Có một tập sách quay roneo in 3 bài diễn văn của Đức Hộ Pháp; ba bài nầy có trước khi Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt đăng tiên. BBT xin đăng lại để cùng học hỏi.
ĐHP: Á phải! Có hại thật, thật có hại cho quyền Hội Thánh, vì Bần đạo ban rộng rãi cho nhơn sanh đủ thế lực quyền hành dám kháng cự cùng quyền Hội Thánh.
Bài 3-
Ngày
15 - 8 - Quí Dậu (dl 4 - 10 - 1933).
Tại Tòa
Thánh Tây Ninh.
Đức Hộ Pháp: Ngày 15 - 8 - Quí Dậu (dl 4 -
10 - 1933).
Tại Tòa Thánh Tây Ninh.
Phàm vạn vật hữu hình tại thế đều sanh nơi nguyên do
chí thiện của cơ Tạo đoan gầy dựng và luật thiên nhiên buộc phải tăng tiến
trong đường chí thiện ấy cho đến cuối cùng, đời càng tới càng hay, vật càng
ngày càng đẹp, dầu cho phép bảo tồn mạnh mẽ buộc các loài động vật phải diệt
lẫn lấy nhau đặng giữ gìn sanh hoạt đi nữa là khi đã đặng trưởng thành, đủ trí
thức tinh thần tự bảo, nghĩa là lúc chen lấn cùng đời mà lập phẩm, mới tranh
tranh đấu đấu cùng sự hung bạo của thế tình, vì sự xung đột mà nảy sanh ác
tánh, chớ còn buổi sơ sanh vẫn giữ nguyên bổn thiện.
Chẳng cần chi luận đến vật chất, thảo mộc, vì là loại
vô năng, dầu cho cầm thú với loài người cũng chưa hề thấy, lúc sơ sanh, mà có
đủ sẵn sàng nanh vuốt. Vì cớ Thánh nhơn có nói rằng :
Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện.
Bổn thiện nhơn
sanh do đâu mà có?
Do nơi tâm lý từ
thiện của mỗi người, nghĩa là lương tâm mà ra.
Đã đứng làm
người khôn hơn vạn vật, nhờ có điểm lương tâm dìu dắt, hiểu đặng sống thác là
gì, trí tuệ cứ tìm tàng biết rằng mình ở trong không mà ra có, sống là có, thác
là không, không không có có do nơi tử tử sanh sanh; đương có rồi lại không,
sống rồi kế thác. Kiếp sống con người xem nên vắn vỏi, sống trăm năm ước đặng
bấy nhiêu người, phước trọn kiếp độ chừng xem mấy kẻ!
Khổ thì nhiều,
vui vốn ít, sống càng lâu khổ chất càng dày, khổ nội thân tứ khổ quả không sai,
cầu bất tử là cầu đày thân cõi tội. Ta nghĩ đến đó mới hiểu rằng kiếp chết là
kiếp giải khổ thì mới biết mặt cân công bình thiêng liêng nhắc không sai chạy.
Hai chữ sắc
không do tại phù sanh chi kiếp. Còn mảnh thân bảy thước lo tấn thối đặng nên
người, dứt thở ba tấc hơi, đã trơ trơ như con vật.
Vì vậy mà
tự nhiên ai cũng tỉ thân mình mà suy đoán đến thân người, gẫm cuộc đời như buổi
chợ mơi, nhóm đó rồi tan, tan rồi lại nhóm, ngày qua tháng qua, năm qua kỷ qua,
thế qua nguơn qua, cả thảy đều qua, còn buổi chợ vẫn y buổi chợ, còn cả loài
người như đám con buôn, dầu dại dầu khôn, dầu khinh dầu trọng, lao xao lố xố,
giựt giựt giành giành, lấn lấn chen chen, mua hơn bán thiệt, so đồ mà tiếc,
sánh giá mà than, giỏi lận gian năm sảy bảy sàng, tan buổi chợ góp hàng không
hết chợ. Xem bao phen đổ rổ, tính mấy lúc buông hài, vì miếng ăn mà xé mặt quàu
mày, nơi mảnh thân và bẻ tay chặt cẳng.
Ôi! Cuộc
dinh hư tiêu trưởng bày ngờ ngờ những tấn bi ai, nào tranh bá, nào đồ vương,
nào giành công nào cướp lợi, những chung đỉnh tóm thâu lúc sống, buổi chung qui
đã thấy ích lợi gì? Các cơ tạo của xác phàm đến rốt cuộc phải tiêu tan theo
kiếp chết.
Đâu là đài Tần,
đâu là đảnh Hớn, công đắp xây gầy dựng đã dường bao, nào vàng Vương Khải, nào
báu Thạch Sùng, sức tích trữ tóm thâu nay cũng vắn.
Lượn sóng đời
đưa đẩy, những công danh sự nghiệp của bậc hữu công, nêu tên tuổi lại trên mặt
thế, chẳng khác nào như nước sông mê, cuốn bèo bọt theo dòng ra khổ hải. Ngày
nay đã tiêu tan rời rã, chẳng còn roi lại đặng một vận xoáy hay một dấu tích
gì, nên làm cho khách giang hồ của tay Tạo hóa, là bậc trí thức nhơn sanh soi
thời luận thế, đã cùng lời định hay dở lợi hại dường bao, duy có nhúng tay nếm
thử nước, nơi nầy mặn, chỗ nọ ngọt, mà tìm phỏng nguồn sông trong lòng biển. Cả
cơ sở của các Đấng ấy dầu vĩ đại là dường nào, duy lưu lại đặng danh phải quấy,
nhưng chúng ta lại hằng thấy sự quấy vẫn phần nhiều, còn điều phải xem qua rất
ít.
Phải quấy, hư
nên của một đời người chỉ định đặng là khi quá vãng.
Còn quyền năng
vật dục nó lại mạnh mẽ thế nào, đè nén điểm lương tâm, khó bảo toàn Thánh đức,
làm cho Đấng xử phải cùng đời trở nên ít có, nhưng đến tận con đường sanh hoạt,
dầu trí hay ngu, dầu hiền hay dữ, lúc tinh thần thôi cảm xúc cùng đời, cận kiếp
chết rấp trút hồn, con người mới trụ được tánh linh đặng đoán xét phận mình
khôn dại.
Chính buổi ấy
gọi là buổi Chí Tôn đoán xét.
Hễ có khôn mới
có phải, còn như dại thì quấy đã đành, chí lý từ cổ chí kim vẫn y như một,
những bị tuồng thế biến dời, buộc phận con người tùy thời tùng thế, dầu người
để chí tính xử thế cho khôn, đòi phen tồn lại dại.
Bởi cớ cho nên,
muốn bảo tồn “Bổn thiện” phải xa lánh sự đời, còn như để vật dục buộc ràng, xúi
tâm ác gây nên nỗi quấy.
Hai chữ thiện ác
cũng do nơi đó mà ra.
Chúng ta hằng
thấy ít ai làm chủ sự phải quấy của đời, chỉ các Đấng Thánh nhơn (phần nhiều là
mấy vị Giáo Chủ của tôn giáo) giữ vẹn Thánh đức thiêng liêng, nhờ đào luyện
đặng điểm lương tâm đủ quyền hành năng lực, làm chủ oai nghiêm của mảnh thi
hài, lánh cương tỏa thế tình, tự giác mê mà thoát tục, nên giáo lý của mấy Ngài
dầu khác chớ kỳ trung cũng một sở hành là: Giác mê chúng sanh qui bổn thiện.
Bần đạo nói
thoát tục đây, chẳng phải nhủ chê đời mà ẩn dật, hay là luyện Bí pháp đặng lánh
trần (sic), hoặc là lên đầu non đặng hú gió kêu mưa, xuống vực thẳm đặng hô
phong hoán võ (sic), hoặc là ngồi lim dim lần chuỗi, ngủ thiêm thiếp tưởng kinh,
hoặc là đóng cửa tụng Huỳnh Đình, hớp gió khuya dòm rún (sic), các mộng pháp ấy
đã lưu lại lắm trò cười, giả dối đóng thành tuồng thành sách, mê tín dẫy đầy
vốn không cùng luận.
Bần đạo nói
thoát tục đây là khuyên lấy lương tâm làm chủ, giữ bổn thiện cho bền, dầu xác
phàm có tuổi cùng tên, nêu tên tuổi chớ quên lẽ
phải.
Thắng nổi
quyền vật dục,
Xứng đáng mặt
khách trần,
Gánh đau thương
tay đỡ tay nâng,
Khối thiện ác
sửa cân Tạo Hóa.
Giữa khổ hải đưa
thuyền Bát Nhã,
Giúp tinh thần
giải quả trừ căn,
Sấn tay trau đẹp
vẻ đạo hằng,
Lượm giảm bớt
nẻo trần gai gốc.
Đem cười để vào
nơi cảnh khóc,
Lấy lòng lành
trừ nọc đau thương,
Chốn lầm than
rải nước nhành dương,
Dứt trái chủ
trao gươm thần huệ.
Chịu khổ thế tìm
phương giác thế,
Lấy nhọc đời làm
kế dìu đời,
Biến lợi danh ra
cuộc trò chơi,
Làm phú quí
thành mồi hại thế.
Sửa bác ái ra
nên câu kệ,
Chế từ bi như
thể bài kinh.
Noi vận hành
quảng đại Chí Linh,
Góp nhơn loại
vào tình cốt nhục.
Kẻ sầu thảm cho
vui hạnh phúc,
Người vô duyên
hưởng chút ân hồng,
Trọng mạng sanh
gầy phép đại đồng,
Kỉnh vật loại
đặng mong cứu thế.
Trong cả toàn
cầu, bất cứ là dân tộc nào, những mặt vĩ nhân lưu danh hậu thế đều nhờ tự giác
nên thức bổn thiện là tu luyện trau giồi lấy điểm lương tâm trở nên minh mẫn
sáng suốt, hầu nương theo mà thật hành, nhiều cơ sở phi phàm làm cho cả thiên
hạ phải nhìn rằng, những Đấng ấy là hạng người khác tục.
Phi phàm là hành
vi khác hẳn với thế tình, mắt đời ít hay thường thấy.
Tâm thiện của
các Ngài dìu dắt dạy khuyên đặng biết người biết mình, xem đời định thế, lòng
lân tuất thương sanh đầy dẫy, hiểu đặng cái khổ của mình nên không hay ngồi xem
cái khổ của người, đã chán chịu đau đớn của mình nên không nỡ làm đau kẻ khác,
nếm đủ mùi sầu thảm nên hằng mong gỡ thảm giải sầu, ở cùng đời đặng chia khổ
với đời, lẫn theo thế mới chung thân cùng thế, lịch lãm những màu thế sự, vày
vã thân cho đặng phận con người, cân oan gia nhắc đúng mực nẻ bao mươi thì mới
biết thương đời lo cứu khổ.
Câu thành ngữ
làm phép hằng tâm của các Đấng ấy cư xử cùng đời là: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư
nhân” nghe ra rất nên mặn mòi thâm thúy.
Căn nguyên “Bổn
thiện” đều sẵn trong tánh đức của mỗi người, vì dữ hiền ngu trí cũng tùng quyền
của điểm lương tâm, bằng chẳng vậy thế không thành thế.
Pháp luật cả thế
gian để trị loài người, dầu cao thấp hay dở thế nào cũng để thức điểm lương tâm
qui “Bổn thiện”, nhỏ thì ở nơi cá nhân, trọng thì ở nơi xã hội, lớn thì khắp
toàn cầu, phép chánh trị là ép nhơn sanh tùng Bổn thiện.
Hễ còn lương tâm
mới biết phận sự của kiếp sống để làm gì, còn Bổn thiện mới hiểu yêu nhân kỉnh
vật, bằng chẳng vậy thì những phương pháp tự bảo kỳ thân đã trở nên độc
thiện, ai cũng lo tự do tự lập, còn mưu chi vĩnh bảo xã hội loài người, đời tức
nhiên ra trường chiến đấu, cạnh cạnh tranh tranh, giựt giành loạn lạc, con
người tàn hại lẫn nhau, vì sanh hoạt mà lại gầy cơ tự diệt.
Hễ cơ đời càng
khó,
Quyền vật dục
lại càng nhiều,
Phận làm người
đã khó biết bao nhiêu,
Giữa võ trụ phải
chìu theo thời thế.
Nợ cơm áo sanh
đời ra tệ,
Đạo nhơn luân
thêm thế dục hư,
Mảnh thi phàm đã
dễ chi từ,
Trong cuộc thế
thân như bèo bọt.
Dở thì chịu ăn
thừa uống mót,
Phải toan lo
sống sót cùng đời,
Một mảnh tâm
chia để mấy nơi,
Đâu dư rảnh hỏi
Trời căn sống.
Luật Tạo Hóa rõ
chi khinh trọng,
Nhẫng gởi thân
theo bóng tang thương,
Cùng khổ xem
chết sống ra thường,
Sống nhờ thế,
chết nương tay thế.
Giải ách cậy kim tiền làm kế,
Thích tình xem
khanh tể là mưu,
Bước công danh
quen lẽ nghịch thù,
Bả quyền lộc
nhuộm màu cừu hận.
Vòng cương tỏa
vào ra lẩn bẩn,
Lấy oan gia làm
phấn dồi mình,
Tên tuổi đầy
nhục nhục vinh vinh,
Nào còn nhớ tâm
linh “bổn thiện”.
Tuy là tâm lý
hằng bị quyền hành vật dục đè nén cho con người nhiều lúc quên mình, nhưng hột
giống thiên nhiên Bổn thiện đã giâm vào trí thức tinh thần, dầu bị ngọn lửa
lòng hãm áp nên sớm không nảy nở ra mầm, nếu hứng đặng giọt mưa lành hay là khổ
thủy tưới lửa lòng tắt ngọn, ắt tự nhiên phát mộng nảy chồi, rồi thỉnh thoảng
cứ lớn dần nên tàn cao cội cả, che phủ trọn chúng sanh mới gọi rằng đoạt đạo.
