21/- Ngày 03-12-1926 (âl. 29-10-Bính Dần): Ðức Chí Tôn thâu Môn Ðệ.
Ngày 29-10-Bính Dần (03-12-1926)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ chư Môn Ðệ, hỉ chư Nhu, hỉ
chư Ái Nữ, hỉ chư Tín Nữ,
Hầu Ðàn: Thầy cho chư Nhu cầu
Ðạo, thượng sớ.
Minh Lý: Thầy cho các con sắm
lễ đi, cho khỏi phụ tình em út các con.
Ðại phục: Cười .... Bỏ Thánh
Thất há?
Thái Bạch giận đa con, sai
người khác đi như Hóa Thầy cho phép.
Hợi, con ôi nó còn chưa biết
tu là chi hết.
Con cứ đi ??? Cười.... Chẳng
hữu ích nhiều mà con thức tỉnh nó lần lần coi.
Lê Văn Ðâu:
Ðâu bằng cảnh tịnh cõi Bồng Lai,
Thế thượng không ai biết giá nài.
Giá một cuộc trần nhiều kẻ chuộng,
Nay con nên nghiệp khỏi ai nài.
Thâu
Nguyễn Văn Xiên:
Xiên
lòng ngoài mặt cũng là ngay,
Biết phép phân thân gẫm quá tài.
Ðưa rước như đò đông buổi chợ,
Nửa phần liệu túi, nửa đưa tay.
Về lo ăn năn tội trước nghe.
Nguyễn Văn Nhiều:
Nhiều
cơn sóng dập gió thêm dồi,
Cái kiếp gì xem bạc quá vôi.
Thầy dặn biết tu Thầy cải số,
Nghèo hèn có thuở dựa cao ngôi.
Thâu
Nguyễn Văn Ký:
Ký
thành một cuốn gọi Thiên Thơ,
Khai Ðạo muôn năm trước định giờ.
May phước phải gìn cho mạnh trí,
Nắm đuôi phướn phụng đến dương bờ.
Thâu
Nguyễn Văn Lục:
Lục
thông trần thế chẳng ai hay,
Cái máy Thiên Cơ đã sắp bày.
Thầy đến nói thời con định quả,
Ðừng chờ rốt cuộc hẹn không ngày.
Thâu
Nguyễn Văn Nhì:
Nhì
thân ai biết có bên mình,
Một cái là phàm, một cái linh.
Vắng dạng nhưng trong đầu chẳng có,
Mảnh thân phàm tục vốn bù nhìn.
Thâu
Nguyễn Văn Chánh:
Chánh
tà hai lẽ thế mờ hồ,
Giả thử thấy chuông ướm nói ô.
Thiên Ðịa cảnh Trời xây trước mắt,
Thấy cơ định vật ấy là đồ.
Thâu
Lê Văn Tăng:
Tăng
thôi một kiếp cũng là duyên,
Chẳng định trước kia ước chẳng tuyền.
Mộng điệp còn ngày công quả rỗi,
Hồn linh dường tưởng tượng Huỳnh Tuyền.
Thâu
Nguyễn Văn Thượng: (Thường?)
Thường
xem khí số biết Thiên Cơ,
Hết kiếp trần ai cõi ở nhờ.
Mượn bút nghiên khuây khoa vẻ thảm,
Những là Bá Tước gánh đồ thơ.
Thâu
Trang Văn Lục:
Lục
chu may trộn giống màu thanh,
Bô vải mà che một tấc thành.
Nam khí hưng suy dân khí phát,
Nên trang anh tuấn mặt tài danh.
Thâu
Nguyễn Văn Tuất: (Tuấn?)
Tuấn
tú thay một mối cơ đồ,
Chẳng biết giữ gìn xúm lại xô.
Anh chẳng nên anh em bất nghĩa,
Mừng xưa nay ví giấc tương hồ.
Thâu
Bùi Văn Ðứa:
Ðứa
nên ai lại nỡ làm hư,
Con cũng có công đức đến chừ.
Thầy phải đếm dư vì vắng mặt,
Phong làm Giáo Hữu trả ơn trừ.
Thâu
Nguyễn Văn Tửng:
Tửng
chơi cho hiệp ý con cầu,
Thầy dạy con về đến Suối Sâu.
Gặp mặt hai chàng đi hỏi Ðạo,
Thì con dắt nó đến đây cầu.
Thâu. Giỏi Thầy sẽ thưởng công.
Lê Văn Hành:
Hành
thuyền kỵ mã miệng đời chê,
Thầy tưởng thân con tỉ Thúc Tề.
Giữ nghĩa hay quên lo nỗi hiếu,
Nương đường đạo đức khó trăm bề.
Thâu. Về lo luyện tánh lại nghe.
Nguyễn Văn Phú:
Phú
cho Tạo Hóa ấy là Thầy,
Muôn thảm ngàn cay đến bỏ đây.
Thầy vốn như người khiêng gánh mướn,
Ðau đau thảm thảm chở cho đầy.
Thâu
Nguyễn Văn Hoằng:
Hoằng
thân mảng những cúi lòn hoài,
Chẳng nở mặt cùng đối với ai.
Thương đời để dạ thương còn quả,
Trước muốn tiêu tai ách giữ ngay.
Thâu
Nguyễn Văn Giác:
Giác
thế muốn trông mấy phép lành,
Khuyên đời chớ mến lợi cùng danh.
Trăm năm chưa hẳn ngoài căn số,
Ðịa vị đỉnh chung chớ giựt giành.
Thâu
Nguyễn Văn Còn:
Còn
đời chìm nổi lắm gay go,
Tu đặng đâu tua hỡi bớ trò.
Thôi cứ thành tâm làm phước mãi,
Không nên danh Thánh cũng đưa đò.
Thâu
Huỳnh Văn Bá:
Bá
tước công khanh ý vị gì?
Mà đời dám đổi kiếp sầu bi.
Nương chơn chưa quyết thân còn vững,
Níu thử cân đai thấy nặng trì.
Thâu
Nguyễn Văn Cận:
Cận
hiền như thể dựa chi lan,
Chẳng nhiểm mùi hương cũng phẩm hàm.
Biết Ðạo dù ai toan muốn hiếp,
Lòng trong e lệ giống hầu quan.
Thâu
Nguyễn Văn Trì:
Trì
tâm tu hướng đáo Tây Phương,
Bất viễn kiêm môn hữu mã đường. (kim?)
Huỳnh khuyết dĩ văn tâm khẩn nguyện,
Thành khôi đắc thế hiệp trinh tường.
Thâu
Trương Văn Hòa:
Hòa
trên thì dưới mới an tâm,
Mình vốn là anh chấp lỗi lầm.
Thương vợ cũng đồng em út vậy,
Một bên cốt nhục nọ tình thâm.
Thâu.Về sửa gia đình lại tái hầu.
Bùi Thị Tài:
Tài
hay con bớt nết hung hăng,
Phải sửa mình hay chịu nhọc nhằn.
Có lỗi không tu nhà biến nạn,
Phương hay là phải dạ ăn năn.
Thâu
Trương Thị Bèn:
Ban
mai ai đẩy mặt trời lên,
Không đặng cao sang chí kém bền.
Nặng gánh thì con toan ít chở,
Chẳng khoa mà lại vọng nêu tên.
Thâu. Con đợi lịnh Thái Bạch con.
Thầy ban ơn cho các con.
Thăng.