Trang

Thứ Bảy, 27 tháng 5, 2023

4606. Bài 21, Đạo Sử Q 2.

 21/- Ngày 03-12-1926 (âl. 29-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ.

Ngày 29-10-Bính Dần (03-12-1926)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ chư Môn Ðệ, hỉ chư Nhu, hỉ chư Ái Nữ, hỉ chư Tín Nữ,

Hầu Ðàn: Thầy cho chư Nhu cầu Ðạo, thượng sớ.

Minh Lý: Thầy cho các con sắm lễ đi, cho khỏi phụ tình em út các con.

Ðại phục: Cười .... Bỏ Thánh Thất há?

Thái Bạch giận đa con, sai người khác đi như Hóa Thầy cho phép.

Hợi, con ôi nó còn chưa biết tu là chi hết.

Con cứ đi ??? Cười.... Chẳng hữu ích nhiều mà con thức tỉnh nó lần lần coi.


Lê Văn Ðâu:

Ðâu bằng cảnh tịnh cõi Bồng Lai,
Thế thượng không ai biết giá nài.
Giá một cuộc trần nhiều kẻ chuộng,
Nay con nên nghiệp khỏi ai nài.

Thâu

Nguyễn Văn Xiên:

Xiên lòng ngoài mặt cũng là ngay,
Biết phép phân thân gẫm quá tài.
Ðưa rước như đò đông buổi chợ,
Nửa phần liệu túi, nửa đưa tay.

Về lo ăn năn tội trước nghe.

Nguyễn Văn Nhiều:

Nhiều cơn sóng dập gió thêm dồi,
Cái kiếp gì xem bạc quá vôi.
Thầy dặn biết tu Thầy cải số,
Nghèo hèn có thuở dựa cao ngôi.

Thâu

Nguyễn Văn Ký:

Ký thành một cuốn gọi Thiên Thơ,
Khai Ðạo muôn năm trước định giờ.
May phước phải gìn cho mạnh trí,
Nắm đuôi phướn phụng đến dương bờ.

Thâu

Nguyễn Văn Lục:

Lục thông trần thế chẳng ai hay,
Cái máy Thiên Cơ đã sắp bày.
Thầy đến nói thời con định quả,
Ðừng chờ rốt cuộc hẹn không ngày.

Thâu

Nguyễn Văn Nhì:

Nhì thân ai biết có bên mình,
Một cái là phàm, một cái linh.
Vắng dạng nhưng trong đầu chẳng có,
Mảnh thân phàm tục vốn bù nhìn.

Thâu

Nguyễn Văn Chánh:

Chánh tà hai lẽ thế mờ hồ,
Giả thử thấy chuông ướm nói ô.
Thiên Ðịa cảnh Trời xây trước mắt,
Thấy cơ định vật ấy là đồ.

Thâu

Lê Văn Tăng:

Tăng thôi một kiếp cũng là duyên,
Chẳng định trước kia ước chẳng tuyền.
Mộng điệp còn ngày công quả rỗi,
Hồn linh dường tưởng tượng Huỳnh Tuyền.

Thâu

Nguyễn Văn Thượng: (Thường?)

Thường xem khí số biết Thiên Cơ,
Hết kiếp trần ai cõi ở nhờ.
Mượn bút nghiên khuây khoa vẻ thảm,
Những là Bá Tước gánh đồ thơ.

Thâu

Trang Văn Lục:

Lục chu may trộn giống màu thanh,
Bô vải mà che một tấc thành.
Nam khí hưng suy dân khí phát,
Nên trang anh tuấn mặt tài danh.

Thâu

Nguyễn Văn Tuất: (Tuấn?)

Tuấn tú thay một mối cơ đồ,
Chẳng biết giữ gìn xúm lại xô.
Anh chẳng nên anh em bất nghĩa,
Mừng xưa nay ví giấc tương hồ.

Thâu

Bùi Văn Ðứa:

Ðứa nên ai lại nỡ làm hư,
Con cũng có công đức đến chừ.
Thầy phải đếm dư vì vắng mặt,
Phong làm Giáo Hữu trả ơn trừ.

Thâu

Nguyễn Văn Tửng:

Tửng chơi cho hiệp ý con cầu,
Thầy dạy con về đến Suối Sâu.
Gặp mặt hai chàng đi hỏi Ðạo,
Thì con dắt nó đến đây cầu.

Thâu. Giỏi Thầy sẽ thưởng công.

Lê Văn Hành:

Hành thuyền kỵ mã miệng đời chê,
Thầy tưởng thân con tỉ Thúc Tề.
Giữ nghĩa hay quên lo nỗi hiếu,
Nương đường đạo đức khó trăm bề.

Thâu. Về lo luyện tánh lại nghe.

Nguyễn Văn Phú:

Phú cho Tạo Hóa ấy là Thầy,
Muôn thảm ngàn cay đến bỏ đây.
Thầy vốn như người khiêng gánh mướn,
Ðau đau thảm thảm chở cho đầy.

Thâu

Nguyễn Văn Hoằng:

Hoằng thân mảng những cúi lòn hoài,
Chẳng nở mặt cùng đối với ai.
Thương đời để dạ thương còn quả,
Trước muốn tiêu tai ách giữ ngay.

Thâu

Nguyễn Văn Giác:

Giác thế muốn trông mấy phép lành,
Khuyên đời chớ mến lợi cùng danh.
Trăm năm chưa hẳn ngoài căn số,
Ðịa vị đỉnh chung chớ giựt giành.

Thâu

Nguyễn Văn Còn:

Còn đời chìm nổi lắm gay go,
Tu đặng đâu tua hỡi bớ trò.
Thôi cứ thành tâm làm phước mãi,
Không nên danh Thánh cũng đưa đò.

Thâu

Huỳnh Văn Bá:

Bá tước công khanh ý vị gì?
Mà đời dám đổi kiếp sầu bi.
Nương chơn chưa quyết thân còn vững,
Níu thử cân đai thấy nặng trì.

Thâu

Nguyễn Văn Cận:

Cận hiền như thể dựa chi lan,
Chẳng nhiểm mùi hương cũng phẩm hàm.
Biết Ðạo dù ai toan muốn hiếp,
Lòng trong e lệ giống hầu quan.

Thâu

Nguyễn Văn Trì:

Trì tâm tu hướng đáo Tây Phương,
Bất viễn kiêm môn hữu mã đường. (kim?)
Huỳnh khuyết dĩ văn tâm khẩn nguyện,
Thành khôi đắc thế hiệp trinh tường.

Thâu

Trương Văn Hòa:

Hòa trên thì dưới mới an tâm,
Mình vốn là anh chấp lỗi lầm.
Thương vợ cũng đồng em út vậy,
Một bên cốt nhục nọ tình thâm.

Thâu.Về sửa gia đình lại tái hầu.

Bùi Thị Tài:

Tài hay con bớt nết hung hăng,
Phải sửa mình hay chịu nhọc nhằn.
Có lỗi không tu nhà biến nạn,
Phương hay là phải dạ ăn năn.

Thâu

Trương Thị Bèn:

Ban mai ai đẩy mặt trời lên,
Không đặng cao sang chí kém bền.
Nặng gánh thì con toan ít chở,
Chẳng khoa mà lại vọng nêu tên.

Thâu. Con đợi lịnh Thái Bạch con.

Thầy ban ơn cho các con.

Thăng.