Trang

Thứ Hai, 20 tháng 1, 2025

5610. Trò ảo thuật lịch sử của Hội Đồng Pháp Môn Cao Đài Chiếu Minh.

 

Trò ảo thuật lịch sử của Hội Đồng Pháp Môn Cao Đài Chiếu Minh.

Dương Xuân Lương.

Tạp chí Liên Giao Cao Đài đăng bài viết 205 chữ của Hội Đồng Pháp Môn Cao Đài Chiếu Minh (1), mở đầu viết: Sau khi thực hiện sứ mạng khai đạo của mình qua sự truyền trao Thánh tượng và hoàn chỉnh cơ bút Cao Ðài cho các nhà Tiền Khai bên cơ phổ độ, từ tháng 04 năm 926, Ngài Ngô nhất định không lãnh ngôi vị Giáo Tông để tiếp tục con đường tu luyện theo pháp môn "vô vi" (2) (Hết trích)

Trích đoạn trên đã phủ nhận sử liệu của Pháp môn Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi viết trước đây. Do tham vọng bất chánh hay do động cơ nào mà quý vị phủ nhận tiền bối của chính quý vị và xúc phạm Đạo Cao Đài?

KÍnh mời xem thêm

https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2025/01/5570-tu-la-la-sua-chieu-minh-tam-thanh.html#more

1/- Đối chiếu pháp lý hai tổ chức.

Xin trình ra hai pháp lý xã hội và tôn giáo.

Pháp lý xã hội. Đức Cao Đài Thượng Đế dùng cơ bút lập ra Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ (ĐĐTKPĐ) nói tắt là Đạo Cao-Đài vào năm 1926 tại Chùa Gò Kén, Tây Ninh. Sắc Luật pháp nhân 003/65, công nhận danh hiệu trên theo Hiến chương năm 1965 của Hội Thánh Cao Đài.

Năm 2010, Ban Tôn giáo Chính phủ trao Quyết định công nhận tư cách pháp nhân cho Pháp môn Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi; tại Thánh Đức Tổ Đình (quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ).

Pháp lý đạo. Pháp môn Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi không sử dụng Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, Đạo Luật, Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, … là những văn kiện cơ bản của Đạo Cao-Đài, nên hai tổ chức độc lập nhau là rõ ràng.

2/- Đối chiếu lịch sử cơ bút Đạo Cao Đài và Ngài Chiêu.

Trong một đàn cơ thì đồng tử phò cơ là quan trọng nhất, không có đồng tử thì không có đàn cơ; và Đại Ngọc Cơ là hình thức phò cơ cao nhất trong Đạo Cao Đài.

2.1/- Đồng tử ĐĐTKPĐ sử dụng Đại Ngọc Cơ (01-10-1925).

Ba vị tiền bối của ĐĐTKPĐ là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang là những đồng tử quan trọng bậc nhất của Đạo Cao Đài, biết sử dụng Đại Ngọc Cơ từ 01-10-1925.

Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu viết trong Đại Đạo Căn Nguyên trang 29, bản năm 1930: … nên vào lối thượng tuần tháng tám, năm Ất Sửu, một vị Tiên Cô xưng là Thất Nương nhập bàn dạy phải kiếm Ngọc Cơ mà dùng. Ông Cư hỏi thăm mượn được cơ của ông ký Tý (cũng ở đường Bourdais) …

Pháp môn soạn sách Lịch Sử Quan Phủ Ngô Văn Chiêu (LSQPNVC) trang 31, bản in 2006 viết: … Rồi kế đó có vị Tiên cô xưng là Thất Nương dạy phải kiếm ngọc cơ mà dùng cho tiện.

Nhơ sự giải thích và dẫn dắt của Tiên Cô lần lần các ông tin tưởng, tôn kính Thần-Tiên. Tiên-Cô còn nói có thể cầu được Đức Kim-Mẫu nhưng phải trai giới 3 ngày. Tiên-Cô lại chỉ dẫn cho cách phò ngọc-cơ nữa. May lúc đó mấy ông mượn được ngọc-cơ của ông Tý cũng ở chung đường Bourdais (nay đường Calmettle)....   

