người ngoại quốc vào xem mà thôi.
Khách du ngoạn toàn là người Mỹ, vào phải có tiền vô
cửa. Người ta đến để chụp ảnh, tôi quay phim các cảnh đẹp và nửa giờ sau xe ra
cửa chạy lên núi giữa Châu Thành và đi xem các phía quanh Châu Thành.
Lúc 5 giờ rưỡi, xe trở về nhà hàng và tạm nghỉ trong
45 phút thì có nhân viên Ngoại Giao Bộ đến rước cả Phái đoàn đến dùng cơm tối
tại tư gia của Thủ Tướng Nam Hàn.
Đây là ngôi nhà đặc biệt kiểu Nhựt, vào phải cổi giày,
ngồi trên những gối thấp, hai chân xếp bằng lại như ngồi trên ván. Một bàn tròn
ngồi quây quần. Đức Ngài, Ông Thủ Tướng, Ông Minh, Ông Bí Thư của Thủ Tướng, Cô
Tư và tôi. Nơi đây đãi chung và chỉ là lần thứ nhứt, Ông Thủ Tướng Nam Hàn dùng
chay.
Đồ ăn nấu rất ngon và dọn theo lối Nhựt. Trong bữa ăn,
Đức Ngài nói chuyện rất nhiều, trong bầu không khí vui vẻ thân mật. Tiệc kéo
dài đến 8 giờ 45, cả thảy đều mệt mỏi vì ngồi xếp bằng, Đức Ngài xin kiếu từ và
ra xe về đến nhà hàng 15 phút sau.
Trong tiệc, Bà Tổng Thống có nhờ Ông Thủ Tướng tặng
cho Cô Tư một cái tô bằng đồng.
Ngày 2-9-Giáp Ngọ (dl 27-9-1954)
Hôm nay là ngày đi trở lại
Lúc 9 giờ rưỡi có Ông Hội Trưởng Á Tế Á Dân Tộc Phản
Cộng Liên Minh đến hầu chuyện cùng Đức Ngài để trao chương trình, và 11 giờ có
nhân viên nơi Bộ Ngoại Giao đến để rước Đức Ngài đi hội kiến cùng Tổng Thống
tại Tổng Thống Phủ để từ giã.
Sau khi từ Tổng Thống Phủ ra về đến nhà hàng thì lại
được tin rằng, hãng Hàng không C.A.T. chuyến 2 giờ rưỡi không có vì thời tiết
xấu bất thường và hãng đã định sang cho chiếc máy bay của hãng khác, song phải
thêm tiền lấy chỗ ngồi, và chuyến máy bay nầy cất cánh lúc 6 giờ rưỡi chiều.
Như thế cả Phái đoàn phải đợi đến 6 giờ rưỡi mới đáp phi cơ sang
Đến 5 giờ, nhân viên Ngoại Giao Bộ đến rước Đức Ngài
cùng Phái đoàn ra phi trường, có cả 2 vợ chồng Ông Hội Trưởng Á Tế Á Phản Cộng
Liên Minh đến đưa.
Đến phi trường đúng 6 giờ chiều. Chiếc máy bay 4 động
cơ của hãng T.W.A. (Transport Weos Airlines) đã đậu chực tại sân. Ba toán quân
danh dự : 2 toán mặc lễ phục võ trang oai vệ, 1 toán Quân nhạc đến dàn tại sân,
ngõ vào phi trường để tiễn đưa Đức Ngài lên máy bay đi Tokyo.
6 giờ 15, Đức Ngài cùng nhân viên Ngoại Giao Bộ, các
vị Bộ Trưởng cùng vào sân phi trường. Dàn Quân nhạc trổi lên rộn rã hùng hồn,
toán lính bồng súng lên chào oai vệ. Đức Ngài duyệt qua toán Quân nhạc, đến
chào Quốc kỳ Nam Hàn, xong xả, Đức Ngài duyệt qua hai toán binh, rồi Đức Ngài
bước đến bắt tay 2 vị Chỉ huy hai toán binh, tỏ lời cảm tạ và từ giã.
Đức Ngài thẳng lên thang máy bay. Dàn Quân nhạc không
ngớt thổi chào đưa. Việc tổ chức tiễn đưa Đức Ngài trong vòng sân đặc biệt, còn
bên ngoài lúc 6 giờ cũng có cuộc tiễn đưa các Sĩ quan Trường Cảnh Sát du học
bên Mỹ.
Đức Ngài ngồi xong xả trên fauteuil máy bay, lần lượt
các vị Bộ Trưởng đến trễ đều có đến tận bên trong máy bay tiễn đưa Đức Ngài
(Ông Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao, Bộ Nội Vụ, và Ông Giám Đốc Trường Đại Học).
CUỘC DU HÀNH SANG NHỰT BỔN
Đúng 6 giờ 40, máy bay cất cánh rời phi trường Triều Tiên và bay thẳng
trong đêm vừa mờ tối. Rất tiếc một điều là cuộc tiễn đưa rất nên trọng thể tôn
nghiêm, song vì trời tối, tôi, mặc dầu có quay phim, song sợ e mờ lắm vì trời
quá tối.
Thật là một cuộc tiễn đưa quan trọng, tổ chức khéo léo
làm cho Đức Ngài rất cảm động thạnh tình của Chánh phủ Nam Hàn đối với Đức
Ngài.
Máy bay nầy của hãng Mỹ, lối bày trí trang hoàng có
phần đẹp hơn máy bay của hãng C.A.T., và chỉ trong 15 phút, những điểm đèn lốm
đốm của Kinh đô Séoul tan mờ trong đêm lạnh.
Máy bay vẫn bay đều đều đến 8 giờ tối, trong khi hành
khách trên máy bay dùng bữa tối, máy bay nhảy sóng khá nhiều, nhưng chỉ trong
10 phút sau là êm tịnh trở lại, và từ đó đến địa phận Nhựt Bổn, máy bay vẫn bay
êm thấm cho đến khi Kinh đô rực rỡ với muôn muôn trùng trùng những điểm vàng
xanh đỏ chấp chóa một dãy mênh mông của Tokyo trong đêm tối.
Máy bay quầng trên phi trường Haido Kinh đô
Đức Ngài cùng Phái đoàn tức cấp đi ngủ sau gần trọn
ngày chờ đợi mệt nhọc.
Ngày 3-9-Giáp Ngọ (dl 28-9-1954)
9 giờ sáng, Ông Quí Chính, một Việt kiều ở
Đến 12 giờ, vị Lãnh sự Đài Loan đến rước Đức Ngài và
Phái đoàn đến dùng cơm nơi Sứ quán.
Dùng cơm xong, cả Phái đoàn trở về và ghé lại Chùa thờ
Đức Khổng Phu Tử. Nơi đây là một ngôi chùa đồ sộ, lối kiến trúc tương tự ở Cao
Ly, nhưng chắc chắn và bền bĩ hơn nhiều, từ cột kèo đều bằng xi măng và đà sơn
đen. Chùa đóng cửa, không có ai tiếp, nên Đức Ngài ra về, trong lúc trời mưa
lâm râm. Về đến nhà trọ, Đức Ngài lại phải tiếp chuyện cùng Ông Quí đến tối.
Dùng bữa tại nhà hàng và Đức Ngài nghỉ cho đến hôm
sau.
Ngày 4-9-Giáp Ngọ (dl 29-9-1954)
Sáng 9 giờ 30, Ông Matusita đến với một chương trình sắp đặt cuộc du
lịch trong lúc còn lưu lại
Buổi trưa dùng cơm nơi nhà hàng.
Vào lúc 1 giờ, Đức Ngài đi đến Chùa Gokokuji, nơi đã
để tro của Cụ Cường Để. Đến nơi, một vị trong Chùa mời Đức Ngài vào yết kiến
Hòa Thượng cai quản toàn cả Chùa.
Đức Ngài xin vào làm lễ rước tro cốt hài của Cụ Cường
Để, Đức Ngài để lại một số tiền cúng hành hương rồi từ giã ra về.
Xe chạy về, Đức Ngài đến thăm Ông Chánh Văn Phòng
Ngoại Giao Bộ, nơi đây Đức Ngài đàm luận hơn nửa giờ, rồi kiếu từ về nhà hàng.
Ở nhà hàng, có phóng viên A.F.P. đến phỏng vấn cuộc du hành của Đức Ngài với
mục đích gì.... và đến 5 giờ có Ông Quí đến nói chuyện tới tối.
Bữa cơm tối đã dọn lên. Nơi đây là một nhà hàng sang
trọng dành riêng cho người ngoại quốc, nên chẳng biết nấu đồ chay, chỉ đem đồ
rau cải lên mà thôi. Thật là khó nuốt trôi cơm vì không có món nào mặn miệng để
ăn cơm cả. Đức Ngài chỉ dùng cơm lạt với rất ít rau cải. Xong, đi nghỉ.