Đức Sĩ Đạt Ta
(gọi là Cakya Mouni nghĩa là người hiền ở xứ Cakya) lấy lòng nhơn bao trùm
thiên hạ, tầm thêm đặng chơn lý sanh khổ mà lập thành Phật giáo, nên dùng phép
đoạn trái oan, trừ nghiệt
chướng đặng làm phương giải thoát
luân hồi.
Ấy là giữa chốn
khổ não đau thương, Ngài lại đem tánh từ bi tự toại ra chuyên chế lòng phàm,
cầu sanh chúng tương thân lân ái, thật chẳng khác nào đã khổ nơi ô trược nhớp
nhơ mà Ngài đến rải mùi thơm ngào ngọt.
Ngài nhờ Lão,
Bịnh, Tử Khổ giác minh Bổn thiện, mới đoạt phương cứu khổ loài người.
Đức Lý Lão Đam
(Lão Tử hay là Thái Thượng Lão Quân) vì lòng nhơn phổ hóa thế gian nên tìm đặng
chơn lý tinh thần vi chủ, trừ khử phương dĩ vật lụy hình, định tự chủ kỳ tâm là
diệu pháp, lại lấy phước an nhàn làm cơ thoát tục.
Ấy đời là cảnh
sầu thảm khó khăn mà Ngài đến bày phép chơi hay cho giải trí, chẳng khác nào
Ngài thấy người đương ngậm đắng trươu cay, Ngài cho nếm mùi ngon vị ngọt.
Ngài nhờ quyền
hành vật dục trong trường công danh phú quí của Lục quốc phân tranh tạo ác đã
vô ngằn, nó thức minh Bổn thiện của Ngài nên hoài ái dân sanh, mới truyền
phương thoát khổ.
Đức Jésus de
Nazareth (gọi là Christ) bởi lòng nhơn cứu thế, lập nên Thánh giáo Gia-Tô, Ngài
mượn bác ái nhơn sanh đặng thế mặt Chí Tôn khai hóa, xem phổ tế chúng sanh rằng
trọng, nên chuyên lo giúp khó trợ nghèo, dỗ kẻ dữ, dạy người ngu, ngó chơn thật
mạng sanh hành thiện đạo, diệt dị đoan, trừ mê tín, dụng chơn lý để răn đời,
nhìn lương tâm là hình ảnh của Trời, lấy trí tuệ vẽ tươi Thiên cảnh.
Ngài hằng dạy
rằng: Cái khổ của thế gian là sự nghiệp của con người, phải thọ khổ mới rõ cơ
thoát tục.
Ấy đời đương giả
dối mà Ngài đem chơn thật đặng khử trừ, chẳng khác nào vào chốn náo nhiệt dữ
dằn mà Ngài đờn tiếng thanh tao hòa nhã.
Ngài
nhờ:
1/- Đạo
luật của Môisen (Mọse) : thế kỷ ấy quyền hành biến đổi nên sanh ra nhiều chi tả
đạo bàng môn, lại thế lực của Cai-phe về bên mặt phần hồn rất nên mạnh mẽ, buộc
dân Do Thái nhiều lẽ nên tà. Cả mê tín dị đoan của dân Giu-đê buổi ấy đã không
cùng luận.
2/-
Quyền luật đời, nước La Mã (Rome) của vua César nghiêm khắc hại sanh linh
đồ thán.
Những nguyên ủy
ấy khai minh Bổn thiện của Ngài làm cho Ngài phải cam tâm gánh vác cả sự đau
đớn của loài người, cũng bởi lân tuất thương sanh, chịu tử tội đặng truyền
gương thọ khổ.
Ông Khương Thái
Công gọi là Thái Công Vọng hay là Tử Nha, vâng lịnh đức Nguơn Thỉ Thiên Tôn ở
Côn Lôn sơn cầm Phong Thần bảng đến giúp nên nghiệp nhà Châu, cũng vì nhơn mà
khai minh chơn lý của quyền hành thưởng phạt thiêng liêng, giúp thế trị đặng
thêm mỹ mãn. Tôn sùng trinh liệt, trừ khử nịnh tà, mượn tinh thần làm nhuệ khí
đặng trừ tan ác nghiệt của xác thân.
Ấy là dụng quyền
phép vô hình đặng điều khiển hành tàng mặt thế. Ngài giúp cho thế gian kinh
nghiệm đủ cớ hiển nhiên rằng vạn
ác đã đào tạo của kiếp sống con
người chẳng trốn tội khỏi nơi kiếp chết. Phép thưởng phạt thiêng liêng có đủ
quyền năng cả xác cùng hồn, thế thì có trí tuệ của loài người, còn Đạo thì lại
có Thần minh ám sát.
Triết lý Thần
linh, nghĩa là quyền phép của lương tâm do đó mà lập thành căn bổn và năng lực
vận hành hiện tượng của tư tưởng cùng tùng bổn nguyên thần pháp đặng nảy sanh.
Ôi! Cũng
vì cớ quả nhiên thật sự Bí pháp nầy đây mà đời chất chứa nhiều điều mê tín.
Tuy vân, chẳng
phải chính mình Ngài làm chủ tạo phép huyền vi bí mật Phong Thần, song Ngài
biết tùng lệnh thật hành những tư tưởng cao thượng của Đức Nguơn Thỉ Thiên Tôn,
thì công ấy đủ làm đầu Thần giáo.
Đời khi ấy dường
như bị phát bối ung thư chịu đau đớn sầu than chẳng xiết, mà Ngài lãnh đặng
hoàn thuốc linh đơn thoa cho đặng lành lẽ tốt tươi mặt thế.
Ngài nhờ thấy
bạo tàn Thương Trụ và thương đạo nhơn nghĩa của nhà Châu, vua Văn Vương và Võ
Vương, giục khai Bổn thiện, nên tuổi dầu cao, tác dầu lớn, mà dám chịu nhọc
nhằn khổ cực, giúp đạo đức khử bạo tàn, thâu cơ nghiệp Thành Thang, cứu dân đen
trong nước lửa. Tuy đôi bên: Thương - Châu khác giá, mà đối với bậc trung cang
trí dõng vị quốc vong xu, Ngài vẫn giữ dạ vô tư, trong Thần vị, chỉ ngó mặt
công phong phẩm tước. Dầu điều dị đoan mê tín trong Truyện Phong Thần dẫy đầy,
nhưng ngó đến Bảng Phong Thần lẽ công chánh phải đành nhìn nhận thật.
Đức Khổng Phu
Tử, tự là Trọng Ni, cũng vì nhơn thấy đặng hung bạo của đời nên lo trù hoạch
phương châm giảm ác mới đoạt đặng triết lý chí thiện là cơ quan bảo thế. Ngài
đắc thông nên tự nhiên biết rằng cơ Tạo, nghĩa là Trời Đất và vạn vật hữu hình
phải tấn hóa lần lần cho tận con đường chí thiện (nghĩa là : người thì tận
thiện, vật thì tận mỹ) gọi là Đạo. Ngài chỉn chiếu theo sự tự nhiên hành động
tâm lý của người đời đặng làm mục tiêu chuẩn thằng đoán xét, ngoài phép trau
tâm luyện tánh, Ngài không nhìn phương pháp nào tự giác đặng Bổn thiện và kềm
chế lấy điểm lương tâm, nên không chịu tin theo lý thuyết mị thuật huyền vi mà
trí khôn ngoan của người không thấu đáo. Ngài đã thấy phép trị thế, dầu cho dân
sanh phản kháng thế nào, cũng tùng một chủ quyền chánh thể, hoặc là do nơi đông
tay xúm nhau đào tạo hay là do ở một người đã đặng mạng Trời làm chúa người
đời, cầm luật pháp trị an bá tánh. Sự quả quyết ấy đã nhìn thật toàn
cùng mặt thế.
Ngài cho chánh
trị hành tàng của xác thịt thế nào thì chánh trị tinh thần cũng vậy, nên nhìn
nhận rằng trên các chủ quyền trị thế, có quyền vô vi của Đấng Chí Tôn, Ngài gọi
là Nhứt Đại ( . . .) nên viết Thiên (. . . ) nắm trọn phép thiêng liêng thưởng
phạt. Đấng Chí Tôn ấy chẳng những có quyền năng về phần hồn mà thôi, lại cũng
đặng oai linh phần xác, lý thuyết về Trời và Người đồng trị nảy sanh ra từ đó.
Cơ nghiệp Văn
Vương qua đến Đông Châu là cùng vận, mà Ngài cố quyết duy trì, mong lòng hiệp
quốc, đem luật pháp đặng trị bình, lấy nghĩa nhơn ra khử bạo.
Ngài hiểu rõ
rằng quyền hành chánh trị chia ra có hai phần :
1. Sanh hoạt của thi hài.
2. Biến hóa về tâm lý.
Nên Ngài cho
luật pháp là cơ quan độc thiện để trị an thiên hạ, còn đạo nhơn nghĩa đủ thế
kềm thúc tánh đức của người đời, nên Ngài mới cầm nhiếp chánh nhà Châu để sở
vọng chấn hưng Vương đạo.
Thương thay một
Đấng chí Thánh như Ngài mà cũng phải chịu bề thất vọng, bởi gặp buổi đời đã quá
bạo tàn, nên cây quạt và mảnh mền là đạo nhơn nghĩa của Ngài không đủ thế quạt
nồng đấp lạnh. Ngài phải thối bước về quê, cam phận thiệt thòi, trọn đời ngồi
dạy học.
Bài tự
thán “Chi Lan” của
Ngài, ai đọc đến cũng phải rơi châu đổ ngọc.
May thay, qua
đến đời Khổng Cấp (Tử Tư) là đích tôn của Ngài, dạy đặng một trang môn đệ là
Mạnh Tử, rất nên đáng bậc triết hiền nối chí của Thánh nhân, cố mở mang Đại
học.
Triết lý của
Mạnh Tử là: tại Minh đức tại Tân dân, tại chí ư Chí thiện.
Người đi châu
lưu nước nầy qua nước nọ, lấy nhơn nghĩa đặng khuyến khích nhơn tâm, cảm hóa
khắp chư hầu, chỉnh đốn thế chuyên Vương đạo.
Thật ra các xã
hội Á Đông nầy đã nhờ ảnh hưởng công nghiệp của người lắm lắm.
Đời Đông Châu
đương sôi nổi giặc giã chiến tranh, cả ác hành sử không cùng chép, mà qua đến
đời của người thì trở lại như xưa, tin dùng Bổn thiện, thật tài chuyển thế của
Ngài rất nên siêu việt.
Nhơn đạo của
Ngài cảm hóa từ đế vương cập đến thú cầm. Khi viếng Tề Tuyên Vương, luận đến
đức thì vua nói khiêm rằng sợ e không đủ nhơn mà an giữ dân sanh. Mạnh Tử cho
rằng vua đã có.
Xin trích lục
nguyên văn ra đây cho Chư Đạo hữu lưỡng phái xem tường tận:
“Thần văn chi Hồ
Ngột viết: Vương tọa ư đường thượng, hữu khiên ngưu nhi quá đường hạ giả, vương
kiến chi, viết: “Ngưu hà chi?”
Đối
viết: “Tương dĩ hấn chung”.
Vương viết: Xả
chi, ngô bất nhẫn kỳ hộc tốc,
nhược vô tội nhi tựu tử địa.
Đối viết: Nhiên, tắc phế hấn chung dư?
Viết: Hà khả phế
dã? Dĩ dương dịch chi. Bất thức hữu chư. Viết: Hữu chi.
Viết: Thị tâm
túc dĩ vượng hỷ! Bá tánh giai dĩ vương vi ái dã, thần cố tri vương chi bất nhẫn
dã.
Vương viết:
Nhiên. Thành hữu bá tánh giả. Tề quốc tuy biển tiểu, ngô hà ái nhất ngưu? Tức
bất nhẫn kỳ hộc tốc nhược vô tội nhi tựu tử địa, cố dĩ dương dịch chi dã.
Viết: Vương vô
dị ư bá tánh chi dĩ vương vi ái dã. Dĩ tiểu dịch đại, bỉ ô tri chi?
Vương nhược ẩn kỳ vô tội nhi tựu tử địa, tắc ngưu dương hà trạch yên?
Vương tiếu viết:
Thị thành hà tâm tai? Ngã phi ái kỳ tài, nhi dịch chi dĩ dương dã. Nghi hồ bá
tánh chi vị ngã ái dã.
Viết: Vô thương dã! Thị nãi nhân thuật dã! Kiến ngưu vị kiến dương dã. Quân tử chi ư cầm
thú, kiến kỳ sanh bất nhẫn kiến kỳ tử, văn kỳ thanh bất nhẫn thực kỳ nhục. Thị
dĩ quân tử viễn bào trù dã.
Vương
duyệt viết: Thi vân : Tha nhân hữu tâm,
dư thổn đạc chi. Phu tử chi vị dã. Phù ngã nãi hành chi, phản nhi cầu chi, bất
đắc ngô tâm. Phu tử ngôn chi, ư ngã tâm hữu thích thích yên. Thử tâm chi sở dĩ hợp ư vượng
giả, hà dã?
Dịch nôm:
Hạ thần nghe ông
Hồ Ngột nói chuyện lại rằng:
Một ngày kia vua
đương ngồi nơi thềm nhà, có kẻ dắt trâu đi ngang qua. Vua thấy liền hỏi rằng:
Dắt trâu đi đâu ?
Kẻ kia thưa
rằng: Dắt đi giết đặng bôi chuông.
Vua bảo rằng:
Tha đi, ta không nỡ thấy nó sợ hãi vì vô tội mà đến chỗ chết.
Kẻ kia thưa lại
rằng: Vậy phải bỏ phép bôi chuông chăng ?
Bệ hạ
lại nói: Bỏ sao đặng, phải bắt dê mà thế
cho nó.
Chuyện ấy chẳng
biết có không?
Tuyên
Vương nói: Có.
Mạnh Tử lại
rằng: Một tấm lòng ấy cũng đủ làm đạo vua rồi. Trăm họ đều cho Bệ hạ tiếc con
trâu, nhưng hạ thần đây thì lại biết Bệ hạ vì thương không nỡ giết.
