13/ Mardi 23 Novembre 1926 (19-10-Bính Dần)
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
VIẾT CAO ÐÀI GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ Chư Nhu, Hỉ Chư Tín Nữ,
Trung, Trang mai nầy hai con biểu Tương và Hóa lên
nghe Thầy dạy việc nghe. Chư Nhu cầu Ðạo
thượng sớ.
Nguyễn Văn Bảy:
Mặt
sắt vô tư đã tiếng đồn,
Khai nên cơ nghiệp định kiêm môn.
Lòng thành một tấm nâng non nước,
Quyết dở ngửa nghiêng lách phúc bồn.
Sau trọng dụng.
Trương Văn Mùi:
Phúc
bồn thế cuộc tưởng như in,
Cam khổ công khanh mới biết mình.
Oằn oại đôi vai trung nghĩa gánh,
Nên hư giúp thế để mình khinh.
Thâu
Nguyễn Văn Cảnh: Bình Trưng, Mỹ
Tho.
Mình
khinh hóa trọng đức hơn tài,
Một mảy lợi danh trối kệ ai.
Tâm tánh quan phòng mình biết lấy,
Ðẩy đưa mặt thế trổi khoe tài.
Thâu
Nguyễn Văn Ðài: Bình Trưng, Mỹ
Tho.
Khoe
tài phải có nét anh tài,
Dưới thế xem tường chẳng đặng hai.
Bủa lưới Càn Khôn lừa lọc khách,
Chơn trời chẳng kẻ thoát cao bay.
Thâu
Trang Văn Keo: (Tây Ninh)
Cao
bay xa chạy đã hay chi,
Chưa biết loạn bình lúc trợ nguy.
Ôm nết vó quàng lo khống khứ,
Cũng như chú dốt đến trường thi.
Thâu
Trần Văn Liêng: (Tây Ninh)
Trường
thi đã đỗ bốn vi ngoài,
Phải rán khi nên chức Tú tài.
Nhơn bởi ít công lo phận sự,
Mình nên chẳng rán đến cầu ai.
Thâu
Ðào Văn Xồi: (Bình Thành, Tân
An)
Cầu
ai mở đặng khiếu thông minh,
Thờ phượng Thầy khuyên trẻ hết tình.
Công của đôi bên trao múc đủ,
Ðừng như kẻ yếu đợi người binh.
Thâu
Trần Văn Huê:
Người
binh con khá biết binh người,
Chớ chịu ơn dày phải hổ ngươi.
Tánh hạnh khá trau thuần hậu lại,
Nên danh có thuở đặng nên thời.
Thâu
Lê Văn Khuynh:
Nên
thời vương bá lúc ngồi câu,
Lựa phải cửa công đến chực hầu.
Thú vị tố nào chìu tố nấy,
Riêng vui Thuấn trước mến bầy trâu.
Thâu
Bùi Ngọc Hổ:
Bầy
trâu đốt đít để gương xưa,
Nhơn lý khuyên con gắng lọc lừa.
Quá sức trí người đừng ngưỡng vọng,
Thành gia nhiều kẻ đã nên chưa?
Thâu
Lê Văn Nhung:
Nên
chưa giúp Hớn buổi hưng vong,
Gia Cát xưa kia chẳng khỏi vòng.
Thuận lý Trời nên hư mới rõ,
Qua rồi trọn kiếp biết anh hùng.
Thâu
Trần Văn Nên:
Anh
hùng gặp thế rán đua chen,
Con giống như con bướm mến đèn.
Thầy hỏi như tu con khá nhớ,
Làm sao Thầy đặng để lời khen.
Thâu
Phạm Văn Lắm: (Long Thành, Tây
Ninh)
Lời
khen miệng thế quí chi đâu,
Bất quá như son lộn bả trầu.
Thành thật thôi thì mình xử lấy,
Ðèo bồng chi rộn trí không sâu.
Thâu
Ngô Văn Xiên: Lạ chưa? (Trường
Hòa, Tây Ninh)
Không
sâu trí thức hiếu hơn người,
Nếu chẳng mắt Thầy hỏi có ngươi.
Thương cửa bần hàn mà xuất Thánh,
Nếu thâu tức khắc hiếm người cười.
Thâu
Trần Văn Hương: (Long Thành)
Cười
như Lữ Vọng lúc suy thời,
Chẳng lái chẳng chèo khó nổi bơi.
Ðưa rước cho qua cơn khách đón,
Thân còn chẳng tiếc lựa là lời.
Thâu
Trang V. Khách: (Long Thành, Tây
Ninh)
Lời
vàng nhắn hỏi khách trần gian,
Một nẻo đường Tiên đáng mấy ngàn.
Bụi đất của trần là của tục,
Chưa ai đem đổi cảnh an nhàn.
Thâu
Nguyễn Văn De: (Long Thành)
An
nhàn gió túi với trăng sân,
Ràng buộc cân đai chịu mạng thần.