Ngày 5-9-Giáp Ngọ (dl 30-9-1954)
Hôm nay, Đức Ngài ở nhà. Lúc 10 giờ có ông Quí đến nói chuyện và có Mẹ
vị thầy thuốc Nhựt ở Chợ Long Hoa đến hỏi thăm tin tức. Trưa, có Ông Matusita
đến nói chuyện và trọn ngày nay, Đức Ngài chỉ ở nhà thôi, riêng Cô Tư có người
dẫn đi mua đồ cho đến chiều.
Ngày 6-9-Giáp Ngọ (dl 1-10-1954)
Ngày nay, Ông Matusita định mời Đức Hộ Pháp đến dùng bữa chay tại một
nhà hàng lúc 12 giờ .
12 giờ kém 15, Ông Matusita cùng Ông Oda đến rước Đức
Ngài đi viếng một ngôi chùa thờ Phật ở Tokyo, ngôi chùa tuy không lớn, nhưng
rất gọn ghẻ sạch sẽ. Đức Ngài vào xem sơ qua phía trước chùa xong, Ông Matusita
mời vào một phòng khách của một nhà hàng cơm chay hiệu Giác Chánh, sự thật ra
là một dãy nhà nhỏ cất theo lối Nhựt. Bước vào cổi giày để đi vào một phòng
khách, ngồi xếp bằng trên những gối lớn, đẹp và mỏng.
Chủ tiệm cơm làm lễ đãi trà tươi theo lối Nhựt, một
chung trà tươi, nước keo xanh độ chừng 3 hớp, đựng trong những chén hình như
cái thố bên ta, u nần méo mó, song rất đặc biệt quí phái . Chủ nhà là một người
đàn bà Nhựt độ 35 tuổi, gương mặt hiền hậu, bưng vào quì đãi. Uống trà xong,
Đức Ngài ngồi nói chuyện với Ông Matusita , Ông Oda, Cô Tư và tôi. Chờ mãi cho
đến 1 giờ 15 phút, Ông Matusita mới cho hay rằng cơm đã dọn lên.
Tất cả sang qua phòng ăn. Đây cũng là một cái phòng 4
cái ghế cao độ chừng 3 tấc, kê lại làm bàn ăn. Cả thảy ngồi xếp bằng chung
quanh, có 2 cô gái Nhựt mặc Kimono vào dọn ăn theo từng món. Đây là một bữa
tiệc đặc biệt theo lối Nhựt nấu chay. Đồ ăn mỗi lượt đặt vào trong một mâm bằng
cây nhỏ cho mỗi người, chén dĩa kiểu lạ theo hình mặt trăng, chiếc muỗng tam
giác bán nguyệt, vv... Đồ ăn chỉ ít ít, toàn đồ rau cải sống, nấu ngon và lạ
miệng. Đức Ngài dùng rất khen và hỏi thăm căn cội nhà hàng cơm chay nầy.
Đây là một quán nấu đồ chay đặc biệt, chỉ có một tiệm
nầy mà thôi, trong cả Châu Thành Tokyo. Tiệm nầy tạo lập ra được 300 năm và
truyền lại được 9 đời. Người Nữ chủ nhà là người kế nghiệp đời thứ 9 của nhà
hàng cơm chay, không quảng cáo rao hàng chi cả.
Bữa cơm kéo dài hơn 1 giờ rưỡi mới xong.Đức Ngài ra
xem cảnh chùa và vào điện làm lễ. Điện giữa thờ Phật Thích Ca, hai bên có rất
nhiều tượng Phật ngồi sắp hàng, song có đội mão, chớ không để đầu trần như ở
các chùa bên ta. Tả ban và Hữu ban cũng thờ tượng Phật. Đức Ngài cúng xong, tôi
để một số tiền hành hương và đi xem phong cảnh chùa, thật là sạch sẽ vén khéo,
khác hơn cách sắp đặt kiểu chùa như bên ta. Bên ngoài có kiểng vật, có tượng
Đức Phật Bà Quan Âm bằng đồng. Xem xong, Đức Ngài lên xe Taxi trở về nhà hàng
lúc 4 giờ và lên phòng nghỉ.
Đến 6 giờ có Ông Quí đến nói chuyện với tôi, còn Đức
Ngài tiếp chuyện với một vị Đại Tướng Nhựt, một vị Tướng trong 4 vị Tướng lãnh
đạo cuộc viễn chinh của Nhựt lúc trước . Cuộc đàm luận kéo dài đến 9 giờ rưỡi
đêm mới ra về. Cùng trong buổi tối ấy, có một Kỹ sư về ngành thủy điện đến
trình bày cách đặt máy phát điện dùng thủy lực, vì Đức Ngài muốn đặt một máy
điện ở núi Điện Bà Tây Ninh.
Ngày 7-9-Giáp Ngọ (dl 2-10-1954)
Ngày nay là ngày chót của những ngày lưu lại trên Kinh đô nước Nhựt, mà
cũng là ngày hồi hộp nhứt trong việc lấy tro cốt hài Cụ Cường Để, mục đích duy
nhứt của Đức Ngài khi đến Tokyo ở nước Nhựt. Thật ra sự lấy tro cốt hài của Cụ
Cường Để, Đức Ngài đã không hy vọng từ hôm có điện văn đánh từ Tokyo đến Đài
Bắc cho hay rằng sự lấy tro cốt hài bị một số Việt kiều cản trở nên không thể
thực hiện được.
Sang Tokyo, Đức Ngài chỉ nhờ cậy Ông Matusita dẫn lối
để lấy cốt hài, song đến nơi, sau nhiều cuộc đàm luận với số đông Việt kiều ở
Nhựt, thì thấy rõ vụ cản trở ấy không đáng kể, mà ngược lại, Ông Matusita không
muốn lo lắng và có ý không muốn cho đem tro cốt hài về Việt Nam, cốt yếu giành
lại, để lợi dụng về mặt Chánh trị sau nầy mà thôi.
Sau những cuộc vận động của Ông Quí với Ông Nhiếp,
người cầm giữ Chúc Thư và cũng là người có quyền cho đem hay không số tro cốt
hài ấy. Kết quả thì thấy có hy vọng đem về nước được, song một điều là phải vận
động bí mật luôn luôn, lúc nào cũng tránh sự gặp mặt của Ông Quí và Ông
Matusita.
Ngày nay là ngày làm lễ truy điệu của Cụ Cường Để nơi
chùa. Đức Ngài được mời đến dự.
9 giờ ban mai, một chiếc xe riêng của nhà báo có phóng
viên , nhiếp ảnh viên và Ông Oda chạy đến rước Đức Ngài đến chùa làm lễ.
Lên xe, phóng viên nhà báo phỏng vấn Đức Ngài về cả
mọi phương diện, mục đích cuộc du hành và sự lấy tro cốt hài của Cụ Cường Để.
Xe chạy chậm chậm đến chùa, và lợi dụng cơ hội ấy, phóng viên tha hồ phỏng vấn.
Đến chùa, Đức Ngài vào tiếp chuyện với vị Sư Trưởng
nơi ấy, xong ra Điện làm lễ. Đây là một ngôi chùa lớn có tiếng nhứt ở Tokyo,
với lối kiến trúc giống như ở Cao Ly, mái cao uốn cong lên, chạm trổ hoa hòe,
gọi là chùa Gokokuji.
Đức Ngài vào Điện cùng nhiều người cố hữu của Cụ Cường
Để, ngồi theo điệu quì hai chân xếp lại đàng sau. Nhiều vị sư ở trong chùa đi
thành hàng một kéo ra từ nhà khách thẳng đến Điện. Họ mặc gần giống như nhà sư
bên ta, song áo màu xanh, màu maron, chớ không màu vàng, có đeo một miếng vải
dài chạy chỉ để thế cái Khậu của nhà Thiền.
Vào chùa, tiếng khèn nổi lên, vị Sư Trưởng ngồi giữa,
trên một cái ngai riêng hành pháp, hàng tăng ni đứng dài trước bàn Phật hành
lễ, tiếng kinh ê-a ăn rập theo tiếng khèn, tiếng chuông êm dịu. Sau đó lần lượt
Đức Ngài lên chỗ để tro , thắp hương và mật niệm, rồi trở về chỗ cũ. Tiếp theo
là các người đi dự lễ cũng vậy. Xong Đức Ngài hành hương 20 ngàn đồng Yên.
Cuộc cúng tế kéo dài đến hơn 1 giờ và Đức Ngài ra xe
về nhà hàng Teito lúc 12 giờ . Ông Matusita cùng đi với Đức Ngài về nhà hàng.
Về đến nơi, thình lình gặp Chú hai Hiếu (Thanh Tra Chánh Trị Đạo) ở Sài gòn
đến. Ông Hiếu vào trình Đức Ngài và Đức Ngài rất lấy làm lạ cho cuộc đến thình
lình của Ông.
Sau khi đưa các bức thơ và tường thuật sơ tình hình
bên nước nhà, Ông Hiếu lại phải đi dùng cơm với Ông Matusita tại nhà hàng.
Lật bật đến 3 giờ chiều. Ông Quí đem xe đến rước Đức
Ngài, Ông Hiếu, Ông Matusita, Ông Minh, Ông Oda và tôi, cùng đi đến chùa để lấy
tro cốt hài.