Lịch sử cơ bút Đạo Cao Đài và Pháp môn xác định: ba vị tiền bối ĐĐTKPPĐ biết sử dụng Đại Ngọc Cơ từ 01-10-1925 do Đức Bà Thất Nương chỉ dạy.

2.2/- Đức Cao Đài Thượng Đế dạy về Thủ cơ – Chấp bút.

Ngày 03-01-1926 (19-11-Ất Sửu): Ngọc Hoàng Thượng Đế dạy về Thủ Cơ – Chấp bút: …. Trước khi thủ cơ hay là chấp bút, thì phải thay y phục cho sạch sẽ, trang hoàng tắm gội cho tinh khiết; rồi mới đặng đến trước Bửu- Điện mà hành sự, chẳng nên thiếu sót mà thất lễ. Nếu chấp cơ phải để ý thanh bạch không đặng tưởng đến việc phàm. Tay chấp cơ cũng phải xông hương khử trược, tịnh tâm một lát, rồi phải để tinh thần tinh tấn mà xuất ngoại xác đến hầu dạy việc. Phải có một chơn-linh tinh tấn mới mầu nhiệm huyền diệu; phải trường trai mới đặng linh-hồn tinh tấn; phải tập tánh chí Thánh, Tiên, Phật mới phò cơ dạy đạo cả chúng sanh. Kẻ phò cơ chấp bút cũng như Tướng-Soái của Thầy để truyền Đạo cho thiên hạ. Các con đừng tưởng việc bút cơ là việc tầm thường. Còn việc truyền thần lấy điển quang, thì ai ai cũng có điển trong mình, nó tiếp điển ngoài rồi thần của nó viết ra, có khi trúng, có khi trật.

Vậy khi nào chấp cơ phải đợi lịnh Thầy rồi sẽ thi hành. (TNHT Q1 trang 6, bản in năm 1972.)

2.3/- Ngài Chiêu đến hợp tác sau ngày 28-01-1926 (15-12-Ất Sửu).

Đại Đạo Căn Nguyên trang 31, 32: Mãi đến ngày mồng năm tháng chạp, năm Ất Sửu (28 Janvier 1926) ở Saigon, Đức Thượng Đế giáng cơ dạy hai ông Cư Tắc đem cơ vô nhà ông Trung (Cholon, Quai Testard) cho Ngài dạy việc…. Cách đâu ít ngày, Thượng Đế giáng cơ dạy mấy ông Trung, Cư, Tắc, Sang, Hậu, Đức phải hiệp với ông phủ Ngô Văn Chiêu mà lo mở Đạo. Ngài lại dạy rằng mỗi mỗi phải do nơi ông Chiêu là Anh cả….

Sách LSQPNVC trang 40 viết: Một hôm vào hạ tuần tháng chạp năm Ất Sửu Đức Cao Đài Thượng Đế giáng cơ dạy mấy ông Trung, Cư, Sang Hậu, Đức phải theo lịnh Đức Thượng Đế lại chung hiệp với quan phủ Ngô Văn Chiêu mà lo mở đạo. Đức Cao Đài Thượng Đế lại dạy rằng mọi việc phải do nơi Chiêu là anh Cả…

 Như vậy cả hai nguồn đều xác định rằng sau ngày 28-1-1926 (15-12-Ất Sửu) ĐĐTKPĐ và Ngài Chiêu mới hợp tác nhau. Từ trước đó ba vị đồng tử ĐĐTKPĐ được Đức Bà Thất Nương dạy về cách phò Đại Ngọc Cơ, Đức Thượng Đế dạy về tầm quan trọng của cơ bút.

2.4/- Kết luận về lịch sử cơ bút (từ 01-10-1925 đến 28-01-1926).

Ba vị đồng tử ĐĐTKPĐ được Đức Bà Thất Nương dạy sử dụng Đại Ngọc Cơ 120 ngày trước khi Ngài Chiêu hợp tác (01-10-1925 so với 28-01-1926).

Ba vị là đồng tử được Ngọc Hoàng Thượng Đế dạy về Thủ cơ – Chấp bút 25 ngày, trước khi Ngài Chiêu hợp tác (03-01-1926 so với 28-01-1926).