Tuyên Vương đáp
rằng: Phải, trăm họ cho như vậy cũng thật, nhưng nước Tề nầy dầu bé nhỏ, Trẫm
lại tiếc gì lấy một con trâu.
Mạnh Tử nói: Bệ
hạ cũng chẳng nên lấy làm lạ rằng, bá tánh cho Bệ hạ tiếc của, vì đem dê nhỏ mà
đổi trâu lớn thì biểu bá tánh hiểu sao? Nếu vua thương là vô tội mà phải bị
chết thì trâu với dê có khác gì nhau.
Vua Tuyên Vương
cười rằng: Nào bụng Trẫm có gì khác nữa đâu, nhưng nếu không phải là tiếc của
thì sao lại biểu đem dê mà đổi, trách sao bá tánh không cho Trẫm như vậy.
Thầy Mạnh Tử lại
rằng: Không hại gì, vì đấy cũng là một điều nhơn. Trông thấy trâu sợ mà chưa
trông thấy dê nên mới vậy. Người quân tử đối với thú cầm, thấy sự sống mà không
nỡ trông thấy chết, nghe tiếng kêu la rên siết nên không nở ăn
thịt. Bởi cớ nên người quân tử hằng lánh xa lò bếp.
Vua Tuyên Vương
rằng: Ở trong Kinh Thi có câu: Người khác có lòng ta đo đặng đấy, ấy chính thầy
như thế đó. Than ôi, việc ấy Trẫm làm đã đặng xong rồi, mà đến lúc hỏi lại,
bụng Trẫm thì thật không biết tả tại làm sao. Nay khanh nói như vậy, lòng Trẫm
thỏa thích vô cùng, nhưng không biết rằng, tấm lòng ấy sở dĩ đã hiệp với vương
đạo nơi đâu?
Tiếp sau thì Đức
Mạnh Tử luận qua Vương đạo.
Nghĩ tình cảnh
của Tề Tuyên Vương gẫm rất buồn cười: Lễ bôi chuông không dám bỏ, mà thấy đặng
sự sợ sệt của trâu đến nơi chỗ chết lại biểu tha rồi nhủ bắt dê đem thế. Nếu
thấy dê cũng tỏ dấu kinh hãi sợ sệt, chẳng hiểu Ngài sẽ biểu thế con gì, chắc
là biểu đổi gà! Trách sao bá tánh không cho Ngài là tiếc của, đem dê bé
đặng thế trâu to. Thật chánh sách trị đời cũng âu mắc mỏ.
Bỏ luật pháp thì
loạn lạc, muốn giữ nghiêm luật pháp cho bá tánh đặng thái bình thì phải trị, mà
hễ đụng chánh trị ắt có kẻ vừa lòng mà cũng có người mếch dạ. Bởi cớ nên các
Đấng Thánh nhân ham giáo hóa hơn ưa chánh trị.
Đức Khổng Phu Tử
cũng nhờ ác hành Đông Châu Liệt Quốc trong trường chiến đấu đua tranh, công
danh quyền lợi nó giáo minh Bổn thiện của Ngài, mới đắc pháp cao thâm chí
thiện.
Những triết lý
Thánh hiền, dầu cổ dầu kim cũng thế, cốt để dìu dắt nhơn sanh đi thong
thả trên con đường lành cho cùng tận, đặng phục nguyên Bổn thiện của mình, các
tôn giáo gọi tên là Đạo.
Ngày nào Bổn
thiện đã phát minh thì cảm hóa chúng sanh rộng thế : hèn thì làm cho một gia
đình thiện hành gia pháp; trọng thì giúp quốc gia xã hội, thiện hành quốc
chánh; còn tối đại thì làm cho toàn thiên hạ đặng thiện giáo hiệp chủng đại
đồng.
Ấn Độ thuở trước
tin thờ lý thuyết đa Thần (Polythéisme) vì tư tưởng cổ nhân thường hay ngó cả
quyền năng Tạo hóa mà so sánh cùng mình, bởi thế mà cho các quyền lực vô hình
cũng có đủ khôn ngoan cùng sự quyết định.
Sau, tư tưởng ấy
lại trở xu hướng về Đấng Chí Tôn, dựng căn bổn cho Đạo Bà La Môn (Brahmanisme)
từ thử.
Tạo hóa càn khôn
sanh ra do một chủ quyền của Trời. Trời lập nên đời vì ái, mà ái kia pha lẫn
cùng tình, Ngài tạo gọi là Brahma, Ngài diệt gọi là Siva, Ngài bảo tồn gọi là
Vichnou, ấy mới gọi Chí Tôn Tam Thế (La Trinité).
Vì thuyết phân
tánh giáng sanh ấy nên cho các đẳng linh hồn đều phải luân hồi chuyển kiếp,
luật thiên nhiên định cho mỗi linh hồn trong càn khôn thế giới phải tùng theo
hình trạng và bậc phẩm sanh hóa của mình, đặng đi mãi tận đường tấn hóa.
Đạo Bà La Môn
dạy phải thiện niệm, phải hạ mình, phải nhỏ nhoi, phải kiên nhẫn, tha thứ tội
người, thương yêu kẻ yếu, cung kỉnh phụ nhơn, khoan dung vật loại.
Tiếc thay một
nền tôn giáo cao siêu như vậy mà cũng đã làm cho chia phân đảng phái, gieo lắm
lẽ bất bình trong nền phong hóa, rồi lại giúp những tay hành đạo độc chiếm
quyền hành, nhưng cũng vì nhờ đó mới có Thích Ca ra chuyển Đạo.
Ấy là một tôn
giáo đã dìu đường và đã lập vị cho Phật.
Lý thuyết của
ông Zoroastre nước Perse lại không nhận rằng chỉn có một quyền Chí Tôn tạo thế,
mà đời lại do nơi cơ quan tương đối mà sanh ra, cũng như cả càn khôn thế giới.
Đời ở nơi ánh sáng và bóng tối (Dương quang và Âm quang), sự thiệt cùng sự giả,
sự lành và sự dữ pha lẫn với nhau mà biến hình.
Ormuzd là hình
trạng của lành lấy tư tưởng Tạo hóa nên đời, vì lời phân định, cho ngôn ngữ là
quyền năng cảm xúc của sự thật và trí lực khôn ngoan.
Ahriman là hình
trạng sự dữ và sự tối tăm gọi là vật sự. Sự lành phải càng ngày càng tấn bộ
đặng tiêu trừ sự dữ, cho nên Ormuzd thế nào cũng đặng đắc thắng mà thôi.
Giáo lý
Zoroastre tùng y tư tưởng ấy nên cho rằng thiện tâm là sự thật. Hành tàng sự
thật hoạt động ra ngoài, là chơn chánh trong lời nói và thanh bai trong việc
làm.
Bởi cớ nên quốc
dân nước Perse (nước Ba Tư cổ) tín ngưỡng tôn trọng sự thật thà và sự thanh bai
chơn chánh, gọi là hình bóng linh quang hữu vi với linh quang vô hình, nên lấy
lửa đặng làm đạo hiệu. Triết lý nầy giống mỉa mai triết lý của Đức Lão Tử.
Dân Celtes và
dân Gaulois là nguồn cội dân Pháp gọi là Druides, truyền một giáo lý y theo
tánh đức của Gaulois là trọng nhơn, ái nhân và thị tử, tánh nghĩa hiệp cho là
đầu các tánh đức, vì gồm trọn cả ba tánh đức trên kia. Lý thuyết nầy giống nửa
phần của Đức Khổng Phu Tử.
Triết lý dân
Hébreux là thỉ tổ của nước Do Thái thì nói Đức Chúa Trời là quyền năng tự do tự
chủ. Trời sanh muôn vật do quyền tự chủ của Ngài. Trọn loài người cũng vậy, đều
sản xuất nơi phép tự do, hoặc là phải vâng lịnh, hay là không vâng lịnh, cũng
rộng để quyền người tự chủ. Theo giáo lý ấy, cả thảy đều nơi quyền hành của
Trời đã định trước và ban cho mà gầy nên phận sự. Đạo của con người đối cùng
Trời thì vẫn là vô hình, trả vay thưởng phạt chỉ ở tại thế mà thôi.
Đạo ấy dạy phải
thương yêu và nhơn đức với người. Điều chi mình không muốn ai thi thố với mình
thì đừng xảo dụng đối cùng kẻ khác (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân). Thế trị của
đời phải do Thiên lý, phẩm vị cao trọng vua chúa kể như hình phạt thiêng liêng.
Triết lý dân
Grecs thì cách trí và cách vật học của mấy vị hiền triết Sophiste, kế sau có
Socrate, Platon, Aritote, l’ Épicurisme, le Stọcisme, rồi tới học đường
Alexandrie và triết lý Gia Tô giáo.
Cách vật học hay
là thuyết Sonienne, khi tìm tàng đặng thấu rõ cơ quan vạn vật, toàn thể của vật
chất thì biểu rằng muốn thuyết minh ra đặng, chỉ cậy nơi tư tưởng. Ông
Héraclite nói rằng: tư tưởng ấy cũng do nơi hình thể mà có, nên cho rằng,
chẳng điều chi có sẵn, cả thảy bởi biến thành. Chi chi cũng qua, qua rồi thì
tuyệt, con người không tắm nơi một dòng nước đặng hai lần.
Linh hồn chúng
ta là một điểm linh quang của Chí Tôn, song đặng biết suy đoán, nó có thể hiệp
một cùng sự chơn thật đặng, là khi nó đã đồng tánh cùng thế giới càn khôn,
nghĩa là cùng Đấng Chí Tôn Tạo Hóa. Dạy phải kiên nhẫn và chịu mọi điều khổ
não, ấy là luật thiên nhiên đối phó cùng đời.
Linh hồn chết
tại nơi thể chất chớ nó hằng sống nơi cõi vô hình. Các xã hội cũng phải như
người, lấy toàn cầu làm căn bổn, và lập luật phải tùng theo hình trạng của
chánh trị càn khôn.
Ông Anaxagore để
tư tưởng ra ngoài vật chất và hơn vật chất, nên nói tư tưởng hành động khỏi
ngoài hình thể. Sự khôn ngoan biết hết những điều đương nhiên và vị lai lại làm
cho hoạt động hiển nhiên cả thảy.
Cách trí học thì
nơi Pythagore truyền giáo. Theo Ngài thì sự cùng luận của vạn vật là do tổng số
của nó đã lập nên đời hiện hữu. Linh hồn là một phần số trong hằng hà sa số ấy,
có riêng năng lực hoạt động một mình. Đạo đức là điều hòa nhã, luật hình là cơ
thể tương giao, tình bạn
tác là hình đồng đẳng.
Triết lý của mấy
vị hiền triết Sophiste thì đem tuyệt đối và chơn lý ra thay thế cho tương đối
và ước thể. Họ quyết định rằng, sự thật mà đặng là nhờ người biết làm cho nó ra
thật, chớ kỳ trung chẳng có chi thật.
Trong phong hóa
thì các Ngài lại đem hiền đức tương đối là điều đẹp đẽ và hữu dụng mà thay thế
cho tuyệt đối.
Theo phép chánh
trị thì các Ngài lại thế ý tương đối cưỡng hành vào ý tuyệt đối quyền lực. Làm
đầu các Đấng triết hiền ấy là ông Protagores và Gorgias.
Ông Socrate còn
xuân thời vốn là nhà hóa học và thiên văn. Ngài cũng như ông Anaxagore cho
rằng, thật sự của càn khôn không ở nơi trạng thái mà lại do nơi tư tưởng. Ngài
lại cố tìm hiểu sâu xa hơn ông Anaxagore.
Sự khôn ngoan
chỉ kiếm có một nguồn lành. Tánh tầm thiện là của trí khôn ngoan và tài tình xu
hướng. Triết lý nầy là căn bổn của đạo ông Socrate làm tâm pháp.
Cách luyện đạo
của Ngài về tinh thần chia ra hai phần :
1/. Là
đem điều kỳ dị của giả pháp mà so sánh cùng sự thượng đạt của chơn pháp.
2/. Là
phép Thần sản (phương pháp giục tinh thần biến hóa).
Phương pháp sau nầy
dạy cách thế học hỏi thế nào cho sự thật của tinh thần giấu giếm ấp yêu biểu
lộ, hoặc là minh tra mình, hay là cầu người khác dùng phương vấn khảo.
Luyện pháp ấy mà
đoạt thành là do nơi công nghiệm và tổng luận.
Ông Socrate góp
mọi điều vào tư tưởng cả thảy, vì Ngài là nhà tư tưởng thượng đạt. Trong pháp
môn tư tưởng sản xuất pháp môn hành động, và nảy sanh phong hóa xã hội. Ai đã
tùng theo tư tưởng mình và sắp đặt đủ trật phẩm thứ tự, xử sự hay, chê điều dở,
thì chẳng hề phản đối lại cùng tư tưởng khi đã biến hóa việc làm.
Do đó mà tầm
nguyên của tài tình trí tuệ và thật dụng lấy nó, vì đã chỉ rõ rằng sự ham muốn
hằng tìm những điều của trí khôn ngoan định cho là phải.
Chẳng có một ai thật
lòng muốn dữ.
Triết lý của Ngài
cho cả thảy mọi điều (nghĩa là trọn tâm lý của đời) cũng do bởi tài tình trí
tuệ.
Ngài hằng khuyên
phải học lành đặng làm lành, hễ dạy thì người sẽ trở nên lành đặng. Người lành
cần phải thông minh và đạo đức.
Đạo duy có một,
tuy thể hình dầu nhiều mặt, duy khôn ngoan hiền ngõ mới có can đảm và điều hòa,
rồi lòng công bình nương theo mà hiện tướng, có công bình thì tự nhiên mới có
thật hành phước thiện (ấy là đạo của xã hội), hành phước thiện đặng mới để tâm
lân tuất thương sanh (ấy là mặt chơn đạo).
Thuyết của Ngài
về hình trị thì chiếu theo mặt luật thiên nhiên, nghĩa là cho luật tự tả, không
hơn tâm luật.