Đến chùa có Ông Nhiếp đã đến trước chờ. Cuộc hội ngộ
bất ngờ giữa Ông Nhiếp và Ông Matusita. Sau khi Ông Nhiếp trình bày bức Chúc
thơ của Cụ Cường Để giữa cả mọi người để xin giao tro cốt hài cho Đức Ngài mang
về Việt
Nơi chùa có thể cho người ta xem tro ấy, nói rằng đó
là tro của người mà họ muốn xem, vì sợ tro thiệt bị người ta đánh cắp mất.
Xem xong, Cụ Sư Trưởng đậy nắp và cột lại như cũ, rồi
trịnh trọng bưng giao lại cho Ông Nhiếp. Ông Nhiếp cẩn thận trân trọng trao lại
nơi tay Đức Ngài, xong, để xuống và Ông Nhiếp rất cảm động ôm chầm lấy Đức
Ngài. Bằng một giọng nghẹn ngào, Ông nói rằng : Hôm nay Ông đã vâng theo lời
người quá cố mà giao tro cốt hài lại tận tay Đức Ngài theo lời trong Chúc thơ
và xin lỗi cả mọi người.
Đức ngài rất cảm động đáp từ và để lời cám ơn Ông
Nhiếp, Ông Matusita và Cụ Sư Trưởng. Xong Ông Nhiếp giao cả Chúc thơ và trọn
giấy tờ dấu vết của Cụ Cường Để lưu lại trước khi chết cho Đức Ngài. Đức Ngài
viết một tờ nhận lãnh tro cốt hài, giao lại cho Ông Nhiếp cầm, có cả Phái đoàn
ký tên làm chứng.
Xong Ông Hiếu trịnh trọng bưng hộp tro ra xe để về nhà
hàng lúc 6 giờ chiều. Ông Nhiếp tiễn đưa đến nhà hàng rồi trở về. Tối đến, Ông
Matusita đến dùng cơm tại nhà hàng với Ông Hiếu, cùng Ông Quí, cùng vài Việt
kiều khác cho đến 9 giờ.
Các phóng viên nhà báo Nhựt cũng như phóng viên của
A.F.P. đến xin phỏng vấn, khiến Ông Matusita lánh mặt không tiếp. Phóng viên
A.F.P. cũng bị từ chối trong Téléphone. Cả những Việt kiều đều đến để chờ đưa
Đức Ngài lên máy bay, đều hội lại nói chuyện ở phòng tôi cho đến 10 giờ đêm, cả
Phái đoàn đều đem hành lý ra xe để đến phi trường , vì máy bay sẽ khởi hành
đúng 12 giờ 1 phút.
Lãnh sự quán Trung Hoa đến đón và đưa ra phi trường.
Sau khi đem hành lý xong, Đức Ngài ngồi nơi phòng đợi tại phi trường.
Đến 12 giờ kém 15, hãng Hàng không C.A.T. cho hay để
lên máy bay và đúng 12 giờ 1 phút, máy bay cất cánh từ giã Tokyo sáng ngời lốm
đốm trong đêm tối.
Máy bay bay đều đều và mãi đến 7 giờ sáng, phi cơ
quầng sân Đài Bắc và đáp xuống. Một số Hoa kiều ở Chợ Lớn, lối 5 người, ra đón
tiếp Đức Ngài và có cả Phái đoàn còn lại ở Pế Thầu.
Sau vài lời chào hỏi xã giao, Đức Ngài cùng các nhân
viên Ngoại Giao Bộ, Ông Yu Kia Ling và Ông Jou, Cô Tư và tôi lên xe về Dinh Bắc
Đầu.
TRỞ VỀ ĐÀI LOAN
Ngày 8-9-Giáp Ngọ (dl 3-10-1954)
Về Chiêu Đãi Sở, nơi yên tĩnh u nhàn của vùng rừng núi, Đức Ngài nhận
thấy khỏe khoắn nhiều vì liên tiếp 10 ngày đi đứng và điều cần yếu là phải nghỉ
để dưỡng sức lại.
Cả Phái đoàn tùy tùng người Hoa kiều lần lượt trở lại
Chiêu Đãi Sở, vì trong thời gian Đức Ngài và chúng tôi đi vắng, những người còn
lại trong Phái đoàn đều phải dời đến ở tại một Khách sạn nơi Châu Thành Đài Bắc
để đỡ chi phí, vì nơi Chiêu Đãi Sở, chi phí mỗi ngày rất lớn.
Chánh phủ Trung Hoa Dân Quốc đang hồi chuẩn bị đại sự,
phải tốn kém nhiều để chỉnh tu binh lực, nên từ hàng Thượng quan đến hàng binh
sĩ, cùng các hạng công chức, mỗi mỗi đều hy sinh làm việc nhiều nhưng lãnh
lương vừa đủ sống thôi, để góp sức vào việc kiến thiết quốc gia.
Do cớ, Bộ Ngoại Giao muốn tiết kiệm một phần nào cho
Chánh phủ nên mới dời cả Phái đoàn còn ở lại đến tạm trú nơi một khách sạn cho
đỡ phần chi phí. Và trọn ngày nay, Đức Ngài còn nghỉ nơi phòng.
Ngày 9-9-Giáp Ngọ (dl 4-10-1954)
Hôm nay, các chuyên viên Ngoại Giao Bộ đến thăm Đức Ngài để hỏi về kết
quả trong chuyến đi Cao Ly và Nhựt Bổn, và có nhã ý muốn mời Đức Ngài ở lại dự
Lễ Song Thập tới đây.
Từ hôm còn ở Nhựt, Đức Ngài dự định Thứ sáu nầy
(8-10-1954) sẽ trở về Sài gòn, vì còn lưu lại vài hôm để hầu chuyện một lần
chót cùng Tưởng Tổng Thống để bàn định cả sự nhận xét tình thế ở Cao Ly và Nhựt
Bổn. Hôm nay với sự ân cần mời mọc của Ngoại Giao Bộ, mời Đức Ngài ở nán lại để
dự Lễ Song Thập, một dịp hiếm có trong khi Đức Ngài để bước đến Đài Loan.
Trước sự ân cần chơn tình của Bộ Ngoại Giao nên Đức
Ngài chấp thuận ở lại dự lễ rồi sẽ về. Thế là cả Phái đoàn đình sự sắp soạn
ngày về để chờ dự lễ. Ông Minh và tôi phải đi đánh điện về Sài gòn cho hay việc
dời ngày về.
Buổi chiều hôm nay, Ông Tướng Lý Di có đến thăm Đức
Ngài. Cuộc gặp gỡ đàm luận rất lâu cùng Ông về Chánh trị thời cuộc cũng như về
quân sự.
Ngày 10-9-Giáp Ngọ (dl 5-10-1954)
Hôm nay, Đức Ngài nghỉ ở Chiêu Đãi Sở trọn ngày. Phái đoàn còn lại chỉ
làm tiêu thì giờ bằng cách đi dạo xem giải trí ở Châu Thành Đài Bắc.
Ngày 11-9-Giáp Ngọ (dl 6-10-1954)
9 giờ hôm nay, chuyên viên Ngoại Giao Bộ đến rước Đức Ngài đưa đến viếng
Tổng Thống, cùng đi có Ông Minh, Ông Hiệp và Ông Yu Kia Ling. Chiều lại, Đức
Ngài đi dùng tiệc nơi nhà Ông Tướng Lý Di tại tư gia.
Ngày 12-9-Giáp Ngọ (dl 7-10-1954)
Gần đến ngày về, những người trong Phái đoàn như Ông Dình, Trương Lê
Đông, Lao trọng Thăng, lo ra Châu Thành mua đồ cần thiết để đem về. Ông Hiệp
mua sách, Ông Dình mua trà, vv... Ai ai cũng mong ngày về.
Hôm nay, nhân viên Ngoại Giao Bộ đem Thiệp mời Đức
Ngài dự Lễ Song Thập. Ông Minh, Ông Yu Kia Ling, Ông Hiệp, Cô Tư và tôi thì
đang lo giấy tờ của một Nhiếp ảnh viên ngoại quốc. Tối đến có tổ chức buổi
chiếu bóng tại Chiêu Đãi Sở, chiếu các phim Đạo đã đem theo , máy chiếu do Bộ
Ngoại Giao mượn giùm. Đêm ấy có mặt Ông Bà Tướng Lý Di, Ông Jou và Phu nhân,
cùng vài vị quan khách.
Ông Lý Di cùng quan khách rất hoan nghinh cuộc Lễ
Trung Thu tại Tòa Thánh Tây Ninh. Xong Ông đem chiếu một cuồn phim quay khoảng
đời kháng chiến chống Trung Cộng của Ông ở Vân
Ngày 13-9-Giáp Ngọ (dl 8-10-1954)
Ngày nay, Đức Ngài nghỉ trọn ngày ở Chiêu Đãi Sở. Ô. Minh đi lo giấy tờ
sang Hồng Kông trước khi về Sài gòn.