Ba vị tiền bối ĐĐTKPĐ là đồng tử, là phần quan trọng nhất trong đàn cơ; ngài Ngô không phải là đồng tử.

Kết luận: HĐPMCĐCM viết… Ngài Ngô hoàn chỉnh cơ bút Cao Ðài cho các nhà Tiền Khai bên cơ phổ độ là vô bằng chứng và trái ngược với những sử liệu của chính Pháp môn viết ra nên đó là trò biểu diễn ảo thuật về lịch sử trước xã hội.

3/- HĐPMCĐCM không hiểu cơ bút Đạo Cao Đài và cơ phổ độ.

Châu Tri số 42, ngày 01-02-1932 của Thượng Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh phân rõ cơ bút ĐĐTKPĐ có bốn diện:

Cơ lập Đạo (Enseignements religieux) do hai ngài Cao Thượng Phẩm và Phạm Hộ Pháp phò cơ, còn gọi Cơ Phong Thánh.

Cơ Pháp (Législatìon – Sacerdoce) do hai ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu và Hiến Pháp Trương Hữu Đức phò cơ.

Cơ Phổ độ (Propagande de la Foi), do hai ngài Thượng Sanh Cao Hoài Sang và Cao Mỹ Ngọc là Bảo Văn Pháp Quân phò cơ.

Cơ Bí pháp (Enseignements ésotériques) do hai ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa và Tiếp Pháp Trương Văn Tràng phò cơ.

Theo đó cơ bút ĐĐTKPĐ có 4 diện mà cơ phổ độ là một trong bốn diện ấy. HĐPMCĐCM viết: Ngài Ngô hoàn chỉnh cơ bút Cao Ðài cho các nhà Tiền Khai bên cơ phổ độ… là không biết rằng cơ phổ độ chỉ là một phần trong cơ bút của ĐĐTKPĐ; do không biết nên mới đánh đồng ĐĐTKPĐ là cơ phổ độ. Các vị gán cho Ngài Chiêu hoàn chỉnh cơ phổ độ điều mà chính các vị không hiểu.

4/- Thiên nhãn ĐĐTKPĐ khác với Thiên nhãn Pháp môn.

Thiên nhãn Pháp Môn: Ngài Ngô Văn Chiêu được Tiên Ông cho thấy vầng hào quang như con mắt và dạy vẽ lại để thờ từ năm 1921 (LSQPNVC trang 33, bản in 2006).

Thiên nhãn ĐĐTKPĐ: Đức Cao Đài CHỈ GIÁO cho các vị bên ĐĐTKPĐ vẽ thiên nhãn để thờ.

4.1/- Đạo Sử Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, bản in 1972, Q 2 trang 178: Ngày 16-01-1927 (13-12-Bính Dần) là ngày dâng Tân Luật. Đức Lý Giáo Tông dạy:

Thượng Trung Nhựt, nhưng mấy miếng Thiên Nhãn Hiền Hữu cũng nên thâu nạp cho đẹp lòng Thầy... Cười....

Chiêu khẩn vái thường ngày ăn năn sám hối, lo tận tâm cùng chư Hiền Hữu hành Ðạo.

Thầy xin Lão tha, song tha sao cho tiện, nếu chẳng giữ nghiêm, Ðạo phải loạn.

Lão chẳng tha, nhưng mà Thiên Nhãn chư Hiền Hữu thâu dụng đặng cho thuận theo Thánh ý, lại cũng chỉ rõ cho đời hiểu rằng chư Hiền Hữu đã mang hàm oan buổi trước vậy. (Hết trích).

Năm 1927 Ngài Ngô Văn Chiêu còn tại thế (đến 19-4-1932 mới liễu đạo), chính Ngài Chiêu hối lỗi và dâng Thiên Nhãn cho nên Đức Lý Giáo Tông mới dạy như trên.

Tìm hiểu đoạnlại cũng chỉ rõ cho đời hiểu rằng chư Hiền Hữu đã mang hàm oan buổi trước vậy là hàm oan việc gì?