Ngài cho tâm
luật không thể tự tả, vì nó là luật tự nhiên và của Đấng Chí Tôn sở định, cho
nên chẳng sai sót bao giờ. Bởi cớ nên chư vị hiền triết Sophistes hằng đem cơ
thể Tạo đoan mà đối cùng Thế luật.
Thiệt luật là sự
tự nhiên của mình, ấy là khối khôn ngoan của mình vậy.
Lòng phước thiện
do ở nơi công bình đoán xét mà ra. Chúng ta không nên đem cái dữ mà đối cùng sự
dữ, phải tìm tòi điều lành hay là mọi sự đặng nên chí thiện. Chúng ta nên xem
cả loài người như bạn thiết của chúng ta, đặng gìn lòng nhân ái.
Trong gia đình
thì vợ cũng đồng thể cùng chồng, tuy phận sự trọng khinh đặc biệt nhưng đàn bà
nếu có phần hơn là biết giữ vẹn toàn đạo hạnh.
Cổ nhơn cho sự
làm lụng là nhẹ thể hay là hạ tiện, còn Ngài lại cho là vinh diệu và cao
thượng. Nhờ tư tưởng nầy mà ra phép giải thoát gia nô.
Chánh trị
là đặc tài của sự công bình và công ích. Những người đủ quyền đủ đức mới đáng
cầm quyền. Phương bạo tàn thắng thế và cầu may là điều hại của nền chánh trị,
do đấy mà gầy ảnh hưởng dân trị.
Bậc khôn ngoan
không dùng cái mạnh của quyền lực mà cưỡng bức kẻ khác, duy đặng quyền cám dỗ
cho thiên hạ nghe mình mà thôi (đây Ngài lại mở phép dân trị và dân cử).
Ông Platon cho
rằng tình dục của đời là ảo mộng. Thất tình cho ta thấy những điều bóng dáng,
duy có tinh thần lại từ từ tăng tiến. Tinh thần đi từ trong cõi bóng dáng vô
thường mà đến nơi chơn thật thiêng liêng vô tận (Sắc tức thị không, không tức
thị sắc, thọ tưởng hành thức, diệc phục như thị).
Theo thuyết của
Ngài về tư tưởng thì luận như
vầy:
Tư tưởng về phần
vật là tại nơi nguyên do sanh hoạt. Sanh hoạt chẳng chi khác hơn là mình hòa
hiệp và làm cho thỏa thích tư tưởng. Mỗi người phải nói rằng mình chỉ sống đặng
tương hiệp cùng tư tưởng của toàn nhơn loại, tỷ cũng như một bổn sao lục mà có
ra là tại chép in bổn chánh.
Thuyết của Ngài
về yêu mến sự lành thì nói rằng bởi đẹp đẽ hình dạng mà xúc cảm thương yêu, rồi
kế đẹp đẽ tâm hồn mới bày ra hành vi cao thượng (chỉ nghĩa mọi điều buộc phải
trọn lành, tâm hồn và xác thịt).
Về phương diện
cảm hóa, Ngài nói, đức tánh buộc phải trùng phùng cùng linh hồn về phần tư
tưởng nên tự nhiên nó phải giống Trời.
Tánh hiền lương,
tánh can đảm với tánh hòa huỡn làm cho linh hồn có mực thước, điều hòa của Ngài
gọi là tâm trung công chánh.
Công chánh bề
ngoài là những điều đã làm y theo cho có trật tự của toàn xã hội định trước.
Trong công chánh nảy sanh ra phước thiện.
Mặt chánh trị
thì Ngài lại hay lộn lạo cùng phong hóa. Mục đích chánh trị theo Ngài thì làm
thế nào cho dân đặng hiền lương và hạnh phúc.
Bởi cớ nên Ngài
định cho quyền quốc gia lớn hơn quyền dân sanh quá lẽ. Quốc gia bao gồm cả
thảy, còn dân sanh chẳng có chút gì, dầu cho gia nghiệp với gia đình, như buộc
phải thế, thì cũng nạp nhập quốc gia quyền lợi (Đó là thuyết Cộng sản của ông
Platon và chánh chung trị của Ngài).
Rốt luận, Ngài
kể hình án là cơ quan đền tội.
Ông Aristote cho
đời người chẳng phải do nghĩa lý càn khôn mà ra như ông Platon đã thuyết, mà do
nơi tự ngã. Hành động hoàn toàn của phàm thể là tư tưởng, vì nhờ tư tưởng giải
nghĩa và lập thành sanh hoạt. Sanh hoạt ấy là tư tưởng. Sự hành động thật của
con người chẳng phải duy có hoạt động lợi sanh, hoan lạc trong những điều
thường hành của bậc thường nhân mà thôi, mà là thật hành sở định của trí lý hay
là của tư tưởng hoàn toàn.
Thuyết tự ngã
của Ngài phân ra:
1/. là
hạnh đức triêm nghiệm. Hạnh đức đứng đầu là triêm nghiệm chơn lý hay gọi là
khôn ngoan của trách nhiệm.
2/. là
hạnh đức năng hành. Kế hạnh đức triêm nghiệm thì có hạnh đức năng hành, nó buộc
tài tình của ta tùng theo trật tự đặng giúp hay cho sự triêm nghiệm thật hành.
Hễ kể cho hạnh đức năng hành là hèn thì phải dụng trung dung làm chuẩn đích, tỉ
như can đảm là trung dung của sự táo bạo và nhát gan.
Hạnh đức năng
hành là cơ quan tranh đấu buộc con người phải ráng lực, mục đích và giá trị của
nó là cho ta đặng vui hưởng và an tịnh trong hạnh đức triêm nghiệm. Theo
thuyết xã hội thì Ngài cho lòng nhơn ái và tánh hữu giao là hai hạnh đức tối trọng.
Do đấy:
1/. là
sanh ra thuyết hữu giao nầy :
Hay hơn và mặn
nồng hơn là mình thương người, đừng để người thương mình, mình làm phải hơn là
thọ cái phải của người. Ý nghĩa bằng hữu đem ra thay thế cho chủ nghĩa bình
đẳng là vì cho người bạn của mình là mình vậy.
2/. Là thuyết
công bình:
Sự công bình
buộc phải kính trọng sự bình đẳng của mọi người. Phép công bình chia ra:
/- là mặt công bình phân phát,
/- là mặt công bình đổi chọn.
Công bình trước
thì định chia phận sự cho những hạng người dùng theo tài đức.
Công bình sau
thì định cầm đồng giá các vật đổi chọn, tỉ như trong thương mãi hay là phương chế hại.
Theo chánh trị
thì ông Aristote cho rằng, quốc gia là sự tương hiệp của những người tự do và
đồng đẳng. Ngài đánh đổ thuyết Cộng sản của ông Platon, vì người minh tả rằng,
của cộng sản ít hay đặng xem trọng mà bảo tồn, nghĩa là gìn giữ hơn của tư sản.
Ngài chia xã hội
làm hai phần:
/- là hạng người tự do.
/- là hạng người nô lệ.
Ngài nói rằng,
hạng phẩm nô lệ là tự nhiên tạo đoan đã định vậy. Rốt luận, Ngài tỏ rằng quyền
hành là của chung. Vì đó mà chánh trị dân chủ và lý thuyết giục loạn cũng do
nơi lầm lộn phương diện bình đẳng phải lẽ cùng không mà ra.
Giáo lý của ông
Pyrrhon lại để vào mặt nghi tín.
Ngài nói rằng,
khôn ngoan hơn là đừng năng định quyết và hay hơn là đừng năng xử sự.
Giáo lý của ông
Épicure quyết định rằng, cảm xúc
con người ở nơi ngũ quan mà ra. Vậy kiếp
hữu sanh ở nơi vật chất. Tánh đức chí thiện ở nơi sự vui thích vững bền chớ
không phải tại nơi sự vui thích tạm hữu và nơi kiếp thác. (Các Đấng thiêng
liêng đã bị Ngài trục xuất ra khỏi càn khôn thế giới). Ngài dạy làm phương nào
cho đặng hạnh phúc là hơn.
Triết lý thị khổ
(Stoicisme của ông Zénon và các môn đệ của Ngài cho rằng vật chất là vô năng,
còn tinh thần và trí thức là hữu năng).
Thuyết giáo các
Đấng ấy như vầy:
- a) là thuyết
tự do.
Nói rằng mỗi
người tựu trung đều có tánh tự do nên ham muốn thật của con người là ráng sức
chống cự, quyết thắng những điều ngoại trở tự do.
Trong điều ngoại
trở ấy cũng có điều cho ở nơi mình, tỉ như chí khí lớn, trong đó lại chứa trọn
tư bổn tánh chất của mình, duy có sự ham muốn của mình mới có hay, hay là
dở.
Cũng có lắm điều
chẳng phải do nơi mình, tỉ như sự giàu sang và sức khỏe là những điều của chúng
ta thích hưởng, nay là tư hưởng hoặc thật hoặc giả, nhưng chúng ta không hề
định cho hay cho dở đặng.
Tánh đức chí
thiện mới thiệt tư bổn của mình.
- b) là thuyết
đồng bào và lẽ công bình :
Sự tự do hay gọi
rằng khôn ngoan đều ở trong tánh đức của mỗi người, ấy là một cơ quan liên hiệp
cả toàn nhơn loại.
Đời vốn là một
cái đại gia đình mà thôi.
Còn quyền lực là
căn bổn của phép công bình, ấy là khôn ngoan tự tả. Tri ý về quyền lực nầy
chung qui bởi sự lộng pháp và những vấn đề nô lệ.
- c) là thuyết
chí thiện :
Chí thiện là đức
tánh làm tự lạc lấy mình.
Duy đúng bậc
hiền mới là tự do, mới là chúa xinh lịch và hạnh phúc, ngang hay là trên bậc
Thần, Tiên mà thôi. (Vô sự tiểu Thần Tiên đã đành, còn cơ quan hữu sự của đời
kia mới tính sao ?)
Thuyết ấy giúp đời
thoát vòng lục dục và trở nên vô cảm. Ngài có những bạn đồng chí là Gléanthe và
Chrysippe hiệp nhau lập những giáo đường: Ariston ở Ohio, Hérille ở Carthage,
Diogène ở Sélencie, Sénex, Epictète và Marc-Aurèle.
Môn đệ của Ngài
nổi danh thị đời hơn hết là ông Diogène.
Còn những triết
lý kim thời của các bậc vĩ nhân :
Đại Pháp thì có
ông Descartes, Pascal, Diderot, Lamettrie, Voltaire, Buffon, Montesquieu,
Turgot, Rousseau, Victor Hugo, Condorcet, Auguste Comte, Saint Simon, Fourier,
Léon Bourgeois, vv . . .
Anh quốc thì có
ông Bacon, Hobbes, Locke, Adam Smith, Bentham, Stuart Mill, Darwin, Herbert
Spencer, Nietgsche, Shcopenhauer, vv . . .
Đức quốc thì có
ông Luther, Kant, Fichte, Scheling, Hégène, Goethe, vv . . .
Chúng ta chẳng
cần kể tên môn đệ Đức Khổng Phu Tử, nhứt là trong Tam thập lục Thánh và Thất
thập nhị Hiền mà làm gì vì chưng phong hóa Việt Nam ở nơi Khổng môn mà xuất
hiện, nên ai đã biết đặng chút ít nho văn, cùng có đọc đến bộ Tứ Thơ ắt biết rõ
tánh danh các Đấng.
Còn môn đệ của
Đức Lão Tử, ngoài ra Mặc Địch, Trang Tử, Châu Tử, cũng còn lắm Đấng nối chí của
Ngài đặng mở mang Tiên giáo.
Các Đấng hiền
triết toàn cầu đều để trí thức tinh thần khảo cứu đặng tầm chơn sự sanh hoạt và
tánh đức loài người đối cùng vạn vật giữa càn khôn vũ trụ nầy. Các Ngài thường
hay so xúc cảm của mình mà đo lường sự xúc cảm của toàn nhơn loại nên đã hiểu
rõ rằng, cơ quan tương đắc đã tạo nên đời phải đi đến cuối cùng con đường chí
thiện, và cơ quan liên hiệp tâm lý chỉ nhờ bổn thiện mà thôi.
Vì vậy cho nên
dầu tư tưởng của các Ngài khác hẳn cùng nhau, mà cả thảy cùng bộ hành trên nẻo
truy nguyên Bổn thiện, rồi đền thờ của các Ngài lại cũng phải dựng trên nền Chí
thiện mới vững bền kiên cố đức tin.
Giáo lý dầu
khác, mà tinh ba Bổn thiện vốn chủ quyền, bởi vậy cả giáo lý cố tầm Bổn thiện.
Bổn thiện là gì?
Bổn thiện là
linh tâm (la conscience) của ta. Thế gian vì không phân biệt đặng bí mật của
linh quang và bổn thiện là hai phận sự đặc biệt của tâm hồn nên còn lại gọi là
lòng lành, lương tâm [từ trước].
Theo triết lý thì
lương tâm là sự hay biết tự nhiên, lẹ làng mau chóng của ta tự nhiên sẵn có và
những huyền vi bí mật của tâm hồn hoạt động nơi ta.
Tánh nết, tình
ý, tư tưởng, hoài cảm, tánh đức, trí định của ta cả thảy đều là những cơ quan
của lương tâm phát tướng.
Lương tâm là
tánh chất (Thiên mạng) của ta đã có sẵn để dìu dắt giúp đỡ ta trong sự hành
động và hoạt động.
Nếu có nhiều lẽ
vô thường của lương tâm, hoặc nhiều hay là ít minh mẫn là vì bởi chúng ta chẳng
biết tùy biến hóa của nó mà tùng lịnh, nếu mỗi khi chúng ta để hết lòng hay là
ráng định trí thì chúng ta liền hiểu biết trước đặng sở hành quả quyết sẽ dường
nào.
Thấy một vật,
thấu hiểu một nghĩa lý, nhớ đặng một câu thi thì phải để trọn tâm trí đặng
thấy, đặng thâu, đặng nhớ.