Ngày 14-9-Giáp Ngọ (dl 9-10-1954)
Hôm nay, nhân viên Ngoại Giao Bộ đem Thiệp mời các Ông : Giáo Hữu Ngọc
Trôi Thanh, Trương Lê Đông, Ông Dình, và Lao trọng Thăng, đến dự Lễ Song Thập
theo hàng Ngoại kiều ở Hải ngoại. Mỗi người đến dự lễ đều có ghim theo thiệp
mời một dấu hiệu riêng đeo lên ngực , một bản đồ về chỗ ngồi nơi khán đài và
chương trình cuộc lễ.
Cả Phái đoàn đều nghỉ để chờ hôm sau đi dự lễ. Từ hôm
qua, nơi Dinh Bắc Đầu, trời khởi cơn mưa lấm tấm vì nay đã sang Thu, gió đã
lạnh, các cửa kiếng đã lắp vào hết. Luôn cả ngày đêm chung quanh Chiêu Đãi Sở
chỉ thấy mưa mù trắng xóa, không khí ẩm ướt, mưa chỉ lấm tấm rơi như vãi cám
kéo dài suốt ngày và đêm, duy ở Châu Thành thì ít mưa hơn và có hồi tạnh ráo.
Quang cảnh nơi Chiêu Đãi Sở rất nên buồn tẻ, đường sá vắng ngắt.
Ngày 14-9-Giáp Ngọ (dl 10-10-1954)
Hôm nay cả Phái đoàn thức dậy sớm, dùng điểm tâm để sửa soạn đi dự Lễ
Song Thập. Xe đưa Phái đoàn người Huê nhơn và tôi đến trước, vì tôi còn phải
vào trình giấy Nhiếp ảnh viên Ngoại quốc và có đem theo cái máy nhiếp ảnh cùng
máy quay phim đến khám xét trước khi vào nơi Duyệt Binh đài.
Ngày nay, trời đã bớt mưa và dưới Đài Bắc thì có phần
tạnh ráo. Dọc theo đường thì người ta đi tấp nập đến xem lễ, vào trung tâm Châu
thành Đài Bắc chỉ các xe có số hiệu và số riêng mới được phép lưu thông. Từ
ngoại ô đến Châu thành, hai bên phố treo cờ rực rỡ, tiệm quán đều đóng cửa, họ
mặc quần áo lòe loẹt để đón lễ. Các công sở đều bông cửa Tam quan rộn rịp, các
nẻo lưu thông đều có lính Cảnh sát hiệp với Cảnh binh để giữ trật tự. Cả đoàn
người đều đi về phía Tổng Thống Phủ, nơi trung tâm diễn hành cuộc lễ.
Xe đã đến nơi chỗ đậu, bên hông Dinh Tổng Thống. Phái
đoàn xuống xe để đến Khán đài. Mỗi người có thiệp mời đều có số ghế ngồi nơi
các Khán đài Đông hay Tây.
Tôi lại ghi tên và đem kiểm soát máy ảnh, tay đeo
brassard, và đeo nơi ngực biểu hiệu của cuộc lễ. Tôi vào sân khán đài chung lộn
cùng các Nhiếp ảnh viên và Phóng viên Ngoại quốc. Họ rất đông với rất nhiều máy
ảnh, máy quay phim lớn nhỏ. Họ săn đón cơ hội để chụp ảnh và quay phim.
Trên một dãy Khán đài thật rộng và dài, quan khách lần
lượt lên ghế ngồi của mình, đủ hạng chư vị Bộ Trưởng, quí vị Sứ Thần, chư vị
Đại diện các nước ngồi chật cả mấy ngàn ghế. Trước Khán đài, một khoảng rộng
nằm trước sân Dinh Tổng Thống, binh sĩ các hạng, súng ống chỉnh tề, sắp đông
nghẹt cả một vùng, hai bên mặc toàn quân phục trang hoàng, các quân nhân của
các Cơ quan phụ thuộc sắp dài làm một hàng rào vững chắc, cờ xí phất phới các
nơi, nhứt là trước Khán đài hay Duyệt Binh đài chưng dọn đẹp đẽ, các giá cờ vẽ
hình Song Thập, cờ bay rực rỡ, Dinh Tổng Thống được chưng dọn tuyệt mỹ với Bản
đồ Trung Hoa Dân Quốc bằng đèn màu và bức tượng phóng đại của Tôn Trung Sơn
dựng ở trên cao.
Đứng trên Khán đài nhìn xuống thấy cả một biển người
bao vây hết một vùng đông nghẹt các đường phố. Quan khách và các yếu nhơn tấp
nập đi tới, máy phóng thanh không ngớt kêu gọi và lễ khai mạc đúng 9 giờ .
Giở cử hành cuộc lễ sắp đến. Mọi người đều hướng về
Dinh Tổng Thống để chờ Tưởng Thống Chế.
Đến 9 giờ kém 3 phút, xe của Đức Ngài vừa đến, chiếc
Lincoln màu đen có cờ Đạo và cờ Đài Loan tiến đến khán đài. Đức Ngài từ từ bước
xuống và vào Khán đài, đi sau là Ông Hiệp, Ông Yu, Ông Minh và Cô Tư. Tướng
Bạch Sùng Hy cùng nhiều nhơn vật khác đều có mặt, đứng dậy chào mừng Đức Ngài.
9 giờ đổ kiểng, đoàn nhạc trổi, và máy phóng thanh hô
lên, Tưởng Thống Chế từ cửa Tổng Thống Phủ bước ra. Các Nhiếp ảnh viên, các
Phóng viên chực sẵn để lấy ảnh vị Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới
Thạch.
Đoàn Vệ binh mặc quân phục oai vệ đón chào nơi cửa
chánh, và sau tiếng lệnh, Đoàn Quân nhạc thổi chào và Tổng Thống từ từ bước
xuống tam cấp để đến Duyệt Binh đài. Vị Tổng Thống, trong bộ võ phục rất oai
vệ, đưa tay chào các quan khách. Ba tiếng súng Đại bác nổ vang trời để khai mạc
buổi lễ và bản Quốc thiều Trung Hoa Dân Quốc nổi lên hùng hồn, cả thảy đều đứng
dậy chào cờ. Một lá cờ Thanh Thiên bạch nhựt mãn địa hồng to lớn từ từ kéo lên
cao.
Bản nhạc dứt, trên một chiếc xe Jeep trần, vị Tổng Tư
Lệnh Lục Quân oai vệ đứng trên xe duyệt qua Khán đài. Trên không, phi cơ chiến
đấu biểu diễn rần rộ, bay từng đoàn qua Khán đài, rồi kế tiếp đoàn Quân nhạc
tiến đến vị trí của mình, quân phục chỉnh tề, một màu sắc, tiếng nhạc rập ràng
giục thúc, làm cho buổi lễ thêm rộn rã tưng bừng. Chẳng để mất một phút nào cả,
Quân lực Hải và Lục quân lần lượt biểu diễn qua Khán đài, khởi đầu là Hải quân
với quân phục trắng, cây đại kỳ dẫn đầu, tiếp đến là Quân nhạc của mỗi đại đội
và theo sau là binh sĩ. Họ đi rất rập ràng mạnh mẽ hùng dũng lướt qua Khán đài,
tiếng vỗ tay vang dậy mỗi phen đoàn quân diễn hành đi ngang qua.
Sau Hải quân rồi đến Lục quân. Cũng như Hải quân, mỗi
đại đội đều có dàn Quân nhạc đi trước . Đoàn kỵ binh cỡi trên ngựa oai vệ và
chạy chậm chậm rất ngay hàng qua Khán đài. Tiếp theo là đoàn Pháo binh có mang
và đẩy theo các thứ súng hạng nhẹ, súng liên thanh hạng nặng, các súng hỏa
tiễn, vv... Hết Pháo binh đến Bộ binh.
Tổng Thống nét mặt hân hoan đưa tay lên chào mỗi phen
các đoàn binh duyệt qua Khán đài.
Hết Bộ binh đến Chiến xa, Thiết giáp xa, có kéo theo
các khẩu đại bác to tướng đủ hạng, rồi tới các xe tăng nhẹ và nặng chạy diễn
qua Khán đài, rồi lần lượt đến các bộ phận trong cơ ngũ đều biểu diễn một lần
đi qua Duyệt Binh đài.
Cuộc biểu diễn liên tiếp đi qua trong một tiếng đồng
hồ không ngớt và đây chỉ là một sư đoàn trong hơn 50 sư đoàn hiện diện ở Đài
Loan.
Các binh đội biểu diễn qua Khán đài một lần đã hết.
Sau rốt có lịnh cho các Bộ đội tựu họp trước Khán đài. Họ rần rộ chạy đến có
hàng ngũ rồi đứng trước Khán đài.
Tổng Thống Tưởng Giới Thạch đứng trước máy vi âm để
lời phủ dụ các chiến sĩ, giọng nói sang sảng, oai vệ, hùng hồn. Toàn cả Binh
đoàn yên lặng cúi đầu nghe dạy.