Quân nhược thần cường đời trở vẻ,
Thanh thanh sĩ sĩ khó đai cân.
Thâu
Mắc! Mời Mắc, Ái nữ nghe.
Vợ Tư Mắc: Thầy dạy:
Nắm
chặt trăm năm một chữ đồng,
Hễ chồng thì của vợ thì công.
Trợ nguy tế hiểm con ra sức,
Ðạo đức chung lo trọn tấc lòng.
Thầy cám Ái nữ. Mắc! Vợ con nó lại bị khiếm huyết mà
biến nhiều bịnh; mùa nầy chẳng nên uống thuốc Tàu, Thầy dặn con tuân theo toa
Thầy mà cho nó uống Bilinne.
Trịnh Thị Thình:
Cân
đường tội phước đấp nền nhân,
Chớ lấy giữ riêng để dạ hờn.
Mình lánh kẻ tà mình ắt chánh,
Khốn chi tính thiệt với so hơn.
Thâu
Lê Thị Chánh:
So
hơn đức hạnh mới nên giành,
Cái lưỡi không xương thiệt quá lanh.
Chơn thật bẻ bai ra xảo quyệt,
Trên đời kẻ dữ hóa làm lành.
Con nghe mà cư xử đời nghe.
Ngô Thị Chuộng:
Làm
lành để đức hưởng thân sau,
Ðừng tiếc chi mang lấy sắc màu.
Lầm lũi ai đi mình cũng bước,
Mau chơn tới trước chửa chi cao.
Lý Thị Chi:
Cao
sâu máy Tạo khó đong lường,
Thiệt bực mới vào cửa niệm hương.
Trăm nỗi khó khăn ngăn trở dạ,
Phải thương mình mới biết cao lương.
Lâm Thị Kỉnh:
Cao
lương đừng tưởng giống cao quyền,
Quyền lớn là vì trước có duyên.
Ðạo khó nắm tay nên mới quí,
Chẳng như củi mục mới xem thường.
(Cho kẻ ngoài)
Nguyễn Thị Tý:
Xem
thường dưới mắt dở cùng hay,
Ngặt độ cho ra chẳng kẻ bày.
Ðạo đức cũng như mua buổi chợ,
Dở ngon mắc rẻ miệng mình nài.
Thâu
Huỳnh Thị Hội:
Nài
bao cực nhọc gắng tầm Tiên,
Thầy một điều khuyên ấy tập hiền.
Lỡ buổi trước kia chưa thấy Phật,
Còn nay công tội có người biên.
Thâu
Nguyễn Thị Ba: (Ðỗ Thị Mài)
Người
biên ra vẻ nét nhà xưa,
Ðức hạnh trung trinh cũng khá thừa.
Giúp thế nhiều phen con sẵn dạ,
Nhơn là một nết của Thầy ưa.
Thâu
Phan Thị Nghiêm:
Ưa
nghe đạo đức ghét tà tây,
Ngưỡng mộ thì nay đã gặp Thầy.
Chẳng mắc đưa lời vào dạ trẻ,
Thường ngày cầu nguyện dạ đừng khuây. (THÂU).
Phạm Thị Hiệp:
Ðừng
khuây những tiếng thiện lời thành,
Tấc dạ con gìn một chữ trinh.
Lợi khổ danh nguy con chớ vọng,
Khá lo cho đặng chốn hiền lành.
Thâu
Bùi Thị Khuê:
Hiền
lành là phước dẫn nguồn Tiên,
Chưa đặng trọn chưng khách cửu tuyền.
Lo thế nhớ hồi lo phận trước,
Thân trăm tuổi chẳng trọn như nhiên.
Thâu
Ðặng Thị Nẵm:
Như
nhiên lành phước dữ tai ương,
Một trả một vay cũng lẽ thường.
Con muốn nên nhà lo lập nghiệp,
Muốn qua sông cả phải nương thuyền.
Thâu
Nguyễn Thị Cung:
Nương
thuyền qua thử khỏi sông mê,
Chẳng có công danh cũng có bề.
Vững chặt nhà làng con cháu thảo,
Tu thân thường hiệp với tu tề.
Thâu
Trần Thị Vang:
Tu
tề thì sửa vẹn gia đình,
Cái đạo nhơn luân chớ dể khinh.
Ðạo đức để gương con cháu học,
Trăm năm ngàn thuở phước nhà in.
Thâu
Trần Thị Hạp:
In
như Tề phụ chịu hàm oan,
Nết Thánh mà ai cũng gọi phàm.
Dưới thế hiếm người toan hiếp đáp,
Thương thay một mạng bỏ nơi nhàn.
Thâu
Bùi Thị Nga: (Long Thành, Tây
Ninh)
Nơi
nhàn đâu đến đọa hồng trần,
Lành dữ vì chưng chẳng biện phân.
Nơi mái tây hiên Trời ngó mắt,
Lúc nên khi đến cũng còn gần.
Thâu