Nếu chẳng phải
nhờ lương tâm, tuy vân ta không thấy đặng những vật loại, những tư tưởng, những
hoài cảm, những khoái lạc, những thương khó mà chúng ta lại tự nhiên đặng hiểu
rõ như đã thấy đặng vật, tư tưởng, đặng điều nầy điều nọ, cảm xúc đặng sự vui
sự buồn, thì chúng ta độ cớ ấy bởi đâu?
Lương tâm không
cho ta biết điều quái dị vô thường và vô vi ngã tướng (sic, như tai nạn chưa
đến mà hiểu trước đặng đỡ, mới
giải nghĩa làm sao?)
Nó đem ta đối
diện cùng thật sự hiển nhiên y theo ngã tướng của ta, trong điều hiểu chắc xúc
cảm và thi hành mọi việc.
Lương tâm là ta
đó vậy. (Đây lại cho ngã tướng và lương tâm hiệp một).
Nhờ nó mà ta
biết đặng ta, chẳng phải ngoại diện mà thôi, mà lại nội trung của ta nữa, và
chúng ta lại đột nhập vào hiệp một với chơn tướng của nó.
Nếu chúng ta vì
hoài nghi mà toan bỏ điều cảm hóa của lương tâm thì còn lại cái chi phần chắc?
Một lương tâm
không đủ làm thông suốt, đắc thông đặng là nhờ hình vật tiếp xúc cảm, phận sự
thâu đoạt hình vật ấy về phần ngũ quan và ngoại cảm. Muốn đắc thông thì những
hình vật thí nghiệm đừng mất hình tướng, lại phải gìn giữ y nhiên.
Phận sự gìn giữ
(tồn tánh) về phần trí nhớ.
Những hình vật
phải tái phục nguyên hình.
Phận sự phục
hình về trí, tưởng, hiệp tác đặng sắp đặt thế nào cho hình vật có thứ tự của
trí nhớ chất chứa, nên sanh ra phận sự chỉnh đốn của tư tưởng. Kế nữa thì quyền
hành động của trí khôn, lãnh phần lập nên trí thức, là tánh suy đoán, tánh khai
minh, tánh nghĩ nghị, vv . . .
Cả các hành tàng
ấy, dầu hành tàng cảm xúc hay là hành tàng trí thức cũng phải tùng quyền của
trí khôn ngoan, lẽ hữu tướng, lẽ quả báo, những nguyên ủy cuối cùng, những sự
buộc ràng đức tánh cùng là chơn lý, đều do nơi đó.
Kết luận: Khi
đắc thông và trí khôn chứa để chắc chắn đặng rồi, thì mới phổ truyền, phận sự
truyền tín thì về bộ tịch, dấu hiệu và ngôn ngữ.
Đạo thuyết luận
cho lương tâm hay: Linh tâm là linh quang của mỗi người (thường ngữ cũng gọi là
Tánh linh), Đại Đạo ta gọi là Chơn linh.
Trung Dung nói:
Thiên mạng chi vị tánh, nên cũng kêu nó là Thiên mạng.
Chơn linh của ta
đặng minh mẫn mà dìu dắt, đỡ che, dạy dỗ, trừng răn, kềm thúc thi hài đi trên
con đường lành là nhờ phước cao siêu của nó. (Có lẽ Thánh giáo Gia Tô gọi Thiên
Thần là vậy).
Sự cao siêu là
tổng số của các tánh linh mảy múng chúng ta đã đoạt đặng trong mỗi kiếp sanh
đứng làm người, y phép luân hồi của tạo đoan đã định vậy: Sanh sanh tử tử đặng
un đúc đào luyện tánh linh hầu mong hiệp một cùng Đấng Chí Linh Tạo Hóa.
Cả phép thiêng
liêng, dẫu điều ta quan sát hiểu biết đặng hay là còn bí mật huyền vi, đều cốt
để giúp đỡ các đẳng linh hồn đi trên đường tấn hóa cho tới ngang phẩm vị của
Chí Linh Tạo Hóa.
Vì cớ Đại Từ Phụ
nói: Thầy là các con, các con là Thầy.
Kinh
Phật nói: “Nhứt thiết chúng sanh giai
thành Phật đạo.” Lời nói tuy là nghĩa lý sâu xa nhưng chúng ta có thể tỉ
thí mà hiểu như vầy:
Chúng ta đã thọ một phần hương hỏa của Đại Từ Phụ là Nhứt điểm linh, rồi thừa
nghiệp lấy sức riêng mình, dụng tư bổn ấy lập nên gia thế (nghĩa là tu luyện,
trau giồi lấy điểm linh ấy trở nên vĩ đại và phú túc), dám so sánh sự nghiệp vô
biên Tạo Hóa. Của mình là của Đại Từ Phụ, của Đại Từ Phụ tức là của mình.
Ấy vậy, Đấng Chí
Linh là Đại Từ Phụ chiết ra nhứt điểm linh cho mình thì mình là Đại Từ Phụ, mà
Đại Từ Phụ là mình, miễn đừng để mất phần thực hương hỏa thiêng liêng, Đại Từ
Phụ lấy cho người khác (nghĩa là đừng vấn vương oan nghiệt tội tình mà hại khối
chơn linh tiêu diệt).
Quyền năng của
linh quang chẳng hề bị nhục thể đè nén đặng, vì sự hoạt động và hành động của
nó ở ngoại thi hài và lại có sẵn quyền vi chủ.
Thi hài là vô
năng, nếu thoát đặng hàng phẩm thú mà làm người là nhờ có chơn linh giúp đỡ.
Trong nhơn thân, người và thú vẫn khác nhau, vì không nương quyền lực của chơn
linh, xác thịt thú cũng huờn lại thú.
Dầu cho nhiều
phen thi hài bị vật dục cám dỗ, giác tánh còn ngang ngược lẫy lừng, ít tùng
phục lương tâm khuyến giáo, nhưng quyền vạn linh mạnh mẽ dễ đâu thua! Ôi! Nếu ai
ở đời đã bị một phen trừng trị bởi quyền lực của lương tâm mới hiểu rõ Trời cao
có mắt.
Oai linh nghiêm
khắc của lương tâm, dầu cho một quan tòa phàm nhặt nhiệm gắt gao thế nào cũng
bì không kịp, vì nó không cần kiểm soát án trạng mà cũng không hỏi chứng dựng
tang, nhưng chẳng một lẽ gian thoát khỏi.
Luật hình của
đời xử mình, nếu không có trạng sư thì cũng mình binh vực mình mà chối cãi, chớ
còn mình mà xử mình thì chắc chẳng còn ai bào chữa.
Hai quyền tương
đắc ở một mạng sanh:
1/ là
lương thiện của chơn linh.
2/ là dữ
dằn của xác thịt.
Hễ chơn linh
thắng nổi thì người đáng cao siêu, còn xác thịt lộng quyền thì ắt tinh thần sa
đọa.
Những thuyết thiện ác, tội phước, chánh tà, của các tôn giáo truyền thế chỉnh do theo thắng bại của chơn linh.
Chơn linh hằng
giữ bổn nguyên Bổn thiện của nó, đặng làm kỵ vật mới đi tận cùng con đường chí
thiện của Chí Linh.
Vô vi tướng của
chơn linh, các tôn giáo tả ra nhiều hình trạng, hoặc là cho rằng có hình dung
khí chất, hoặc cho rằng ánh sáng quang minh, hoặc là cho hữu hình tướng, hoặc
là cho hư không tướng. Cả thuyết lý đều có trúng mảy may chút ít, còn thiệt sự
thì như vầy:
Chơn linh là một
khối tư tưởng của trí thức tinh thần con người đào tạo kiếp kiếp đời đời, hoặc
cư trụ tại thế nầy hay là hiệp một với càn khôn thế giới.
Nếu ta tu đắc
kiếp, đủ quyền năng tác thành nhơn thân (nghĩa là hình trạng khí chất của ta,
còn khí chất là điển lực sanh quang [énergie de vitalité] của xác thịt) thì chơn
linh mới nhập vào mà tạo nên hình thể thiêng liêng.
Chơn linh đến
nhập xác đầu thai thế nào thì khi nhập vào hình thể thiêng liêng cũng thế, nên
gọi là phép phục sanh Thiên cảnh. (Đức Chúa Jésus de Nazareth gọi Christ đã
đặng phục sanh tại thế). Chiếu theo đạo sử thì Đức Thích Ca và Đức Lão Tử cũng
đặng như vậy.
Bổn nguyên chơn
linh là tánh chất của Chí Linh nên thường có tánh linh hiện hữu.
Ta thử so ta
cùng điểu thú thì thấy điều ấy rõ ràng. Vạn vật cũng có tánh linh nhưng mà ít
hơn vì điểm linh quang rất nhỏ hơn mình, cơ tạo lại dụng phép linh nầy đặng
định phân hạng phẩm của chúng sanh. Cả những chơn linh ấy tổng hiệp lại gọi là
vạn linh sanh chúng.
Nhờ tánh linh ấy
mà chơn linh mới soi đặng tận nơi tối tăm thấy đặng sự mắt phàm không thể thấy.
Hễ có kiến thì
có thức, kiến thức là căn bổn của trí thức tinh thần. Muốn kiến thì nhờ nhãn,
muốn thức thì nhờ trí. Ấy vậy, lương tâm (gọi là linh tâm hay chơn linh) là
Thiên Nhãn của trí thức loài người. Vì cớ mà Đại Từ Phụ dạy thờ Thiên Nhãn.
Thiên
Nhãn là hình trạng của lương tâm toàn thể, làm nền móng cho Cao Đài, nghĩa là
đền thờ cao trọng hay là đức tin lớn của Chí Tôn tại thế nầy, y như hai câu thi
của Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm (Victor Hugo) :
L’ oeil mystique seul verra la religion
nouvelle,
La grande foi gite dans la conscience
universelle.
Có Thiên Nhãn mới tường chánh giáo,
Tin
Cao Đài do đạo lương tâm.
Thờ
Thiên Nhãn là thờ tánh mạng mình và Chí Tôn, nghĩa là thờ lương tâm của toàn
thiên hạ (Le culte de la conscience).
Bần đạo đã luận
rằng, cả đạo mạch cốt yếu giác mê chúng sanh qui bổn thiện, nhưng bổn thiện của
thế gian ngày nay lửng đửng lờ đờ dường mê mẩn giấc nồng vật dục.
Đời tỉ như người
say ngủ, mơ màng trong ảo mộng Nam Kha, các tôn giáo dùng phương chước đặng kêu
thức tỉnh : ông thì lo quạt nồng đấp lạnh, chờ đã giấc tỉnh hồn, ông thì vỗ đít
đặng giựt mình, ông lại chỏ miệng bên tai kêu dậy, ông lại thổi lỗ mũi đặng dứt
ngơi, ông bỏ vật nồng vào miệng đặng cho thức nhấp.
Còn Đại Từ Phụ
đến tạo Đạo ngày nay thì tỉ như Thầy cầm nơi tay một ngọn đèn rực rỡ quang minh
(là chơn linh) mà soi vào mắt phàm tâm kêu định tỉnh.
Hại những nỗi tà
vạy, xảo trá, gian ngược, hung bạo, tàn nhẫn, đã gây oán chác thù, vì tâm ác
chất chứa tràn đời nên các đạo khó mong qui thiện.
Đại Từ Phụ đến
mở mắt linh hồn của chúng ta rồi lại biểu ta xem coi thế sự đã thế nào, lại nhủ
rằng, muốn trừ khổ của nhơn sanh, các con ráng qui nguyên bổn thiện, nên Thầy
mới dụng bác ái từ bi làm cơ quan chuyển thế.
Thầy trao phẩm
vị thiêng liêng làm thưởng vật, lại giao thiện giáo gọi bổn căn: Thiên vị thì
để thế truyền, thiện tâm nêu bí pháp.
Bởi cớ nên Thầy
dạy Bần đạo tạo linh bài đặng thúc giục thế gian hành thiện.
Chương trình ban
thưởng sẽ nấy cho quyền vạn linh định đoạt.
Bất cứ dân tộc
nước nào, chẳng kể bổn đạo hay là ngoại đạo, đã tận tâm phước thiện, dâng công
ích cho chúng sanh. Hễ có ba Hội là Thượng Hội, Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh đã
nhìn nhận rằng, có công cả với xã hội nhơn quần và đã đặng Giáo Tông phê chuẩn
thì HTĐ ban linh bài đẳng vị thiêng liêng.
Kỳ dư mấy vị
Chức sắc Thiên phong đủ bằng chứng lụy mình vì Đạo thì quyền Chí Tôn (nghĩa là
Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp đồng) mới ban thưởng ân phong công nghiệp.
Những các hạng
phẩm linh bài kể ra sau đây:
1. Thính thiện.
2. Hành Thiện.
3. Giáo Thiện
4. Chí Thiện
5. Đạo Nhơn.
6. Chơn Nhơn.
7. Hiền Nhơn.
8. Thánh Nhơn.
9. Tiên Tử
10. Phật Tử.
Từ bậc Thính
Thiện tới phẩm Chơn Nhơn thì phận sự thật hành Thể pháp đặng giúp ích cho Hội
Thánh về phương truyền giáo, nên hiệp một với Cửu Trùng Đài. Tuy các Ngài không
quyền chức đặc biệt thì mặc dầu, mà quyền hành thiêng liêng đạo đức của mỗi
người đã đào tạo tự nhiên phẩm trật.
Không phân biệt
tôn giáo nào tất cả, những Đấng Đạo Nhơn tu theo Phật giáo, Tiên giáo, Thánh
giáo, Thần giáo, Nho giáo, cùng là các tôn giáo khác nữa, nói cho cùng là các
Chi Phái tả đạo bàng môn mà đã hữu công cùng chúng sanh, lại có quyền Vạn linh
cầu thưởng và quyền Chí Tôn công nhận thì họ cũng đặng đồng quyền đồng thể cùng
Chức sắc Cửu Trùng Đài, đặng giáo hóa chơn truyền phổ độ.