Một Đại diện đứng ra thay mặt để lời chúc tụng nước
Trung Hoa thân yêu, cám ơn và hô to những khẩu hiệu. Trên mọi nét mặt đều có vẻ
cương quyết rắn rỏi lạ lùng. Thật là một cuộc diễn binh vĩ đại, chứng tỏ quân
đội Quốc Dân Đảng hùng cường, rồi đây đất nước Trung Hoa sẽ thống nhứt.
Buổi lễ hôm nay đến đây chấm dứt. Quan khách rần rộ ra
về trên các con đường trong thành phố, sóng người cuồn cuộn chảy, xe cộ nối
đuôi nhau túa ra các ngả.
Đoàn xe đưa cả Phái đoàn về Dinh Bắc Đầu phải mất ngót
một tiếng đồng hồ mới ra khỏi châu thành, về đến Chiêu Đãi Sở đã 12 giờ . Dùng
cơm xong, Đức Ngài vào phòng nghỉ.
Tối đến, Phái đoàn trở xuống Đài Bắc để xem cộ và pháo
bông trước Dinh Tổng Thống. Đèn màu giăng tứ phía làm sáng rực một vùng và
người đi xem tấp nập tới như thác đổ, mặc dầu trời vẫn mưa lâm râm.
Ngày 15-9-Giáp Ngọ (dl 11-10-1954)
Ngày về đã nhứt định là ngày 12-10-1954 và Chánh phủ Trung Hoa sẽ dành
một máy bay riêng để đưa cả Phái đoàn trở về Việt
Để đáp lại thạnh tình của Chánh phủ và Việt kiều ở Đài
Loan, Đức Ngài định tổ chức một bữa tiệc rượu thân mật chiêu đãi quí khách đã
chiếu cố Phái đoàn trong thời gian lưu trú nơi đây.
Việc tổ chức bữa tiệc nầy, Đức Ngài giao cho Ông Minh,
Ông Yu, Ông Hứa văn Hiệp. Bữa tiệc sẽ đãi ở Đài Bắc lúc 6 giờ chiều ngày
11-10-1954 nơi nhà đãi khách của Chánh phủ.
Từ sáng sớm, những người có phận sự đều đi xuống Đài
Bắc, người lo đãi tiệc, người lo giấy tờ, hành lý, mỗi người đều lo sắp đặt
sẵn, và hôm nay nơi Dinh Bắc Đầu, trời vẫn mưa dầm mù mịt lạnh lẽo.
Chiều lại, lúc 4 giờ , cả nhân viên trong Phái đoàn
đều xuống hết ở Đài Bắc để sắp đặt bữa tiệc. Đặc biệt hơn hết là trong bữa tiệc
hôm nay có vẻ quí phái sang trọng hơn hết vì Đức Ngài cho phép mua các thứ rượu
mạnh và mắc tiền để đãi. Ở đây vì còn trong vòng kiến thiết nên Chánh phủ đã ra
lịnh tiết kiệm, cấm xa xỉ. Trong các bữa tiệc của Chánh phủ, dầu lớn đến đâu
cũng chỉ đãi rượu bia hay nước ngọt, đặc biệt là nước chanh, chớ rất ít khi
được thấy rượu mạnh. Các thứ rượu mạnh và quí ở đây rất mắc, ít ai dám dùng
đến.
Trong bữa tiệc nầy, có cả các thứ rượu mạnh để đãi, vì
trong Phái đoàn tự nghĩ chỉ có một lần nầy mà thôi, nên không sợ tốn kém.
5 giờ 45, Đức Ngài đến. Nơi phòng tiệc đã có một số ít
Việt kiều và nhân viên Ngoại Giao Bộ đến trước . Các quan khách mời lần lượt
đến. Đây là những khách quí mà Đức Ngài và Phái đoàn đã gặp từ ngày để bước đến
Đài Loan. Tất cả Việt kiều gần như có mặt đầy đủ, lối 15 người. Họ rất cảm động
trong lúc trao đổi câu chuyện với Phái đoàn vì ít khi có dịp hội ngộ như vầy.
Quan khách vẫn lần lượt đến. Trừ ra Tưởng Tổng Thống,
ta thấy có Phó Tổng Thống Trần Thành, Bí thư Trưởng Trương Quân, chư vị Bộ
Trưởng, chư vị Đại diện các tôn giáo, vv...
Họ đến chào mừng Đức Ngài trong tình thân mật nhưng
không kém phần kính nể. Đức Ngài rất vui vẻ tiếp chuyện, sau khi dùng rượu và
bánh theo lối tiệc Lunch.
Tất cả quan khách có đến 100 vị được mời sang phòng
bên cạnh để xem chiếu bóng phim của Phái đoàn đem theo và do tôi chiếu về các
cuộc lễ Khánh Thành ở Tòa Thánh, cuộc Âu Du của Đức Ngài, chiếu đến các cuộc
lễ, cuộc rước Đức Ngài dự lễ... Những tràng pháo tay hoan nghinh vang dậy. Mỗi
đoạn, Ông Ju và Ông Hiệp dẫn giải ra tiếng phổ thông, nhờ đó khán giả cũng được
hiểu đôi phần về Đạo.
Buổi chiếu bóng kéo dài đến 45 phút, phim hết, quan
khách lần lượt kiếu từ ra về. Cảm đọâng hơn hết là số Việt kiều rất quyến luyến
Phái đoàn, họ cầu chúc, nhắn gởi những lời thành thật về quê nhà và họ thú
thật, đây là lần thứ nhứt số Việt kiều ở đây được hân hạnh nở mặt cùng Chánh
phủ Trung Hoa Dân Quốc trong những ngày lưu vong nơi xứ nầy.
Đã 8 giờ, tiệc xong, khách về hết. Cả Phái đoàn cũng
ra về, trở lại Chiêu Đãi Sở và đêm nay, nôn nóng ngày về, ai cũng không ngủ
được, lo kiểm điểm lại hành lý để sáng lên đường.
Ngày 16-9-Giáp Ngọ (dl 12-10-1954)
Từ sáng sớm, cả Phái đoàn đã dậy sửa soạn. Đức Ngài ra lịnh cho tiền cả
nhân viên có phận sự lo lắng cho Phái đoàn ở Chiêu Đãi Sở. Họ rất cảm động lòng
tốt của Phái đoàn. Số tiền cho các tài xế cũng như người phụng sự có đến bằng
số lương tháng của mỗi người.
Sau bữa ăn sáng, hành lý đã dọn ra xe và lần lượt chở
đến phi trường . Đến 9 giờ , Đức Ngài mới ra từ giã cả nhân viên nơi Chiêu Đãi
Sở để ra xe tới phi trường.
Đoàn xe 4 chiếc nối đuôi nhau chạy xuống Đài Bắc. Ngó
lại Chiêu Đãi Sở gần như giấu mình trong rừng cây và đá. Tôi cảm thấy nao nao
mến tiếc. Tôi cố nhìn hai bên đường một lần chót, từ giã núi Dương Minh Sơn đến
Đài Bắc và trong 15 phút sau, xe ngừng trước phi trường .
Quan khách đi đưa hôm nay cũng đông gần như bữa tiệc
chiều hôm qua. Họ đã chờ sẵn từ lâu ở phi trường. Đức Ngài vào bắt tay từ giã
mọi người, chuyện trò giây lát để chờ đem hành lý lên máy bay.
Hành lý sắp đặt xong, chiếc phi cơ 2 máy của hãng
C.A.T. từ từ chạy lại cửa. Giờ bay đã đến, Đức Ngài rất cảm động từ giã một lần
chót. Cả quan khách mà trên gương mặt của mỗi người đều lộ vẻ ngùi ngùi, cảm
động hơn hết là khi từ giã Ông Lý Di và Ông Jou, một luyến ái chơn thật lộ ra
trên vẻ mặt làm cho Đức Ngài khó cầm cảm xúc.
Đức Ngài bước lên máy bay, đưa tay từ giã một lần
chót. Hội Hồng Vân Tự đưa cờ vẫy theo. Phi cơ rồ máy nhẹ nhẹ quay mình để lui
ra đầu sân, ngừng lại nổ máy rồi từ từ cất cánh. Nhìn ra cửa kiếng, Châu thành
Đài Bắc quay tròn, dãy núi Dương Minh Sơn thụt lùi để lần lần biến mất trong
sương mờ.
Nhớ lại, cả Phái đoàn trở về thì chỉ thiếu Ông Minh,
vì Ông có việc cần ghé lại Hồng Kông nên đã lấy vé máy bay khác. Phi cơ hôm nay
cũng là phi cơ chở hàng của hãng Hàng không C.A.T. rộng thênh thang mà chỉ chở
vỏn vẹn cả Phái đoàn thôi. Cả Phái đoàn chỉ chiếm có phân nửa, phi cơ còn phân
nửa không người ngồi, thì đành để chở đồ cây kiểng, hoa cỏ, vv...
Phi cơ bay đều đều, chỉ trong chốc lát, nhà cửa núi
non, đất liền đều biến mất, chỉ thấy toàn biển xanh ngắt mịt mù. Chuyến về, phi
cơ ghé lại Hồng Kông lấy xăng. Phi cơ vẫn vù vù bay lướt qua các cụm mây trắng.