Căn cứ vào đoạn trước đó: nhưng mà Thiên Nhãn chư Hiền Hữu thâu dụng đặng cho thuận theo Thánh ý, thì có nghĩa là hàm oan nầy liên quan đến Thiên Nhãn.

Hàm oan liên quan đến Thiên Nhãn đó chính là ngôn luận vô căn cứ theo kiểu của HĐPMCĐCM viết: Ngài Ngô Văn Chiêu trao truyền Thiên Nhãn cho các vị bên ĐĐTKPĐ.

4.2/- Bút ký của Ngài Bảo Văn Pháp Quân, Cao Mỹ Ngọc viết năm 1938. Bút ký, quyển 1, trang 11, THIÊN NHÃN: Bởi có điều thâm u huyền bí trong ấy, nên buổi khởi khai mối Đại Đạo, Đấng Chí Tôn CHỈ GIÁO cho năm ba vị hướng đạo phải vẽ Thiên nhãn mà thờ Chí Tôn (hết trích).

Chữ CHỈ GIÁO trong đoạn Đấng Chí Tôn CHỈ GIÁO cho năm ba vị hướng đạo phải vẽ Thiên nhãn mà thờ Chí Tôn… có nghĩa là chính Đức Chí Tôn dạy vẽ Thiên Nhãn để thờ, không phải dạy coi theo Thiên Nhãn của Ngài Chiêu.

Tóm lại: Thiên nhãn ĐĐTKPĐ và Thiên nhãn Pháp môn khác nhau, không có việc Ngài Ngô Văn Chiêu trao truyền Thiên nhãn như HĐPMCĐCM viết.

5/- Hạnh đức người tu: Biết tự sửa mình.

Ngày 26-4-1926 có cuộc Thiên phong đầu tiên của ĐĐTKPĐ ở đường Tổng Đốc Phương, nhà ông Lê Văn Trung, Ngài Chiêu đến thấy đông người thì bỏ về không tham dự. Sau đó tách hẳn ra. Như vậy thời gian hợp tác chưa đầy 3 tháng (28-01-1926 đến 26-4-1926)

Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu, Đạo Sử Q 1 trang 94 viết: Ông Ngô Minh Chiêu đáng lẽ phải đắc phong Giáo Tông chánh vị, nhưng tiếc thay ngày lập Ðàn Thiên Phong ông Chiêu đến thấy đông người ông sợ bỏ ra về, vì vậy mà ông không được phong Giáo Tông, và về sau mất hẳn phẩm. (Hết trích).

Tờ Khai Đạo với Chánh phủ Pháp (29-9-1926) không có tên Ngài Chiêu.

Lễ Khai Đạo tại Chùa Gò Kén (18-11-1926) Ngài Chiêu không có mặt.

Trong hai trích dẫn về thời gian Ngài Chiêu đến hợp tác với ĐĐTKPĐ (28-01-1926) Tôi trích dẫn luôn câu: Mọi việc phải do nơi Chiêu là anh Cả; bởi vì khi đó Thầy định ban phẩm Giáo Tông cho Ngài Chiêu. Nhưng chính Ngài Chiêu KHÔNG NHẬN trách nhiệm Giáo Tông và sau đó tách biệt hẳn với ĐĐTKPĐ. Hiểu theo pháp lý xã hội là hợp đồng của Thầy và Ngài Chiêu không thành.

Ngày 16-01-1927 (13-12-Bính Dần) là ngày dâng Tân Luật. Đức Lý Giáo Tông dạy: Chiêu khẩn vái thường ngày ăn năn sám hối, lo tận tâm cùng chư Hiền Hữu hành Ðạo. Thầy xin Lão tha, song tha sao cho tiện, nếu chẳng giữ nghiêm, Ðạo phải loạn... (hết trích). Hiểu theo xã hội là Ngài Chiêu muốn mở lại hợp đồng nhưng Đức Lý Giáo Tông không chịu.

Hai trích đoạn từ Đạo sử trên đây cho thấy Ngài Chiêu biết dùng bi trí dũng để tự xét mình, dám thú nhận sự thật: do sợ quyền đời mà không làm tròn trách nhiệm Anh Cả của Thầy giao phó nên khẩn vái thường ngày ăn năn sám hối, lo tận tâm cùng chư Hiền Hữu hành Ðạo … Biết lỗi và nhìn nhận cái lỗi; đó là cái gương rất sáng của người tu để lại cho hậu thế, rất đáng được kính phục.

Tiếc thay! Buồn thay! HĐPMCĐCM không nhận ra gương sáng về bi trí dũng của ngài Chiêu lại viết: Sau khi thực hiện sứ mạng khai đạo của mình qua sự truyền trao Thánh tượng và hoàn chỉnh cơ bút Cao Ðài cho các nhà Tiền Khai bên cơ phổ độ, … là văn bút vô bằng chứng của quý vị đã đưa Ngài Chiêu vào trường ngôn luận rất đáng tiếc cho Ngài Chiêu và với cả những người kính trọng Ngài Chiêu. Tôi kính trọng bi trí dũng của Ngài Chiêu nên buộc lòng phải làm rõ ra.

Ngày nay HĐPMCĐCM do sợ cái gì hay do hám vọng danh lợi quyền bất chánh mà có văn bút trên? Nếu quý vị muốn học theo Ngài Chiêu thì nên thú nhận sự thật trước xã hội.

Thầy là Trời là Cha cả sao lại xin với Đức Lý là Anh Cả?

Thầy lập Đạo Cao Đài là lập QUỐC ĐẠO, chính Thầy dạy lập ra pháp luật ĐĐTKPĐ nên đó chính Thiên điều tại thế, Thần Thánh Tiên Phật căn cứ vào Thiên điều để hành đạo.

Thầy tuyên bố giao quyền thưởng phạt trong ĐĐTKPĐ cho Đức Lý và Đức Lý đã nhận lời thì đó là một hợp đồng có đầy đủ pháp lý. Quyền thưởng phạt nhân sự ĐĐTKPĐ trong tay Đức Lý nên Thầy tôn trọng quyền ấy, Thầy không tự tiện nên phải xin với Đức Lý, còn nhận lời hay không là quyền của Đức Lý.

Cũng như khi Thầy định phong cho Ngài Chiêu phẩm Giáo Tông mà Ngài Chiêu nhứt định không nhận là hợp đồng không thành, không có giá trị pháp lý; Thầy có buồn, có giận nhưng tôn trọng quyết định của Ngài Chiêu.

Thầy là Đấng Đại Từ Bi nên tôn trọng quyền tự do của mỗi người: Lành dữ hai đường vừa ý chọn. Đại từ bi trong ĐĐTKPĐ là để cho con người quyền tự do lựa chọn, mà trường hợp của Ngài Chiêu là điển hình.

Thầy từng dạy: Thầy vốn từ bi vô lượng, dạy các con không nghe đến chừng Thái Bạch hăm trừng thì các con lại hoảng (trích ý). Đó là bài học về một tôn giáo pháp quyền mà Thầy dạy cho môn đệ.

Tóm lại: Đức Cao Đài dạy ĐĐTKPĐ riêng biệt với Pháp môn của Ngài Chiêu. Đức Cao Đài dạy hai bên hợp tác nhau, Ngài Chiêu là Anh Cả. Sau ba tháng hợp tác Ngài Chiêu rút lui là hợp đồng không thành. Khi tách ra thì hai bên hành đạo theo tôn chỉ riêng; cả hai độc lập nhau là rõ ràng.

Tu là sửa, Thánh nhân là người có bi trí dũng để sửa cái lỗi của mình, Ngài Chiêu đã thể hiện cái gương biết sửa lỗi, nên rất đáng cho hậu thế kính trọng. Tiếc thay HĐPMCĐCM không xiển dương cái gương sáng ấy lại bịa đặt những việc vô bằng cớ./.

 

(1)/- Link: http://www.tapchiliengiaocaodai.com/gioi-thieu/hoi-dong-phap-mon-cao-dai-chieu-minh

(2)/- Mấy chữ từ tháng 04 năm 926 là thiếu số 1 nên phải hiểu là từ tháng 04 năm 1926 mới thảo luận được.

Bài đăng viết gởi ngày 01/01/1970; là điều rất đáng ngờ về thời gian.