Từ bậc Hiền Nhơn
tới Phật Tử, thì lo bảo thủ Bí pháp tâm truyền và nhập cùng Hiệp Thiên Đài làm
một. Chức trách của mấy vị nầy cũng không phân biệt tôn giáo nào, hoặc là tu
hay là không tu, quyền Vạn linh và quyền Chí Tôn đã công nhận cho rằng đáng
phẩm thì cũng đặng đồng thể đồng quyền cùng Chức sắc HTĐ, chung nắm quyền hành
luật pháp.
Ấy là lời ước
thuyết, còn chương trình quyết định, khi quyền Vạn linh và quyền Chí Tôn phê
chuẩn rồi thì Hội Thánh sẽ tuyên bố ban hành.
Vậy thì Đại Từ
Phụ đến khai Tam Kỳ Phổ Độ có đem theo một gia nghiệp thiêng liêng xuống thế,
rồi nắm tay các bậc lương sanh mà dắt đến một nơi vinh diệu, lại bảo rằng:
Các con phải leo cho thấu trên chót Đài Cao nầy cùng Thầy đặng xem toàn thể của
địa hoàn, ngó cho chường, suy cho quyết, rồi chung tâm hiệp trí cùng Thầy lo
liệu bề chuyển thế.
Đại Từ Phụ còn
giao nơi tay của chúng ta những phần thưởng hữu hình và quyền lực thiêng liêng
của Thầy đã sẵn sàng dành để mà
nhủ rằng:
“Của cải nầy đủ
thế lực cám dỗ nhơn sanh qui hồi Bổn thiện”.
Thừa tánh tham
của phù du thế tục, các con trao phẩm vị thiêng liêng. Do tâm dữ tranh quyền
lộc công danh, các con đổi Chí linh Bổn thiện.
Cơ quan cứu khổ
chúng sanh cũng do nơi đó.
Chúng ta phải
tưởng tượng lại coi Ngũ Chi Đại Đạo là Phật giáo, Tiên giáo, Thánh giáo, Thần
giáo và Nho giáo bây chừ chẳng khác nào như ngũ mã tranh tiên, còn Thầy đến bảo
ta làm Chủ khảo.
Ông chủ khảo
không phải là Mã Ôn, mà Mã Ôn thế nào làm chủ khảo, nên chúng ta không tùng một
đạo giáo nào mà hành chánh pháp của Chí Tôn, chỉ nắm chặt chủ quyền ngồi phán
đoán, đặng nâng cao giá trị của Phật pháp hiệp chơn truyền, mới vẹn tiếng chấn
hưng Phật đạo.
Dầu hồi buổi
chưa tu, chúng ta đã chán thấy sự hay dở của Ngũ Chi Đại Đạo là thế nào và cũng
thấu rõ lẽ chánh tà của kẻ cầm quyền hành đạo. Chẳng cần để luận những Chi tả
đạo bàng môn, dầu chánh pháp chơn truyền mà đời chế giảm sửa đương cũng đã
thành phàm giáo.
Ta đã lãnh vai
làm chủ khảo, thì buộc mắt ta phải xem cho chánh, tai phải nghe cho chánh,
miệng ta phải nói cho chánh, thân ta phải làm cho chánh, trí ta phải định cho
chánh, tâm ta phải giữ cho chánh, thì mới đủ quyền hành cầm cân công bình
thưởng phạt thiêng liêng, hiệp tâm lý đặng qui nguyên phục nhứt.
Kìa chúng ta đã
thấy chán chường dưới mắt những điều lưu hại của tả đạo bàng môn : Hoặc là theo
Nho tông, thay vì quạt nồng đấp lạnh cho đời, lại nhốt dân chúng vào hòm chôn
sống, hay là quăng vào nơi tuyết giá lầm than; hoặc là theo Thần giáo, thay vì
lo giục thức tỉnh người đời, lại sát phạt ra trường lưu huyết; hoặc là theo
Thánh giáo, thay vì kêu thức tỉnh người đời lại để miệng buông lời chửi rủa;
hoặc là học theo Tiên giáo, thay vì hòa giải cho an ổn tâm đời, lại tính kế đồ
mưu giục loạn; hoặc là theo Phật giáo, thay vì tùng phương giải khổ, lại tăng
thêm sầu thảm của chúng sanh.
Một trường náo
nhiệt đua tranh, xem mặt Đạo còn hơn mặt thế.
Chúng ta đã chán
ngán những xảo mị của đời nên quyết tầm chơn, nương theo Từ Phụ.
Bần đạo thấy
đặng một lẽ phi thường không phương hiểu, nghĩa là những trang đạo đức lại có
sẵn tâm tu, đã hưởng mùi chánh giáo của Chí Tôn mà còn thối gót phục tùng tả
đạo.
Thật là làm chủ
không muốn, làm tớ lại vừa lòng, tâm lý nhơn sanh vốn không cùng đoán.
Thầy đã tuyển chọn các bậc lương sanh, lập nên Hội
Thánh đặng làm hình thể của Thầy, ban cho đủ uy linh quyền thế, làm cho Hội Thánh
đủ quí hóa cao trọng đặng đáng mặt làm thầy, lập luật pháp, tuyển hiền tài,
định quyền hành, phân đẳng cấp, nhứt là luật pháp thì thật là một cơ quan độc
thiện làm cho hòa nhã liên lạc cả con cái của Thầy, hầu giảm hại chia phe lập
phái. (Thầy đã nói: Kẻ nào chia phe lập phái là kẻ thù nghịch của Thầy.)
Hễ thù địch của Thầy tức là thù địch của nhơn sanh, mà thù địch của nhơn sanh
ấy là thù địch của toàn Hội Thánh.
Đối với thù địch xưa nay, tâm phàm vốn ít hay thiện
xử. Vậy thì sự thù oán nghịch lẫn của vài vị Thiên phong trong Hội Thánh gẫm
cũng thường tình. Xin mấy vị rộng nghe ráng hiểu.
Nào dè những cơ quan pháp luật, thay vì buộc con cái
của Thầy chung hiệp cùng nhau, lại đào tạo quyền hành quí trọng nên mùi thơm,
giục cho sanh chúng tranh giành, làm cửa Đạo biến thành trường náo nhiệt.
Ôi! Sự thất vọng của Thầy rất nên thê thảm!
Hại thay mới 8 năm truyền giáo, nên nhơn sanh chưa đủ
thông luật Đạo cho cùng, bị cám dỗ nên nghe lời xảo lảo của kẻ bất lương, giúp thế
lực cho tà tâm xô chánh giáo.
Thật ra thì nhơn sanh ngày nay còn theo người chớ chưa
theo Thầy, nghe Chức sắc chớ không nghe Đạo. Nếu chúng sanh theo người thì là
theo phàm tâm, mà phàm tâm vốn một người một thể, dầu cho tánh đức của mấy vị
Giáo chủ cũng chẳng phù hợp nhau nên sanh hại chia phe lập phái.
Bần đạo thử hỏi, thoảng như Đạo phải cô thế điêu tàn,
tội trọng ấy đổ cho ai gánh?
Của cải của Trời cho nhơn sanh, nhơn sanh chê, nhơn
sanh đốt thì nhơn sanh chịu. Báu của ai phòng để dạ giữ gìn, còn của thế mà mất
đi cũng thế, miễn cho kẻ tà tâm có thế lực đôi hồi, loạn Hội Thánh đoạt vị ngôi
là thỏa vọng. (Ấy là học theo truyện Tề Thiên loạn Thiên cung đặng nài
chức Bậc Mã Ôn).
Chẳng biết những người tâm đạo mới nghĩ ra
sao?
Nè chư Đạo hữu lưỡng phái,
Xin nhớ rằng Đạo là của chung cả chúng sanh, dầu cho
ai thù ai oán, ai giận ai hờn, mưu hại lẫn nhau cũng trối kệ, chớ vì thù oán
giận hờn, ai ra tay độc phá nền Đạo thì người ấy là tội nhân của toàn sanh
chúng đa nghe.
Bần đạo hằng đặng tin tức của mấy tỉnh Hậu giang cho
hay rằng nhiều tay phản Đạo, đi khắp nơi kích bác Pháp Chánh Truyền, lại dối
gạt Pháp Chánh Truyền đầy nỗi hại.
Có nhiều Đạo hữu phản kháng hỏi: Hại tại nơi đâu? Thì kẻ phản Đạo
không phương giải rõ.
Bần đạo cũng bắt chước hỏi: Hại tại chỗ nào?
Á phải! Có hại thật,
thật có hại cho quyền Hội Thánh, vì Bần đạo ban rộng rãi cho nhơn sanh đủ thế
lực quyền hành dám kháng cự cùng quyền Hội Thánh.
Hỏi: Người đồ mưu kích bác Pháp Chánh Truyền là ai
? - Có phải một vị đại Thiên phong của Hội Thánh và những Chức sắc phe
đảng của Ngài. Chư Đạo hữu chư Đạo muội lưỡng phái tìm hiểu cho cùng thì biết
rõ ràng chơn lý.
(Ôi! Ai đã để hy vọng một ngày kia làm chúa cả
của toàn nền Đạo thì cũng lo giảm thế lực của nhơn sanh đặng dễ dỗ dễ tranh,
hầu lợi dụng lấy quyền công cử. Ấy cũng là phàm kế mà thôi.)
Cái hại thật của Hội Thánh là tại sao cho Chánh Trị Sự
một quyền hành cùng phẩm Đầu Sư nơi địa phận một làng sở tại, còn Thông Sự một
quyền Hộ Pháp, Phó Trị Sự lại giống Giáo Tông, song hành chánh nội trong một
xóm.
Lại nữa, Đạo chia ra ba quyền đặc biệt:
* Quyền Nhơn sanh : là từ phẩm Lễ Sanh, Chánh Trị Sự,
Phó Trị Sự, Thông Sự và cả phái viên toàn đạo hiệp đồng định luật lịnh phục
hành Thể pháp. Chánh Phối Sư phái Thượng làm Chủ tọa. Hội nầy có hai vị Chức sắc
Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài dự hội.
* Quyền Hội Thánh : là Hiệp Thiên Đài thì Thập nhị
Thời Quân, Cửu Trùng Đài thì từ phẩm Chánh Phối Sư, Phối Sư, Giáo Sư và Giáo
Hữu thì vâng luật pháp thi hành chánh trị, Chánh Phối Sư phái Thái làm Chủ tọa
hội nầy.
* Quyền Thượng Hội: là HTĐ thì Hộ Pháp. Thượng Phẩm,
Thượng Sanh; Cửu Trùng Đài thì Giáo Tông, Chưởng Pháp và Đầu Sư, cầm luật pháp
điều hòa đạo mạch. Thượng Hội không quyền sửa trị, duy thi hành luật lịnh Chí
Tôn, kỳ dư khi nào Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh phản khắc cùng nhau làm nền Đạo
chinh nghiêng nguy hiểm thì Đầu Sư mới đặng thống quyền nắm Đạo pháp thi
hành chánh trị. (Quyền Thống nhứt phải có đủ quyền Vạn linh và quyền Chí Tôn
hiệp đồng ban cho mới đặng). Hội nầy của quyền Chí Tôn (là Giáo Tông và Hộ
Pháp) làm Chủ tọa.
Trừ hai vị Đại Thiên phong là Giáo Tông và Hộ Pháp đã
thay quyền Chí Tôn tại thế ra, cả ba Hội công đồng mới có quyền Vạn linh đủ
phép.
Ấy vậy, Đạo có Quyền Vạn linh chớ không có Hội Vạn
linh.
Chư Đạo hữu lưỡng phái biết đặng luật nầy thì sao cũng
buồn cười cho Hội Vạn linh của Quyền Ngọc Đầu Sư buổi nọ! (Ngọc Trang Thanh, Lê
Bá Trang).
Vậy thì Hội Nhơn sanh là một quyền lực của Vạn linh,
nếu không phân trách nhậm công bình, thiếu phương thế mong chi giữ pháp.
Ôi! Nhiều Đạo đã khi rẻ chúng sanh
và chúng sanh chê Đạo cũng bởi thiếu cơ quan nầy mà chớ.
Bần đạo nhớ lại khi ban hành Pháp Chánh Truyền thì làm
cho nhiều vị Thiên phong Cửu Trùng Đài thất chí, nhứt là Cụ Lớn.
Bần đạo mới nói trên đây, đã sai một vị kia ra lập
phái đặng kích bác chơn truyền, hầu đánh đổ quyền hành Chánh Trị Sự, Phó
Trị Sự và Thông Sự, nghĩa là quyền nhơn sanh cho tận diệt. May thay có Chí Tôn
phò trợ nên không kết quả chút nào và nghe ra Chi phái ấy ngày nay đã tan tành
rời rã.
Bần đạo nghĩ cũng nực cười vì họ cũng có thế dỗ dành
cho tín đồ lầm lạc, thật là họ dụng phản gián mưu sâu đặng xúi nhơn sanh tự
vận.
Đảng phái ấy đã cả gan dám lột cổ pháp và cổi sắc lịnh
một vị Trị Sự đương bận hành lễ, liệng trước mặt của đông người, mà sao nhiều
vị tín đồ cũng không hiểu nghĩa.
Bần đạo khổ thân nhọc trí, càng lo bảo hộ quyền thế
của mỗi người, càng bị nhiều kẻ đồ mưu xúi người ơn đem trả oán. Thiệt tâm lý
của người đời rất nên ghê gớm.
Đạo là Đạo, mà ai cũng Đạo.
Thể pháp (nghĩa là ngoại dung) thì buộc,
nào là phẩm, nào là quyền hành, chớ trước Bí pháp (nghĩa là nội dung) cả con
cái của Chí Tôn đồng một bực.
Không phân lớn nhỏ, chẳng kể sang hèn,
hình tướng Chí Linh vẫn đồng một thể.
Bần đạo hằng nghe mấy vị Chức việc mấy
Họ Đạo Lục Tỉnh than rằng: Phận thiệt thòi nên
không dám trèo đèo luận biện với Bề trên Chức sắc.