Đến 1 giờ 15 phút, dòm xuống thấy đất liền. Phi cơ
khởi quầng sân Hồng Kông. Dòm xuống ta thấy Hồng Kông lố xố với những nhà lầu
cao vút ở rải rác trên các ngọn đồi, núi non lởm chởm ghè ra biển. Hồng Kông,
trên cao nhìn xuống rất đẹp, một châu thành giống như các châu thành ở Âu Châu,
với nhà cao vọi, ở từng khóm, xe cộ bò chi chít trên các nẻo đường ngoằn ngoèo
quanh lộn theo các sườn núi. Máy bay hạ xuống sân rồi ngừng lại. Nhơn viên
chiêu đãi trên phi cơ mời cả Phái đoàn vào nghỉ nơi các phòng chờ đợi tại phi
trường .
Nơi đây, Phái đoàn dùng bữa trưa, và nửa giờ sau, máy
bay trở ra, Phái đoàn tiếp tục lên máy bay về Việt
Trời đã về chiều, mặt trời đã lấp lửng chơn trời, còn
soi tỏ trong đất liền, núi non trùng trùng điệp điệp, phi cơ đã vào nội địa
Việt Nam, bay cặp theo bờ biển, nhìn xuống núi non xanh sẩm liên tiếp, nhà cửa
thành những chấm trắng nhỏ ở theo các thung lủng có dòng nước. Bay có hơn nửa
giờ trên nội địa, ta chỉ thấy toàn là núi non, đồng bằng rất ít nhưng đâu đâu
cũng xanh ngắt một màu, khác hẳn nơi đất đai bên Cao Ly, núi non cây cối lưa
thưa và trơ những đá.
Trời đã sẩm tối, cảnh vật chỉ còn thấy mập mờ. Phi
công cho biết gần đến Sài gòn. Cả Phái đoàn đã sửa soạn và ai nấy đều lộ vẻ vui
mừng ra nét mặt, vì sắp gặp lại người quen thuộc thân yêu đón rước chút nữa
đây.
Trời tối hẳn, nhìn xuống chỉ thấy đen mờ lấp loáng một
vài nơi có đóm lửa, rồi đây đèn chấp chóa ở trước kia và phi công khởi đầu hạ
cánh để quầng phi trường Tân Sơn Nhứt. Đèn đường đã thấy rõ soi bóng nước lấp
loáng. Ở hai vệ đường, nhà cửa lúp xúp quay tròn và trong vài phút sau, phi cơ
hạ cánh xuống sân, chạy nhanh và từ từ ngừng lại.
Tôi vâng lịnh xuống trước báo tin, rồi từ trong máy
bay tôi chun ra xuống đất. Ông Giáo Hữu Trôi trịnh trọng bưng hộp di hài Cụ
Cường Để phủ bằng nhiễu đỏ, đi kế là Đức Ngài, rồi lần lượt đến cả Phái đoàn.
Các ngọn đèn rọi để quay phim làm chóa mắt và như ai cũng đều biết, một cuộc
tiếp rước trọng thể sắp đặt trước phi trường là thể nào. Tôi không còn thời giờ
nhận xét nữa, chỉ thấy một biển người trắng lố xố ở vìa sân cũng như ở trong
sân và ngõ ra phi trường .
Về đến đây, phận sự của tôi đã hết. Những cuộc nghe
thấy trong cuộc lễ rước từ Sài gòn về Tòa Thánh Tây Ninh sẽ dành để lại cho các
phóng viên báo chí, các văn sĩ sẽ tường thuật lại rành mạch và tỉ mỉ hơn.
Nơi đây, tôi chỉ ghi chép lại những gì tôi đã nghe và
thấy trong lúc đi theo Phái đoàn với phận sự là Nhiếp ảnh viên để kỷ niệm
chuyến Á Du trải sang các nước Đài Loan, Cao Ly và Nhựt Bổn .
Viết xong ngày 25-9-Giáp Ngọ (dl 21-10-1954) tại
Thơ viện Trí Huệ Cung.
Sĩ Tải BÙI QUANG CAO
(ký tên)
PHẦN PHỤ.
ĐỨC
HỘ PHÁP
Phủ dụ
ngày 20-7-Giáp Ngọ (dl 18-8-1954) trước khi Đức Ngài sang Trung Hoa
Thưa cùng chư vị cầm quyền các cơ quan Chánh Trị Đạo, con cái Đức Chí
Tôn nam nữ, Thượng Hạ Sĩ quan Quân Đội Cao Đài.
Hôm nay, Bần đạo lãnh một cái sứ mạng mới do ý muốn
của Đức Chí Tôn, Bần đạo vừa được Chánh phủ Trung Hoa mời đến Đài Loan, chủ
định của họ mời Bần đạo chỉ vì Đạo mà thôi. Cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn đã
hiểu rõ nền triết lý văn minh tối cổ của tổ phụ Việt
Bần đạo chẳng cần nhắc lại cả thảy quốc dân Việt
Ấy vậy, ta còn danh Việt mà mất tổ quán, dân Việt ta
bị đau khổ về mặt đời thử thách của Đức Chí Tôn đặng trả kiếp tiền khiên của Tổ
phụ ta đã tạo thành.
Hôm nay, Bần đạo được danh dự của Đại Từ Phụ ban cho
cầm cây cờ cứu khổ để giải khổ cho nhơn loại, mình đã đau khổ mà đặng lãnh sứ
mạng thiêng liêng để an ủi đau khổ của thiên hạ. Điều ấy làm cho chúng ta suy
gẫm lung lắm đó vậy.
Thật ra có hai cái đau khổ, cái đau khổ về xác thịt nó
còn dễ chịu, cái đau khổ về tâm hồn nó thái quá, mà Đức Chí Tôn lại cho tâm hồn
là trọng, không coi thể xác là trọng, bởi vì quyền năng vô đối của Ngài muốn
vậy.
Hại thay ! Ngài không đến với các chủng tộc nhưng Ngài
đã đến với chúng ta, vì Ngài muốn đem sắc dân hèn mạt thất quốc làm Thánh Thể
của Ngài, tức nhiên là Hội Thánh, đặng đem rải khắp nơi hột giống thương yêu vô
đối của Ngài, tức nhiên Đại Từ Bi, Đại Bác Ái đó vậy.
Hôm nay, Bần đạo cầm cờ và ôm khối ấy đặng bủa khắp
trong nước Trung Hoa tức nhiên là một chủng tộc của chúng ta.
Ở nhà, Bần đạo cậy cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn,
các cơ quan Chánh Trị Đạo, cầu nguyện dùm cho Bần đạo làm sứ mạng cho thành
công và đắc lực.
ĐỨC
HỘ PHÁP
Tuyên
bố tại phi trường Tân Sơn Nhứt
ngày 16-9-Giáp Ngọ (dl 12-10-1954)
Thưa cùng đồng bào Việt
Đây là di hài của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, quí danh
là Nguyễn Phúc Vân, Ngài là đích tôn của Đức Đông Cung Cảnh, tức là tông chi
hoàng tộc. Cả toàn thể quốc dân đều biết dĩ vãng của Ngài.
Ngài đã hy sinh một đời sống lưu vong nơi đất khách,
cốt theo đuổi một mục đích là làm thế nào phục hồi vận mạng tổ quốc, độc lập
thiệt hiện.
Ngài cũng như Bần đạo, tâm hồn của Ngài phù hạp với
tâm hồn của Bần đạo là chẳng lúc nào Ngài phân biệt màu sắc chánh trị cùng đảng
phái, đoàn thể, tôn giáo.
Một kiếp sống của Ngài, chỉ có một mục đích là làm thế
nào phục sự vận mạng tổ quốc và đồng bào Việt
Đau đớn thay ! Trên bốn chục năm lưu vong nơi đất
khách, Ngài theo đuổi một mơ vọng mà Ngài không đoạt đặng. Công chưa thành,
danh chưa toại, Ngài đã thành người thiên cổ nơi đất khách quê người.
Hôm nay, di hài của Ngài đã được đem về nước. Do đó,
khối anh linh của Ngài cũng cùng về hiệp với khối quốc hồn của bốn ngàn năm lập
quốc.
Thê thảm thay ! Trước nửa giờ lâm chung, Ngài còn ráng
ngồi dậy nhắn cùng tất cả thanh niên Việt
Trước khi trút hơi thở cuối cùng, Ngài còn ráng kêu :
"VIỆT NAM MUÔN NĂM"
Bần đạo nghe thuật lại điều ấy, Bần đạo cảm khích vô
ngần. Những bạn đã lưu vong cùng Ngài đã khóc hết nước mắt. Khối tâm hồn ái
quốc ấy hôm nay ước mong nó sẽ là một ngọn lửa thiêng liêng nung sôi tâm hồn
của toàn thể quốc dân Việt Nam, bỏ thành kiến, bỏ đảng phái, hiệp sức cùng nhau
để cứu vãn tình thế nước nhà đang lúc nguy vong tan tác.
Trước khi dứt lời, Bần đạo xin toàn thể đồng bào nối
điệu theo dư âm khốn khổ của Ngài đã kêu cả toàn thể đồng bào của chúng ta. Bần
đạo hô như Ngài đã kêu gào thống thiết trước hơi thở cuối cùng của Ngài.
" VIỆT
ĐỨC
HỘ PHÁP
Tuyên
bố trong dịp rước di hài của Cụ Cường Để tại Tòa Thánh ngày 20-9-Giáp Ngọ (dl
16-10-1954)
Thưa cùng chư Chức sắc Thiên phong nam nữ lưỡng phái, Thánh Thể Đức Chí
Tôn, Hội Thánh nam nữ, các cơ quan Chánh Trị Đạo.
Tiếp theo lời tuyên bố của Bần đạo khi về đến Sài
Thành, đã có lời nói về đời sống của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, Bần đạo chẳng
cần nhắc đi nhắc lại thì cả toàn thể quốc dân Việt Nam, cả toàn đạo cũng biết
rõ sự hy sinh vô đối của Ngài, kiếp sống của Ngài chỉ có một mục đích quật
cường giải ách lệ thuộc, thâu hồi độc lập và phục quốc cho đồng bào.
Khi mới đến Tân Sơn Nhứt, Bần đạo đã tỏ lời kêu gọi
theo yếu thiết của Đức Kỳ Ngoại Hầu lúc lâm chung. Cả một đời sống hy sinh của
Ngài mong tạo hạnh phúc cho tổ quốc giống nòi mà phải chịu chẳng biết bao nhiêu
gian truân khổ não, cũng chỉ vì lòng ái quốc vô đối của Ngài.
Cả thanh niên Việt Nam nên ghi nhớ những lời nhắn gởi
của Ngài, trước nửa giờ chết, Ngài còn ráng ngồi dậy nhắn cho toàn thanh niên
Việt Nam phải cương quyết quật cường cứu quốc, mặc dầu còn một hơi thở cuối
cùng, nhưng Ngài còn ráng hô "VIỆT NAM MUÔN NĂM" rồi mới tắt thở.
Bần đạo không thấy mà đã nghe đồng bào Việt Nam ở Đông
Kinh thuật điều ấy, làm cho Bần đạo khóc, và chính mình Bần đạo chỉ biết khóc
mà thôi.
Nối theo lời kêu gọi thống thiết của Ngài, Bần đạo về
đến đây cũng xin toàn thể con cái Đức Chí Tôn nam nữ lưỡng phái lập lại lời
thống thiết trước giờ chết của Ngài.
Bần đạo hô cả thảy đều hô theo :
" VIỆT
Tráng
Liệt và Tráng Cử đòi xác tro của Cụ CƯỜNG ĐỂ.
Hai Ông Tráng Liệt và Tráng Cử là 2 con của Cụ Cường Để, ở Huế vào
Sài gòn, với sự hướng dẫn của Ông Nguyễn văn Vàng, Đại biểu Chánh phủ Miền Tây,
nguyên Tỉnh Trưởng tỉnh Tây Ninh, và với áp lực của Chánh Phủ Ngô Đình Diệm,
lên Tòa Thánh Tây Ninh, đòi Hội Thánh trả xác tro của Cụ Cường Để, vào năm
1956.
Diễn tiến của sự việc được Ông Cải Trạng Nguyễn minh
Nhựt tự Trân thuật lại chi tiết như sau đây :
" Không nhớ rõ ngày tháng nào trong năm 1956
(Bính Thân), Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Vàng, nhờ có công với Chánh phủ trong việc
khắc khe đàn áp Đạo ở Tây Ninh, thêm sự nâng đỡ của Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc
Thơ, được thăng cấp Đại Biểu Chánh Phủ Miền Tây đặc trách Hoa Kiều Sự Vụ, dẫn
hai Ông Tráng Liệt và Tráng Cử lên Tòa Thánh Tây Ninh, đòi nhận lại xác tro của
Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để.
Lúc bấy giờ Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức cầm giềng
mối Đạo, do Ủy Nhiệm Thư của Đức Hộ Pháp. Cả Hội Thánh Lưỡng Đài chẳng biết
tính lẽ nào, yêu cầu hoãn lại để thỉnh giáo Đức Hộ Pháp.
Trước kia, do Di Chúc Di Ngôn của Đức Cường Để, Đức Hộ
Pháp dẫn phái đoàn Đạo Cao Đài sang Nhựt Bổn thỉnh xác tro của Người về thờ tại
Tòa Thánh. Hội Thánh không dám tự chuyên quyết định giao.
Ông Vàng hỏi Hội Thánh thỉnh giáo Đức Hộ Pháp cách
nào, và chờ trong bao lâu?
Hội Thánh trả lời :
- Bằng điện tín và chờ trong một tuần.
Ông Vàng cười và đồng ý.
Sau nầy rõ lại là Ty Bưu Điện nhận tiền và nội dung
bức điện tín của Hội Thánh nhưng không chuyển đi. Có lẽ Ông Vàng đắc ý vì sách
lược dự tính sẽ được áp dụng mà Hội Thánh không thể biết được. Có lẽ Ông nghĩ
rằng trước sau gì Hội Thánh cũng phải giao xác tro mà không làm sao có lịnh của
Đức Hộ Pháp. Ông Vàng cười là vậy. Thâm ý của Chánh quyền muốn cách ly Hội
Thánh với Đức Hộ Pháp.
Đúng kỳ hẹn, Ông Vàng và hai Ông Tráng Liệt và Tráng
Cử đến tại Giáo Tông Đường. Ông Vàng với vẻ đắc ý, hỏi Hội Thánh :
- Thế nào ? Đức Hộ Pháp trả lời thế nào ?
Hội Thánh cho đọc bản văn do bút tự của Đức Hộ Pháp
dạy giao xác tro và buộc phải ký biên nhận.
Ông Đại Biểu Vàng ngạc nhiên hỏi :
- Hội Thánh liên lạc bằng cách nào ?
Hội Thánh trả lời :
- Liên lạc bằng điện tín. Đức Hộ Pháp sai người mang
giấy về cho kịp ngày giờ.
Ông Vàng hỏi :
- Đi đường nào ?
Hội Thánh đáp :
- Không biết.
Ông Vàng nghi nghi ngờ ngờ không đoán ra. Kỳ thật, Hội
Thánh tiên đoán và tiên liệu cho liên lạc đi để nhận hồi âm về liền, việc gấp
rút sợ trễ sẽ gây bối rối.
Sĩ Tải Nguyễn Minh Nhựt tự Trân được lịnh thảo Biên
nhận trình lên Hội Thánh, chuyển qua tay ông Vàng. Ông kêu Sĩ Tải Trân chỉnh
lại, đại ý rằng, đã đi với Đại Biểu Chánh phủ mà còn ghi số căn cước, địa chỉ
làm gì.
Sĩ Tải Trân nhỏ nhẹ đáp :
- Xin Ông nói với Hội Thánh. Tôi viết xong là hết phận
sự.
Hội Thánh cho đánh máy Biên nhận, chỉnh theo yêu cầu
của ông Đại Biểu Vàng.
Trong lúc chờ đợi, Sĩ Tải Trân hỏi hai ông con của Cụ
Cường Để :
- Hai ông nghĩ thế nào mà đến đây xin đòi lại xác tro
của Đức Kỳ Ngoại Hầu ?
Một trong hai người đáp :
- Vì hiếu đạo rước về thờ.
Sĩ Tải Trân hỏi tiếp :
- Hai ông quan niệm thế nào về chữ Hiếu ?
- Lúc còn sống thì thương kính, vâng lời, phụng dưỡng;
chết thì phải thờ cúng...
Sĩ Tải Trân nói lên ý kiến :
- Ông nói về hiếu đạo, lúc cha mẹ còn sống thì phải
vâng lời. Tôi nghĩ lời trối trăng của người sắp chết đáng lẽ phải được tôn
trọng hơn mới phải. Trước giờ nhắm mắt, Đức Kỳ Ngoại Hầu để Di chúc lại và Di
ngôn có ghi âm, xin gởi xác tro cho Đạo Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh. Đức Hộ Pháp
là người dưng, tôn trọng Di chúc của bậc chí sĩ anh hùng vị quốc vong thân ở
nước ngoài, không nệ mệt nhọc tốn kém, dẫn phái đoàn Đạo đến Nhựt rước về thờ
tại Tòa Thánh theo ý đã để. Hai ông là con, đáng lẽ có bổn phận bảo trọng Di
chúc Di ngôn, làm đúng như ý mới phải. Nay Hai ông đòi xác tro lại đem đi nơi
khác, làm trái Di chúc tức là thất hiếu, sao lại gọi là vì hiếu ?
Biên nhận được đánh máy sạch, ký tên xong. Hội Thánh
mời qua Báo Ân Từ để giao tại Hậu Điện. Hai Ông Tráng Liệt và Tráng Cử trịnh
trọng đưa ra 10.000 đồng nói là đền ơn Hội Thánh và Đức Hộ Pháp.