Bần đạo xin tỏ rằng:
Duy bậc phẩm hèn của Đạo mới dày công nghiệp với Chí Tôn, còn có công nghiệp
thì có đủ quyền hành, có quyền hành thì có tự do ngôn luận. Cũng vì chư Đạo hữu
trong Hội Nhơn Sanh chưa hiểu rõ quyền hành nên Chức Sắc Thiên Phong lộng phép.
(Xin chư Đạo hữu lưỡng phái đọc luật cho thường, rồi kiếm hiểu).
Chúng ta chưa hề đã để ý định cho mình mẩy tay chơn
của châu thân ta mỗi phần giá, vì lớn nhỏ cũng đồng cốt nhục, dầu trọng khinh
cũng cùng một thể thân, lễ nghi kia để dỗ mắt phàm, phẩm vị nọ giục ham bụng
thế.
Chí Tôn đã dạy rằng, phải tùy theo phong hóa của các
sắc dân sanh mà truyền giáo, thì người cũng tùy Nhơn đạo lập chơn truyền, bởi
ta tham trọng thế lớn quyền, Thầy mới tạo ngôi Tiên vị Phật.
Đại Từ Phụ một hôm kia than cùng Bần
đạo rằng: Thầy không phương nào đến cùng các con khác hơn cơ bút. Thầy còn phải
trụ tinh ba chơn truyền của Ngũ Chi Đại Đạo lại mà làm cho chúng sanh hiểu Đạo
đặng dễ dàng nên phải dụng bút cơ giáo hóa.
Hễ mọi điều chi có hữu ích thì có hữu hại.
“Sau nầy Thầy e cho cơ bút sẽ hại cho
nhơn sanh mê tín dị đoan cũng bởi vì ưa ham phẩm vị. Nào là thành Tiên hiển
Phật, nào là xưng Thánh hô Thần, xúi tục tánh ham gần mộng mị.”
Lời tiên tri nầy ngày nay kết
quả.
Ta thử thầm hỏi lấy tâm ta rằng: Đại Từ
Phụ muốn cho ta ra phận sự gì? Nó ắt trả lời: Thế thì Thầy muốn cho ta thiện
niệm, thiện hành, thiện tu thiện giáo, đặng nêu gương cảm hóa người đời, còn
làm trái hẳn tôn chỉ cao thượng của Thầy mà gieo ác thì là kế Quỉ vương giục
loạn.
Hành đạo là khó, mà bảo chơn lại càng
khó, bởi đó mà phận sự của Hội Thánh rất nên yếu trọng. Nầy là mặt luật, nọ là
nhơn tâm, vẫn đôi bên phản khắc. Nếu muốn đắc nhơn tâm phải phế vong mặt luật,
còn như thi hành chánh luật ắt là thất nhơn tâm, hỏi Hội Thánh phải hành pháp
thể nào đặng vừa lòng công chúng?
Phải theo công chúng bỏ chơn truyền hay
là nắm chơn truyền đặng hành quyền cùng công chúng?
Phải quấy để lòng người suy gẫm, Bần đạo
không minh luận ra đây.
Sự vừa lòng công chúng đã hại nhiều tôn
giáo chơn chánh qui phàm, chúng ta nên noi gương ấy mà tùng theo, hay là phải
tìm đường xa lánh?
Còn như không vừa theo công chúng, người
chê bai xa lánh Đạo mới sao?
Thật là khổ! Phải cho có đủ khôn
ngoan trí thức thiêng liêng mới tìm thấy trung dung Đại Đạo.
Hạng phẩm và trách nhậm đặc biệt phân
minh của Hội Thánh có nên để cho rối loạn cùng chăng?
Nếu trật tự không vững gìn, dầu Chí Tôn
có cho Hội Thánh quyền hành cao trọng thể nào, Đạo rẻ giá bất năng vô ích.
Luật pháp cốt để giữ nghiêm trật tự của
Chức sắc Thiên phong biết phận sự mình, hiểu phẩm hạnh mình, đủ thể diện bảo an
Hội Thánh.
Hỏi những tay đã đồ mưu phá tiêu pháp luật ở nội tâm
muốn tính điều gì? Bần đạo tưởng chắc cả thảy Đạo hữu lưỡng phái nam nữ
đều đồng ý đồng thinh mà trả lời rằng: Họ quyết chắc tìm phương diệt Đạo.
Thật phải vậy đó chút. Hễ phá pháp luật
là phá giá trị của Hội Thánh, mà Hội Thánh mất giá trị thì Đạo phải điêu tàn
tiêu diệt. Bần đạo tưởng muốn hại Đạo, không có thế nào hay hơn là phá tiêu
pháp luật.
Hiệp Thiên Đài là cơ quan bảo thủ chơn truyền có nên
để cho Chức sắc lộng quyền phá tiêu pháp luật hay không? Bần đạo để cho
chúng sanh định lý mà trả lời giùm, chớ ngòi bút của kẻ biết tu chẳng nỡ để câu
ác luận. Chức sắc Thiên phong cốt để thi hành luật
pháp, chớ chẳng phải nương chánh giáo đặng làm quyền. Hễ vị nào lập thế lực
riêng thì vị ấy tự nhiên lộng pháp.
Bần đạo hằng
nghe văng vẳng bên tai những tiếng thị phi ác cảm rằng: Bần đạo binh người nầy,
vì kẻ nọ, mà không thấu rõ đủ bằng cớ binh vì.
Đã hai phen chung
chịu, trước kia với Cao Thượng Phẩm, sau nầy với Quyền Giáo Tông, Bần đạo bị
khép vào án đồng lõa đồng tình hay là án bất minh tư vị. Ôi! Miệng mối lưỡi lằn
không phương giải nghĩa.
Nhơn sanh chỉn
thấy đặng bóng dáng phương ngoài mà nghị luận, nào biệt phân đặng binh luật
pháp với binh người, lẽ thiệt hư nếu hiểu lý cùng noi thì thấy vì Đạo chớ không
vì mị.
Bần đạo đã cầm
luật pháp nơi Hiệp Thiên Đài đặng bảo an Hội Thánh thì những người xâm phạm
luật pháp, lạm dụng Đạo quyền phải đi ngang qua mặt Bần đạo hành quyền trước
đã, rồi mới toan rối loạn chơn truyền, sanh chiến tranh phấn đấu tự nhiên,
thắng Bần đạo mới mong hại Đạo.
Hại thay!
Thật ra cũng có lắm kẻ tà tâm, may nương cội Đạo đã làm điều tồi tệ đắc tội với
nhơn sanh, lại lạm hưởng phận sự bảo hộ Hội Thánh của Bần đạo phải thi hành nên
hại Bần đạo nhiều phen phải cùng chung nhục nhã.
Ôi! Phận
sự cầm cân công bình thiêng liêng của Chí Tôn tại thế, vốn không phải dễ. Hễ
muốn trọng hồn thì phải nghiêm trừng xác thịt, mà nghiêm trừng xác thịt vốn là
phương kết oán gây thù, còn trọng xác thịt, rộng thứ dung thì linh hồn sẽ tự
nhiên sa đọa, mà để các đẳng linh hồn sa đọa thì lại đắc tội cùng Thầy.
Làm cho vẹn phận
sự khó thôi rất khó!
Trách nhậm yếu
trọng ấy, chẳng phải ngồi lim dim ngủ gục mà làm cho Đạo bành trướng cả thể
dường nầy. Bần đạo nhớ lại buổi trước Đạo còn sơ khai hỗn độn, Chí Tôn lại rộng
mở cửa đặng chực rước chúng sanh, các tôn giáo các đạo chi rần rần rộ rộ, lộn
xộn lao xao, kẻ thì bán bí pháp, người tụng mướn kinh, hại chánh giáo chơn
truyền một lúc chịu ô danh trược diện.
Lo sửa sang
chỉnh đốn mấy năm trường thôi đã hết hơi, dân Việt Nam mê tín khắp nơi nơi, nào
bóng nào chàng, nào đồng nào cốt, nào bùa Tiên nào phép Phật, đã đặng hồi đắc
giá chợ đông người, bán mắc rẻ kiếm lời, lường gạt thế.
Khi ở Thủ Đức
trở về Tòa Thánh thì thấy nào là kẻ theo ông Ngọc Lịch Nguyệt, học trì thoàn
niệm chuỗi từ bi, ngồi lần hột lim dim ngủ gục; nào người thì theo làm học trò
ông Giác Hải (Hòa Thượng Như Nhãn) đánh mõ chuông tụng mãi Di-Đà, ngoài Thánh
địa thì đồng cốt lên xưng quỉ gọi ma, còn Chức sắc xúm giành nhà giựt đất.
Bần đạo cố gắng
lo trừ khử đặng bảo thủ chơn truyền, trót mấy năm tà pháp vừa yên, kế Chức sắc
tranh quyền lấn chức.
Bần đạo cũng
chẳng vì khen mà ham, mà cũng chẳng vì chê mà thối chí, sự buồn vui đã chán ngán
với tuồng đời, chẳng còn sót điều chi rằng thú vị, nay đã dâng trọn tâm hồn
cùng xác thịt cho Đại Từ Phụ, sự oán thù đã vô giá trị với thường tình, chẳng
sợ khinh, không cầu trọng.
Vị nể ai?
Vị nể đặng làm gì?
Ngảnh lại đời
thấy quí là chi, đặng mưu lợi phòng khi vị nể. Ấy vậy, đời không mến, thế không
ưa, còn sót lại chi hay thân buộc trói.
Thế thường nói:
Để cho người mà xử người thì chưa hề có công bình chánh đáng. Phải biết tận tâm
lý và hiểu trọn hành vi của người thì mới định đặng công bình tội phước.
Bần đạo xin dâng
một chuyện hiện hữu của Bần đạo đã gặp khi đổi ra làm việc tại Qui Nhơn.
Đến Bình Định
đặng đôi tháng, Bần đạo biết đặng một người đã 36 tuổi, trang nghiêm tuấn tú,
diện mạo khôi ngô, Nho văn hay Pháp văn khá, đức hạnh có, tài tình có, thật
đáng trang danh sĩ Khổng Trình. Đờn thiệt hay, thi thiệt giỏi, ngôn ngữ như
lưu, thông minh tột lẽ, rất đáng bậc phong lưu tài tử.
Bần đạo vì
thương tài kết làm bạn thiết.
Hôm nọ đến nhà
Bần đạo đàm luận suốt canh khuya, thoạt nhiên thú thật rằng người vốn tổ dạ du
quân tử. Bần đạo nghe qua ngạc nhiên sự lạ, trước thì tưởng nói chơi, sau nghe
gốc tích thuật trang hoàng thì mới biết lời chàng tỏ thật.
Tự thuật của
người như vầy:
Người gốc ở
Thanh Hóa, cha người làm quan chức Tân triều, song kỷ trưởng niên cao nên hồi
hưu dưỡng lão; mẹ thì mất sớm, để lại một em gái cùng người. Cha người tái thú
với một bà góa ở Quảng Nam, sanh đặng thêm hai gái một trai, cộng chung với 5
con riêng của bà nữa thành ra 8 mạng. Người thuật cả gian ác của bà kế mẫu đối
cùng người và em gái của người, nghe nên thảm thiết. Lịnh thân của người lại sợ
bà như hùm như hổ đáo để, nên 10 người phải tách mình đi ở mướn đặng trốn xa
cái khổ khắc của bà. Thời may gặp đặng ông chủ lại là người đạo đức hiền lương,
nên dạy học Nho văn thông suốt, còn Pháp văn và quốc văn thì người tìm tòi mà
học một mình, nhờ sáng trí và cố cần nên cũng khá.
Chí đến năm 19
tuổi, khi vừa đặng nên người, Bà kế mẫu xúi lịnh phụ đòi về đặng lo đôi định
bạn, cốt yếu cưới vợ cho người là mướn tớ rẻ chớ không phải là thương người,
đặng định gia thế cho người (điều nầy cũng là thường sự).
Tội nghiệp thay
chị vợ rủi vô duyên mà phải chịu cam khổ cùng người, vì đó nên ân nghĩa mặn
nồng, vợ chồng vốn thương nhau thật dạ.
Lần lừa ngày lụn
tháng qua, vì quen nhỏ nhẹ theo phận tôi đòi, biết chiều lụy kính nhường nên bà
kế mẫu để chút dạ thương tình, đã quá 3 năm thấm thoát. Hại thay trong 3 năm an
ổn lại sanh 3 cục báo đời, chị vợ đẻ hai trai một gái.
Miệng
ăn thì nhiều, tay làm
thì ít. Gia đình khiếm khuyết, sự nghiệp tiêu hao, bà kế mẫu tính cho rằng hai
tay của vợ chồng làm không đủ công trừ miệng của ba con, nên lập chước đuổi ra
khỏi cửa.
Chồng thì trần
lỗ, vợ cũng không lành, con đói rách lang thang mà bà đành đoạn đem dạ đuổi xô
ra ngoài ngõ. Người em gái thấy cảnh thảm khổ dường ấy nên quyết theo chung
chịu cùng anh, nào dè thêm một miệng thì hai người thêm một khổ. Chị vợ vào ăn
cắp ít nồi gạo đem theo, rủi bị bà kế mẫu thấy, chạy theo giựt lại.
Một đồng một chữ
không có, mơi cơm chiều cháo, đi làm công đặng kiếm nuôi nhau, rủi khi nọ ông
chủ mướn gây lộn không cho tiền tháng.
Chạy cơm không
nổi, cả nhà nhịn đói đã bốn năm ngày, con thì khóc, vợ và em thì than, kế cùng
lực tận, chịu không nổi, người tính ra đường toan tự tử, may sao người vợ có
tánh linh, hiểu tình cảnh chạy theo níu lại. Thiệt là khổ não vô ngằn, viết ra
không hết.
Nằm khoanh mà
chịu trót bảy ngày không có hột cơm, chẳng lẽ ngồi chờ chết cả một nhà, đến
cùng nước mới ra ăn trộm. Nhờ đã đủ trí đủ tài nên nghề dở cũng ra hay, của
Thạch Sùng cho cũng đủ xài, vàng Vương Khải độ ngày dư dả. Người nói rằng gia
nghiệp của người cũng nhờ của trộm mà lập nên, nên chính miệng người khai rằng
gia tài sự nghiệp ấy vô giá trị.
Người khai thiệt
rằng, cách 4 năm giải nghệ, nhưng lương tâm cắn rứt hằng ngày, vì hổ thẹm nên
đành xa quê lìa vức, vào ở tỉnh Bình Định gần 4 năm chầy. Nói đến đây, người
khóc dầm dề, ngồi buồn bã thảm sầu than dài thở vắn. Bần đạo để lời an ủi, đổ
thừa cho vì cảnh gian nan, đến cùng thế phải toan cùng thế. Từ cổ chí kim biết
bao mặt trượng phu quân tử gặp thất thời phải cam chịu phận hạ tiện tiểu nhơn,
cũng vì lẽ mạng tài tương đố.
Tuy nói vậy nghe
vậy chớ Bần đạo cũng không tin, nên kiếm chước đặng gần mụ vợ. (Người em gái
khi ấy đã nên gia nghiệp chồng con, cũng nhờ có tay anh giúp đỡ và cũng ở tại
tỉnh Bình Định cùng anh).
Cách ít lâu, Bần
đạo đến nhà, nào là đờn ca xướng hát, nào là cờ bạc rượu trà, nhà người đã
thành ra nhà xẹt (Cercle). Mãn tiệc đã xình xoàn, kêu vợ chàng hỏi lén.
Người vợ khóc dầm
dề thuật lại y chẳng sót, lại thêm rằng: Có một đêm chàng mang máu mủ chạy về
nhà, mảng đương lo cạy vách người ta, bị chúng chém may không đứt họng.
Ôi! Mẹ con tôi thấy hoảng, nên ó ré khóc rùm, xúm la làng réo xóm lum um,
sợ chàng chết nên không sợ tội.
Khi ấy tôi đã đẻ
thằng út của tôi bây giờ đó, tính hết thảy lũ con thành 7 đứa. Thầy không tin,
khi nào vạch lưng cậu nó (là ông chồng, vì vợ con kêu anh ta bằng cậu) thì thấy
cái thẹo dài hơn một tấc.
Chết chết sống
sống, khổ biết bao nhiêu, trên hai tháng mới là lành mạnh. May không tôi đã
phải góa, con chịu mồ côi, thân phận chúng tôi nghĩ thôi bao nả!
Bần đạo nghe đến
mà hết hồn, nếu như chàng mà phải thế nào, sắp con và vợ ra sao chẳng hiểu?
Nếu người bị ăn
trộm khi ấy biết rõ cảnh tượng nầy, đưa tay chém lưỡi dao khó xuống.
Bần đạo thử đem
vụ nầy ra trường ngôn luận, thì chắc có người không tin rằng người ấy có đủ tài
ba trí thức, nếu quả có tài thì phải có nghề, cớ sao không nghề nghiệp lại ra
ăn trộm?
Bần đạo sẽ trả
lời rằng, phải hiểu dân ở tỉnh Thanh Hóa bề sanh nhai khó dễ thế nào, mới luận
thiếu nghề là dở.
Cũng có ông nói
rằng, thà là thân ở mướn hơn sanh phương hạ tiện tiểu nhơn.
Bần đạo
lại trả lời: Ở cùng chủ bị giựt lương mới
ra thân chịu đói.
Đời mấy ai
thương khó, thấy nghèo hèn dễ ngó đến thân hèn, giàu đầu non cũng có người
quen, đói giữa chợ anh em vắng mặt, lại còn chàng quá ngặt, vợ, con, em tay dắt
tay dìu, của một nhà nào có bao nhiêu, phòng nuôi nổi cho đều mấy miệng. Một
thân dầu quyền biến, cũng có miếng mà nhai, tiền ngày có một tay, ăn hơn ngoài
8 bữa. Ai cả gan dám chứa, cả ba bốn đứa con, một miệng ăn núi lở non mòn, lựa
một lũ quả hơn gánh hát.
Cũng có cụ nói,
thà hành khất nuôi nhau hơn đi đào ngạch chúng.
Bần đạo lại trả
lời, đời mấy trang phước thiện, bố thí hiếm cho nhiều, của đi xin ngày một đặng
bao nhiêu, phòng nuôi dưỡng cho đều cho đủ.
Cũng có lão nói,
thà chịu đói khô mà chết thì hay hơn mang kiếp tà gian.
Bần đạo lại xin
nói: Một mình chàng sống thật đã không màng, còn con vợ khốn nàn ai dưỡng dục?
Nhiều ông đặng
vui phần hạnh phúc, nào biết chi vinh nhục của người, cứ chấp kinh lớn tiếng
rộng lời, chớ chưa đủ trải đời cho thấy khổ. Xem kẻ rách lòi trôn nói hổ, bởi
chưa tường giá nợ áo cơm, đòi thấy bèn bụm mũi bịt mồm, vì chưa hưởng mùi thơm
vị thúi, những thấy phỏng định chừng tội lỗi, bởi chưa quen lòn cúi khó là bao,
vẽ tranh đời nhắm mắt nói màu, màu thế sự luận sao cùng lý.
Hỡi ai đã đa sầu
đa cảm, có dạ thương đời, xin lấy thân người dạ du quân tử nầy mà tỉ lại thân
mình, thấy giống hệt như in chẳng khác.
Hội Thánh Đại
Đạo ngày nay cũng thế, nỗi thảm khổ của Chức sắc Thiên phong mấy ai thấy rõ,
phòng để luận cho công, nhờ Chí Tôn nung trí giục lòng, bằng chẳng vậy khó mong
thành Đạo. Nỗi cơ đời ép bức, nỗi phận sự khó khăn, lo bảo tồn cả triệu sanh
linh, khỏi khổ hạnh vốn không phải dễ.
Bần đạo coi lại
những kẻ để lòng gieo ác cảm, đều là người trốn lánh phận mình, Đạo không nên
mà đời cũng chưa đủ, xúm vầy đoàn kết lũ hại người lành, hay là tay ghét ngõ
ganh hiền, cứ xúm ngõ kim tiền hô kiếm trộm, cùng những trang Chức sắc lo
mua tiếng cầu danh, miếng đỉnh chung tính bỏ không đành, còn quyền Đạo cũng
tranh cũng lấn. Cả thảy chưa dâng công cho Đạo, chỉ lấy tiếng bua danh, những
vị ấy có hửi cái khổ của Hội Thánh là dường nào mà xử định phân minh mùi vị?
Bần đạo đã trót
8 năm chầy, lao tâm tiêu tứ, lo tìm phương bảo thủ chơn truyền, hằng bị nỗi khó
khăn gay trở. Trong thì Chức sắc Thiên phong nghịch lẫn, ngoài tà quyền kiếm
thế ép đè, khổ nhọc trăm bề, gian nan khó nói.
Nào là mưu giục
loạn, nào là kế phân tâm, dẹp sự nọ, biến điều kia, khuyên hờn nầy sanh oán
khác.
Nào là tiếng
gièm pha miệng thế, nào là lời kích bác phái tà, làm nghiêng ngửa Đạo tâm, hại
chia phui Hội Thánh. Tội nghiệp thay, có nhiều vị Thiên phong Chức sắc chịu
không kham hổ nhục của ác đời, cực chẳng đã phải kiếm chước lui chơn, lập thế
lực lo phương hành Đạo.
Thật sự rối rắm
của Đạo là do nơi trở cảnh mà biến thành, chớ chẳng ai nỡ cố tâm hại Đạo.
Cuộc bất hiệp
tác đã nảy sanh ra trong hàng Đại Thiên phong cầm quyền hành chánh, đều tại
không đồng ý đồng tình, trên không biết dưới, dưới chẳng hiểu trên, sự hành
động bất hòa mới sanh nghịch lẫn.
Ông thì lo tìm
phương giải ách, ông lại toan lập thế phổ thông, hao của nhọc công, muôn điều
khổ nhọc. Nếu quả nhiên có tâm hại Đạo thì còn lo vụ tất vẻ lịch xinh
chánh giáo mà làm gì, cho bị dể bị khi, thêm lao tâm tổn trí. Dầu mấy vị vì
danh vì thể, lo xui mưu làm loạn đặng tụ phái lập phe đi nữa, cũng có công giúp
ích chơn truyền, nơi khổ hải đóng thuyền ra tế độ.
Ấy vậy, thiệt
nhục cho Bần đạo là không phương làm hòa nhã cả Chức sắc Thiên phong, để mếch
dạ chênh lòng, mới gieo phiền kết hận, song xét cho cạn lẽ, thì nhơn tâm biến
cải, dầu Thánh nhơn cũng khó nỗi ngừa, hễ xảo ngữ vốn dễ nghe, còn thiệt ngôn
hay nặng dạ. Chẳng biết người đạo đức ở thế nào cho thiên hạ vừa lòng. Hèn chi
Phật tỉ đời như Thất đầu xà, nghĩa là hình trạng thất tình phàm thể.
Chớ chi Đại Từ
Phụ ban cho Bần đạo phương thế nào mà làm cho chư Đại Thiên phong yếu trọng của
Hội Thánh bớt để tai nghe lời siểm nịnh của đám tà, thì nền Đạo chẳng đâu ra
nông nỗi.
Người muốn nên
cho Đạo thì phần ít, còn kẻ giục hư lại vốn phần nhiều, vì những tánh nết tự
kiêu, vì đầy lòng ganh ghét.
Bần đạo xin thưa
cho chư Đạo huynh chư Đạo tỷ cùng chư Đạo hữu nam nữ lưỡng
phái một điều nầy:
Chúng ta tu hay là không tu. Nếu như tu thì phải hiền,
như còn muốn dữ thà bước cho xa cửa Đạo.
Chúng ta đã lãnh phận sự đặc biệt và yếu trọng là cảm
hóa thế nào cho đời đã tệ hóa ra hay, người bạo tàn hóa ra hiền ngõ. Nếu còn
nêu gương tàn nhẫn thì khuyến giáo đặng ai, cứ mong lòng tranh trí lấn tài, ắt
tàn hại cái hay đạo đức.
Sở vọng của Đạo cốt yếu là làm cho thiên hạ thương
yêu, vì sự thương yêu là một quyền hành độc thiện, mà chư Chức sắc thay vì yêu
thương lại chọc cho hờn cho ghét, thì hành vi ngược ngạo biết là bao! (Đạo
thiên hạ đã ghét rồi đa, làm thế nào cho thương đặng mới là hay, còn hại ghét
hoài ra thường sự).
Bần đạo để lời tâm huyết nầy:
Chúng ta đã chung khổ cùng nhau tạo thành nền Đạo, dầu
không tình cũng nghĩa, dầu bỏ nghĩa còn công, đã 8 năm khổ hạnh chia đồng, hóa
giọt thảm mặn nồng bằng cốt nhục. Nay vừa đặng mảy may hạnh phúc, nỡ nào còn
cân nhục so vinh, nên cũng mình mà hư ấy tại mình, trọng là thế, khinh kia cũng
thế. Đời tồi tệ miệng còn nói lễ, Đạo dường bao chẳng kể tôn ti, nếu ta bày ra tiếng
thị phi, biểu sao chúng chẳng khi chẳng dể, cùng nhau đã đồng minh đồng thệ,
của thiêng liêng huynh đệ nên nghì, hơn mà chi thua ấy là chi, mưu hại lẫn nhau
vì cừu hận, ráng giữ chặt tánh hờn nét giận, ngọn hỏa tâm thiêu tận đền thờ,
Đạo sử ghi kiếp kiếp để nhơ, nơi cửa Thánh ơ hờ hóa quỉ, bớt nghe hồ mị, theo
Đấng Chí Tôn, sống sót kia xin ngó đến hồn, đừng đợi thác thây chôn để trược.
Độ tâm lý không cân không thước, lấy tinh thần làm
chước làm mưu, tâm là bình Bát vu, đức là cây Phất chủ, hạnh là bộ Xuân Thu,
trối kệ đời khen trí chê ngu, đã tự chủ trí ngu tự hiểu, lấy tánh đức từ bi làm
kiểu, đưa ân hồng dìu níu tay phàm, mặc ai còn danh mến lợi ham, trối kệ những
tước ham quyền chuộng, mồi chung đỉnh đủ nhàm ưa muốn, mỏi quì lên cúi xuống
cửa công khanh, còn chi hay phòng giựt phòng giành, có chi trọng phỏng tranh
phỏng lấn.
Chúng ta ví biết mình cho cùng tận, thì hằng ngày nên
hỏi lại mình rằng: Phải Đại Từ Phụ mượn xác thịt của ta đặng thay hình thể của Người
hay chăng?
Nếu lương tâm đã cho phận sự ta để thay thế cho Thầy
thì chúng ta phải tùng phương châm của Thầy, bắt chước y nguyên, đừng sai một
vẻ, mới mong tụ họp con cái của Thầy chun vào cửa Đạo, bằng chẳng thì thà thối
bước ra khỏi Thánh Thể của Thầy hơn ở lại làm nhơ làm trược.
Vậy Bần đạo cả tiếng kêu những người đã một lỡ hai lầm
và những bậc xả thân vì Đạo, phải hiệp tâm hiệp trí cùng nhau, chỉ ngó một mình
Thầy làm đường chơn thật, rồi tha thứ nhau hay là giúp đỡ lẫn nhau đặng tròn
phận sự cùng Thầy hầu làm gương báu cho đời, tìm chí thiện do tình lẫn ái.
Vậy chúng ta đồng lực lại với nhau đặng un đúc nền Đạo
cho chắc chắn và tạo Đền Thờ của Thầy cho trang nghiêm mỹ lệ đặng qui hồi cả
chúng sanh vào nơi lòng thương yêu vô tận của Chí Tôn mà làm cho thân hình của
Người khỏi chia phui rời rã.
Nếu mấy lời tâm huyết nầy không lọt vào tai của chư vị yếu nhơn của Đạo thì Bần đạo sẽ đợi xem cho toàn sự hành động của mỗi người, rồi tuyên bố cho cả chúng sanh thấu đáo./.