Ngài Thái Chánh Phối Sư Thái Bộ Thanh và Ngài Giáo Sư
Thái Đến Thanh khuyên hai ông nên giữ lại để xài. Đức Hộ Pháp hành động, mục
đích không phải để hai ông cám ơn, và nếu có đền ơn Đức Hộ Pháp thì 10.000 đồng
không thấm vào đâu so với tổn phí cho cả một phái đoàn Đạo cùng đi với Đức Hộ
Pháp, phí tổn phải trội hơn rất nhiều. Vả lại, trước kia, mỗi lần hai ông đến
viếng Tòa Thánh, Đức Hộ Pháp thường cho ông nào cũng vậy, khi thì 5.000. khi
thì 10.000, Đức Hộ Pháp có tính toán gì đâu. Nay có đáng gì để luận với số tiền
10.000 đồng mà gọi là đền ơn Đức Hộ Pháp.
Ông Đại Biểu xen vào :
- Trước khác, nay khác.
Hai ông Tráng Liệt và Tráng Cử nài nỉ xin để cúng
chùa. Ngài Thái Chánh Phối Sư chỉ tủ hành hương và nói :
- Việc cúng chùa là tùy hỷ. Hội Thánh không trực tiếp
nhận tiền cúng chùa, nếu muốn, xin bỏ vào tủ hành hương.
Điều đáng ghi nhận là mấy hôm trước, biết có vụ đòi
xác tro, Sĩ Tải Lê Quang Tấn và Sĩ Tải Trân đã hội ý với ông Đạo Nhơn Phạm Văn
Út, Trưởng Tộc Phạm môn, chia lấy một ít xác tro Đức Cường Để, dành lại cho Hội
Thánh, gọi là kỉnh trọng Di chúc của người anh hùng chí sĩ, còn phần nhiều thì
giao cho Đại Biểu Chánh phủ và hai ông con của Đức Cường Để. Ông Út sau được
thăng phẩm Chơn Nhơn và đã qui vị. Không rõ phần xác tro chia lại, hiện giờ ai
cất giữ.
Ngày giao xác tro cũng có điều rắc rối nho nhỏ :
Ngài Hiến Pháp lánh mặt, Biên nhận thiếu chữ ký của
Ngài. Ông Đại Biểu giành giữ Biên nhận, nói sẽ đem cho Ngài Hiến Pháp ký. Hội
Thánh im lặng, mặc nhiên bằng lòng. Một số Chức sắc không đồng ý, đề nghị Ngài
Thượng Chánh Phối Sư Thượng Sáng Thanh đòi lại. Việc nội bộ để Hội Thánh lo.
Ông Vàng không giao.
Trên đường đi từ Báo Ân Từ đến Đền Thánh để hai ông
Tráng Liệt và Tráng Cử đảnh lễ, Ngài Thượng Chánh Phối Sư sợ mất lòng không dám
đòi quyết, còn khuyên rằng:
- Người ta là người lớn, không lẽ sai lời. Rồi người
ta cũng giao lại cho mình, chớ họ giữ làm gì. Chờ cho Ngài Hiến Pháp ký tên
xong, họ sẽ giao lại cho mình chớ gì.
Không tán thành ý kiến đó, Sĩ Tải Trân nói :
- Đạo có phần khác, còn Chánh trị xảo trá muôn mặt.
Mình không tin lời họ được. Việc nội bộ của Đạo, Ngài Hiến Pháp ở gần đây, mình
đem lại cho Ngài ký, phải tiện hơn không. Tại sao họ ở xa mà lại giành giữ ?
Như vậy thấy rõ ý họ không tốt rồi. Ngày kia họ không trả lại, Hội Thánh sẽ ăn
làm sao nói làm sao với Đức Hộ Pháp ?
Mấy ông lên xe sắp rời Tòa Thánh. Trường hợp bất đắc
dĩ, dầu biết mình quá nhỏ nhoi nhưng xét thấy có bổn phận phải trực tiếp đòi
nên buộc lòng Sĩ Tải Trân nói lớn :
- Ông Đại Biểu chưa đưa Biên nhận lại cho Hội Thánh.
Ông Vàng ngồi ở băng sau bất bình, vừa chìa Biên nhận
ra, vừa nói to :
- Đây nè ! Ngài Thái Chánh Phối Sư vội cầm lấy và xe
chạy.
Tạm kết thúc màn đòi xác tro của Đức Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để, do Chánh quyền Ngô Đình Diệm làm đạo diễn ... là động cơ thúc đẩy.
Được nghe kể lại, xác tro đòi lại được đưa về Huế, có
tổ chức buổi lễ tiếp rước long trọng nói là Chánh phủ đã rước về từ Nhựt Bổn.
Phải chăng Chánh quyền Ngô Đình Diệm lo ngại tinh thần
ái quốc của đồng bào trong nước sẽ tập trung hướng về Thánh Địa Tây Ninh, có
Báo Quốc Từ thờ các anh hùng chí sĩ vị quốc vong thân, gây ảnh hưởng không hay
cho Chánh quyền hiện hữu."
(Trích trong Hồi Ký của Cải Trạng Nguyễn Minh Nhựt tự Trân, nhan đề là VĂN
TỊCH PHÁP NHƠN LUÂN CHI ĐAO).
Cải Trạng NGUYỄN MINH NHỰT tự TRÂN.
(ký tên)
LỜI
BẠT.
Trong công việc sưu tầm tài liệu để tìm hiểu gốc tích của bức họa Nam
Bình Phật Tổ đang được thờ nơi Điện Thớ Phật Mẫu tại Trí Giác Cung (Địa Linh
Động), chúng tôi được quí Chức sắc lão thành của Cơ Quan Phước Thiện cho biết
là bức họa Nam Bình Phật Tổ do một người Hoa đem tặng cho Đức Phạm Hộ Pháp
trong chuyến Á Du, khi Đức Ngài du hành sang Đài Loan.
Chúng tôi may mắn được Hiền huynh Nguyễn Ngọc Thể ở
Cao Lãnh gởi cho tập Nhựt Ký Á Du của Đức Hộ Pháp sang các nước Đài Loan, Cao
Ly và Nhựt Bổn, do Sĩ Tải Bùi Quang Cao ghi chép. Chúng tôi đọc rất kỹ, trong
đó không thấy khoảng nào ghi về vụ một người Hoa tặng bức họa Nam Bình Phật Tổ
cho Đức Phạm Hộ Pháp.
Chúng tôi liền tìm đến gặp Sĩ Tải Bùi Quang Cao, nay
là Giám Đạo Bùi Quang Cao, tại tư gia của ông để nhờ ông xác minh việc nầy. Sau
một hồi để cho trí nhớ làm việc, ông Giám Đạo Cao xác nhận rằng :
" Trong chuyến Á Du của Đức Phạm Hộ Pháp sang Đài
Loan, không có ai tặng cho Đức Hộ Pháp một bức họa nào hết, bởi vì nếu có người
tặng thì tôi phải biết, vì tôi là Thơ Ký ghi chép Nhựt Ký cuộc Á Du nầy."
Do đó, chúng tôi nghĩ rằng, cần phải đánh vi tính tập
"NHỰT KÝ Á DU" nầy trong lúc Hiền huynh Giám Đạo Bùi Quang Cao còn
sức khỏe và sáng suốt để xin Hiền huynh xem lại và ký tên xác nhận sự đầy đủ và
chơn thật.
Chúng tôi còn đề nghị với Hiền huynh Giám Đạo Cao viết
thêm phần : Hai người con của Cụ Cường Để là Tráng Liệt và Tráng Cử từ Huế vào
Tòa Thánh Tây Ninh, dùng áp lực của Chánh phủ Ngô Đình Diệm, đòi xác tro của Cụ
Cường Để đem về Huế, để kết thúc việc Đức Hộ Pháp đi Nhựt Bổn thỉnh xác tro nầy
đem về thờ nơi Báo Ân Từ.
Trong lúc Hiền huynh Giám Đạo Cao chưa có thời giờ để
viết về vụ nầy, chúng tôi may mắn gặp Hiền huynh Cải Trạng Nguyễn Minh Nhựt tự
Trân cho đọc quyển Hồi Ký của Hiền huynh, nhan đề : "Văn Tịch Pháp Nhơn
Luân chi Đạo", trong đó có đoạn Hiền huynh thuật lại rất rõ ràng về vụ hai
ông Tráng Liệt và Tráng Cử vào Tòa Thánh đòi xác tro của Cụ Cường Để.
Chúng tôi liền xin phép Hiền huynh Cải Trạng Trân cho
phép chúng tôi chép đoạn nầy vào phần cuối của tập "Nhựt Ký Á Du" và
sau đó cũng nhờ Hiền huynh xem xét rồi ký tên xác nhận để lưu lại bút tích kỷ
niệm cho các thế hệ sau nầy.
Chúng tôi sẽ gìn giữ tập "Nhựt Ký Á Du" với
bút tích của nhị vị Hiền huynh Bùi Quang Cao và Nguyễn Minh Nhựt tự Trân để sau
nầy sẽ chuyển giao cho Ban Đạo Sử của Hội Thánh. Nay kính.
Cựu Tốc Ký Viên Bùi Quang Hòa, Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng